Professional Documents
Culture Documents
máy đo điện não
máy đo điện não
Hình 1: Hans Berger, bác sĩ tâm thần người Đức ghi bản điện não đồ đầu tiên vào năm
1924 ở Jena
1. Đại cương
1.1. Sơ lược lịch sử
1875 Richard Caton, bác sĩ vùng Liverpool, viết trong báo y học Anh về phát hiện điện
trường trong não của thỏ và khỉ.
1890 Beck công bố thí nghiệm cho thấy điện trong não của chó và thỏ dao động khi có thay
đổi ánh sáng.
1812 Vladimir Pravdich-Neminsky, bác sĩ Nga, trình bày điện não đồ đâu tiên và ghi được
xung điện neuron của não chó.
1914 Cybulsky và Jelenska-Macieszyna chụp ảnh được điện não đồ của cơn động kinh thí
nghiệm.
1920 Hans Berger, bác sĩ Đức dùng điện não đồ cho con người. Từ EEG do ông đặt ra.
Edgar Douglas Adrian sau đó tiếp nối công trình của ông.
1934 Bác sĩ Fisher và Lowenback ghi được sóng bất thường trên ĐNĐ của bệnh nhân bị
động kinh.
1935 Các bác sĩ chuyên khoa thần kinh Gibbs, Davis và Lennox nhận ra được các loạt
sóng bất thường của bệnh nhân bị động kinh - ngay cả lúc chưa lên cơn. Đây là bước ngoặt
lớn trong khoa nghiên cứu dùng ĐNĐ để chẩn đoán bệnh động kinh. Cùng năm, nhà
thương lớn tại Massachusetts bắt đầu sử dụng điện não đồ.
Franklin Offner, giáo sư lý sinh đại học Northwestern thiết kế ĐNĐ với khả năng ghi nét mực
của sóng trên giấy cuộn.
1947 Hội Nghiên cứu ĐNĐ Hoa Kỳ thành lập và mở hội nghị quốc tế về ĐNĐ.
1957 Aserinsky và Kleitmean trình bày sóng ĐNĐ của não người đang mơ ngủ (cấp độ ngủ
với mắt di chuyển nhanh)
Bản ghi đầu tiên về điện trường của bộ não người được tạo ra bởi bác sĩ tâm thần người
Đức Hans Berger vào năm 1924 ở Jena. Ông đặt tên cho bản ghi này là điện não đồ (EEG)
(Berger,1929) (Từ năm 1929 đến năm 1938, ông công bố 20 bài báo nghiên cứu khoa hoc
về EEG dưới cùng 1 tựa đề "Những thông tin về điện não đồ".
1. Hoạt động tự nhiên
2. Các điện thế gợi
3. Các tín hiệu điện sinh học tạo ra bởi các tế bào thần kinh riêng lẻ
Hoạt động tự nhiên được đo trên da đầu hoặc trên não và được gọi là điện não đồ. Biên độ
của điện não đồ vào khoảng 100 μV khi đo trên da và khoảng 1-2 V khi đo trên bề mặt của
não bộ. Các băng thông của tín hiệu này từ dưới 1 Hz đến khoảng 50 Hz được thể hiện như
trong hình 2. Giống như ý nghĩa của cụm từ "hoạt động tự nhiên", hoạt động này diễn ra liên
tục trong quá trình sống. Các điện thế gợi là thành phần điện thế của EEG, phát sinh ra các
phản ứng với các tác nhân kích thích (đó có thể là điện âm thanh, hình ảnh), những tín hiệu
này thấp hơn các tín hiệu nhiễu, do đó không thể phân biệt được và bắt buộc phải sử dụng
một chuỗi các tác nhân kích thích và tín hiệu trung bình để cải thiện tỉ lệ tín hiệu - nhiễu.
Hoạt động sinh lý học của tế bào thần kinh đơn lẻ có thể được xem xét thông qua việc sử
dụng vi điện cực xuyên qua các tế bào cần quan tâm. Thông qua việc nghiên cứu từng tế
bào đơn lẻ, hy vọng xây dựng mô hình mạng lưới tế bào phản ánh thực tế tính chất của mô.
