You are on page 1of 7

Phân tích Chiều tối

Mở bài:
Có những con người, mang hết thảy tình yêu thương hiến dâng cho Tổ
quốc, nao nao một nỗi cô đơn thăm thẳm về một chốn rừng sâu, ấy vậy
mà vẫn cứ lạc quan tin về một niềm vui chiến thắng phía trước.Có một
người chiến sĩ, cổ đeo gông, tay vướng xiềng lê bước trên nẻo đường
hoang vu buổi chiều muộn, ánh mắt ung dung đón lấy ánh sáng hi vọng
của sự sống của niềm lạc quan và của tương lai. Và người chiến sĩ ấy
chính là Bác Hồ song hành với Người là bài thơ “Chiều tối” thể hiện
niềm khao khát tự do cháy bỏng và phong thái ung dung làm chủ hoàn
cảnh của Người.
Tác giả, tác phẩm:

 Tác giả: HCM coi văn học là thứ vũ khí chiến đấu lợi hại, phụng
sự cho sự nghiệp cách mạng. Bác đã từng nói: “văn hóa nghệ thuật
cũng là 1 mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Đối với
Người, nhà văn, nhà thơ là chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, họ dùng
ngòi bút của mình để đấu tranh với cái ác, cái xấu, đòi lại lẽ phải,
sự công bằng. Chủ Tịch HCM cũng vậy, Bác không chỉ là 1 nhà
hoạt động CM mà còn là 1 người cầm bút viết lên những trang văn
góp phần vào sự thành công vang dội của con đường cứu nước mà
Bác đã chọn.
 Tập thơ NKTT: Trong những ngày tháng bị quân TGT bắt giam tại
TQ, Người đã cho ra đời tập thơ NKTT vừa là để cổ vũ bản thân,
tỏ chí, trang trải nỗi lòng vừa là lên án tội ác của quân địch.
 TP: Chiều tối là bài thơ thứ 31 trong tập, ghi lại cảm xúc của nhà
thơ trên đường bị giải đi qua hết nhà lao này đến nhà lao khác.
 Đề tài: Cảnh chiều tối là một đề tài quen thuộc của văn chương.
Khung cảnh buổi chiều về tối thường dễ sinh tình vì thế, buổi
chiều đã đi vào bao áng thơ kim cổ, làm nên những vần thơ tuyệt
tác. Thơ chiều cổ điển thường man mác một nỗi buồn đìu hiu,
hoang vắng trong sự tàn tạ của thời gian, hoặc trĩu nặng nỗi buồn
tha hương lữ thứ.
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không
Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết lò than đã rực hồng
Phân tích:
 Luận điểm 1: bức tranh thiên nhiên vùng sơn cước trong 1
buổi chiều muộn:
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không

 2 nét chấm phá:


+ Cánh chim
+ Chòm mây
® Thi liệu quen thuộc thường xuất hiện trong thơ ca cổ.
® Khắc họa không gian khoáng đạt, cao rộng.
® Điểm nhìn của thi nhân hướng lên cao.
 Thời gian “chiều tối”: hoàng hôn buông xuống làm lòng con người
xuất hiện những nỗi niềm riêng:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ, ruột đau chín chiều.

 Đi sâu vào hình ảnh cánh chim: khác với những nhà thơ trước đó:
+ Trong “Truyện Kiều”, khi miêu tả cảnh chiều, Nguyễn Du đã
điểm vào bức tranh hình ảnh cánh chim bay về rừng:
“Chim hôm thoi thót về rừng”.
+ Huy Cận lại cảm thấy bóng chiều như đang sà xuống từ cánh
chim đang nghiêng dần về cuối chân trời:
“Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”.

