Professional Documents
Culture Documents
- Thân: dẹt, chiều ngang lớn hơn chiều trước sau, phía trước dày hơn phía sau.
- Cuống cung: dính vào mặt bên thân đốt sống. Khuyết sống trên và khuyết sống dưới sâu gần bằng nhau.
- Mỏm gai: đỉnh tách đôi.
- Mỏm ngang: đỉnh cũng tách đôi tạo ra củ trước và củ sau mỏm ngang. Có lỗ ngang để động mạch đốt sống chui
qua; đây là đặc điểm nổi bật nhất của đốt sống cổ.
- Lỗ đốt sống: rộng, có hình tam giác.
3.1.2. Đốt sông cổ thứ nhất (C1): còn gọi là đốt đội.
Hình 4. 8.
Đốt sống thắt lưng 4 (nhìn từ trước (A) và nhìn từ trên (B)).
1. Mỏm khớp trên 2. Mỏm sườn 3. Thân đốt sống 4. Mỏm khớp dưới 5. Lỗ đốt sống
6. Mỏm phụ 7. Mỏm núm vú 8. Mỏm gai
3.3.2. Đặc điểm riêng của một số đốt sống thắt lưng
- Đốt sống thắt lưng thứ nhất (L1): mỏm sườn nhỏ nhất và mỏm phụ rõ hơn các đốt trong vùng.
- Đốt sống thắt lưng thứ năm (L5):
+ Là đốt sống lớn nhất, có mỏm gai tròn, nhỏ, hai mỏm khớp dưới tách xa nhau.
+ Thân đốt sống phía trước dày hơn phía sau góp phần tạo nên góc nhô với xương cùng.
Một số người có đốt sống thắt lưng năm dính liền với xương cùng một phần hay toàn bộ được gọi là hiện tượng
cùng hóa L5.
3.4. Xương cùng
- Do 5 đốt sống cùng dính nhau tạo nên.
- Ở trên khớp với L5, hai bên khớp với xương chậu qua diện tai, ở dưới khớp với xương cụt.
- Có hình chêm với hai mặt, hai phần bên, một nền ở trên và một đỉnh ở dưới.
3.4.1. Mặt chậu hông
- Nhìn ra trước, lõm.
- Có 4 đường ngang là vết tích của các đốt sống cùng dính nhau.
- Ở hai đầu các đường ngang có các lỗ cùng chậu hông để ngành trước các thần kinh gai sống cùng chui qua.
1. Xương sườn
1.1. Đại cương
- Xương sườn là các xương dài, dẹt và cong, nằm hai bên lồng ngực, chạy chếch xuống dưới và ra trước.
- Có 12 đôi, chia thành hai loại:
+ Xương sườn thật gồm 7 đôi trên, nối với xương ức bằng các sụn sườn riêng.
+ Xương sườn giả gồm 5 đôi dưới, trong đó:
* Các xương sườn 8, 9 và 10 nối với xương ức qua sụn sườn 7.
* Các xương sườn 11 và 12 có sụn sườn ngắn, không nối với xương ức mà lơ lửng tự do trong các cơ thành bụng,
nên còn gọi là các xương sườn cụt.
1.2. Đặc điểm chung của các xương sườn
Các xương sườn tạo nên một đường cong lõm vào trong không đồng đều. Chiều dài của các xương sườn tăng dần
từ xương sườn thứ nhất đến xương sườn thứ bảy, sau đó giảm dần từ xương sườn thứ bảy đến xương sườn thứ
mưới hai.
Mỗi xương sườn gồm có ba phần: đầu, cổ và thân.
1.2.1. Đầu sườn
Có diện khớp đầu sườn để khớp với hố sườn bên của hai đốt sống ngực kế cận. Diện khớp đầu sườn gồm hai mặt
chếch, ngăn cách nhau bởi mào đầu sườn.
1.2.2. Cổ sườn
Là phần thắt lại giữa đầu sườn và củ sườn. Bờ trên có mào cổ sườn.
Cổ sườn nối với thân ở củ sườn. Củ sườn lồi ra ở mặt ngoài, có diện khớp để khớp với hố sườn ngang của đốt sống
ngực tương ứng.
1.2.3. Thân sườn: dài, dẹt và cong.
- Giữa đoạn sau (ngắn) và đoạn bên như gập góc, tạo thành góc sườn. Xương sườn vừa cong vừa hơi xoắn, nên mặt
ngoài của thân chạy ra trước thì nhìn lên trên và ra trước.
- Mặt ngoài nhẵn, lồi, có nhiều cơ bám.
- Mặt trong lõm, có rãnh sườn chạy dọc theo bờ dưới, có bó mạch thần kinh gian sườn đi dọc rãnh sườn.
- Đầu trước của thân sườn nối với sụn sườn.
Cơ thân mình bao gồm các cơ ở thành ngực, thành bụng, các cơ ở lưng, các cơ ở đáy chậu và cơ hoành.
Trong phạm vi bài này chỉ trình bày các cơ thành ngực, các cơ thành bụng và các cơ ở lưng. Các cơ còn lại được
trình bày trong các phần tương ứng.
I. Các cơ ở thành ngực
Các cơ thành ngực là những cơ liên quan mật thiết với xương sườn và khoảng gian sườn, nói cách khác là các cơ
riêng của thành ngực.
Một số cơ khác cũng góp phần tạo nên thành ngực gồm các cơ liên quan đến chi trên như cơ ngực lớn, cơ ngực bé,
cơ dưới đòn, cơ răng trước đã được trình bày trong phần chi trên.
Các cơ thành ngực được xếp thành 3 lớp:
+ Lớp ngoài gồm cơ gian sườn ngoài và cơ nâng sườn.
+ Lớp giữa là cơ gian sườn trong.
+ Lớp trong gồm cơ gian sườn trong cùng, cơ dưới sườn và cơ ngang ngực.
1. Các cơ ở lớp ngoài
1.1. Các cơ gian sườn ngoài
- Nguyên ủy: bờ dưới của 11 xương sườn trên.
- Đường đi và bám tận: các sợi cơ chạy xuống dưới và ra trước bám tận vào bờ trên của các xương sườn ngay dưới.
Trong mỗi khoảng gian sườn, cơ chỉ chiếm phần sau, phía trước khi đến gần sụn sườn thì cơ nối tiếp với màng gian
sườn ngoài.
- Động tác: nâng các xương sườn, nên là cơ hít vào.
