Professional Documents
Culture Documents
Tính Ngư NG Sùng Bái Con Ngư I
Tính Ngư NG Sùng Bái Con Ngư I
KHOA LỊCH SỬ
ĐỀ TÀI
CÁC LOẠI HÌNH TÍN NGƯỠNG VÀ ẢNH HƯỞNG ĐỐI VỚI VĂN HÓA
VIỆT NAM
1. Khái niệm.
- Phồn thực: Phồn nghĩa là nhiều, thực là biểu hiện cho sự sinh sôi, nảy nở của
vạn vật. Quan niệm về tín ngưỡng phồn thực vốn có mối gắn kết chặt chẽ với
tín ngưỡng nông nghiệp, với ước vọng cầu được mưa thuận gió hòa, cơm no áo
ấm từ ngàn đời của cư dân.
1.2. Các hình thái của tín ngưỡng Phồn Thực.
1.2.1 Thờ sinh thực khí:
Khái niệm: Việc thờ cơ quan sinh sản nam nữ được gọi là thờ sinh thực khí (sinh =
đẻ, thực = nảy nở, khí = công cụ) đây là hình thái đơn giản của tín ngưỡng phồn thực,
nó phổ biến ở các nền văn hóa nông nghiệp.
Ứng dụng: lễ hội Ná Nhèm (Lạng Sơn) bộ sinh thực khí nam (Tàng thinh) và sinh
thực khí nữ (Mặt nguyệt) được rước từ đình ra miếu sau Tết Quý Mão vừa qua. Kích
thước Tàng thinh dài khoảng 1,3m, đường kính 30 cm và nặng chừng 60 kg. Hàng
trăm người dân địa phương và du khách vẫn cố sờ vào cầu cho may mắn trong năm,
nhất là những người hiếm muộn. Lễ hội Ná Nhèm được Bộ Văn hóa - Thể thao và Du
lịch công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia từ năm 2015 đã khẳng định
tính độc đáo, hấp dẫn của hoạt động này. Dòng lễ hội này không chỉ thể hiện ước mơ
về sự sinh sôi, nảy nở cầu mong cuộc sống đầy đủ no ấm mà sâu xa còn tượng trưng
cho khát vọng được tự do yêu đương, vượt qua những hủ tục phong kiến hà khắc của
người xưa.
1.2.2 Thờ hành vi giao phối.
Khái niệm: Bên cạnh việc thờ sinh thực khí (=yếu tố) giống như nhiều dân tộc
nông nghiệp khác, cư dân trồng lúa nước với lối tư duy còn có tục thờ hành vi giao
phối, tạo nên một dạng tín ngưỡng phồn thực độc đáo, đặc biệt phổ biến ở khu vực
Đông Nam Á.
Ứng dụng: Trên nắp thạp đồng tìm được ở Đào Thịnh (Yên Bái, niên đại 500 năm
TCN), xung quanh hình mặt trời với các tia sáng là tượng 4 đôi nam nữ đang giao hợp.
Thân thạp khắc chìm hình những con thuyền, chiếc sau nối đuôi chiếc trước khiến cho
hai con cá sấu – rồng được gắn ở mũi và lái của hai chiếc thuyền chạm vào nhau trong
tư thế giao hoan. Hình chim, thú, cóc, … giao phối tìm thấy ở khắp nơi.
Ở Hòn Đỏ (Khánh Hòa) khi nhiều ngày liên tục không đánh được cá, người ta phải
tới cầu xin, lạy 3 lạy và cầm vật tượng trưng cho sinh thực khí nam đâm vào Lỗ Lường
3 lần thì sẽ đánh được nhiều cá hơn.
1.3. Vai trò của tín ngưỡng phồn thực.
Vai trò của tín ngưỡng phồn thực trong đời sống của người Việt cổ lớn tới mức
chiếc trống đồng biểu tượng sức minh và quyền lực của người xưa đồng thời cũng là
biểu tượng toàn diện của tín ngưỡng phồn thực: Trước hết, hình dáng trống đồng được
phát triển từ chiếc cối giã gạo. Thứ hai cách đánh trống đồng đồng theo lối cầm chày
dài mà đâm lên mặt trống được khắc trên chính các trống đồng và còn được bảo lưu ở
người Mường hiện nay là mô phỏng động tác giã gạo - động tác giao phối. Thứ ba,
trên tâm mặt trống là hình mặt trời với những tia sáng biểu trưng cho sinh thực khí
nam, và giữa các tia sáng là một hình lá với khe ở giữa biểu trưng cho sinh thực khí
nữ. Thứ tư, xung quanh mặt trống thường gắn tượng các — con cóc trong ý thức của
người Việt là "cậu ông trời", mang theo mưa, khiến cho mùa màng tốt lưới, cũng là
một dạng biểu trưng của tín ngưỡng phồn thực. Cuối cùng, tiếng trống đồng rên vang
mô phỏng âm thanh của tiếng sấm – cùng mang ý nghĩa trên.