® Cánh chim trong thơ xưa thường chỉ là một chi tiết
nghệ thuật thuần tuý để gợi tả cảnh chiều thế thôi và thường
gợi nên cảm giác về sự xa xăm, phiêu bạt, chia lìa.
® Cánh chim trong thơ Bác bay với nhịp sống thường
nhật, trở về với tổ ấm thân thương sau một ngày rong ruổi kiếm ăn
vất vả.
+ Cánh chim đã mỏi mệt.
® Chiều sâu tâm hồn của Bác chính là lòng yêu thương sự sống,
cảm quan của Bác chính là cảm quan nhân đạo.
® Tương đồng với người tù sau hành trình 53 cây số 1 ngày.
Người cũng muốn dừng chân, tạm nghỉ.
® Với cánh chim nhỏ nơi muốn trở về là tổ ấm thì đối với Bác
là quê hương, nước nhà.
 “ Cô vân”: chòm mây cô đơn, lẻ loi:
+ Bản dịch: “cô” bị bỏ sót.
+ Trôi nhẹ: trôi chậm chạp trên bầu trời
® Đám mây chất chứa nỗi niềm cô đơn, buồn tẻ, không
biết đi đâu về đâu khi bóng chiều đang dần buông xuống.
 NT đối lập: chòm mây >< bầu trời
+ Không gian cao rộng, mênh mông.
+ Chòm mây cô đơn, lẻ loi
® Nổi bật sự cô đơn, lẻ loi trong chính thi nhân. Nỗi nhớ
nhà, nhớ nước luôn đau đáu trong lòng Người khi phải 1 mình
nơi đất khách quê người.
 Chỉ bằng hai nét chấm phá, gợi mở HCM đã vẽ lên bức tranh cả 1
miền sươn cước nơi đất khách quê người. Vẻ đẹp tâm hồn HCM:
yêu thiên nhiên, hào mình vào thiên nhiên, luôn có phong thái ung
dung, lạc quan, tự tại.  Nghị lực phi thường và đó cũng chính là
chất thép trong thơ của Bác.

 Luận điểm 2: Bức tranh cuộc sống vùng sơn cước:


 Bài thơ “Chiều tối” mở ra bằng khung cảnh chiều tà, những buổi
chiều tà ấy đâu có thiếu trong văn chương cổ kim. Nhưng nếu là
qua cái nhìn của 1 Lý Bạch tiêu điều, 1 khuất nguyên u uất thì bức
tranh ấy sẽ đầy thê lương, ảm đạm. Còn ở đây, Bác đã cho thấy 1
cách nhìn hiện đại hơn. Nếu 2 câu đầu khắc họa cảnh thiên nhiên,
phảng phất chút buồn của người con xa xứ thì 2 câu sau tứ thơ có
sự chuyển động mạnh mẽ - đó là hình ảnh của người lao động
trong tạng thái vui tươi, khỏe khoắn:
Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết lò than đã rực hồng.

 Trong thơ xưa, người phụ nữ xuất hiện rất nhiều nhưng thường gắn
với sự nhu mì, với vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành hay số phận
khổ đau bất hạnh. Còn trong thơ của HCM lại là 1 cô gái nông
thôn gắn liền với công việc lao động – xay ngô tối. Nét đẹp lao
động trở thành tâm điểm của bức tranh thiên nhiên buổi chiều tà.
 Trong thơ xưa, những bức tranh vẻ cảnh chiều đều có bóng dáng
con người nhưng sao lẻ loi, cô độc và hiu hắt quá. Con người ở đây
mang nặng một nỗi niềm hoài cổ, một nỗi sầu muộn:
“Lom khom dưới núi tều vài chú,
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”
(Qua Đèo Ngang – Bà Huyện Thanh Quan)
… còn con người trong thơ Bác, lại là con người lao động đầy sức
sống. Chính hai từ “thiếu nữ” đã làm bừng lên sức sống của bức
tranh.