1.2. Cơ nâng sườn
- Nguyên ủy: đầu mỏm ngang các đốt sống từ ngực VII đến ngực XI.
- Đường đi và bám tận: là các cơ nhỏ, chạy xuống và ra ngoài, bám tận vào mặt ngoài các xương sườn ngay dưới,
đoạn giữa củ sườn và góc sườn.
- Thần kinh vận động: nhánh sau của các TK gai sống từ C8 đến T11.
- Động tác: nâng xương sườn, nên là cơ hít vào.
2. Các cơ lớp giữa: là các cơ gian sườn trong
- Nguyên ủy: bờ dưới các xương sườn, sụn sườn và đáy các rãnh sườn.
- Đường đi và bám tận: Các sợi cơ chạy xuống dưới và ra sau, đến bám tận vào bờ trên các xương sườn ngay dưới.
Trong mỗi khoảng gian sườn, cơ chiếm phần trước từ bờ xương ức đến góc sườn, rồi tiếp nối với màng gian sườn
trong ( từ góc sườn tới cột sống).
- Động tác: hạ sườn trong động tác thở ra. Nhưng ở 4-5 khoảng gian sườn trên lại có tác dụng nâng sườn ( động tác
hít vào).
3. Các cơ lớp trong
3.1. Các cơ gian sườn trong cùng: được xem như một phần của cơ gian sườn trong.
- Nguyên ủy: mép trong rãnh sườn của các xương sườn trên.
- Đường đi - bám tận: chạy cùng chiều với cơ gian sườn trong, giữa hai cơ là bó mạch thần kinh gian sườn. Bám
tận vào bờ trên của các xương sườn dưới.
Nguyên ủy:
+ Mạc ngực thắt lưng.
+ Mào chậu: 2/3 trước của mép giữa mào chậu.
+ Dây chằng bẹn: 1/2 ngoài.
- Đường đi và bám tận: nằm phía trong cơ chéo bụng ngoài, cơ tỏa hình nan quạt từ dưới lên trên và ra trước để
bám tận vào:
+ Ba xương sườn cuối cùng bởi các thớ cơ phần sau.
+ Đường trắng: các thớ cơ ở phần giữa chạy ngang ra trước, tới bờ ngoài cơ thẳng bụng thì tạo thành cân bám vào
đường trắng và đan lẫn với cân cơ đối diện. Ở 2/3 trên bụng, cân cơ tách ra thành hai lá trước và sau để tạo thành lá
trước và lá sau của bao cơ thẳng bụng. Ở 1/3 dưới, cân này chạy hoàn toàn trước cơ thẳng bụng nên chỉ tạo lá trước
bao cơ.
+ Xương mu: phần trước dưới cơ này cùng với cơ ngang bụng tạo nên liềm bẹn hay gân kết hợp tới bám vào mào
lược xương mu.
+ Ở nam giới, một số sợi cơ dưới cùng chạy vào bìu, tạo thành cơ bìu.
- TK vận động: gồm hai TK gian sườn dưới, TK dưới sườn, TK chậu hạ vị và TK chậu bẹn.
1.3. Cơ ngang bụng
Nguyên ủy:
+ Dây chằng bẹn: 1/3 ngoài.
+ Mặt trong của 6 xương sườn và sụn sườn cuối: bám vào bằng 6 trẽ cơ, các trẽ này đan lẫn với các trẽ của cơ
hoành.
+ Mạc ngực thắt lưng: cùng với cơ chéo bụng trong, bám vào phần ở dọc bờ ngoài cơ vuông thắt lưng.
- Đường đi - bám tận: các thớ cơ chạy vòng từ sau ra trước tới bám vào:
+ Đường trắng: cơ chuyển thành cân ở gần bờ ngoài cơ thẳng bụng. Ở 2/3 trên, cân cơ chạy sau cơ thẳng bụng,
cùng với cân cơ chéo bụng trong tạo nên lá sau của bao cơ này. 1/3 dưới cân cơ chạy ra trước và tạo nên lá trước
của bao cơ thẳng bụng.
+ Mào lược xương mu : các thớ cơ phía dưới cùng các thớ cơ chéo bụng trong tạo thành liềm bẹn (hay gân kết hợp)
đã nói ở trên.
- Thần kinh vận động: là 5 TK gian sườn cuối, TK dưới sườn, TK chậu hạ vị và TK chậu bẹn.
1.4. Mạc ngang
Có thể xem như là một lớp riêng của thành bụng, nằm ở mặt trong của cơ ngang bụng và cơ thẳng bụng. Mạc
ngang liên tiếp xung quanh với mạc hoành, mạc ngực thắt lưng, mạc chậu và bao mạch đùi. Phía trong mạc ngang
là lớp mỡ ngoài phúc mạc và phúc mạc thành.
1.5. Cơ thẳng bụng
- Nguyên ủy: mặt trước mỏm mũi kiếm xương ức và các sụn sườn 5,6,7.
- Đường đi - bám tận: thớ cơ chạy thẳng xuống dưới bám vào xương mu. Thường có 3 - 5 trẻ gân ngang chia cơ
làm nhiều đoạn. Các trẻ gân này dính với lá trước bao cơ nhưng không dính với lá sau.
- TK vận động: 5- 6 TK gian sườn cuối và TK dưới sườn.
- Bao cơ thẳng bụng: gồm hai lá trước và sau:
+ Ở 2/3 trên: lá trước do cân cơ chéo bụng ngoài và lá trước cân cơ chéo bụng trong tạo nên. Lá sau của bao cơ do
lá sau cân cơ chéo bụng trong và cân cơ ngang bụng tạo nên.
+ Ở 1/3 dưới: các cân cơ chéo bụng và ngang bụng đều chạy ra trước cơ thẳng bụng, tạo nên lá trước bao cơ; còn lá
sau bao cơ chỉ do mạc ngang tạo nên. Do vậy, ở chỗ ranh giới mà cân các cơ chạy ra trước thường tạo thành một
đường cong lõm xuống dưới ở lá sau bao cơ gọi là đường cung.
1.6. Cơ tháp
- Nguyên ủy: thân xương mu.
- Đường đi - bám tận: là một cơ nhỏ, nằm trước phần dưới cơ thẳng bụng; cơ chạy lên trên và vào trong, bám tận
vào đường trắng ở 1/3 dưới đoạn rốn - mu..
- TK vận động: TK dưới sườn.