Vai trò của tín ngưỡng phồn thực trong đời sống của người Việt cổ còn thể hiện ở
các di tích nổi tiếng như: chùa Một Cột (dương) trong cái hồ vuông (âm), tháp Bút
(dương) và đài Nghiên (âm) ở cổng đền Ngọc Sơn (Hà Nội), cửa sổ tròn (dương) trên
gác Khuê Văn (tượng trưng cho sao Khuê) soi mình xuống hồ vuông (âm) Thiên
Quang Tỉnh trong Văn Miếu, … cũng đều liên quan tới tín ngưỡng phồn thực. Cũng
không phải ngẫu nhiên mà ở các nơi thờ cúng thường gặp thờ ở bên trái là cái mõ và
bên phải là cái chuông: Sự việc đơn giản này là biểu hiện của cả lí luận “Ngũ hành”
lẫn tín ngưỡng phồn thực – cái mõ làm bằng gỗ (hành Mộc) đặt ở bên trái (phương
Đông) là dương, cái chuông làm bằng đồng (hành Kim) đặt ở bên phải (phương Tây)
là âm. Tiếng mõ trầm phải hòa với tiếng chuông thanh: nếu không có nam nữ, âm
dương hòa hợp sẽ không có cuộc sống vĩnh hằng.
4. Ứng dụng của tín ngưỡng phồn thực.
a. Bánh tét cũng được xem là biểu tượng của “Phồn thực”
Người dân miền Trung và Nam có tục lệ gói bánh tét mỗi dịp Tết về. Bánh tét
của người miền Trung được gói bằng lá chuối với các nguyên liệu giống như
bánh chưng, chỉ khác là gói thành hình trụ dài chứ không phải hình vuông. Khi
ăn cắt thành từng khoanh, ở giữa nhân đậu xanh và thịt mỡ nổi lên như nhụy
hoa. Bánh tét được coi là dạng nguyên thủy của bánh chưng, là biểu tượng cho
tín ngưỡng phồn thực của người Việt xưa. Bên cạnh đĩa bánh tết, dưa món, nắm
tré, bò ngâm màu trầm, thường có chén (bát nhỏ) tôm chua, xinh như một bông
hoa, chói chang đỏ như vầng mặt trời mùa xuân ấm áp.
b. Bánh cúng- Bánh Cấp của người Chăm.
Đó là loại bánh làm bằng nếp giống như bánh tét, bánh chưng nhưng không có
nhân, và kích thước nhỏ hơn rất nhiều. Chúng có tên là bánh cúng (cái bánh
dài) và bánh cấp (cái hình chữ nhật). Theo giải thích của TS Huỳnh Tới, đây là
loại bánh dân gian của người Chăm dùng vào dịp cúng lễ. Ý nghĩa của chúng là
dùng sản vật tinh khiết tự nhiên của đất trời để dâng cúng, do đó chỉ có nếp thôi
chứ không có… thịt mỡ như bánh tét của ta. Ăn bánh này chấm với mật ong
(cũng là sản vật tinh khiết tự nhiên).
Nếu như bánh dày bánh chưng của Việt Nam tượng trưng cho Trời và Đất, thì ý
nghĩa của bánh cúng – bánh cấp thực tế hơn rất nhiều. Bánh cúng (dài) tượng
trưng cho… Linga (bộ phận sinh dục nam), bánh cấp (chữ nhật) tượng trưng
cho… Yoni (bộ phận sinh dục nữ). Đây chính là nền văn hóa phồn thực của dân
tôc Chăm, vì nhờ vào linga và yoni mà vạn vật mới sinh sôi nảy nở.
c. Tục cúng Lỗ Lường
Đây cũng là một biểu hiện của tín ngưỡng phồn thực – với mong muốn cầu xin
chư vị “Thần linh biển cả” phù hộ được trúng mùa nhiều cá, bình yên cho ngư
dân. Tục cúng Lỗ Lường của người dân làm nghề lưới đăng ở xã Ninh Phước
(thị xã Ninh Hòa, Khánh Hòa) tại đảo Hòn Đỏ ngày 19 – 20/2 âm lịch hằng
năm. Đảo Hòn Đỏ – thuộc xã Ninh Phước, là một đảo nhỏ nằm ở phía đông bắc
bán đảo Hòn Hèo, ngoài khơi thị xã Ninh Hòa.