 Điệp từ “ma bao túc” – “bao túc ma”:


+ Diễn tả những vòng quay không dứt của động tác xay ngô 
Chăm chỉ của người thiếu nữ.
+ Diễn tả nhịp quay, sự vận động của thời gian:
“Thời gian dần trôi theo những cánh chim và làn mây, theo
vòng quay của cối xay ngô, quay, quay mãi”. – Lê Chí Viễn
 Hình ảnh “lò than đã rực hồng”: bừng sáng cả 1 vùng, gián tiếp tái
hiện bóng tối đã bao trùm không gian.
 Trong bản gốc ko có từ nào nhắc đến bóng tối nhưng qua hình
ảnh lò than rực hồng ta có thể cảm nhận thấy bóng tối đang bao
trùm. Bản dịch thơ đã làm thừa ra từ “tối”, dẫn đến lộ ý thơ.
 Bài thơ kết thúc bằng chữ “hồng”: chính là chỗ đẹp nhất của bài
thơ.
+ Ánh lửa hồng của cuộc sống đầm ấm, hạnh phúc gia đình.
+ Ánh lửa hồng của sự sống, của niềm lạc quan.
® Chữ “hồng” đặt ở cuối bài thơ soi rõ vẻ đẹp của người
thiếu nữ, toả ánh sáng và hơi ấm xua đi cái buồn vắng của
bức tranh chiều tối nơi rừng núi.
 Hai câu thơ đã cho ta thấy được cái nhìn ấm áp đầy yêu thương, trân
trọng của Bác đối với con người lao động. Buổi “Chiều tối” nơi miền
rừng núi quạnh hiu, hoang vắng, lẽ ra rất đỗi buồn bã, thê lương trước
mắt người tù bị xiềng xích, bị giải đi với biết bao nỗi gian lao vất vả,
nhưng trái lại đó là tiếng reo vui. Chữ “hồng” ở cuối bài đã làm nên
tiếng reo vui ấy, tạo cho bài thơ âm hưởng nồng ấm, dạt dào.
Đánh giá nội dung và nghệ thuật:

 Nghệ thuật:
+ Bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa phong cách cổ điển và hiện
đại:
 Cổ điển:
 Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt: cô đọng, hàm súc.
 Thi liệu cổ: cánh chim, chòm mây.
 Bút pháp chấm phá, gợi mở.
® Thi nhân ung dung, tự tại, hòa hợp với thiên nhiên.
 Hiện đại:
 Nhân vật trữ tình: cô gái lao động trở thành tâm
điểm bức tranh
 Tứ thơ có sự vận động từ bóng tối ra ánh sáng
 NT ẩn dụ, điệp vòng  Hình ảnh thơ chân thực
(cuộc sống đời thường)
 Thể hiện tình yêu, sự gắn bó với con người, thiên nhiên cùng lòng
nhân ái đạt đến mức quên đi bản thân mình của Hồ Chí Minh. Người
làm thơ trong thời gian bị giam cầm nơi chốn ngục tù mà vẫn để tâm
hồn vẫn hướng về thiên nhiên với niềm khát khao về ngày được tự do.
Bác Hồ – một người lúc nào cũng đau đáu nỗi lo cho dân tộc, cho đất
nước, vẫn luôn dành có phút giây quan tâm đến những thứ nhỏ nhặt
nhất, bình dị nhất. Đó chính là nhân cách cao đẹp của vị lãnh tụ,
người cha già vĩ đại của dân tộc.
Kết bài:
Đọc “ Chiều tối” nói riêng, Nhật kí trong tù nói chung chúng ta thấy
được cái vĩ đại, cái nhân sinh, cái tài hoa của một con người, một lãnh
tụ, một nhà thơ. Sức sống của tập nhật kí bằng thơ ấy chẳng những đọc
trăm bài trăm ý đẹp mà trước hết, chính là chúng ta thấy được cái mênh
mông bát ngát tình được thể hiện chân thực trong thơ Bác. Trái tim, tâm
hồn và tài hoa ấy như ánh sáng của ngọn lửa ngời lên trong đêm tối, ánh
sáng của một tấm lòng yêu thương con người vô hạn. Và chính bằng thứ
ánh sáng đó, bằng nghị lực của chính mình, Bác đã hun đúc cho chúng ta
sức mạnh để vượt qua khổ đau, biết tin, biết mơ ước, biết hành động cho
ngày mai tự do, ấm no, hạnh phúc.
Vần thơ của Bác vần thơ thép
Mà vẫn mênh mông bát ngát tình.
Hoàng Trung Thông

You might also like