1.7. Đường trắng
Là một cấu trúc sợi chắc nằm giữa bờ trong hai cơ thẳng bụng, từ mũi ức đến khớp mu. Đường trắng được tạo nên
do các thớ sợi của cân các cơ chéo bụng ngoài, cân cơ chéo bụng trong, cân cơ ngang bụng đan chéo với bên đối
diện và các thớ dọc nhất là ở phần dưới tạo nên. Đường trắng rộng khoảng 2 cm ở phần trên và quanh rốn. Ở một
phần ba dưới, đường trắng rất hẹp. Đây là nơi mở bụng rất tốt.
1.8. Rốn
Rốn cấu tạo từ nông vào sâu gồm: da, tổ chức dưới da, vòng cân rốn, mạc rốn và phúc mạc.
Da của rốn tạo thành một hố lõm. Da của rốn bám vào vòng cân rốn.
Tổ chức dưới da: chỉ hiện diện ở bờ xung quanh rốn, ở giữa rốn không có tổ chức mỡ dưới da.
Vòng cân rốn: là một vòng sợi bên trong đường trắng. Bờ dưới của vòng cân rốn gắn với dây chằng rốn trong và
dây chằng rốn giữa, bờ trên gắn với dây chằng tròn.
Mạc rốn: là một tấm sợi căng ngang hai bao cơ thẳng bụng, phía sau tĩnh mạch rốn.
Phúc mạc: bên ngoài phúc mạc là lớp mỡ ngoài phúc mạc.
1.9. Tác dụng của các cơ thành bụng trước bên
- Bảo vệ các tạng trong ổ bụng.
- Làm tăng áp lực trong ổ bụng khi các cơ cùng co: quan trọng trong đại tiểu tiện, sinh đẻ, nôn mửa...
- Góp phần trong hô hấp gắng sức.
- Giúp giữ vững tư thế, cử động thân mình.
Gồm các cơ ở thành sau ngực và thắt lưng, xếp thành hai lớp:
1. Lớp nông
Gồm ba lớp, mỗi lớp hai cơ.
- Lớp thứ nhất: cơ thang và cơ lưng rộng.
- Lớp thứ hai: cơ nâng vai và cơ trám.
- Lớp thứ ba: cơ răng sau trên và dưới.
1.1. Cơ thang: là một cơ mỏng, hình tam giác, ở phần trên của lưng.
- Nguyên ủy:
+ Xương chẩm: ụ chẩm ngoài và đường gáy trên.
+ Cột sống: mỏm gai các đốt sống từ cổ I đến ngực XII, dây chằng gian gai ở phần này.
- Bám tận: các sợi cơ đi ra ngoài, hội tụ lại và bám vào 1/3 ngoài bờ sau xương đòn, bờ trong và mặt trên mỏm
cùng vai, mép trên bờ sau gai vai.
- TK vận động: nhánh của TK phụ và đám rối TK cổ (C3).
- Động tác: nâng và khép xương vai, nghiêng và xoay đầu.
1.2. Cơ lưng rộng
- Nguyên ủy:
+ Mỏm gai và dây chằng gian gai từ đốt sống T6 đến xương cùng.
+ Mào chậu: 1/3 sau.
+ 4 xương sườn cuối cùng.
- Đường đi - bám tận: là cơ dẹt, rộng, phủ gần hết phần dưới lưng, chạy lên trên ra ngoài, đến bám vào rãnh gian củ
xương cánh tay.
- TK vận động: TK ngực lưng.
- Động tác:
+ Khép, xoay cánh tay vào trong.
+ Nâng thân mình khi leo trèo.
CƠ HOÀNH
Mục tiêu bài giảng
1. Mô tả được cấu tạo của cơ hoành.
2. Kể tên và nêu vị trí các lỗ cơ hoành.
3. Nêu được đối chiếu cơ hoành lên thành ngực, thành bụng.
I. Đại cương
Cơ hoành là một vân cơ dẹt, rộng, làm thành một vách gân – cơ ngăn giữa lồng ngực và ổ bụng.
Cơ hoành tạo hình vòm nằm ngang, mặt lõm hướng về phía bụng. Do tim đè lên phần giữa cơ hoành nên cơ hoành
chia thành hai vòm hoành phải và trái.
Cơ gồm hai phần: xung quanh là phần cơ, ở giữa là phần gân và được xem là nơi bám tận của phần cơ. Vì thế có
thể xem cơ hoành do nhiều cơ hai bụng họp lại, mà phần gân trung gian (của các cơ hai bụng) bắt chéo và xen dính
vào nhau tạo nên phần gân.
Cơ hoành có nhiều lỗ để cho thực quản và các mạch máu thần kinh đi qua.
II. Nguyên ủy
Cơ hoành bám vào lỗ dưới lồng ngực bởi ba phần:
1. Phần ức
Bám vào mặt sau mỏm mũi kiếm xương ức bằng một hoặc hai bó nhỏ, ngắn.
Hình 4. 24. Cơ hoành (nhìn từ trên)
1. ĐM chủ ngực 2. Thực quản 3. Gân trung tâm 4. Lỗ TM chủ
2. Phần sườn
Bám vào mặt trong của 6 sụn sườn và xương sườn cuối bởi các trẽ cơ. Hai trẽ đầu bám vào phần sụn của xương
sườn VII và VIII. Trẽ thứ ba bám vào cả phần sụn và phần xương của xương sườn IX. Ba trẽ cuối bám vào phần
xương của các xương sườn X, XI và XII.
3. Phần thắt lưng
Bám vào cột sống thắt lưng bằng các trụ và dây chằng:
- Trụ phải: là một bản gân dẹt, rộng và dài hơn trụ trái, bám vào mặt trước thân và đĩa gian đốt sống của 3 (hoặc 4)
đốt sống thắt lưng trên (L1, L2 và L3).
- Trụ trái: cũng là một gân mảnh, bám ở vị trí tương tự như trụ phải nhưng thường cao hơn một đốt sống (thân và
đĩa gian đốt sống L1 và L2). Dải sợi ở bờ trong hai trụ phải và trái gặp nhau, tạo nên cung gân gọi là dây chằng
cung giữa viền quanh mép trước của lỗ ĐM chủ.
- Dây chằng cung trong: chạy từ thân đốt sống thắt lưng I và II, vòng trước cơ thắt lưng đến mỏm ngang của đốt
sống thắt lưng I (thỉnh thoảng L2). Thực chất, dây chằng cung trong là do mạc cơ thắt lưng, chỗ cơ hoành đi qua
dày lên.