Những người làm nghề lưới đăng xã Ninh Hòa chọn địa điểm đánh bắt cá của
mình ở vịnh Hà Đỏ. Tại đây bằng kinh nghiệm từ bao đời nay họ tính toán
luồng đi của cá rồi dựng đăng để đánh bắt. Trên đảo Hòn Đỏ, các ngư dân nghề
làm lưới đăng đã xây dựng một ngôi miếu thờ bà Lường và dựng bàn thờ trong
hang thờ sinh thực khí từ bao đời nay. Hàng năm những ngư dân ở đây tổ chức
lễ rước nghinh ông vào ngày 19 tháng 2 âm lịch.
CHƯƠNG 2 TÍN NGƯỠNG SÙNG BÁI TỰ NHIÊN
2.1. Khái niệm
Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên là sản phẩm của môi trường sống, sống phụ thuộc vào tự
nhiên, không giải thích được tự nhiên và là nhu cầu của đời sống tâm linh.
2..2. Nguồn gốc
Sùng bái tự nhiên là giai đoạn tất yếu trong quá trình phát triển của con người. Với
người Việt sống bằng nghề lúa nước thì sự gắn bó với tự nhiên lại càng dài lâu và bền
chặt. Việc đồng thời phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau của tự nhiên dẫn đến hậu
quả trong lĩnh vực nhận thức là lối tư duy tổng hợp; và trong lĩnh vực tín ngưỡng là tín
ngưỡng đa thần.
2.3. Biểu hiện
2.3.1. Tín ngưỡng đa thần:
Nguồn gốc của tín ngưỡng đa thần phát sinh từ sự kính sợ các hiện tượng thiên
nhiên hay từ cảm tính về cái thiêng của một vật thể nào đó. Tín ngưỡng đa thần cũng
bắt nguồn từ những thần thoại mô tả rất nhiều nhân vật có hình tướng lạ thường, tính
cách phi thường, có sức mạnh siêu phàm. Những thần này đặc trách cai quản và phù
hộ cho một lĩnh vực đời sống thế gian.
Cư dân nông thôn Việt Nam sống nhờ vào đất và nước. Cùng với đó, đất và
nước được thờ biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như thổ thần, bản cảnh thành
hoàng, thủy thần. Bên cạnh đó là các thần hiện tượng tự nhiên liên quan đến nông
nghiệp (như mây, mưa, sấm, cây cối…). Tín ngưỡng đa thần còn đi đến sự thần hóa
các vị anh hùng trong dã sử hay lịch sử của một dân tộc. Từ xuất phát điểm ban đầu,
qua thực tế có thể thấy tín ngưỡng đa thần còn gắn với lịch sử dựng nước và giữ nước
của dân tộc Việt Nam. Dân gian thường gọi các vị thần trên là thiên thần và nhân thần.
2. 3. 2. Các loại hình sùng bái tự nhiên
2.3.2.1. Tín ngưỡng thờ Mẫu – nữ thần cai quản hiện tượng tự nhiên
Người Việt sống bằng nghề lúa nước thì sự gắn bó tự nhiên lại càng dài lâu và
bền chặt. Chất âm tính của văn hoá nông nghiệp dẫn đến hậu quả trong quan hệ xã hội
là lối sống thiên về tình cảm, trong nữ, và trong tín ngưỡng là tình trạng các nữ thần
chiếm ưu thế. Và vì cái đích mà người nông nghiệp hướng tới là sự phồn thực, cho nên
nữ thần của ta không phải là các cô gái trẻ đẹp, mà là các Bà mẹ, các Mẫu. Tục thờ
Mẫu (đạo Mẫu) đã trở thành một tín ngưỡng Việt Nam điển hình (Trần Ngọc Thêm,
1999, tr.133).