1.2. Điện sinh học của não
Số lượng dây thần kinh trong não ước lượng vào khoảng 10^11 loại khác nhau. Các tế bào
thần kinh vỏ não được liên kết mạnh nhất. Tại đây 1 tế bào thần kinh có thể được che phủ
bởi 1000 đến 100000 khớp thần kinh (Nenez, 1981). Đáp ứng điện của tế bào thần kinh
tương ứng với những mô tả của các tế bào có thể bị kích thích. Các điện áp nghỉ trong
khoảng xấp xỉ -70 mV, và điện áp đỉnh mang điện tích dương. Biên độ của các xung thần
kinh vào khoảng 100 mV và kéo dài 1ms.
Mặc dù những đánh giá về đặc tính cơ bản cua EEG có thể được xác định trong các đánh
giá về phương trình trên, nhưng cấu trúc phức tạp của não bộ và hoạt động điện sinh học
của nó vượt xa so với những đánh giá về hàm nguồn. Do vậy, các nghiên cứu về EEG rất
khác so với ECG hoặc EMG, là những lĩnh vực có thể đánh giá được hàm nguồn. Trong
những điều kiện này, chất lượng EEG chủ yếu dựa trên thống kê điều trị, tại đó việc điều trị
liên quan đến EEG chủ yếu dựa trên số lượng lớn kinh nghiệm.
Hình 2: Liên quan giữa biên độ và tần số sóng.
1.3. Hệ thống hướng dẫn EEG
Theo tiêu chuẩn quốc tế 10-20 hệ thống thường được sử dụng để ghi lại tín hiệu sinh học
EEG. Trong hệ thống này, 21 điên cực được đặt trên bề mặt của da đầu được biểu diễn
trên hình 13.2A và B. Các vị trí được xác định như sau: điểm tham chiếu liên quan đến mũi,
là điểm ở hốc mũi, ở giữa 2 mắt, mẩu ngoài xương chẩm, phần xương lồi lên nằm trên hộp
sọ, trên đường thẳng chính giữa phía sau gáy. Từ những điểm này, chu vi hôp sọ được
xác định thông qua mặt phẳng nằm ngang và phần nằm ở giữa. Vị trí của các điện cực
được xác định bằng cách chia mặt phẳng này cho 10% hoặc 20%. Ba điện cực khác được
bố trí cách đều các điện cực lân cận như trên hình 3 ( Jasper, 1958; Cooper, Osselton, and
Shaw, 1969)
Thêm vào với 21 điên cực của hệ thống quốc tế 10-20, trung bình 10% vị trí các điện cực
được sử dụng. Vị trí và tên gọi của các điện cực được định chuẩn bởi tổ chức ghi điện não
Hoa Kỳ (Sharbrough et al. 1991; see Figure 13.2C). Trong khuyến nghị này, 4 điên cực
được đặt tên khác so với hệ thống 10-20, chúng bao gồm T7, T8, P7 và P8. Những điện
cực này được tô màu đen với chú thích màu trắng trong hình biểu diễn.
Bên cạnh hệ thống quốc tế 10-20, tồn tại nhiều hệ thống điện cực khác cho phép đo điện
thế trên da đầu. Hệ thống Queen Square về vị trí của các điện cực được đề xuất trong các
mẫu bản ghi về các điện thế gợi trong lâm sàng (Blumhardt et al. 1977).
Trong các lưỡng cực hoặc đơn cực có thể được sử dụng trong việc đo EEG. Trong các
phép đo sau, điện thế của mỗi điện cực được so sánh với điên cực trung lập hay trung bình
các điện cực.
Những nguyên tắc gần đây cho việc ghi EEG được công bố trong Gilmore (1994).
Hình 3: Hệ thống quốc tế 10-20 được nhìn từ A (bên trái) và B (phía trên đầu). A= dái tai, C=
trung tâm, Pg=mũi hầu, P= đỉnh, F=trán, Fp= đỉnh trán, O=chẩm.
(C) Vị trí và tên gọi của 10% các điện cực trung cấp chuẩn hoá bởi tổ chức ghi điện não Hoa
Kỳ (Trích từ Sharbrough, 1991).
Hình 4: Phân bố sóng.
1.4. Độ nhạy của sự phân bố các điện cực EEG
Rush và Driscoll (1969) đã tính toán được sự phân bố các điện cực lưỡng cực đo trên vùng
da đầu trong mô hình các hình cầu đồng tâm biểu diễn đầu. Họ công bố kết quả này dưới
dạng các đường đẳng thế của trường dẫn. Hướng thể hiện mật độ dòng trường dẫn, trong
trường hợp này là hướng của độ nhạy, là 1 gradient âm của trường điên thế. Điều này
không hiển thị ngay lập tức trên màn hình.
