Professional Documents
Culture Documents
Nhận thức cá nhân về khái niệm tình hình tội phạm
Nhận thức cá nhân về khái niệm tình hình tội phạm
No 2501, 275 Nguyen Trai Street, Thanh Xuan District, Hanoi City, Viet Nam
Tel: 1900.6568 Fax: 04.3562.7716
Email: lienhe@luatduonggia.vn Website: http://www.luatduonggia.vn
người, tội nhận hối lộ…). Ngoài ra, các phạm vi đó còn có thể được giới hạn tiếp
bởi đặc điểm nhất định của tội phạm. Phạm vi về không gian có thể là phạm vi
toàn quốc, phạm vi vùng, phạm vi địa phương hoặc phạm vi ngành, lĩnh vực. Phạm
vi thời gian có thể là khoảng thời gian 5 năm, 10 năm hoặc trong giới hạn bởi mốc
bắt đầu và mốc kết thúc nào đó.
Đặc điểm này của THTP đ ̣i hỏi khi nghiên cứu THTP, người nghiên cứu phải xác
định rõ ràng ngay từ đầu các phạm vi này.
- Đặc điểm về nội dung: THTP luôn gắn với các đặc điểm về nội dung – đặc điểm
về mức độ, đặc điểm về cơ cấu và tính chất, đặc điểm về xu hướng vận động. Đặc
điểm về mức độ cùng với đặc điểm về cơ cấu và tính chất hợp thành đặc điểm về
thực trạng của tội phạm. Đặc điểm về xu hướng vận động thường được gọi là đặc
điểm về động thái của tội phạm. Như vậy, đặc điểm về nội dung đ ̣i hỏi người
nghiên cứu THTP phải làm rõ đặc điểm về thực trạng và về động thái của tội
phạm.
- Đặc điểm về tính phụ thuộc pháp lí và tính vận động: Tội phạm – hiện tượng xă
hội tạo nên “bức tranh THTP” luôn có tính pháp lí vì được phản ánh trong luật
hình sự. Chỉ những hiện tượng xă hội xảy ra đă được quy định trong luật hình sự
mới có thể là “nguyên liệu” tạo ra “bức tranh THTP”. Thay đổi của luật sẽ làm
thay đổi “nguyên liệu” và qua đó làm thay đổi “bức tranh”. Như vậy, có thể nói:
THTP có tính phụ thuộc pháp lí. Đồng thời với đặc điểm này, THTP cũng có tính
vận động – không ổn định theo thời gian và không gian.
Đặc điểm này đ ̣i hỏi người nghiên cứu phải chú ý đến các điều kiện kinh tế-xă hội
và môi trường pháp lí trong đó có môi trường pháp lí hình sự khi xem xét, đánh giá
THTP.
- Đặc điểm về tính tuyệt đối và tính tương đối: Tình hình tội phạm luôn
tồn tại khách quan và có thể nhận thức được nhưng chúng ta chỉ có thể nhận thức
được gần đúng vì những lí do khách quan và chủ quan khác nhau. THTP mà chúng
ta nhận thức được chỉ là THTP tương đối so với THTP thực là THTP tuyệt đối.
Vấn đề đặt ra là cần loại trừ những yếu tố có thể làm sai lệch nhận thức để chúng ta
đến gần nhất với THTP tuyệt đối.
II. Nội dung của tình hình tội phạm:
1.Thực trạng của THTP:
a. Tội phạm rõ.
Trước hết về khái niệm tội phạm rõ ta có thể hiểu: tội phạm rõ là tội phạm đã được
xử lí về hình sự và đã được đưa vào thống kê tội phạm.
Tội phạm đã được xử lí về hình sự bao gồm: Tội phạm đã có bản án kết tội có hiệu
lực pháp luật( kể cả trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự, được miễn hình
phạt) và các trường hợp xác định là tôi phạm nhưng đã bị đình chỉ mà không được
xét xử vì lí do khác nhau như đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, chủ thể
thực hiện đã chết…
Thời điểm được coi là tội phạm rõ từ khi cơ quan cảnh sát nhận được tin báo về tội
phạm và có sự xác nhận của cơ quan cảnh sát hoặc cơ quan áp dụng pháp luật khác
là hành vi đó vi phạm pháp luật hình sự.
Xác định tội phạm rõ dựa trên thông số về số vụ án xảy ra trên thực tế (chứ không
phải là số vụ án được đưa ra xét xử trên thưc tế) và chỉ khi làm như vậy mới phản
ánh chính xác về thực trạng của THTP.
Theo GS.TS. Yock Yong (1): có 4 nguồn thông tin là cơ sở để xác định tội phạm
rõ trong xã hội. Đó là:
phạm ẩn do không được đưa vào thống kê tội phạm được gọi là tội phạm ẩn do sai
số thống kê.