Đi sâu hơn vào đời sống của người nông dân trồng lúa nước thì đất và nước là
những điều kiện quan trọng hàng đầu, nó nuôi sống cây lúa để sản sinh ra thóc gạo
nuôi sống con người. Bởi thế, từ lâu người nông dân coi đất, nước và cây lúa như thần
linh, đúng hơn là một biểu tượng mang tính thiêng liêng và các vị thần đó đều mang
nữ tính: Mẹ Đất, Mẹ Nước, Mẹ Lúa. Quy trình canh tác cây lúa, từ lúc cày xới, gieo
cấy, chăm sóc và thu hoạch đều được mở đầu bằng các nghi lễ. Nhiều khâu công việc
trong trồng cấy lúa đều gắn với phụ nữ, dành cho phụ nữ, tạo ra những điều cấm kỵ
đối với nam giới. Bởi thế, việc trồng lúa và tín ngưỡng trồng lúa gắn với vai trò và vị
trí của người đàn bà – Người Mẹ.
Đạo Mẫu là một hiện tượng tín ngưỡng dân gian mang nguồn cội bản địa. Sử
dụng hình tượng người mẹ (Mẫu) để tôn thờ, gửi gắm những ước vọng tốt đẹp, sống
sung túc, khỏe mạnh, nhận được sự chở che cho một thế giới đầy biến động. Đạo mẫu
có ba lớp đó là tín ngưỡng thờ Nữ thần, lớp tín ngưỡng thờ Mẫu thần và thờ Mẫu Tam
phủ, Tứ phủ và ba lớp này không hoàn toàn đồng nhất nhưng lại có mối quan hệ chi
phối lẫn nhau
Ở lớp thờ Nữ thần là mang tính phổ quát, chú trọng tới vai trò người phụ nữ. Là
biểu tượng cho đất nước quê hương, những giá trị văn hóa, những danh tướng ngoài
trận mạc trong huyền thoại, truyền thuyết, người Việt và các dân tộc khác ở nước ta
vốn là cư dân nông nghiệp, trồng nên nếp sống của người Việt Nam vẫn là nông dân,
quan niệm vũ trụ luận phương Đông cổ đại vẫn là âm dương tương khắc, tương sinh.
Việc tôn thờ thần Đất, thần Núi, thần Lúa đều đồng nhất với âm và nhân hóa lên thì
chính là tính nữ. Qua đó có thể thấy được vai trò quan trọng của người phụ nữ trong
quá trình xây dựng đất nước và cuộc sống ngày nay. Và từ đó nhiều người phụ nữ đã
được tôn vinh là Mẫu, Thánh Mẫu, đạo của dân gian, của dân tộc và được gọi là Đạo
Mẫu.
Ở lớp thờ Mẫu Thần thì phát triển hơn so với Nữ Thần, mang yếu tố Quốc Gia
với ý nghĩa xưng tôn, tôn vinh như là Mẹ Âu Cơ, Mẫu Liễu Hạnh, ... Đa phần đó là
những vị thần được gắn liền với những hiện tượng thiên nhiên, vũ trụ được người đời
sáng tạo để che chở cho sự sống con người. Đó là trời đất, sông nước, rừng núi thành
Mẫu Thiên, Mẫu Địa, Mẫu Thoái, ...hoặc cũng có thể có nguồn gốc từ nhân thần như
Thái Hậu, Công chúa, những người khi sống đều tài giỏi có công lao lớn đối với dân
với nước và khi mất có sự hiển linh được tôn làm Quốc Mẫu, Vương Mẫu.
Có thể thấy đạo Mẫu gắn liền với tục thờ Mẫu dân gian, nhưng như thế không
có nghĩa mọi mẫu thần đều thuộc diện thần của đạo Mẫu. Mẫu Tam Phủ, Tứ Phủ tức
Tam Tòa Thánh Mẫu là một bước phát triển, một quá trình “nâng cao” “lên khuôn” từ
một số hành vi tôn thờ rời rạc đến một thứ tín ngưỡng, một đạo có hệ thống hơn (Ngô
Đức Thịnh, 2009, tr. 29). Là tín ngưỡng tôn thờ toàn vũ trụ trong đó có cả nam thần và
nữ thần, thiên thần và nhân thần. Các vị thần trong hệ thống này chủ yếu là những vị
thánh hiển tích hộ quốc an dân, giúp dân và được nhân dân tin tưởng thờ phụng.