Puikkonen và Malmivuo (1987) đã tính toán lại độ nhạy của sự phân bố các điện cực EEG
với cùng một mô hình như Rush và Driscoll nhưng họ đã trình bày kết quả với đường
chuyển dời của dòng trường dẫn thay vì biểu diễn đường đẳng thế của trường dẫn. Sự hiển
thị này có thể được biểu diễn vì rất dễ xác định hướng độ nhạy từ các dòng chuyển dời của
trường dẫn. Mặc dù biên độ của độ nhạy có thể được xác định dựa vào mật độ đường
chuyển dời. Một vấn đề phụ trong quá trình biểu diễn này là do dòng trường dẫn phân bố
trên mặt phẳng mô tả cũng như trong mặt phẳng thông thường trong quá trình hiển thi này,
phần các đường chuyển dời cần phải truyền đạt các thông tin nhằm mô tả một cách chính
xác mật độ dòng cùng với mật độ đường chuyển dời trong không gian 3 chiều. Suihko,
Malmivuo và Eskola (1993) đã tính toán chính xác hơn về các đường đẳng độ nhạy và
thành phần nửa nhạy cảm đối với điện dẫn. Khi độ dẫn là đẳng hướng, do nó nằm trong mô
hình mô phỏng đầu nên các đường đẳng tính đôi nhạy sẽ tương đương với các đường
đẳng trường của điện trường. Nếu đường dẫn được biểu diễn có dạng đối xứng mà các bề
mặt đẳng thế nằm gần nhau có thể tách ra với khoảng cách cố định thì các đường đẳng độ
nhạy thu trùng với các đường đẳng thế. Nó không phải là trường hợp của các đường dẫn
như trong hình 5. Hình 5 biểu diễn các đường chuyển dời dòng của trường dẫn, các đường
đẳng độ nhạy thu và các phần nửa độ dẫn đối với mô hình đầu người với các điện cực
được phân bố trong các góc 180°, 120°, 60°, 40°, và 20°. Chú ý rằng trong mỗi trường hợp
thì 2 điện cực được nối với nhau bởi 10 đường chuyển dời của trường dẫn. Giữa chúng có
3 đường chuyển dời truyền tới vùng trung tâm, điều đó có nghĩa rằng dòng trường dẫn cũng
phân bố tương tự như trong mặt phẳng giấy thông thường. Hình vẽ chỉ ra 1 cách rõ ràng
ảnh hưởng mạnh mẽ của độ dẫn kém của xương đầu đối với trường dẫn. Mặc dù trong mô
hình thuần nhất, độ nhạy cảm có thể được tập trung cao hơn tại các điện cực nhưng trong
trường hợp góc 180°, xương đầu cho phép độ nhạy cảm được phân bố một cách thuần
nhât trong suốt các vùng của vỏ não. Các điện cực càng ở gần thì các phần của độ nhạy
được xác định trong vỏ não càng nhỏ. Việc phân bố các điện cực ngày càng gần hơn các
điện cực khác gây ra dòng trường dẫn càng ngày càng gần vùng da đầu, làm giảm độ nhạy
vùng não và tăng nhiễu.
Hình 5: Sự phân bố độ nhạy cảm của các điện cực EEG trong mô hình đầu người. Hình vẽ
thể hiện đường chuyển dời dòng của trường dẫn, đường đẳng độ nhạy thu phần nửa độ
dẫn. Sự phân bố độ nhạy thu trong hướng của đường chuyển dời và biên độ của đô nhạy
thu có thể xác định từ mật độ của đường chuyển dời. Các cặp dẫn được biểu diễn mũi tên
nhỏ trên bề mặt của da đầu và được và góc 80°, 120°, 60°, 40°, và 20° , thể hiện phía trên
mỗi hình vẽ.
1.5. Các tác động của tín hiệu EEG
Từ tín hiêu EEG có thể phân biệt thành các sóng khác nhau alpha (α), beta (β), delta (δ), và
theta (Θ) cũng như các đỉnh kết hợp với bệnh động kinh. Một số ví dụ về các dạng sóng
được biểu diễn trên hình 6.