Nguyên nhân dẫn tới tội phạm ẩn:
- Nguyên nhân bắt nguồn từ phía nạn nhân của tội phạm: nạn nhân không tố cáo
hành vi phạm tội do không tin tưởng vào cơ quan bảo về pháp luật do bị người
phạm tội hoặc người nhà phạm tội đe dọa, hoặc do sợ phiền hà hoặc sợ bị công
khai bí mật đời tư.
- Nguyên nhân từ phía người phạm tội: người phạm tội thực hiện bằng hành vi xảo
quyệt, người phạm tội đe dọa nạn nhân và gia đình nạn nhân hoặc người phạm tội
đưa hối lộ.
- Nguyên nhân từ phía các cơ quan chức năng: do thái độ thiếu tình thần trách
nhiệm hoặc do nể nan, quen biết nên bao che, hoặc nhận hối lộ.
- Nguyên nhân từ phía người làm chứng: người làm chứng sợ bị trả thù nên không
dám đứng ra làm chứng, tố cáo hành vi phạm tội hoặc sợ phiền hà cá nhân và
người thân.
Mối quan hệ giữa tội phạm rõ và tội phạm ẩn.
Tội phạm rõ và tội phạm ẩn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trước hết, tội phạm
rõ và tội phạm ẩn là hai phần cảu tội phạm đã xảy ra, có quan hệ tỷ lệ nghịch với
nhau. Phần “rõ” càng lớn thì phần “ẩn” càng nhỏ và ngược lại. Phần rõ là phần có
thể khẳng định một cách chắc chắn vì dựa trên các con số thống kê cụ thể. Trong
khi đó, phần ẩn là phần mà không thể có được sự sự khẳng định chắc chắn vì dựa
trên sự suy đoán. Trong đó, phần rõ là một trong các cơ sở của sự suy đoán này.
Tội phạm rõ so với tội phạm thực tế có thể đạt được các tỉ lệ khác nhau ở các phạm
vi tội danh, phạm vi không gian và phạm vi thời gian khác nhau nhưng luôn có ý
nghĩa đặc biệt vì vừa phản ánh thực trạng đấu tranh chống tội phạm của Nhà nước
và xã hội vừa là cơ sở cần thiết để nghiên cứu tội phạm ẩn.
Nghiên cứu về THTP là nghiên cứu THTP thực bao gồm cả tội phạm rõ và tội
phạm ẩn. “ Bức tranh” thực trạng của tội phạm phải là “bức tranh” tổng hợp của cả
tội phạm rõ và tội phạm ẩn. Về lí thuyết, khi nghiên cứu THTP cụ thể, chúng ta
phải bắt đầu và chủ yếu nghiên cứu tội phạm rõ. Các mô tả, đánh giá, giải thích
cũng như dữ liệu trước hết và chủ yếu là dựa trên tội phạm rõ. Nghiên cứu tội
phạm ẩn được tiến hành sau và kết quả của nó chỉ được sử dụng có tính tham khảo
thêm khi nghiên cứu THTP.
c. Chỉ số tội phạm, thông số về nạn nhân.
Chỉ số tội phạm:
Chỉ số tội phạm được xác định để tìm hiểu mức độ phổ biến tội phạm trong dân cư.
Khi đánh giá thực trạng của tình hình tội phạm không thể bỏ qua chỉ số tội phạm,
nhất là khi đánh giá thực trạng của THTP qua các khoảng thời gian khác nhau trên
một địa bàn hoặc ở các địa bàn khác nhau trong cùng khoảng thời gian nhất định.
Chỉ số tội phạm được tính theo tỷ lệ số tội phạm (hoặc vụ phạm tội) trên 100.000
người dân (hoặc 10.000 dân). Cần lưu ý là chỉ số tội phạm luôn được xác định gắn
liền với một địa bàn nhất định và trong một khoảng thời gian nhất định.
Ví dụ: số vụ cướp tài sản trên địa bàn tỉnh A là 655 vụ trong năm 2012. Dân cư của
tỉnh A năm 2012 là 560.000 người. Do đó, chỉ số tội cướp tài sản trên địa bàn tỉnh
N năm 2007 sẽ là: (655 x 100.000) : 560.000 = 1,17.
Thông số về nạn nhân:
Thông số về nạn nhân đóng vai trò quan trọng trong việc mô tả thực trạng của
THTP. Để làm sáng tỏ thông số về nạn nhân cần làm rõ các vấn đề sau đây:
Cơ cấu của tình hình tội phạm là tỉ trọng, mối tương quan giữa
nhân tố bộ phận và tổng thể của THTP trong khoảng thời gian nhất định và trên địa
bàn nhất định. Cơ cấu của THTP được biểu thị bằng chỉ số tương đối, phản ánh
mối tương quan giữa các loại tội phạm, các tội phạm cụ thể trong tổng thể THTP.
Cơ cấu của tội phạm có thể được xác định theo những tiêu chí sau:
+ Cơ cấu của THTP theo tên chương các tội phạm cụ thể của Bộ luật hình sự.
+Cơ cấu của THTP theo tội danh cụ thể của Bộ luật hình sự.
+Cơ cấu của THTP theo phân loại tội phạm (tại khoản 3 Điều 8 BLHS).