Ngoài ra người Việt còn sùng bái các hiện tượng tự nhiên khác như:
Tục thờ Mặt Trời là một tín ngưỡng bắt nguồn từ vùng nông nghiệp Đông Nam
Á. Không trống đồng, thạp đồng nào là không khắc hình mặt trời ở tâm; ở phương
Nam, toàn dân thờ trời (bàn thờ bà Thiên Đài), ở Trung Hoa thời Kiệt – Trụ chưa thờ
Trời, về sau cũng chỉ có vua (con trời) là thờ trời thôi, dân Trung Hoa không thờ trời
(Kinh Xuân Thu ghi: “Dân thờ trời là đắc tội với Thiên tử”). Lễ Nam Giao và lễ Tịch
Điền mà trước đây triều đình thường tổ chức có thể xem là một hình thức nhà nước
hoá tục Trời và thờ Đất.
Người Việt còn thờ các hiện tượng tự nhiên khái quát như không gian và thời
gian. Thần không gian được hình dung theo Ngũ Hành Nương Nương, Ngũ Phương
chi thần coi sóc các phương trời; Ngũ Đạo chi thần trông coi các ngã đường. Theo địa
chỉ, người ta thờ thần thời gian là Thập Nhị Hành Khiển (12 vị thần mỗi vị coi sóc 1
năm theo Tí, Sửu, Dần, Mão...) đồng thời có trách nhiệm coi sóc việc sinh nở – đó là
Mười hai Bà Mụ. Cúng Mụ cho bé ngày đầy tháng hay đầy năm (gọi là cúng Thôi nôi)
cho đứa bé là cúng Tạ lễ cho 12 bà Mụ đã nắn tay chân, tạo hình hài cho đứa bé, bảo
hộ cho nó được tròn tháng, tròn năm. Còn dạy cho đứa bé biết khóc, biết cười, biết đòi
bú mớm, ẩm bồng, phân biệt lạ quen là do 13 ông Thầy. Còn cúng đầy năm gọi là thôi
nôi, vì đứa bé khi còn nhỏ nuôi nó trong cái nôi, tránh khi nó lăn, nó bò bị té trầy da,
sức trán, có khi thương tật tay chân; khi đủ năm có thể không cần đến cái nôi, do đó
gọi là thôi nôi.
2.3.2.2. Tín ngưỡng sùng bái động vật và thực vật
Tín ngưỡng sùng bái động vật
Tín ngưỡng thờ động vật ở Việt Nam bắt nguồn từ những nguyên nhân sau:
Sự tôn thờ các loài động vật bắt nguồn từ sự tò mò của con người đối với các
loài động vật. Họ quan sát đặc điểm của những động vật trong tự nhiên. Những đặc
điểm đó đặc biệt khiến họ tôn sùng, ngưỡng mộ. Do đó, người nguyên thủy thờ cúng
những động vật có đặc tính không thể bắt chước.
Cuộc sống dựa vào thiên nhiên của người Việt Nam là nguồn gốc của tín
ngưỡng này. Con người sống dựa vào thiên nhiên đồng thời thiên nhiên cũng mang
đến cho con người bao tai họa. Bởi vậy, họ tin rằng thờ cúng những thứ thuộc về thiên
nhiên sẽ mang lại may mắn, sức mạnh.
Một trong những lí do cho sự ra đời tín ngưỡng thờ động vật ở Việt Nam là yếu
tố mê tín dị đoan và lời đồn. Đó là việc thần thánh hóa những con vật rất đỗi bình
thường. Trong khi nếp sống trọng sức mạnh của loại hình văn hóa gốc du mục dẫn đến
tục tôn thờ những con thú dữ (như chó sói, hổ, chim ưng, đại bàng….) thì nếp sống
tình cảm, hiếu hòa của loại hình văn hóa nông nghiệp dẫn người Việt Nam đến tục thờ
các con thú hiền như hươu, nai, trâu, cóc…; riêng loại hình nông nghiệp lúa nước của
ta còn thờ một số động vật sống ở nước như: chim, rắn, cá sấu.