- Dây chằng cung ngoài: cũng là một cung sợi chạy từ mỏm ngang đốt sống thắt lưng I (hoặc II) như một nhịp cầu
tiếp nối của dây chằng cung trong đến xương sườn XII, đi trước cơ vuông thắt lưng. Dây chằng cung ngoài này
cũng chính do mạc cơ vuông thắt lưng dày lên tạo nên.
Hình 4. 25. Các cột trụ và dây chằng của cơ hoành.
1. Phần ức 2. Lỗ tĩnh mạch chủ 3. Dây chằng cung giữa 4. Dây chằng cung trong
5. Dây chằng cung ngoài 6. Gân trung tâm 7. Lỗ thực quản 8. Lỗ động mạch chủ
9. Trụ trái 10. Trụ phải 11. Cơ thắt lưng 12. Cơ vuông thắt lưng
III. Cấu trúc và bám tận
Từ nguyên ủy, các thớ cơ chạy hướng lên trên rồi vòng ngang thành vòm và hội tụ về một tấm gân ở giữa gọi là
gân trung tâm. Gân trung tâm được xem như là nơi bám tận của cơ hoành độc lập
1. Phần cơ
+ Giữa phần ức và phần sườn có một khe hẹp gọi là khe ức sườn hay tam giác ức sườn, có bó mạch thượng vị trên
đi qua để xuống thành bụng. Đây cũng là một điểm yếu có thể xảy ra thoát vị.
+ Các sợi cơ xuất phát từ dây chằng cung ngoài đôi khi không có và để hở một khoảng hình tam giác, gọi là tam
giác thắt lưng - sườn. Tam giác này thường có ở bên trái hơn là bên phải, và chỉ có mô liên kết che phủ, nên màng
phổi và đáy phổi ở trên gần như liên quan trực tiếp với tuyến thượng thận và thận ở dưới.
2. Phần gân
Gân trung tâm của cơ hoành có hình ba lá: lá trước, lá phải và lá trái. Lá trước thường lệch trái, rộng bề ngang và
nằm ngay phía sau xương ức. Hai lá phải và trái thì dài và hơi chếch ra sau. Tim và màng tim nằm đè lên trung tâm
gân này, làm cho vòm hoành bị lõm xuống ở giữa và tạo nên hai vòm hoành phải và trái: vòm hoành phải thường
cao hơn vòm hoành trái.
IV. Các lỗ và khe của cơ hoành
1. Lỗ tĩnh mạch chủ
Nằm ở trung tâm gân, giữa lá phải và lá trước. Lỗ tĩnh mạch chủ không co giãn được. Tĩnh mạch chủ dính chặt vào
chu vi của lỗ.
Đi qua lỗ có TM chủ dưới từ bụng lên ngực để đổ về tâm nhĩ phải. Đôi khi, thần kinh hoành phải cũng qua lỗ này,
đi ở phía trước ngoài TM chủ dưới.
2 Lỗ động mạch chủ
Nằm ngay trước cột sống, ngang mức đốt sống ngực XII (T12). Lỗ do trụ trái và trụ phải giới hạn nên. Bờ trong
của hai trụ có dây chằng cung giữa cũng được tạo thành bằng các sợi xơ nên không co dãn và vì thế, tương tự như
lỗ TM chủ, khi cơ hoành co lỗ không bị hẹp và không đè ép vào mạch máu. Đi qua lỗ có ĐM chủ xuống và ống
ngực nằm ở sau ĐM. Đôi khi có nhánh của TM đơn bên phải hoặc nhánh của TM bán đơn bên trái, và cả dây thần
kinh tạng cũng đi qua lỗ này.
3. Lỗ thực quản
Lỗ ở phần cơ, nằm phía trước lỗ ĐM chủ, do các sợi cơ xuất phát từ hai cột trụ phải và trái bắt chéo nhau tạo nên.
Lỗ thực quản hơi lệch sang bên trái cột sống và ngang mức đốt sống ngực X. Qua lỗ có:
- Thực quản.
- Hai thân TK lang thang: thân TK lang thang phải ở sau thực quản và thân TK lang thang trái ở trước thực quản.
- Các nhánh nối của ĐM hoành trên và dưới.
- Các nhánh nối giữa hệ TM chủ và hệ TM cửa.
4. Các khe của cơ hoành
Mỗi trụ phải và trái còn thường tách ra thành ba phần nhỏ bởi hai khe dọc.
- Qua khe phía trong có dây TK tạng lớn và bé.
- Qua khe phía ngoài có chuỗi hạch giao cảm và TM đơn (bên phải) hoặc TM bán đơn (bên trái).
V. Đối chiếu cơ hoành lên thành ngực
+ Vị trí của vòm hoành thay đổi theo sự hô hấp và tư thế.
+ Ở tư thế đứng và cuối kỳ thở ra bình thường, vòm hoành phải tương ứng ở trước với khoảng gian sườn 4 và ở sau
với khoảng gian sườn 9, vòm hoành trái thường thấp hơn một khoảng gian sườn: ở trước tương ứng với khoảng
gian sườn 5, còn ở sau với khảng gian sườn 10. Trung tâm hoành ở ngang mức với bờ trên mõm mũi kiếm xương
ức.
VI. Mạch máu và thần kinh
1. Mạch máu
Cơ hoành được cấp máu chủ yếu từ:
+ ĐM hoành trên hay là ĐM cơ hoành, là một trong hai nhánh tận của ĐM ngực trong.
+ ĐM hoành dưới: thường xuất phát từ ĐM chủ bụng, ở ngay dưới cơ hoành.
+ Các nhánh xuất phát từ trung thất sau.
2. Thần kinh
Cơ hoành được vận động chính bởi dây TK hoành và một phần bởi 6 dây TK gian sườn cuối.
- Thần kinh hoành xuất phát từ nhánh trước C3, C4, C5, chạy từ cổ qua ngực xuống cơ hoành. Có hai dây TK
hoành: một phải và một trái. Một nửa cơ hoành được chi phối bởi dây TK hoành tương ứng.
- Dây TK hoành phải đến cơ hoành và chọc qua cơ ở trước ngoài lỗ TM chủ, hoặc chui qua lỗ này, rôi chia nhánh
vận động cơ hoành từ mặt dưới cơ.
- Dây TK hoành trái đến cơ và chọc qua cơ ở sau đỉnh tim và cũng phân nhánh tương tự TK hoành phải.