+ Cơ cấu của THTP theo hình thức lỗi.
+Cơ cấu của THTP theo hình thức phạm tội.
+Cơ cấu của THTP theo địa bàn phạm tội.
+ Cơ cấu của THTP theo loại hình phạt áp dụng cho người phạm tội.
+Cơ cấu của THTP theo dạng thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
+Cơ cấu của THTP theo đặc điểm về nhân thân của người bị kết án.
+ Cơ cấu của THTP theo loại động cơ phạm tội.
+ Cơ cấu của THTP theo đặc điểm của công cụ, phương tiện phạm tội, thời gian
phạm tội.
Ví dụ: người nghiên cứu sẽ xác định số vụ cướp tài sản vào ban ngày, số vụ cướp
tài sản vào ban đêm chiếm tỉ lệ bao nhiêu % trong tổng số vụ cướp xảy ra
Cơ cấu của THTP theo đặc điểm mối quan hệ của nạn nhân với người phạm tội.
Ví dụ: người nghiên cứu sẽ xác định số vụ phạm tội mà giữa nạn nhân và người
phạm tội có quan hệ gia đình, họ hàng (hoặc là quan hệ xóm giềng, hoặc là hệ
đồng nghiệp hoặc là không quen biết) chiếm tỉ lệ bao nhiêu % trong tổng số tội
phạm xảy ra.
Tính chất của THTP được làm sáng tỏ sau khi có sự nghiên cứu về cơ cấu của
THTP.
Tính chất của THTP phản ánh đặc trưng, nổi bật nhất trong cơ cấu của THTP. Trên
cơ sở đó, cơ quan có thẩm quyền sẽ có định hướng tập trung trong việc tìm ra
nguyên nhân của tội phạm cũng như có giải pháp phòng ngừa tội phạm sát hợp với
thực tế, khắc phục tình trạng biện pháp phòng ngừa quá phân tán, tràn lan nên
không thể giả quyết hiệu quả, dứt điểm vấn đề tội phạm; việc tìm ra nguyên nhân
và giải pháp phòng ngừa thường tập trung vào nhóm tội (hoặc tội) với những đặc
trưng phổ biến nhất, nguy hiểm nhất thể hiện trong tính chất của THTP.
Ví dụ: qua tìm hiểu cơ cấu của THTP trộm cắp tại địa bàn thành phố A theo đặc
điểm về nhân thân của người phạm tội, ta có, người phạm tội là nam giới chiếm
70,5%, người phạm tội là nữ giới chiếm 29,5%; người phạm tội thất nghiệp chiếm
61,6 %; người phạm tội tái phạm chiếm 30%.... Từ đó, ta thấy tính chất của THTP
trộm cắp tại địa bàn thành phố X là đặc trưng bởi đặc điểm về giới tính và tình
trạng nghề nghiệp....
III.THTP ở Việt Nam hiện nay:
THTP ở nước ta vẫn còn diễn biến phức tạp. Những năm gần đây, mỗi năm phát
hiện trung bình trên 70 ngàn vụ phạm tội các loại, trong đó khoảng 50 ngàn vụ
phạm tội về trật tự xã hội, trên 10 ngàn vụ phạm tội về kinh tế và gần 10 ngàn vụ
phạm tội về ma tuý. So với các nước trên thế giới và trong khu vực thì THTP ở
Việt Nam chỉ ở mức trung bình thấp, nhưng tính chất phức tạp. Đáng lưu ý, tỷ lệ
tội phạm ẩn ở nước ta cao, đặc biệt là trong lĩnh vực tội phạm về kinh tế, ma tuý.
Đặc điểm của THTP ở nước ta trong giai đoạn hiện nay:
- Sự hình thành các tổ chức, băng, nhóm tội phạm có chiều hướng gia tăng
-Tính chất các loại tội phạm ngày càng nghiêm trọng, phức tạp, hậu quả của tội
phạm ngày càng lớn
-Tội phạm sử dụng thành tựu của khoa học - công nghệ vào quá trình phạm tội
ngày càng nhiều, số người phạm tội là người có trình độ học vấn cao ngày càng gia
tăng
-Tội phạm ngày càng gắn với tệ nạn ma tuý
-Tính xã hội của tội phạm ngày càng thể hiện rõ nét, thể hiện những đặc trưng
riêng của nền kinh tế thị trường phát triển
C. KẾT LUẬN:
Trên đây là nhận thức của nhóm về tình hình tội phạm. Có thể thấy việc nghiên
cứu về tình hình tội phạm có ý nghĩa giúp ta hiểu được “bức tranh” toàn cảnh về
tội phạm ( hoặc nhóm tội phạm hoặc một tội phạm nào đó trong một không gian,
thời gian nhất định). Do còn hạn chế về tại liệu cũng như kĩ năng diễn đạt nên bài
làm của chúng em còn nhiều thiếu sót mong thầy, cô góp ý để sự hiểu biết của
chúng em được hoàn thiện hơn.