Thiên hướng nghệ thuật của loại hình văn hóa nông nghiệp còn đẩy các con vật
này lên hướng biểu trưng: “Tiên”, “Rồng”. Theo truyền thuyết thì tổ tiên người Việt
thuộc “họ Hồng Bàng” và là “giống Rồng Tiên”. Hồng Bàng nghĩa là một loài chim
nước lớn. Tiên Rồng là một cặp đôi, trong đó Tiên được trừu tượng hóa từ giống chim,
còn Rồng được trừu tượng hóa từ hai loài bò sát rắn và cá sấu có rất nhiều ở vùng sông
nước Đông Nam Á. Đó cũng là hai loài vật biểu của phương Nam và phương Đông
trong Ngũ hành. Hình tượng con Rồng vốn xuất phát từ vùng Đông Nam Á – đó là
điều đã được giới khoa học khẳng định D.V.Deopik (1993; tr. 13) viết: “rồng là con vật
đặc thù chung cho tất cả các dân tộc Việt và chính từ đây nó đã đi vào văn hóa Trung
Hoa”. Nếp sống tình cảm; hiếu hòa của người nông nghiệp đã biến con cá sấu ác thành
con rồng hiền. Hình cá sấu là mô típ trang trí khá phổ biến trong các đồ đồng Đông
sơn. Cá sấu – Rồng được coi là chúa tể cai quản vùng sông nước với tên gọi Bua Khú
(Vua Sấu) ở người Mường; Long Quân; Long Vương ở người Việt. Chữ “rồng” (Việt)
và “long” (Hán-Việt) đều bắt nguồn từ krong; krông; klong trong tiếng Đông Nam Á
cổ có nghĩa là “sông nước”. Rất nhiều địa danh Việt Nam được đặt tên “rồng”: Hàm
Rồng; Hàm Long; Thăng Long; Hạ Long; Cửu Long; Bạch Long Vĩ; Long Đỗ; Long
Điền; Long Môn; v.v. Người dân Nam Bộ (vùng này cho đến đầu thế kỉ XX vẫn rất
nhiều cá sấu) tin rằng cá sấu tu lâu năm (nằm im một chỗ cho đất cát phủ lên thành cù
lao) tới ngày đắc quả sẽ hóa thành rồng bay lên trời (hiện tượng đó được gọi là Cù
Dậy).
Bên cạnh đó, người Việt còn thờ những con vật khác như Hổ, Hạc, Rùa,…
Những loài thú dữ nhất là Hổ thường đe dọa cuộc sống của con người. Bên
cạnh đó, nó còn phá hoại những loài vật nuôi trong gia đình khác. Vì vậy, tín ngưỡng
thờ thần Hổ bắt đầu xuất hiện ở nước ta. Tín ngưỡng này ra đời nhằm đáp ứng nhu
cầu, nguyện vọng của con người về một cuộc sống bình an.
Trước đây, hàng năm trong các dịp lễ, người dân trong làng đều phải chuẩn bị
bị vật phẩm cúng thần Hổ. Vật phẩm bao gồm hương, đèn, rượu, trà, trứng gà, thịt lợn
và vịt sống…Người dân cho rằng, nếu không thực hiện đúng sẽ bị Hổ tìm đến trừng
phạt. Việc thờ Hổ còn dựa trên truyền thuyết nhân gian rằng mỗi khu rừng đều có một
vị chúa tể. Hổ chính là vị chúa tể đó. Hổ thống lĩnh tất cả các loài thú trong rừng. Nó
giúp đỡ người dân có mùa màng tươi tốt, ấm no hạnh phúc. Nhiều ngôi đền, đình,
miếu còn đặt bức bình phong in hình Hổ. Bức bình phong được dựng ở trước cửa vào
gian chính với quan niệm che chắn điều không hay. Một số nơi lập riêng một miếu nhỏ
có hoa văn trang trí, bát hương, bài vị…
Hạc và Rùa là hai loài vật xuất hiện khá phổ biến ở đình, chùa, miếu. Theo nhân
gian, đây là hai con vật vốn thân thiết với nhau. Rùa là con vật biết bơi và sống dưới
nước. Hạc là chim biết bay. Khi trời làm mưa, khắp nơi lũ lụt thì Rùa giúp Hạc vượt
qua vùng nước ngập đến nơi khô ráo. Ngược lại, khi hạn hán Rùa được hạc giúp đưa
đến nơi có nước. Những hình ảnh này tượng trưng cho sự chung thủy, sẵn sàng giúp
đỡ lẫn nhau giữa những người bạn tốt. Nó cũng thể hiện tinh thần tương thân tương ái
của người Việt Nam.