Ngoài các sợi vận động để vận động cơ hoành là chính, thần kinh hoành còn mang theo các sợi cảm giác và giao
cảm. Các sợi giao cảm giữ vai trò vận mạch, còn các sợi cảm giác thu nhận cảm giác căng cơ hoành, cảm giác đau
từ phúc mạc hoành, màng phổi hoành, màng phổi trung thất và màng ngoài tim.
VII. Động tác của cơ hoành
Khi cơ hoành co thì vòm hoành hạ xuống nên:
+ Lồng ngực dãn, áp lực trong lồng ngực giảm, không khí được hít vào; do đó cơ hoành đóng vai trò chính trong sự
hô hấp, nhất là khi hô hấp bình thường (không gắng sức).
+ Đè ép vào gan, tăng áp lực trong ổ bụng, có tác dụng đẩy máu từ các TM trong gan, trong ổ bụng về tim được dễ
dàng.
+ Cùng các cơ thành bụng co, làm tăng áp lực khi rặn, đại tiện, sinh đẻ ... Khi cơ hoành co thắt đột ngột, không
đồng bộ.... thì gây nôn, nấc.
+ Các sợi bao quanh lỗ thực quản còn có vai trò như một cơ thắt thực quản...
ỐNG BẸN
Mục tiêu bài giảng
1. Mô tả được các lỗ, các hố và các thành của ống bẹn.
2. Kể tên các thành phần đi trong ống bẹn.
I. Đại cương
Ống bẹn là một khe nằm giữa các lớp cân cơ của thành bụng trước bên, dài khoảng 4- 6 cm theo hướng từ sau ra
trước, vào trong và xuống dưới gần như song song và ngay trên nửa trong nếp bẹn. Đây là một điểm yếu tiềm tàng
của thành bụng, nhất là ở nam giới, ở đây có thể xảy ra thoát vị gọi là thoát vị bẹn.
Ở nam giới, ống bẹn chứa thừng tinh. Còn phái nữ, ống bẹn chứa dây chằng tròn tử cung.
II. Cấu tạo
Ống bẹn được cấu tạo bởi bốn thành: trước, sau, trên, dưới. Hai đầu là lỗ bẹn sâu và lỗ bẹn nông.
1. Thành trước ống bẹn
Thành trước ống bẹn chủ yếu được tạo nên bởi cân cơ chéo bụng ngoài và một phần nhỏ phía ngoài còn có thêm cơ
chéo bụng trong. Cân cơ chéo bụng bám vào xương mu bởi hai dải cân là cột trụ trong là cột trụ ngoài. Đôi khi có
một số sợi cân cơ từ chỗ bám của cột trụ ngoài, quặt ngược lên trên ra sau, phía sau cột trụ trong là dây chằng bẹn
phản chiếu.
Hình 4. 27. Thành sau ống bẹn và các cấu trúc trợ lực cho mạc ngang.
1. Dây chằng rốn giữa 2. Hố trên bàng quang 3. Hố bẹn trong 4. Hố bẹn ngoài
5. Bó mạch chậu ngoài 6. Ống dẫn tinh 7. ĐM rốn 8. Bàng quang 9. Dây chằng gian hố
10. Lỗ bẹn sâu 11. Điểm yếu của thành sau ống bẹn 12. Cung chậu lược 13. Gân kết hợp
14. Dây chằng bẹn 15. Dây chằng khuyết
* Dây chằng gian hố: là những thớ sợi nằm ở bờ trong lỗ bẹn sâu, chạy từ mặt sau cơ ngang bụng xuống dính vào
dây chằng bẹn, do mạc ngang dày lên tạo nên. Đôi khi dây chằng gian hố chứa một số sợi của cơ ngang bụng.
Dây chằng gian hố làm chắc thêm phần thành sau ở cạnh trong lỗ bẹn sâu.
Người ta còn mô tả một khoảng tam giác ở thành sau ống bẹn, là chỗ yếu nhất của thành bụng bẹn, nơi hay xảy ra
thoát vị bẹn trực tiếp. Tam giác bẹn được giới hạn phía ngoài là động mạch thượng vị dưới, phía trong là với bờ
ngoài cơ thẳng bụng, giới hạn dưới là dây chằng bẹn.
Tuy vậy, ở phần trên tam giác bẹn còn có liềm bẹn che phủ. Do đó, thực chất của vùng yếu này là một khoảng có
giới hạn trên là bờ dưới liềm bẹn, giới hạn dưới là dây chằng bẹn và giới hạn ngoài là ĐM thượng vị dưới.
Sau mạc ngang là lớp mỡ ngoài phúc mạc, có một động mạch và hai thừng sợi đi qua đó là:
* Động mạch thượng vị dưới
- Là nhánh của động mạch chậu ngoài.
- Từ chỗ xuất phát trên dây chằng bẹn, động mạch chạy vào trong rồi vòng quanh phía dưới - trong lỗ bẹn sâu để
quặt lên trên, hướng về đường cung và chui vào bao cơ thẳng bụng, phân chia trong cơ và tiếp nối với ĐM thượng
vị trên ở gần rốn. Đoạn gần lỗ bẹn sâu, động mạch nằm sau dây chằng gian hố.
* Dây chằng rốn trong: là di tích của ĐM rốn thời kỳ phôi thai.
* Dây chằng rốn giữa: còn gọi là dây treo bàng quang - di tích của ống niệu rốn trong thời kỳ phôi thai, chạy từ
đỉnh bàng quang đến rốn.
Phúc mạc phủ lên mặt sau các thừng sợi trên tạo nên các nếp và các hố. Ứng với ĐM thượng vị dưới và hai dây
chằng trên từ ngoài vào trong có các nếp rốn ngoài, nếp rốn trong và nếp rốn giữa. Giữa các nếp rốn, phúc mạc lõm
thành ba hố là:
- Hố bẹn ngoài: ở ngoài ĐM thượng vị dưới. Đây là nơi xảy ra thoát vị bẹn gián tiếp.
- Hố bẹn trong: ở giữa nếp rốn ngoài và nếp rốn trong, là chỗ yếu nhất của thành bụng (tương ứng với tam giác
bẹn) và thường xảy ra thoát vị bẹn trực tiếp.
- Hố trên bàng quang: ở giữa nếp rốn trong và nếp rốn giữa, ít xảy ra thoát vị.