Sóng alpha có tần số từ 8-13 Hz và có thể được đo từ vùng chẩm của người đang thức
nhưng nhắm mắt. Dải tần của sóng Beta là từ 13-30 Hz và có thể phát hiện ở vùng đỉnh và
thùy trán. Sóng Delta có dải tần từ 0.5-4 Hz và có thể được phát hiện ở trẻ em dưới 7 tuổi
hoặc người lớn đang ngủ. Sóng theta có dải tần từ4-8 Hz và có thể thu được ở trẻ em và
người lớn đang ngủ.
Hình 6: Một số dạng sóng điện não đồ.
1.6. Những nguyên lý cơ bản của EEG
Tín hiêu EEG có quan hệ gần với mức độ hoạt động có ý thức của con người. Khi các hoạt
động tăng, tín hiệu EEG dịch chuyển đến vùng có biên độ thấp hơn và tần số cao hơn. Khi
nhắm mắt, tín hiệu alpha bắt đầu thống trị trong tín hiệu EEG. Khi con người rơi vào giấc
ngủ, tấn số tín hiệu EEG giảm. Trong 1 quá trình ngủ thông thường, chuyển động của mắt
chứng tỏ con người đang mơ và các hoạt đông của mắt có thể coi là thông số tín hiệu EEG.
Trong ngủ sâu, tín hiêu EEG lớn và độ võng chậm, được gọi là sóng delta. Không có một
hoạt động nào được phát hiện đối với bệnh nhân mà não đã chết hoàn toàn. Ví dụ về dạng
sóng được nêu ra trong hình 7.
Vùng trán (frontal – điện cực F3 và F4): nhịp bêta 17-20 chu kỳ giây, có các nhóm sóng MU.
Vùng thái dương sau (temporal posterior – điện cực T5 và T6): nhịp alpha cách hồi, hoạt động
theta thấp rải rác, hoạt động bêta không đều và hay bị các sóng khác chậm hơn nằm chồng lên.
Vùng thái dương (temporal – điện cực T3 và T4): hoạt động bêta không đều và cách hồi,
thường có các hoạt động điện 14-16 Hz, các sóng theta rải rác, và các sóng delta 2-4 Hz rải rác.
Vùng trung tâm (central – điện cực C3 và C4): nhịp 20-25 Hz kéo dài, nhịp MU.
Vùng đỉnh (parietal – điện cực P3 và P4): nhịp alpha, đôi khi có bêta 20-25 Hz nằm chồng lên.
Vùng chẩm (occipital – các điện cực O1 và O2): nhịp alpha 8-13 Hz.
Khi đọc một bản điện não, chúng ta phải xem xét đến sự khác biệt của các vùng. Chúng ta
quan tâm đến biên độ, tần số và tính đều đặn của các sóng. Nói chung, các sóng alpha xuất
hiện ưu thế ở vùng phía sau (chẩm), còn sóng bêta ưu thế ở vùng phía trước (trán) của bản
ghi điện não đồ.
So sánh giữa 2 bán cầu:
Tính cân đối giữa 2 bán cầu: các sóng tương đối cân xứng 2 bên, các điện cực đối diện nhau qua
đường giữa thì thường có các sóng giống nhau, với biên độ gần bằng nhau. Chênh lệch biên độ
không quá 50% giữa 2 bên.
Tính đồng bộ ở cạnh đường giữa (medial synchrony): những đường ghi từ các điện cực gần
đường giữa thì sẽ đồng bộ với nhau giữa 2 bên. Ví dụ dao động của đường ghi từ F 3 và F4, P3 và
P4 sẽ cùng đi lên hay cùng đi xuống tại cùng 1 thời điểm.
Tính không đồng bộ ở phía ngoài (lateral asynchrony): những đường ghi EEG xuất phát từ các
điện cực đặt ở phía ngoài thì dao động ngược chiều nhau giữa 2 bên. Ví dụ khi đường ghi ở T3
đi lên, thì đường ghi ở T4 đi xuống, ngược chiều nhau.