Theo truyền thuyết, Rùa và Hạc là những con vật có tuổi thọ cao. Nó còn mang
đậm chất thanh cao thoát tục. Rùa là con vật đứng hàng thứ ba trong tứ linh: Long, Ly,
Quy, Phụng. Trong lịch sử dân tộc, Rùa có công lớn trong việc giữ nước. Thần Rùa
Kim Quy giúp An Dương Vương làm nỏ thần đánh thắng Triệu Đà. Hay như truyền
thuyết Rùa thần giúp Lê Lợi đánh thắng quân Minh. Đây là cơ sở của tín ngưỡng thờ
động vật ở Việt Nam hình thành và phát triển. Hình ảnh Hạc đứng trên lưng Rùa ở
đình, chùa…thể hiện khát vọng trường tồn của dân tộc.
Tín ngưỡng sùng bái thực vật
Thực vật thì được tôn sùng nhất là cây Lúa: Cây Lúa xuất hiện khắp nơi dù là
vùng Người Việt hay các vùng dân tộc đều có tín ngưỡng thờ Thần Lúa, Hồn Lúa, Mẹ
Lúa. Theo sách Việt sử lược chép lại thì ngày đó chưa có chữ viết “phong tục thuần
hậu, chất phác, chính sự dùng lối “kết nút”. Dân cư sinh sống và phát triển cùng với sự
tồn tại của cây lúa nước. Dựa vào đồng ruộng họ định cư thành “làng”; nhiều “làng”
thống nhất lại thành “nước”. Nước Văn Lang ra đời, cư dân Văn Lang được quy tụ lại
dưới sự thống lĩnh của các Vua Hùng. Tục thờ hạt lúa thần, gọi vía lúa, rước lúa, cầu
mưa, rước nước, tịch điền, hạ điền... là sự biểu hiện lòng tôn kính “Thần Lúa” của
người nông dân.
Tiếp đến là các cây cổ thụ được “thiên hóa” như là “thần cây đa, ma cây gạo, cú
cáo cây đề”. Tuổi thơ ở làng quê ai cũng nhớ câu đồng dao “Cây gạo có ma cây đa có
thần”. Thì ra đó là hai cây cao bóng cả tạc dấu ấn đậm nét trong tiềm thức dân gian của
làng quê Việt. Thực hư chuyện cây gạo ở các làng quê có ma hay không cũng mông
lung mơ hồ như chuyện ma ở cõi thực hay cõi mê. Chỉ biết cư dân bản địa Trường Sơn
- Tây Nguyên coi cây gạo là cây thiêng của buôn làng. Các lễ hội thường không thiếu
chôn cây gạo ở vị trí trung tâm lễ coi đó là cột vũ trụ. Đó là nơi cột con trâu tế thần
trong lễ hội lễ dâng trâu mừng mùa tạ ơn trời đất. Với cư dân Việt - Mường, Tày -
Thái, cây gạo thường ở đầu bản hoặc cuối làng hay ở chốc bãi bờ, đồng không mông
quạnh. Cây gạo thân to vươn cành như cánh tay giang rộng với tới mây trời, tán cây
che rợp một một vùng đất. Lá gạo to mọc thưa ở những cành cao chót vót nên thích
hợp cho loài quạ đen, quạ khoang làm tổ. Vị trí đó giúp loài quạ rộng tầm quan sát tự
vệ và kiếm mồi. Vì là nơi chứa chấp bầy quạ nên con người dễ liên tưởng đến cái chết,
đến sự trú ngụ của ma. Cây gạo trở thành không gian thiêng trong tiềm thức tín
ngưỡng người Việt.
Sự phát triển vượt trội của cây gạo ở trong vị trí độc đáo của làng bản, buôn
cũng làm cho người ta suy diễn đến sự no ấm, bình yên, sung mãn của miền đất mình
cư trú. Câu ca dao cũ: “Bao giờ đom đóm bay ra/ Hoa gạo rụng xuống thì ta reo
vừng”. Không chỉ là tín hiệu của mùa vụ mà còn gửi gắm vào đó những chiêm nghiệm
đúc kết dân dã về sự đổi thay của trời đất, vạn vật mà con người đã kinh qua và trải
nghiệm.
Còn về cây đa không ai có thể phủ nhận cây đa là biểu tượng văn hóa đặc sắc
của làng quê Việt. Hình bóng làng Việt xưa nay in đậm dấu ấn cây đa, bến nước, sân
đình. Đó là biểu tượng của văn minh nông nghiệp làng xã tồn tại hàng ngàn năm tới
ngày nay. Cũng vì thế cây đa đi vào văn hóa văn nghệ dân gian sinh động, thanh khiết,
thoát tục và kỳ bí trong đó có sự tích chú Cuội chị Hằng dưới bóng đa cung trăng.