5. Lỗ bẹn sâu
Đối chiếu lên thành bụng, lỗ bẹn sâu nằm phía trên điểm giữa dây chằng bẹn khoảng 1,5 - 2cm. Nhìn từ trong ra, lỗ
bẹn sâu khá rõ bởi giới hạn trong của nó là bó mạch thượng vị dưới và dây chằng gian hố. Qua lỗ bẹn sâu, các
thành phần tạo nên thừng tinh chạy vào ống bẹn. Đậy sau lỗ bẹn sâu là phúc mạc. Trong thoát vị bẹn gián tiếp,
khối thoát vị từ hố bẹn ngoài chui qua lỗ bẹn sâu để vào ống bẹn.
6. Lỗ bẹn nông
Lỗ bẹn nông nằm dưới da, ngay phía trên củ mu, được tạo nên bởi cân cơ chéo bụng ngoài.
Giữa cột trụ trong và cột trụ ngoài của cân cơ chéo bụng ngoài khi bám vào xương mu giới hạn một khe hình tam
giác và khe này được các sợi gian trụ và dây chằng phản chiếu giới hạn lại thành một lỗ gần bầu dục gọi là lỗ bẹn
nông, ở ngay dưới da. Thừng tinh qua ống bẹn chui qua lỗ bẹn nông để xuống bìu.
III. Các thành phần đi trong ống bẹn
Đi trong ống bẹn ở nam giới có thừng tinh, ở nữ giới là dây chằng tròn tử cung. Kèm theo có nhánh của thần kinh
chậu - bẹn và nhánh sinh dục của thần kinh sinh dục đùi đi phía sau thừng tinh.
Thừng tinh gồm:
- Ống dẫn tinh, động mạch, tĩnh mạch, đám rối thần kinh của ống dẫn tinh, ĐM cơ bìu.
- ĐM tinh hoàn (nhánh của ĐM chủ bụng) và đám rối TM hình dây leo.
- Các tổ chức tế bào và di tích ống phúc - tinh mạc.
Thừng tinh thì xuống bìu, còn dây chằng tròn tử cung thì chui qua ống bẹn rồi chia nhỏ và tận hết ở gò mu, môi
lớn.
TIM
Mục tiêu bài giảng
1. Mô tả được vị trí và hình thể ngoài tim.
2. Mô tả được hình thể trong và cấu tạo của tim.
3. Mô tả được các động mạch vành và tĩnh mạch của tim.
Tim là một khối cơ rỗng, tác dụng như một cái bơm vừa hút vừa đẩy máu đi; gồm hai nửa phải và trái. Mỗi nửa tim
có hai buồng: một buồng nhận máu từ tĩnh mạch về gọi là tâm nhĩ, một buồng đẩy máu vào các động mạch gọi là
tâm thất.
I. Vị trí
Tim nằm đè lên cơ hoành, ở giữa hai phổi, hơi lệch sang trái, trước thực quản và các thành phần khác của trung
thất sau. Thể tích to bằng nắm tay, ở người lớn nặng khoảng 260-270 gam. Trục dọc đi từ sau ra trước, hướng
chếch sang trái và xuống dưới, dài khoảng 12 cm. Bề ngang khoảng 8 cm.
Hình 4. 28. Vị trí tim trong lồng ngực
1. TM chủ trên 2. ĐM chủ lên 3. Thân ĐM phổi 4. Tiểu nhĩ phải 5. Cán ức
6. Dây chằng ĐM 7. Màng phổi trung thất 8. Khoang màng ngoài tim
Bên phải là tâm nhĩ phải, liên quan với màng phổi phải và thần kinh hoành phải, phía trên có tĩnh mạch chủ trên và
phía dưới có tĩnh mạch chủ dưới đổ vào cómotj rãnh nối bờ phải của hai tĩnh mạch chủ trên và tĩnh mạch chủ dưới
là rãnh tận cùng.
Bên trái rãnh gian nhĩ là tâm nhĩ trái, có bốn tĩnh mạch phổi đổ vào. Tâm nhĩ trái liên quan với thực quản ở phía
sau, nên khi tâm nhĩ trái lớn sẽ đè vào thực quản gây khó nuốt.
2. Mặt ức sườn (còn gọi là mặt trước)
- Có rãnh vành chạy ngang phía trên, ngăn cách phần tâm nhĩ ở trên và tâm thất ở dưới.
- Phần tâm nhĩ bị thân động mạch phổi và động mạch chủ lên che lấp. Hai bên có hai tiểu nhĩ phải và trái.
- Phần tâm thất có rãnh gian thất trước chạy dọc từ sau ra trước, đến bên phải đỉnh tim, phân chia tâm thất phải và
tâm thất trái. Tâm thất phải chiếm phần lớn diện tích mặt này.
- Mặt ức sườn nằm sau xương ức và các sụn sườn 3, 4, 5, 6 bên trái. Chiếu lên thành ngực, mặt ức sườn ứng với
một tứ giác, mà :
- Góc trên phải và trên trái ở ngang mức khoang gian sườn II cạnh bờ phải và bờ trái xương ức.
- Góc dưới phải ở khoảng gian sườn V, cạnh bờ phải xương ức.
- Góc dưới trái ở khoảng gian sườn V, trên đường giữa xương đòn trái.
Hình 4. 30. Mặt ức sườn của tim (mũi tên chỉ xoang ngang ngoại tâm mạc).
1. Dây chằng ĐM 2. ĐM phổi trái 3. Thân ĐM phổi 4. ĐM vành trái 5. Nhánh mũ
6. Nhánh gian thất trước 7. Khuyết đỉnh tim 8. ĐM vành phải 9. Tâm nhĩ phải
10. Màng ngoài tim 11. ĐM phổi phải
- Thành ngoài: có một gờ nối bờ phải hai TM chủ trên và dưới, gọi là mào tận cùng, ứng với rãnh tận cùng bên
ngoài. Bề mặt của thành ngoài tâm nhĩ phải có nhiều gờ cơ nổi lên, gọi là cơ lược.
- Phía trước có lỗ nhĩ thất phải, được đậy kín bởi van nhĩ thất phải hay van ba lá. Cạnh lỗ nhĩ thất là lỗ xoang (tĩnh
mạch) vành, có van xoang (tĩnh mạch) vành đậy một phần. Phía trên lỗ nhĩ thất phải là lỗ thông với tiểu nhĩ phải
- Thành tâm nhĩ phải còn có nhiều lỗ đổ nhỏ của các tĩnh mạch tim nhỏ từ thành tim đổ trực tiếp vào.
2.3. Tâm nhĩ trái
- Thành trong: là mặt trái vách gian nhĩ, có van lỗ bầu dục (còn gọi là liềm vách) là dấu vết của lỗ bầu dục.
- Phía trên có lỗ thông với tiểu nhĩ trái.
- Phía trước thông với tâm thất trái qua lỗ nhĩ thất trái, có van hai lá đậy kín.
- Phía sau có bốn tĩnh mạch phổi đổ vào.
- Thành ngoài : nhẵn.
- Thành dưới : hẹp
Hình 4. 33. Tâm nhĩ trái (tim được bổ dọc)
1. Tiểu nhĩ trái 2. Các TM phổi 3. Van lỗ bầu dục 4. Tâm thất trái
- Xoang (tĩnh mạch) vành: nằm trong rãnh vành ở mặt hoành của tim, dài khoảng 2,5cm, đổ vào tâm nhĩ phải qua
lỗ xoang vành. Có thể xem xoang vành như là đoạn cuối của tĩnh mạch tim lớn phình to, bắt đầu từ chỗ đổ của tĩnh
mạch sau tâm thất trái hoặc tĩnh mạch chếch của tâm nhĩ trái. Đổ vào xoang vành có các tĩnh mạch sau:
+ Tĩnh mạch tim lớn: nằm trong rãnh gian thất trước cùng nhánh động mạch gian thất trước.
+ Tĩnh mạch tim giữa: đi trong rãnh gian thất sau cùng nhánh động mạch gian thất sau.
+ Tĩnh mạch sau của tâm thất trái và tĩnh mạch chếch của tâm nhĩ trái: đổ vào phần đầu xoang vành.
+ Tĩnh mạch tim nhỏ: đi cùng động mạch bờ phải, rồi ra sau và xuống rãnh vành, đổ vào phần cuối xoang vành.
- Các tĩnh mạch tim trước là nhiều nhánh nhỏ ở mặt trước tâm thất phải, đổ trực tiếp vào tâm nhĩ phải.
- Các tĩnh mạch tim cực nhỏ: từ các thành tim đổ trực tiếp vào các buồng tim.
3. Thần kinh của tim
Ngoài hệ thống dẫn truyền tự động, tim còn được chi phối bởi thần kinh tự chủ, gồm các sợi giao cảm từ các hạch
cổ và hạch ngực trên, các sợi đối giao cảm từ TK lang thang (TK X)./.
PHỔI VÀ MÀNG PHỔI
Mục tiêu bài giảng
1. Mô tả được hình thể ngoài của phổi.
2. Mô tả được các thành phần của cuống phổi và sự liên quan của các thành phần đó.
3. Vẽ cây phế quản và kể tên các phân thuỳ phế quản - phổi.
4. Mô tả được màng phổi và ổ màng phổi.
Phổi là cơ quan chính của hệ hô hấp, nơi trao đổi khí giữa cơ thể và môi trường. Phổi có tính chất đàn hồi, xốp và
mềm. Hai phổi phải và trái nằm trong lồng ngực, cách nhau bởi trung thất. Phổi phải lớn hơn phổi trái.Dung tích
bình quân của phổi khoảng 5000ml khi hít vào gắng sức.
Phổi có dạng một nửa hình nón, được treo trong khoang màng phổi bởi cuống phổi và dây chằng phổi.
Phổi có hai mặt, một đỉnh, một đáy và hai bờ. Mặt sườn lồi, áp vào thành ngực. Mặt trong là giới hạn hai bên của
trung thất. Đáy phổi còn gọi là mặt dưới, áp vào cơ hoành.
1. Đáy phổi
Nằm áp sát lên vòm hoành và qua vòm hoành liên quan với các tạng của ổ bụng, đặc biệt là với gan.
2. Đỉnh phổi
Nhô lên khỏi lỗ trên của lồng ngực.
Phía sau, đỉnh phổi ngang mức đầu sau xương sườn I. Phía trước, đỉnh phổi cao hơn phần trong xương đòn khoảng
3cm.
3. Mặt sườn
3.1. Đặc điểm chung của hai phổi
- Áp sát mặt trong lồng ngực, có vết ấn của các xương sườn.
- Có khe chếch chạy từ ngang mức gian sườn 3 ở phía sau xuống đáy phổi, chia phổi ra thành các thùy phổi. Mặt
các thùy phổi áp vào nhau gọi là mặt gian thùy.
- Trên bề mặt phổi có các diện hình đa giác to, nhỏ khác nhau; đó là đáy của các tiểu thuỳ phổi là đơn vị cơ sở của
phổi.
3.2. Đặc điểm riêng của từng phổi
- Phổi phải có thêm khe ngang, tách từ khe chếch, ngang mức gian sườn 4, nên phổi phải có ba thuỳ: trên, giữa và
dưới.
- Phổi trái chỉ có khe chếch, nên phổi trái chỉ có hai thuỳ: trên và dưới. Ở phía trước dưới thuỳ trên, có một mẫu
phổi lồi ra goi là lưỡi của phổi trái, ứng với phần thuỳ giữa của phổi phải.
4. Mặt trong
Là một bao thanh mạc gồm hai lá: màng phổi thành và màng phổi tạng. Giữa hai lá là ổ màng phổi, hai ổ màng
phổi riêng biệt không thông với nhau.
1. Màng phổi tạng
Màng phổi tạng mỏng, trong suốt bao phủ toàn bộ bề mặt của phổi, ngoại trừ rốn phổi và dính chặt vào nhu mô
phổi, lách cả vào các khe gian thuỳ. Ở rốn phổi, màng phổi tạng quặt ra để liên tiếp với màng phổi thành.
2. Màng phổi thành
Màng phổi thành phủ lên toàn bộ các thành của khoang chứa phổi. Bao gồm:
- Màng phổi sườn: áp sát vào mặt trong lồng ngực, ngăn cách với thành ngực bởi lớp mô liên kết mỏng gọi là mạc
nội ngực.
- Màng phổi trung thất: là giới hạn bên của trung thất đi từ xương ức phía trước đến cột sống phía sau, áp sát phần
trung thất của màng phổi tạng. Ở rốn phổi, màng phổi thành quặt lên liên tục với màng phổi tạng. Ranh giới của
đường quặt này không chỉ bao quanh cuống phổi mà còn kéo dài xuống dưới đến tận cơ hoành và các cơ quan lân
cận. Chính vì vậy rốn phổi có hình chiếc vợt, cán vợt quay xuống dưới là phần mà màng phổi dính với nhau tạo
nên dây chằng phổi.
- Màng phổi hoành: phủ lên mặt trên cơ hoành. Phần mạc nội ngực ở đây được gọi là mạc hoành màng phổi.
- Đỉnh màng phổi là phần màng phổi thành tương ứng với đỉnh phổi. Phần mạc nội ngực ở đây được gọi là màng
trên màng phổi. Đỉnh màng phổi được các dây chằng treo đỉnh màng phổi cố định vào cột sống cổ, xương sườn,
xương đòn.
Hình 4. 41. Màng phổi
1. Khe ngang 2. Ngách sườn trung thất 3. Khe chếch
4. Ngách sườn hoành 5. Đỉnh phổi 6. Tuyến ức
- Ngách màng phổi: được tạo bởi hai phần của màng phổi thành. Có hai ngách màng phổi chính :
+ Ngách sườn hoành: do màng phổi sườn gặp màng phổi hoành.
+ Ngách sườn trung thất: do màng phổi sườn gặp màng phổi trung thất.
3. Ổ màng phổi
- Hai lá màng phổi liên tục với nhau ở rốn phổi giới hạn nên một khoang là ổ màng phổi. Bình thường hai lá màng
phổi tiếp xúc với nhau nên ổ màng phổi là một khoang ảo.
- Mỗi phổi có một ổ màng phổi kín, riêng biệt, không thông nhau.
4. Mạch máu và thần kinh của màng phổi
- Động mạch: màng phổi thành được cấp máu bởi những nhánh của các động mạch kế cận: động mạch ngực trong,
các động mạch gian sườn, các nhánh trung thất và các động mạch của cơ hoành. Màng phổi tạng được cấp máu từ
các động mạch phế quản.
- Tĩnh mạch: đi kèm với động mạch.
- Thần kinh: màng phổi sườn được chi phối bởi các thần kinh gian sườn, màng phổi trung thất và màng phổi sườn
được chi phối bởi những nhánh cảm giác của thần kinh hoành. Màng phổi tạng được chi phối thần kinh từ đám rối
phổi.
ĐỘNG MẠCH CHỦ
Mục tiêu bài giảng
1. Mô tả được vị trí, liên quan của các đoạn động mạch chủ
2. Kể tên được các nhánh bên, nhánh tận của các đoạn động mạch chủ.
Động mạch chủ là thân động mạch chính của hệ tuần hoàn. Các nhánh bên và nhánh cùng của nó dẫn máu đi nuôi
khắp cơ thể.
Bắt đầu từ tâm thất trái, động mạch chủ chạy lên trên, ngang mức đốt sống ngực 4 thì vòng sang trái rồi quặt xuống
dưới, đi dọc theo cột sống ngực, qua cơ hoành xuống ổ bụng và tận hết ngang mức đốt sống thắt lưng 4 bằng cách
chia thành hai nhánh cùng là động mạch chậu chung phải và trái.
Động mạch chủ thường được chia làm ba đoạn: động mạch chủ lên, cung động mạch chủ và động mạch chủ
xuống.
Mỗi đoạn có liên quan, phân nhánh cũng như bệnh lý đặc trưng khác nhau.
Thành động mạch chủ dày, rất đàn hồi và được nuôi dưỡng bởi các mạch nuôi mạch (vasa vasorum).
I. Động mạch chủ lên
Hình 4. 42. Động mạch chủ lên và cung động mạch chủ
1. ĐM chủ lên 2. ĐM vành phải 3. Thân ĐM cánh tay đầu 4. ĐM cảnh chung trái
5. ĐM dưới đòn trái 6. Cung ĐM chủ 7. Thân ĐM phổi 8. ĐM vành trái
TRUNG THẤT
Mục tiêu bài giảng
1. Xác định được giới hạn và mô tả được sự phân chia trung thất.
2. Kể tên các thành phần trong các trung thất.
3. Mô tả và nêu được sự liên quan của các thành phần trong trung thất sau.
Trung thất là khoang trong lồng ngực, nằm giữa hai ổ màng phổi và là nơi chứa đựng hầu hết các thành phần quan
trọng của lồng ngực trừ hai phổi.
I. Giới hạn và phân chia trung thất
1. Giới hạn
Trung thất được giới như sau:
- Phía trước: là mặt sau xương ức và các sụn sườn.
- Phía sau: là mặt trước cột sống ngực.
- Phía trên: là lỗ trên của lồng ngực, nghiêng một góc 45 so với mặt phẳng ngang, nơi trung thất thông với nền cổ.
0
Hình 4. 46. Trung thất (nhìn từ bên phải (A) và nhìn từ bên trái (B))
1. Hạch giao cảm ngực và các sợi gian hạch 2. Tĩnh mạch đơn 3. Thần kinh lang thang
4. TM chủ trên 5. TK hoành phải và trái 6. Thực quản và đám rối thực quản
7. Tim và màng ngoài tim 8. TM bán đơn phụ 9. Dây TK tạng lớn
Gồm 11 hạch nối với nhau bởi các sợi gian hạch, nằm hai bên cột sống ngực tương ứng vị trí đầu sườn. Chuỗi hạch
giao cảm ngực cho nhiều nhánh bên vào các mạch và các tạng như phổi, thực quản, đặc biệt có 3 dây tạng (tạng
lớn, tạng bé và tạng dưới (tạng thắt lưng)) đi qua cơ hoành xuống bụng vào các hạch của đám rối tạng.
5. Liên quan các thành phần trong trung thất sau
Các thành phần đi trong trung thất sau liên quan mật thiết với nhau. Nếu lấy thực quản làm mốc:
- Trước thực quản: phía trên là khí quản, phía dưới là tâm nhĩ trái và xoang chếch màngngoài tim.
- Phía sau thực quản: giữa là ống ngực; bên trái là động mạch chủ ngực và các tĩnh mạch bán đơn, bán đơn phụ;
bên phải là tĩnh mạch đơn. Sau nữa và xa hơn hai bên cột sống là chuỗi hạch giao cảm ngực.
- Hai bên thực quản: dây thần kinh X nhưng khi xuống đoạn dưới thì dây X trái trở thành thân thần kinh lang thang
trước còn dây X phải trở thành thân thần kinh lang thang sau.
Trung thất hẹp nên một khối u choán chỗ trong trung thất có thể gây chén ép và biểu hiện hội chứng trung thất (khó
thở, khó nuốt, phù áo khoác...). Đồng thời tổ chức liên kết của trung thất sau liên tiếp với tổ chức liên kết các vùng
nền cổ, các vùng trung thất khác nên một áp xe trung thất sau có thể lan tỏa đến các vùng lân cận này.