2.5. Các phương thức hoạt hóa (Activation Procedures)
2.5.1. Tăng thông khí (Hyperventilation)
Vào năm 1924 Forster là người đầu tiên đã chứng minh được là biện pháp tăng thông khí
có thể kích hoạt các cơn vắng (absence seizures) ở trẻ em, từ đó phương pháp hoạt hóa
này trở thành phương pháp thường quy trong EEG. Phương pháp này đặc biệt hữu ích để
tìm kiếm các phóng điện kiểu động kinh toàn thể hóa (generalized epileptiform discharges),
nhưng ở khoảng 10% bệnh nhân bị động kinh cục bộ (partial epilepsies) nó cũng có thể hoạt
hóa được các phóng điện dạng động kinh cục bộ (focal epileptiform discharges). Khả năng
dễ bị kích thích của các neuron trong khi tăng thông khí được cho là do co thắt mạch não
qua trung gian thân não do tình trạng giảm carbonic trong máu (hypocapnia) gây ra. Đừng
làm nghiệm pháp tăng thông khí này ở những bệnh nhân có nguy cơ tổn thương não do co
thắt mạch như cao huyết áp ác tính (malignant hypertension), chảy máu dưới nhện
(subarachnoid hemorrhage), bệnh hồng cầu hình liềm (sickle cell disease).
2.5.2. Kích thích ánh sáng (Photic Stimulation)
Phương pháp này cũng dùng để hoạt hóa các phóng điện dạng động kinh toàn thể hóa
(generalized epileptiform discharges). Người ta đặt một nguồn sáng nhấp nháy cách mắt
bệnh nhân khoảng 20-30 cm, cho nhấp nháy với tần số tăng dần từng nấc, cho tới mức 30
Hz. Người ta khuyên làm nghiệm pháp với mở mắt, rồi cho nhắm mắt lại. Cho nhắm mắt
trong khi đang nhấp nháy sáng đặc biệt hữu ích làm tăng phóng điện động kinh, và cần thực
hiện thường quy. Những phóng điện dạng động kinh (epileptiform discharges) mà kéo dài
lâu hơn kích thích ánh sáng (ngừng nhấp nháy, mà vẫn có các ED) thì sẽ gợi mạnh mẽ tới
bệnh động kinh toàn thể hóa (generalized seizure disorder), trong khi đó nếu những phóng
điện đó gắn liền với chuỗi kích thích ánh sáng (hết nhấp nháy thì cũng hết các sóng đó
ngay) có thể chỉ là những biểu hiện ngẫu nhiên tình cờ ở người không có bệnh động kinh,
nhất là trong trạng thái cai thuốc (drug withdrawal) hoặc bệnh não do nhiễm độc chuyển
hóa. Kích thích ánh sáng đặc biệt hữu ích trong bệnh động kinh toàn thể hóa nguyên phát
(primary generalized epilepsy) và các sóng dạng động kinh khi làm kích thích ánh sáng có
thể có ở khoảng 40% bệnh nhân. Người ta thấy khoảng ¼ cho tới 1/3 bản ghi điện não có
sóng dạng động kinh liên quan với kích thích ánh sáng thì cũng có các sóng dạng động kinh
tự phát cục bộ hoặc toàn thể hóa ở chỗ khác trên bản ghi EEG.
2.5.3.Thiếu ngủ (Sleep Deprivation)
Khi trên một bệnh nhân bị động kinh, nhưng điện não đồ không thấy có sóng động kinh, thì
bản ghi khi mất ngủ (sleep deprived recording) thường sẽ có ích. Một số nghiên cứu đã
chứng minh rằng khả năng tìm được sóng dạng động kinh sẽ tăng lên khi dùng nghiệm
pháp ghi EEG lúc thiếu ngủ, cho cả bệnh động kinh cục bộ lẫn toàn thể hóa, và ở mọi lứa
tuổi. Các phóng điện dạng động kinh sau khi mất ngủ sẽ xuất hiện cả ở phần EEG ghi lúc
tỉnh táo, lẫn ghi lúc ngủ. Rowan và cộng sự còn thấy EEG sau khi thiếu ngủ thì có nhiều khả
năng có sóng dạng động kinh hơn là EEG sau khi uống thuốc an thần (sedation) với cùng
một độ dài ghi.
Tuy nhiên, về nghiệm pháp gây thiếu ngủ này, hiện vẫn còn điều tranh cãi: Liệu gây mất ngủ
suốt đêm thì tốt hơn, hay chỉ cần làm mất ngủ nửa đêm thôi ? Bản ghi điện não đồ khi làm
nghiệm pháp này thì kéo dài thời gian ghi bao nhiêu là tốt nhất ?.
3. Một số dạng sóng
Nguồn: Tiến sĩ Nguyễn Hữu Công.
3.1. Chỉ định làm điện não đồ
Điện não đồ (EEG) là một công cụ hỗ trợ cho lâm sàng. EEG được dùng hữu ích nhất trong
những trường hợp sau đây:
- Rối loạn ý thức: trạng thái sững sờ (stuporous), bán hôn mê (semi-comatose) hay hôn mê
(comatose states).
- Các bệnh lý có co giật (seizure disorders), đặc biệt là các biến thể co giật không kinh điển
ở những bệnh nhân có những triệu chứng nguy cấp. Điện não đồ giúp chẩn đoán được
trạng thái động kinh bị che khuất (occult status epilepticus) trên một bệnh nhân có rối loạn ý
thức. Nó giúp chẩn đoán phân biệt một căn nguyên lành tính với các căn nguyên nghiêm
trọng hơn trên trẻ bị chứng co giật do sốt - infantile febrile convulsion (điện não đồ trong cơ
bình thường thì là căn nguyên lành tính; ngược lại thì điện não đồ có các hoạt động điện
dạng gai và sóng chậm bất thường).
- Nghi ngờ có khối u nếu thấy có một ổ khu trú sóng chậm.
- Trong chấn thương sọ não, khi có các sóng chậm hay tình trạng ức chế điện thế do dập
não (contusion) hay do máu tụ dưới màng cứng.
- Đau đầu, kiểu như các hội chứng migraine, khi đó có thể có các dạng EEG có tính gợi ý.
- (Cũ) Chẩn đoán phân biệt một bệnh lý viêm lan tỏa hay khu trú, kiểu như ápxe não.
- (Cũ) Đánh giá khả năng di căn não.
- Bệnh não do chuyển hóa khi có các sóng chậm 3 pha đặc trưng.
- Chẩn đoán phân biệt các rối loạn hành vi do thực thể hay do chức năng (tâm thần).
3.2. Một vài thuật ngữ
Biên độ (amplitude) là khoảng cách theo chiều thẳng đứng giữa 2 đỉnh đối chiếu nhau qua đường
đẳng điện, được tính bằng microvolts - mV (bằng 1 phần triệu của volt).
Thoáng qua (transient) là bất kỳ một sóng đơn độc (gai - spike, sóng nhọn – sharp, v.v.) nào hoặc
một phức bộ ngắn nào khác biệt nổi bật lên trên nền hoạt động điện cơ sở.
Mất cân đối, mất đối xứng (asymmetry) là khác biệt tới mức 50% hay hơn nữa về biên độ và/hoặc
về tần số của một vùng não so với vùng não tương tự ở bán cầu bên đối diện.
Bột phát (cơn kịch phát – burst) là một chuỗi gồm từ 2 chu kỳ hoàn chỉnh (complete cycles) trở
lên, có biên độ và/hoặc tần số khác biệt so với hoạt động điện cơ sở.
Tần số (frequency) là số lượng các sóng lặp đi lặp lại hoàn chỉnh trong một đơn vị thời gian, tính
bằng Hertz (Hz) tức là số chu kỳ trong 1 giây.
Thời khoảng (duration) là chiều dài của 1 định dạng điện não, đo bằng giây hay mili giây
(milliseconds).
Chuẩn độ là một nghiệm pháp dùng để thẩm tra lại đáp ứng qua từng bộ khuyếch đại đối với một
điện thế đã biết trước.
Chuẩn độ sinh học (Bio-Cal) là một nghiệm pháp trong đó cùng 1 cặp điện cực được nối vào tất
cả các kênh của EEG.
3.3. Các dạng sóng thường gặp
CHUẨN ĐỘ (CALIBRATION)
Điện não đồ (Phần 2) : Nguyên lý đo điện não, cấu tạo máy đo điện não
1. Nguyên lý đo điện não đồ.
Hoạt động của hệ thần kinh trung ương kéo theo các quá trình điện sinh học. Trong tình trạng hưng phấn ở tế
bào thần kinh, các ion được phân bố lại và xuất hiện sự chênh lệch điện thế giữa các khu vực. Các tế bào não
liên lạc với nhau nhờ tạo ra những sóng điện nhỏ. Trong xét nghiệm điện não đồ, nhiều điện cực được đặt ở
vùng da đầu ứng với nhiều vùng khác nhau của não nhằm phát hiện và ghi nhận các kiểu hoạt động điện cũng
như tìm kiếm những bất thường. Sự chênh lệch điện thế giữa các mô não là rất nhỏ, vì vậy để ghi được cần
phải có thiết bị rất nhạy là máy ghi điện não. Sự dao động điện thế được thấy ở hình dạng sóng, sóng có tương
quan với những điều kiện thần kinh khác nhau và được sử dụng như tiêu chuẩn chẩn đoán.
Điện não đồ chuẩn kéo dài trong 20 phút, có 3 - 4 cách kết nối điện cực khác nhau được thực hiện, cách phản
ứng của các hoạt động điện não được đánh giá bằng các cách thử đơn giản như nhắm và mở mắt. Hai dạng
hoạt hoá được hệ thống hoá là tăng nhịp thở và kích thích ánh sáng ngắt quãng.
Cấu trúc cơ bản của một máy điện não
2. Cấu tạo máy đo điện não
Dòng điện sinh lý của tế bào não có điện thế rất nhỏ cỡ microvolt (=1/100.000 volt). Để có được tín hiệu điện
não cần sử dụng các máy ghi điện não để thu nhận và khuếch đại các điện thế này. Từ khi ra đời cho đến nay
máy điện não ngày càng được cải tiến hoàn thiện và hiện đại.
Các máy ghi điện não được sản xuất dựa trên nguyên tắc phối hợp của nhiều chuyển đạo. Mỗi máy điện não
bao gồm:
- Một khuếch đại biên độ cho phép khuếch đại một cách trung thực các điện thế ở mức độ từng microvolt (mV).
- Một bộ phận ghi cơ học hoặc số hoá cho phép tiếp nhận những tín hiệu và được ghi lại trên giấy hoặc trên
màn hình vi tính.
Tùy theo số lượng của các thông tin cần phân tích mà các bản ghi có thể được đặt từ 8, 12, 16 đến 20 chuyển
đạo hoặc nhiều hơn. Hiện nay, các máy ghi điện não số hoá dần dần thay thế hệ thống ghi trên giấy.
Có rất nhiều loại máy khác nhau tuy nhiên nguyên lý hoạt động của máy đều tuân theo quy trình cơ bản: đầu
vào - đạo trình ghi - tiền khuếch đại - lọc tần số cao - hậu khuếch đại - bút ghi - chuẩn - ghi lên bản ghi/lưu
trữ (giấy, băng cassete, màn hình).
Sơ đồ khối cấu tạo & quy trình ghi điện não
Cấu tạo của máy : Gồm 3 bộ phận chính
Điện cực
Khối khuếch đại và xử lý tín hiệu
Khối hiển thị và xuất kết quả
Một số bộ phận phụ
Ghi nhịp thở
Ghi nhịp tim
Đánh dấu thời gian
Kích thích ánh sáng
Kích thích tiếng động
Camera
Các điện cực
Điện cực hình dĩa (điện cực dán)
Điện cực cầu
Điện cực kim
Điện cực đơn cực, đa cực để ghi điện não trên bề mặt não hoặc ghi trực tiếp vào tổ chức não trong phẫu thuật
định vị não.
Điện cực trung tính bằng các loại kẹp đặc biệt để gắn vào tai, mũi của người bệnh.
Khối khuếch đại và xử lý tín hiệu
Gồm có tiền và hậu khuếch đại, làm cho tín hiệu điện não đủ lớn về điện thế để chuyển ra khối hiển thị/hệ
thống bút ghi.
Khối hiển thị và xuất kết quả :Dao động kế (hệ thống bút ghi) hoặc máy tính, máy in.
Dao động kế (hệ thống bút ghi) : Các tín hiệu sau khi qua bộ phận khuếch đại, qua hệ thống lọc nhiễu sẽ
làm dao động hệ thống bút ghi, vẽ lên giấy theo chiều dọc lên xuống với tốc độ tuỳ chọn 7.5, 15, 30, 60
mm/s...
Hệ thống máy tinh, máy in : Các tín hiệu sau khi được xử lý sẽ hiển thị trên màn hình máy tính và được in ra
bằng máy in thông thường.
Hình vẽ của bút ghi có hình dạng sóng nên hoạt động điện não còn gọi là các sóng điện não.