Cũng từ bộ ba cây đa, bến nước, sân đình ấy nhiều mối tình thôn dã nảy nở đơm hoa,
kết trái, hạnh phúc đề huề sung mãn.
Vốn là cây cao bóng cả có sức sống mãnh liệt vượt qua mọi nghiệt ngã của thời
tiết, khí hậu, thách đố cả thời gian, cây đa biểu tượng cho sự trường tồn của đại thụ
linh thần. Người xưa đã gán cho cây đa, cây si những đặc tính của thần thánh linh
thiêng bí hiểm. Mọi sự xúc phạm đến linh thiêng của cây đa sẽ bị quở trách, trừng phạt
trị tội. Bên cây đa, cây si thường hay dựng những ngôi miếu thờ. Đặc biệt thờ vong
linh của người chết bờ, chết bụi, chết vật, chết vạ, chết bất đắc kỳ tử. Tín ngưỡng dân
gian xưa cho rằng những vong linh đó khó siêu thoát nên lập miếu thờ dưới gốc đa
làng để an dân.
Có thể khẳng định cây đa làng là nơi lưu giữ hồn quê Việt. Cây đa được kì vĩ
hóa, huyền thoại hóa, nhân cách hóa thấu được triết lí nhân sinh. Trong các đền, đình,
chùa, miếu, lăng mộ hầu như không thể thiếu bóng dáng cây đa. Cây đa trở thành biểu
tượng của tín ngưỡng tâm linh, khi nó vừa là nơi trú ngụ của thế giới tâm linh vừa là
cây cao bóng cả bao trùm che chở cho đời sống cõi người. Cây đa gắn liền với di sản
văn hóa và cảnh quan làng xã đó là nhân chứng cho mọi thăng trầm đổi thay của cuộc
đời con người tiếp nối các thế hệ.
Ngày nay cây gạo, cây đa không còn chứa đựng những yếu tố ma mị bí ẩn như xưa.
Nhưng giá trị văn hóa cảnh quan và sự gắn liền với di tính văn hóa làng xã của nó vẫn
vẹn nguyên giá trị. Trồng, chăm sóc bảo vệ tốt những cây đa, cây gạo làng quê vẫn là
điều cần thiết của mọi cộng đồng dân cư. Vẫn là khắc khoải nhớ làng quê, đồng quê
của những người xa quê xa xứ, mong ước tìm về cội rễ.
CHƯƠNG 3 TÍN NGƯỠNG SÙNG BÁI CON NGƯỜI
1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa IX,
Nxb CTQG, H.2003, tr.52.
giữa đồng bào theo các tôn giáo khác nhau đã tạo cơ sở lý luận vững chắc trong đấu
tranh chống các biểu hiện mê tín dị đoan, lợi dụng tôn giáo để chia rẽ khối đại đoàn
kết dân tộc, làm phương hại đến lợi ích chung của dân tộc Việt Nam. Quan điểm này
thể hiện tư duy mới đúng đắn, sâu sắc hơn của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình
lãnh đạo công tác tôn giáo ở giai đoạn hiện nay; đồng thời góp phần tạo ra những tiền
đề thuận lợi để nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tôn giáo, là một đóng góp
quan trọng của Đảng ta vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về tôn giáo
và công tác tôn giáo trong tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước có xuất phát
điểm thấp, với nền kinh tế lạc hậu, chậm phát triển, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
như Việt Nam.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, trước những diễn biến hết sức phức tạp
của tình hình thế giới, khu vực và trong nước, hơn lúc nào hết Đảng và Nhà nước ta
cần quán triệt và vận dụng sáng tạo quan điểm của Hồ Chí Minh về tôn giáo và công
tác tôn giáo để tuyên truyền, vận động cách mạng đối với đồng bào các tôn giáo một
cách phù hợp; tìm tòi, phát huy và đề cao cái đẹp, cái thống nhất của tôn giáo đối với
cách mạng, qua đó thực hiện gắn chặt hơn nữa việc giải quyết vấn đề dân tộc với tôn
giáo nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đáp ứng yêu cầu ngày càng
cao của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới.