You are on page 1of 17

Thực trạng nguyên nhân và điều kiện cụ thể của tình hình các tội về ma túy tại địa

bàn
quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh
Tình hình các tội về ma túy tại địa bàn quận Gò Vấp có nguyên nhân và điều kiện từ tình hình
tội phạm nói chung và những nguyên nhân riêng của nó, là những nguyên nhân và điều kiện
mang tính đặc thù, liên quan đến truyền thống, văn hóa, điều kiện kinh tế - xã hội của địa
phương. Do đó, để làm rõ được bản chất xã hội của tình hình các tội về ma túy tại quận Gò
Vấp trong giai đoạn năm 2013-2017, sau đây tác giả sẽ phân tích các nguyên nhân, điều kiện
tình hình các tội về ma túy trên địa bàn quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh trên cơ sở
phân chia thành các nhóm cụ thể như sau:
1, Nguyên nhân, điều kiện về kinh tế - xã hội
Tỷ lệ thất nghiệp còn ở mức cao, sự phân hoá giàu nghèo tăng lên nhanh chóng, tệ nạn xã hội
phát triển, trật tự an toàn xã hội còn nhiều phức tạp, sự hình thành lối sống thực dụng, trụy
lạc, sự quản lý, giáo dục của gia đình bị buông lỏng do một số cha mẹ bị hút vào các hoạt
động của kinh tế thị trường... Đó là những nguyên nhân xã hội quan trọng góp phần làm gia
tăng các tội phạm về ma túy đặc biệt là tội tàng trữ, mua bán, trái phép chất ma túy ở quận Gò
Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.
Nghiên cứu nhân thân bị cáo trong 200 bản án hình sự sơ thẩm xét xử các tội về ma túy của
Tòa án nhân dân quận Gò Vấp trong giai đoạn 2013 – 2017, số người thất nghiệp hoặc không
có nghề nghiệp ổn định chiếm tỷ lệ rất cao: trong số 252 bị cáo thì có đến 127 bị cáo thất
nghiệp (chiếm 50,39%) và 104 bị cáo có nghề nghiệp không ổn định (chiếm 41,26%). Điều
tra xã hội học và tội phạm ở hầu hết các nước đều xác nhận: đối với thanh niên rất dễ xảy ra
tình trạng "tam giác đen" (thất nghiệp - nghiện hút - tội phạm), để thoát khỏi "tam giác đen"
này là rất khó khăn. Thất nghiệp dẫn đến không bảo đảm được nhu cầu tối thiểu lại thiếu sự
quản lí, giáo dục của gia đình, nhà trường và xã hội nên lứa tuổi thanh niên là lứa tuổi phạm
các tội về ma túy nhiều nhất. Trong tổng số 252 bị cáo nêu trên, có 154 bị cáo trong độ tuổi từ
18-30 tuổi, chiếm 61,11% .Do đó, vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động là một vấn
đề cấp thiết cần đặt lên hàng đầu của chính quyền địa phương trong công tác đấu tranh phòng
ngừa THTP nói chung và THTP về chất ma túy nói riêng trên địa bàn quận Gò Vấp, Thành
phố Hồ Chí Minh.
Qua khảo sát 200 bản án xét xử sơ các tội về ma túy của Tóa án nhân dân quận Gò Vấp thì có
tới 127 bị cáo không có việc làm (chiếm 50,39%) và 104 bị cáo (chiếm 41,26%) có việc làm
nhưng không ổn định, trong tổng số 252 bị cáo. Động cơ, mục đích của tội phạm về ma túy là
lợi nhuận và lợi ích về kinh tế. Lợi nhuận về kinh tế là một trong những nguyên nhân chính
làm thúc đẩy các tội phạm về ma túy phát triển.
2, Nguyên nhân, điều kiện về văn hóa
Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của mạng không dây, các sản phẩm văn hóa, phim ảnh,
sách báo, truyện tranh, truyện chữ, trò chơi trực tuyến, các dịch vụ giải trí ngày càng phổ biến
hơn trong xã hội. Đặc biệt, tại TP.HCM, với chính sách mở cửa toàn diện, hội nhập quốc tế,
sự xuất hiện và phát triển của các sản phẩm văn hóa giải trí độc hại cổ súy cho lối sống thực
dụng, trụy lạc như phim ảnh, sách truyện, trò chơi trực tuyến mang nội dung khiêu dâm... đã
gây ảnh hưởng không nhỏ đến đạo đức, nhân cách của một bộ phận nhân dân nhất là lớp trẻ.
Một số người bị tiêm nhiễm văn hóa phẩm đồi trụy đã hình thành lối sống thực dụng, buông
thả, trụy lạc, coi thường người khác, không làm chủ bản thân từ đó dễ phát sinh hành vi phạm
tội để đạt được mục đích, bao gồm cả các hành vi phạm tội về ma túy.
3, Nguyên nhân, điều kiện về giáo dục
- Đối với giáo dục từ gia đình
Cùng với sự phát triển về kinh tế, xã hội của địa phương, việc quan tâm và giáo dục con cái
trong nhiều gia đình chưa thật sự được chú trọng. Nhiều gia đình vì cuộc sống mưu sinh mà
bỏ mặc việc giáo dục con cái mình cho nhà trường và xã hội. Thậm chí, có gia đình cả cha và
mẹ đều là đối tượng nghiện ma túy và nguồn thu nhập chính từ việc mua bán trái phép chất
ma túy. Chính môi trường gia đình đó sẽ ảnh hưởng đến tư tưởng của con cái là coi thường

1
pháp luật, coi thường những giá trị đạo đức và bất chấp pháp luật để kiếm tiền bằng con
đường phi pháp như những thành viên khác của gia đình chúng.
4, Giáo dục từ nhà trường
Tại một số nơi và tại một vài thời điểm công tác quản lý giáo dục có nơi còn buông lỏng,
thiếu sâu sát. Hiện tượng học sinh bỏ học do nhiều nguyên nhân, nhưng trong đó có nguyên
nhân là công tác giảng dạy, quản lý, giáo dục của một số nhà trường còn nhiều thiếu xót dẫn
đến một bộ phận học sinh đã nghỉ học. Với trình độ học vấn, trình độ chuyên môn thấp những
người không có nghề nghiệp, buộc phải tham gia lao động phổ thông, công việc không ổn
định, thu nhập thấp. Do đó, vì hạn chế về nhận thực, hiểu biết và nhu cầu sống họ rất dễ bị lôi
kéo vào con đường phạm tội nói chung, phạm các tội ma túy nói riêng
Nguyên nhân nữa từ phía nhà trường là nội dung, chương trình giáo dục chưa phù hợp, quá
chú trọng dạy chữ, xem nhẹ công tác quản lý, giáo dục đạo đức, giáo dục pháp luật, kỹ năng
sống.
5, Nguyên nhân, điều kiện thuộc về quản lý xã hội
Gò Vấp có lượng dân cư đông, tỷ lệ dân nhập cư cao. việc quản lý nhân khẩu, hộ khẩu hết sức
quan trọng trong việc hạn chế tội phạm. Thực tế cho thấy, lực lượng cảnh sát khu vực còn
thiếu nên công tác quản lý nhân, hộ khẩu, tạm trú tạm vắng trên địa bàn quận Gò Vấp, Thành
phố Hồ Chí Minh còn lỏng lẻo, nhiều sơ hở. Tình trạng đăng ký hộ khẩu nơi này nhưng lại ở
nơi khác hoặc không đăng ký hộ khẩu, không đăng ký tạm trú, tạm vắng còn diễn ra phổ biến.
Tình trạng thanh thiếu niên bỏ nhà đi thuê nhà để ở và hoạt động phạm tội gia tăng đã gây khó
khăn cho công tác phòng ngừa tội phạm về chất ma túy đặc biệt là tội mua bán, tàng trữ trái
phép chất ma túy. Đa số các bị cáo mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy ở chỗ trọ là nơi
không có đăng ký thường trú hay tạm trú.
Quận Gò Vấp có lượng dân cư đông, tỷ lệ dân nhập cư cao, kinh tế phát triển còn chậm làm
cho một bộ phận không nhỏ người dân còn thất nghiệp hoặc có nghề nghiệp không ổn định,
sống dưới mức hộ nghèo. Do chưa kiểm soát được tình trạng di dân, nhiều người đổ về tạm
trú trên địa bàn, nhưng không có việc làm, gặp khó khăn về kinh tế cộng với trình độ học vấn
thấp, nhận thức sai lệch, ý thức pháp luật kém nên dễ dàng đi vào con đường phạm tội, nhất là
các tội về ma túy.
6, Nguyên nhân, điều kiện thuộc về việc thực hiện chức năng của cơ quan tiến hành tố
tụng
Tình hình tội phạm vẫn còn diễn biến phức tạp, công tác phòng, chống tội phạm nói chung và
các tội ma túy nói riêng của các cơ quan bảo vệ pháp luật ở quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí
Minh vẫn bộc lộ một số tồn tại, thiếu sót, và vô tình trở thành những nguyên nhân và điều
kiện làm phát sinh tội phạm
Đối với lực lượng Công an.
Trình độ của một số cán bộ tiếp nhận tin báo tố giác tội phạm về ma túy còn hạn chế, trách
nhiệm không cao, có thái độ thờ ơ, vô cảm, không coi trọng tin báo nên nội dung tiếp nhận
còn chậm, chưa đảm bảo đầy đủ thông tin, gây khó khăn cho việc tiến hành các biện pháp xác
minh, điều tra tiếp theo. Công tác phối hợp nắm thông tin, tình hình tội phạm, quản lý đối
tượng giữa các ngành còn yếu, biểu hiện cục bộ, do vậy kết quả đấu tranh còn hạn chế, tỷ lệ
điều tra, khám phá loại án này chưa cao.

NHẬN ĐỊNH ĐÚNG SAI

1. Tội phạm học là ngành khoa học pháp lý độc lập

Nhận định sai

Trên cơ sở xác định đối tượng nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, chức năng, nhiệm vụ và
hệ thống tội phạm học có thể khẳng định tội phạm học là một ngành khoa học có vị trí độc lập
trong hệ thống các khoa học. Nó nằm ở vị trí tiếp giáp với hai nhóm ngành khoa học là các
khoa học xã hội và các khoa học pháp lí, đồng thời nó có quan hệ mật thiết với hai nhóm
2
ngành khoa học này. Vì vậy, tội phạm học là khoa học xã hội-pháp lý chứ không phải là
ngành khoa học pháp lí độc lập.

2. Phương pháp thống kê được sử dụng trong mọi trường hợp

Nhận định sai

Tội phạm ẩn là tội phạm đã xảy ra nhưng chưa bị cơ quan chức năng phát hiện, xử lý và
không tồn tại trong thống kê tội phạm. Xuất phát từ tính chất bị che dấu của tội phạm ẩn, mà
các phương pháp dùng để xác định tội phạm này mang tính chất đặc trưng như phát phiếu
điều tra, phỏng vấn, phương pháp chuyên gia,… chứ khó có thể sử dụng phương pháp thống
kê trong trường hợp này.

3. Tính xã hội là thuộc tính đặc trưng nhất của tình hình tội phạm

Nhận định sai

Thuộc tính đặc trưng nhất, riêng nhất của tình hình tội phạm là tính trái pháp luật. Các thuộc
tính còn lại không chỉ có ở mỗi tội phạm học.

4. Tỉ lệ ẩn của tội phạm là thông số thuộc về cơ cấu của tình hình tội phạm

Nhận định sai

Thực trạng của tình hình tội phạm bao gồm hai bộ phận: số người phạm tội, số tội phạm đã
xảy ra và đã bị phát hiện, xử lý (tội phạm rõ) và số người phạm tội, tội phạm đã xảy ra nhưng
chưa bị phát hiện, xử lý (tội phạm ẩn) Nghiên cứu tội phạm ẩn là nghiên cứu các khía cạnh
khác nhau của tội phạm ẩn, trong đó có tỉ lệ ẩn. Vì vậy, tỉ lệ ẩn của tội phạm là thông số thuộc
về thực trạng của tình hình tội phạm

5. Tội phạm rõ là tội phạm đã được tòa án xét xử

Nhận định sai

Theo tinh thần của thông tư liên tịch số 01/2005 việc thống kê số vụ phạm tội, số người phạm
tội dựa trên dấu hiệu của hành vi phạm tội chứ không chỉ căn cứ vào bản án có hiệu lực của
tòa án nên khái niệm tội phạm rõ được hiểu là số tội phạm, số người phạm tội tồn tại cả trong
giai đoạn khởi tố hoặc trong giai đoạn truy tố hoặc trong giai đoạn xét xử.

6. Tội phạm rõ là tội phạm đã được thống kê.

Nhận định đúng.

Tội phạm rõ là tội phạm đã xảy ra trên thực tế, bị cơ quan chức năng phát hiện và xử lý theo
thủ tục tố tụng hình sự. Trên thực tế, số tội phạm rõ này được xác định qua thống kê của cơ
quan chức năng.

7. Tội phạm được thống kê là tội phạm rõ

Nhận định đúng

Tội phạm rõ là tội phạm đã xảy ra trên thực tế, bị cơ quan chức năng phát hiện, xử lý theo thủ
tục tố tụng hình sự và được thể hiện trong thống kê tội phạm.

3
Tội phạm ẩn là các tội phạm đã thực tế xảy ra nhưng không được thể hiện trong thống kê tội
phạm vì không được phát hiện, không được xử lý hoặc không được đưa vào thống kê tội
phạm

8. Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm luôn là những hiện tượng tiêu cực xã hội

Nhận định đúng

Những mâu thuẫn xã hội (mà hình thành nên nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội
phạm) là những quá trình xã hội có khuynh hướng đối lập thoát ly khỏi chiều hướng phát triển
đã được hoạch định của toàn xã hội. Chính tính chất ngược chiều của các quá trình và khuynh
hướng xã hội khác nhau đã tạo ra mâu thuẫn trong nội tại xã hội.

=>Nguyên nhân và điều kiện tình hình tội phạm luôn thể hiện sự đối lập, cản trở khuynh
hướng phát triển chung của toàn xã hội trên nhiều bình diện khác nhau => Nguyên nhân và
điều kiện của tình hình tội phạm luôn là những hiện tượng tiêu cực xã hội

9. Một nhóm nguyên nhân và điều kiện của tội phạm có thể là nguyên nhân và điều kiện của
nhiều tội phạm khác nhau.

Nhận định đúng

Ví dụ nhóm nguyên nhân và điều kiện về kinh tế thì có thể làm phát sinh các tội phạm xâm
phạm sở hữu, các tội phạm về kinh tế, các tội phạm về ma túy, các tội phạm tham nhũng.

10. Tình hình tội phạm có thể trở thành nguyên nhân và điều kiện của chính nó.

Nhận định đúng

Tình hình tội phạm là hậu quả của những hiện tượng và quá trình xã hội tiêu cực, khi đã được
sinh ra thì đến lượt nó với tư cách là một loại hiện tượng tiêu cực lại có thể đóng vai trò là
nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh những hiện tượng tiêu cực khác, trong đó có bản thân
tình hình tội phạm. Đây được coi là tác động mang tính dây chuyền.

11. Luôn luôn tồn tại lỗi của nạn nhân trong nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cụ thể.

Nhận định sai

Không phải tội phạm nào cũng gây ra thiệt hại cho các nạn nhân. Nói cách khác, không phải
tội phạm nào cũng có nạn nhân. Có những tội phạm luôn luôn có nạn nhân, có những tội
phạm có thể có nạn nhân, có những tội phạm luôn không có nạn nhân. Khía cạnh nạn nhân chỉ
đóng vai trò trong vài nhóm tội phạm : tội phạm xâm hại sở hữu, tính mạng sức khỏe. Các
nhóm tội khác như xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự công công, hối lộ thì không có nạn
nhân cụ thể. Ngoài ra các tội phạm thực hiện với lỗi vô ý cũng có thể không tồn tại lỗi của
nạn nhân.

12. Mọi tội phạm đều có nguyên nhân từ người phạm tội.

Nhận định đúng

Nhóm nguyên nhân và điều kiện từ phía người phạm tội giữ vai trò quyết định với việc làm
phát sinh một tội phạm cụ thể. Không có những nguyên nhân, điều kiện từ phía người phạm
tội thì không thể có hành vi phạm tội xảy ra trên thực tế, bởi hành vi phạm tội luôn là hành vi
của cá nhân có ý thức kiểm soát và ý chí thúc đẩy.

4
13. Giết người nhằm trả thù thể hiện hứng thú phạm tội.

Nhận định sai.

Nhu cầu là những đòi hỏi mà các nhân thấy cần được thỏa mãn trong những điều kiện nhất
định để có thể tồn tại và phát triển. Giết người nhằm trả thù ở đâu thể hiện nhu cầu phạm tội.
Nhu cầu muốn trả thù gây cho con người cảm giác thiếu thốn khi chưa được thỏa mãn và
khiến cá nhân tìm mọi cách để đáp ứng nó bằng việc giết người.

14. Định hướng giá trị của người phạm tội được hình thành bẩm sinh.

Nhận định sai

Định hướng giá trị là tập hợp những giá trị tích lũy ở các nhân trong quá trình sống dưới sự
ảnh hưởng của môi trường xung quanh, kinh nghiệm sống và sự giáo dục. Định hướng giá trị
được củng cố bởi năng lực nhận thức, kinh nghiệm cá nhân. Định hướng giá trị của người
phạm tội được hình thành như trên và thường người phạm tội có đánh giá, định hướng không
đúng, có sự nhầm lẫn giữa các giá trị trong xã hội,…

15. Phòng ngừa tội phạm trong TPH là sử dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước.

Nhận định sai

Nội dung của phòng ngừa tội phạm trong TPH bao gồm:

– Phòng ngừa xã hội: khắc phục nguyên nhân và điều kiện phạm tội bằng các biện pháp xã
hội; xóa bỏ tận gốc tội phạm là ưu tiên.

– Phòng ngừa bằng sự cưỡng chế: Hoạt động tố tụng, hình phạt, cải tạo; sau khi tội phạm đã
xảy ra

16. Các chủ thể có vai trò như nhau trong hoạt động phòng ngừa tội phạm.

Nhận định sai.

Phòng ngừa tội phạm là hoạt động đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước, tổ
chức xã hội và cá nhân công dân trong phạm vi chức năng của mình. Do các chủ thể là khác
nhau, có phạm vi chức năng và quyền hạn khác nhau, nên vai trò của mỗi chủ thể cũng có
nhiều điểm riêng biệt.

17. Phòng ngừa tội phạm là trách nhiệm của toàn dân.

Nhận định đúng

Theo khoản 3 điều 4 BLHS “Mọi công dân có nghĩa vụ tích cực tham gia phòng, chống tội
phạm.”

18. Dự báo tội phạm là hoạt động mang tính bước 2

Nhận định đúng

Tính bước 2 của dự báo tội phạm thể hiện ở: dự báo tội phạm chỉ có thể thực hiện sau các dự
báo xã hội khác, dự báo tội phạm đi liền theo dự báo xã hội do sự ảnh hưởng, chi phối của các
yếu tố xã hội, sử dụng kết quả dự báo xã hội có liên quan để dự báo tình hình tội phạm.

5
19. Chỉ sử dụng phương pháp thống kê trong dự báo tội phạm.

Nhận định sai

Ngoài biện pháp thống kê, ta còn dùng các phương pháp khác trong dự báo tội phạm như:
phương pháp chuyên gia, phương pháp tương tự.

20. Tính tối ưu là tiêu chí quan trọng nhất của kế hoạch phòng ngừa tội phạm.

Nhận định sai.

Trước khi xem xét đến các tiêu chí đánh giá kế hoạch phòng chống tội phạm, thì yếu tố quan
trọng/ tiêu chí quan trọng đầu tiên để đánh giá là nội dung kế hoạch phải tuân thủ các nguyên
tắc của hoạt động phòng ngừa tội phạm như nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc nhân đạo,
nguyên tắc dân chủ. Khi kế hoạch đáp ứng được những tiêu chí này thì các tiêu chí đánh giá
kế hoạch mới được đặt ra. Vì vậy đây mới là tiêu chí quan trọng nhất.

21. Cơ cấu của tình hình tội phạm biểu thị tính chất nguy hiểm của tình hình tội phạm.

Nhận định đúng.

Cơ cấu của tình hình tội phạm là thành phần, tỉ trọng và sự tương quan giữa các tội phạm, loại
tội phạm trong một chỉnh thể tình hình tội phạm. Xác định cơ cấu tội phạm có vai trò quan
trọng trong biểu thị tính chất nguy hiểm của tình hình tội phạm. Vd: Các tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng chiếm tỉ trọng cao và ngày càng gia tăng đã thể hiện tính chất nguy hiểm cao
của tình hình tội phạm.

22. Cải tạo người phạm tội là đối tượng nghiên cứu của Tội phạm học.

Nhận định đúng

Phòng ngừa tội phạm là đối tượng nghiên cứu của Tội phạm học. Cải tạo người phạm tội là
một trong những nội dung của phòng ngừa tội phạm. Vậy nên cải tạo người phạm tội là đối
tượng nghiên cứu của Tội phạm học.

23. Nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cụ thể, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội
phạm cần được nhận thức trong mối quan hệ tác động qua lại với nhau

Nhận định đúng

Nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cụ thể, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội
phạm cần được nhận thức trong mối quan hệ tương quan với nhau trong phạm trù chung –
riêng. Trong đó NN, ĐK của THTP là cái chung, cái bao trùm và phổ biến, có mặt trong mọi
lĩnh vực, đời sống, xh đồng thời tác động đến nhóm TP cụ thể. Tức là, NN, ĐK của THTP
luôn có mặt trong từng nhóm NN, ĐK của mọi loại TP, làm phát sinh TP cụ thể

24. Việc nghiên cứu, đánh giá tội phạm ẩn chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận.

Nhận định sai

Việc nghiên cứu, đánh giá tội phạm ẩn còn có ý nghĩa về mặt thực tiễn thông qua các thông số
như: tỷ lệ ẩn của tội phạm, độ ẩn của tội phạm và vùng ẩn của tội phạm. Nghiên cứu và xác
định tình hình tội phạm ẩn đặc biệt là tên gọi của khái niệm tội phạm ẩn, định nghĩa của khái
niệm, cách phân loại tội phạm ẩn, các thông số ẩn là đòi hỏi cấp thiết, có ý nghĩa về lí luận và
thực tiễn. Giúp chúng ta nhận thức đúng về mặt lí luận, đánh giá đúng thực chất tình hình tội
6
phạm ẩn đã xảy ra, xác định nguyên nhân ẩn, để từ đó có thể đưa ra các giải pháp phòng ngừa
tội phạm hiệu quả.

25. Có thể kết luận rằng hoạt động phòng ngừa tội phạm đạt hiệu quả khi thống kê số vụ tội
phạm, số người tội phạm giảm.

Nhận định sai

Đánh giá hiệu quả phòng ngừa tội phạm được xác định và so sánh dựa trên cơ sở các thông số
của các khía cạnh lượng và chất của tình hình tội phạm, các tiêu chí như tỉ lệ tội phạm phổ
biến, nghiêm trọng, thiệt hại. Các tiêu chí này có thể xem xét độc lập nhưng khi đánh giá cuối
cùng về hiệu quả phòng ngùa tội phạm cần xem xét chúng trong mối liên hệ với nhau. Do đó
nếu đánh giá hiệu quả phòng ngừa tội phạm chỉ căn cứ vào số vụ tội phạm, số người tội phạm
giảm là chưa đầy đủ.

Ví dụ: Nếu vụ TP giảm, nhưng tính chất nguy hiểm, thiệt hại tăng thì không thể khẳng định
rằng phòng ngừa tội phạm có hiệu quả.

26. Dự báo tội phạm bằng số liệu thống kê có thể được sử dụng trong mọi trường hợp cần dự
báo.

Nhận định sai

Đối với những tội phạm có độ ẩn cao không sử dụng phương pháp thống kê, số liệu thống kê
những tội phạm này có độ ẩn cao không phản ánh đầy đủ thực trạng tình hình tội phạm. Vì thế
chỉ dựa vào số thống kê để dự báo là thiếu chính xác.

27. Số liệu thống kê tình hình tội phạm phản ánh đầy đủ tình hình tội phạm.

Nhận định sai

Tình hình tội phạm trên thực tế gồm hai phần: phần rõ của tình hình tội phạm và phần ẩn của
tình hình tội phạm, trong đó phần rõ bao gồm tất cả các tội phạm rõ và phần ẩn bao gồm tất cả
các tội phạm ẩn. Trên thực tế, chỉ có số tội phạm rõ mới được xác định qua thống kê. Chính vì
vậy số liệu thống kê tình hình tội phạm không phản ánh đầy đủ tình hình tội phạm.

28. Phương pháp luận có vai trò thu thập, phân tích, xử lý thông tin trong nghiên cứu Tội
phạm học.

Nhận định sai

Phương pháp luận là lý luận về phương pháp. Một hệ thống lý luận với các khái niệm, nguyên
tắc, phạm trù nhận thức có vai trò định hướng chủ thể nghiên cứu tiếp cận, lý giải, đánh giá về
đối tượng nghiên cứu.

Phương pháp nghiên cứu của tội phạm học Việt Nam là hệ thống các cách thức, biện pháp
nghiên cứu cụ thể được sử dụng để thu thập, phân tích và xủ lí thông tin về những vấn đề cần
nghiên cứu.

29. Cơ cấu tình hình tội phạm thay đổi không làm thay đổi tính chất nghiêm trọng của tình
hình tội phạm.

Nhận định đúng

7
Tính chất của tình hình tội phạm được thể hiện qua thuộc tính và đặc điểm của THTP, còn cơ
cấu THTP nói riêng và thông số THTP nói chung là các thông tin số liệu, phản ánh mức độ
tồn tại, và tính phổ biến của tình hình tội phạm trên thực tế.

30. Khái niệm “nạn nhân của tội phạm” đồng nhất với khái niệm “khía cạnh nạn nhân trong
nguyên nhân và điều kiện phạm tội”.

Nhận định sai

“Nạn nhân của tội phạm” là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây
ra.

“Khía cạnh nạn nhân trong nguyên nhân và điều kiện phạm tội” là những yếu tố thuộc về nạn
nhân của tội phạm, có vai trò trong tâm lí xã hội của hành vi phạm tội, góp phần làm phát sinh
một tội phạm cụ thể gây thiệt hạn cho chính nạn nhân.

Vì vậy hai khái niệm này không đồng nhất.

31. Đặc điểm giới tính của người phạm tội có vai trò quyết định đối với quá trình hình thành
động cơ phạm tội.

Nhận định sai

Động cơ của tội phạm chỉ được hình thành khi có sự tương tác của các đặc điểm cá nhân
thuộc về người phạm tội với những tình huống, hoàn cảnh thuận lợi đến từ môi trường khách
quan bên ngoài. Động cơ được hình thành dựa trên nền tảng của hệ thống nhu cầu cá nhân,
của tổng thể những đặc điểm tâm lý cá nhân đã được hình thành trong suốt một quá trình lâu
dài của sự phát triển nhân cách. Vì vậy nên nhận định sai

32. Phương pháp nghiên cứu của Tội phạm học chỉ có Tội phạm học sử dụng.

Nhận định sai

Phương pháp nghiên cứu bao gồm phương pháp thống kê hình sự, phương pháp nghiên cứu
chọn lọc và phương pháp nghiên cứu xã hội học. Đây đều là những phương pháp nghiên cứu
thường được nhiều ngành khoa học sử dụng như xã hội học, kinh tế học…

33. Sự thay đổi cơ cấu tình hình tội phạm không làm thay đổi tính chất của tình hình tội phạm.

Nhận định đúng.

Tính chất của tình hình tội phạm được thể hiện qua thuộc tính và đặc điểm của THTP, còn cơ
cấu THTP nói riêng và thông số THTP nói chung là các thông tin số liệu, phản ánh mức độ
tồn tại, và tính phổ biến của tình hình tội phạm trên thực tế.

Vì vậy, sự thay đổi cơ cấu tình hình tội phạm không làm thay đổi tính chất của tình hình tội
phạm.

34. Tình huống, hoàn cảnh phạm tội là nguyên nhân chủ quan của tội phạm cụ thể.

Nhận định sai

Các tình huống, hoàn cảnh phạm tội được hiểu là những yếu tố được xác định cụ thể về không
gian, thời gian, tình huống có thể gắn liền với đặc điểm đối tượng của hành vi phạm tội và của

8
nạn nhân. Tất cả những tình huống, hoàn cảnh này tham gia tác động trong cơ chế hành vi
phạm tội góp phần làm phát sinh một tội phạm cụ thể.

Vì thế tình huống, hoàn cảnh phạm tội là nguyên nhân khách quan của tội phạm cụ thể.

35. Không có sự khác biệt nào về sự hứng thú của người bình thường so với đặc điểm hứng
thú của người phạm tội.

Nhận định sai.

Điểm khác trong hứng thú của người phạm tội là người phạm tội thường tồn tại những hứng
thú thấp kém, thiên về khoái cảm vật chất, hưởng thụ, có sự lệch chuẩn nghiêm trọng trong
những đam mê, hấp dẫn của bản thân, thường bị lôi cuốn, hấp dẫn bởi những suy nghĩ và
hành vi lệch chuẩn đi ngược lại chuẩn mực đời sống.

36. Chỉ số thiệt hại cho biết thông tin về tính chất của tình hình tội phạm

Nhận định sai

Tính chất của tình hình tội phạm được thể hiện qua thuộc tính và đặc điểm của THTP, còn cơ
cấu THTP nói riêng và thông số THTP nói chung là các thông tin số liệu, phản ánh mức độ
tồn tại, và tính phổ biến của tình hình tội phạm trên thực tế.

Vì vậy, chỉ số thiệt hại không cho biết thông tin về tính chất của tình hình tội phạm.

37. Biện pháp phòng ngừa tội phạm chỉ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện.

Nhận định sai

Các chủ thể có quyền bao gồm ĐCS VN, cơ quan công an, vks, TA, quốc hội và HĐND, các
tổ chức và các cá nhân, công dân

38. Những tội phạm khác nhau có độ ẩn như nhau

Nhận định sai

Có 4 cấp độ đánh giá, từ cấp 1 tới cấp 4. Cấp 1 là cấp độ thấp nhất, gồm những tội phạm khi
xảy ra có khả năng bộ lộ, bị phát hiện nhiều nhất như các tội gây rối trật tự công cộng, chống
người thi hành công vụ, cố ý gây thương tích. Cấp 4 là cấp độ cao nhất đặc trưng bởi các tội
phạm bị che giấu nhiều nhất, khó phát hiện, xử lý, thống kê nhất như các tội phạm do người
có chức vụ, quyền hạn thực hiện

39. Tỷ trọng loại tội phạm trong tổng số các loại tội phạm phản ánh thực trạng của tình hình
tội phạm

Nhận định sai

Cơ cấu của thtp là thành phần, tỷ trọng và sự tương quan giữa các tội phạm, loại tội phạm
trong một chỉnh thể thtp. Vì vậy tỷ trọng loại tội phạm trong tổng số các loại tội phạm phản
ánh cơ cấu của tình hình tội phạm.

40. Bất kỳ tội phạm nào được thực hiện cũng có quá trình hình thành động cơ phạm tội.

Nhận định sai

9
Các tội phạm được thực hiện với lỗi vô ý là loại tội phạm chỉ có khâu thực hiện được biểu
hiện trong tế, không có khâu hình thành động cơ và kế hoạch hóa việc thực hiện tội phạm.

41. Những tội phạm gây ra thiệt hại cho nạn nhân đều có vai trò của nạn nhân trong cơ chế
tâm lý xã hội của hành vi tội phạm

Nhận định sai

Không phải lúc nào khía cạnh nạn nhân cũng góp phần trong cơ chế tâm lý xã hội, chẳng hạn
có những TP mà người thực hiện TP có động cơ quá lớn và người đó bỏ qua các đặc điểm liên
quan đến nạn nhân ~> nạn nhân không có ý nghĩa VD như có những vụ dừng đèn đỏ nhưng
vẫn bị tông chết

42. Trong Tội phạm học, phương pháp thống kế chỉ được sử dụng để mô tả phần hiện rõ của
tình hình tội phạm.

Nhận định sai

Trong Tội phạm học, phương pháp thống kê được sử dụng để mô tả đa số thông số của tình
hình tội phạm. Ví dụ như cơ cấu, động thái, thiệt hại của tình hình tội phạm.

43. Ý thức pháp luật của người phạm tội có vai trò quyết định đối với quá trình hình thành
động cơ phạm tội.

Nhận định đúng

Động cơ phải thông qua sự kiểm soát của ý thức cá nhân trong đó có ý thức pháp luật ở những
mức độ khác nhau. Chính sự tự đánh giá của cá nhân, sự cân nhắc và tính toán mang tính lí trí
của cá nhân sẽ ít nhiều ảnh hưởng đến việc lựa chọn xử sự của cá nhân trên thực tế.

44. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của Tội phạm học không có mối liên hệ
với nhau.

Nhận định sai

“ Nếu như phương pháp nghiên cứu của tội phạm học là cách thức áp dụng biện pháp để tìm
ra những thông số nhằm chứng minh cho một vấn đề, một luận điểm liên quan đến tội phạm,
thì cơ sở nghiên cứu ( phương pháp luận) là chỗ dựa, là nền tảng cho việc áp dụng các phương
pháp để tìm ra các thông số đó.”

45. Tội phạm ẩn là tội phạm chưa bị người nào phát hiện

Nhận định sai

Tội phạm ẩn nhân tạo: tội phạm đã xảy ra trên thực tế, đã bị các cơ quan chức năng phát hiện
nhưng không bị xử lý do có sự che đậy từ tội phạm ẩn tự nhiên khác (ẩn chủ quan).

Tội phạm ẩn thống kê: tội phạm đã xảy ra trên thực tế, đã bị các cơ quan chức năng phát hiện,
xử lý nhưng không đưa vào thống kê hình sự.

46. Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm thay đổi chậm hơn nguyên nhân và điều
kiện của tội phạm cụ thể.

Nhận định đúng

10
Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm là toàn bộ các hiện tượng và quá trình xã
hội trong sự tương tác lẫn nhau làm chúng nảy sinh, tồn tại các tội phạm trong xã hội. Các
hiện tượng xã hội này là phổ biến và được lặp đi lặp nhiều lần, có khả năng tồn tại lâu dài,
trong các quan hệ xã hội luôn thay đổi. Nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cụ thể có
phạm vi hẹp hơn, thể hiện ở chỗ chỉ nguyên nhân và kết quả xét theo hành vi phạm tội của
những con người cụ thể. Vì do cá nhân nên sự thay đổi sẽ nhanh hơn xã hội của nguyên nhân
và điều kiện của tình hình tội phạm.

47. Nghiên cứu nhân thân của người phạm tội trong tội phạm học chỉ là một phần của việc
nghiên cứu nhân thân người phạm tội trong khoa học luật hình sự.

Nhận định đúng

Tội phạm học không nghiên cứu mọi đặc điểm nhân thân vốn có của người phạm tội mà chỉ đi
vào tìm hiểu những đặc điểm nổi bật, rõ ràng phạm tội có vai trò trong cơ chế hành vi phạm
tội…

Nhân thân của người phạm tội trong khoa hình sự được hiểu là tổng hợp những đặc điểm
riêng biệt của người phạm tội có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm
hình sự của họ.

Vì vậy nghiên cứu nhân thân của người phạm tội trong tội phạm học chỉ là một phần của việc
nghiên cứu nhân thân người phạm tội trong khoa học luật hình sự.

48. Nhằm mục đích phòng ngừa tội phạm, các chủ thể có thể sử dụng tất cả các biện pháp
nhằm ngăn ngừa hoặc kịp thời phát hiện, xử lý sau khi tội phạm xảy ra

Nhận định sai

Không phải trường hợp nào cũng được sử dụng tất cả các biện pháp, mỗi trường hợp thì có
những biện pháp cụ thể. Đồng thời, từng chủ thể có quyền hạn sử dụng các biện pháp khác
nhau. Vì vậy nhằm mục đích phòng ngừa tội phạm, các chủ thể có thể sử dụng tất cả các biện
pháp nhằm ngăn ngừa hoặc kịp thời phát hiện, xử lý sau khi tội phạm xảy ra.

49. Trong tội phạm học, phương pháp thống kê chỉ được sử dụng để dự báo sự thay đổi trong
nhân thân người phạm tội.

Nhận định sai

Phương pháp thống kê được sử dụng trong đa số các đối tượng nghiên cứu của tội phạm học,
như tình hình tội phạm, dự báo tình hình tội phạm.

50. Tất cả các tội phạm rõ đều được thống kê.

Nhận định đúng

Tội phạm rõ là tội phạm đã xảy ra trên thực tế, bị cơ quan chức năng phát hiện và xử lý theo
thủ tục tố tụng hình sự. Trên thực tế, số tội phạm rõ này được xác định qua thống kê của cơ
quan chức năng.

51. Hệ số tình hình tội phạm thuộc thông số động thái của tình hình tội phạm.

Nhận định sai

11
Trong các phương pháp xác định thực trạng của tình hình tội phạm có phương pháp hệ số. Vì
vậy hệ số tình hình tội phạm thuộc thông số thực trạng của tình hình tội phạm.

52. Đặc điểm sinh học của người phạm tội có vai trò quyết định việc hình thành động cơ
phạm tội.

Nhận định sai

Động cơ của tội phạm chỉ được hình thành khi có sự tương tác của các đặc điểm cá nhân
thuộc về người phạm tội với những tình huống, hoàn cảnh thuận lợi đến từ môi trường khách
quan bên ngoài. Động cơ được hình thành dựa trên nền tảng của hệ thống nhu cầu cá nhân,
của tổng thể những đặc điểm tâm lý cá nhân đã được hình thành trong suốt một quá trình lâu
dài của sự phát triển nhân cách.

53. Hiệu quả phòng ngừa không đạt được khi số lượng tội phạm giảm nhưng thiệt hại gia
tăng.

Nhận định sai

Đánh giá hiệu quả phòng ngừa tội phạm được xác định và so sánh dựa trên cơ sở các thông số
của các khía cạnh lượng và chất của tình hình tội phạm. Các tiêu chí này có thể xem xét độc
lập nhưng khi đánh giá cuối cùng về hiệu quả phòng ngùa tội phạm cần xem xét chúng trong
mối liên hệ với nhau. Do đó nếu đánh giá hiệu quả phòng ngừa tội phạm chỉ căn cứ vào giảm
số tội phạm và thiệt hại gia tăng là chưa đầy đủ.

54. Biện pháp kinh tế chỉ có tác dụng phòng ngừa những tội phạm xâm phạm trật tự quản lý
kinh tế.

Nhận định sai

Biện pháp kinh tế là biện pháp có tính chất kinh tế, tác động chủ yếu đến lĩnh vực kinh tế, làm
hạn chế khả năng phát sinh tội phạm, đặc biệt là các tội phạm xâm phạm sở hữu, các tội phạm
kinh tế, tham nhũng…

Vì vậy biện pháp kinh tế không chỉ có tác dụng phòng ngừa những tội phạm xâm phạm trật tự
quản lý kinh tế.

55. Nhiệm vụ của Tội phạm học tại một quốc gia là không thể thay đổi.

Nhận định sai

Nhiệm vụ của tội phạm nói chung được xây dựng xuất phát từ nhiệm vụ, yêu cầu của công tác
đấu tranh với tội phạm được đặt ra trong từng giai đoạn của từng quốc gia cũng như của từng
khu vực nhất định. Vậy tùy thuộc vào mỗi giai đoạn ứng với từng nhiệm vụ, yêu cầu của công
tác đấu tranh với tội phạm khác nhau thì nhiệm vụ của TPH sẽ thay đổi.

56. Tính chất nguy hiểm của tình hình tội phạm có thể được nhận thức thông qua sự tăng,
giảm của số vụ tội phạm

Thực trạng tình hình tội phạm là thông số phản ánh tổng số tội phạm, tổng số người phạm tội
trong một khoảng không gian, thời gian xác định. Thực trạng THTP không có ý nghĩa biểu
hiện, đánh giá tính chất nguy hiểm của THTP, đó là ý nghĩa của cơ cấu THTP.

57. Phần ẩn của tình hình tội phạm không phụ thuộc phần rõ của tình hình tội phạm

12
Nhận định sai

THTP trên thực tế gồm 2 phần: phần rõ của THTP bao gồm tất cả các tội phạm rõ và phần ẩn
của THTP bao gồm tất cả các tội phạm ẩn.

Phần ẩn và phần rõ của tội phạm cùng tồn tại trong một chỉnh thể THTP nói chung, tức là tỉ lệ
phần tội phạm rõ càng lơn thì tỉ lệ phần tội phạm ẩn càng thu hẹp và ngược lại.

58. Nhu cầu của người phạm tội luôn có sự khác biệt với nhu cầu của người không phạm tội.

Nhận định đúng

Nhu cầu của người phạm tội có những đặc điểm đặc trưng và khác biệt sau:

Người phạm tội thường có sự hạn hẹp trong hệ thống nhu cầu

Người phạm tội thường có sự mất cân đối trong hệ thống nhu cầu, thường quá tập trung quá
mức vào những nhu cầu thực dụng, cực đoan.

Người phạm tội thường tồn tại những nhu cầu biến dạng, đi ngược lại những chuẩn mực đạo
đức và pháp luật ( nhu cầu lệch chuẩn : thể hiện sự mâu thuẫn với sự phát triển bình thường
của đời sống xã hội )

Biện pháp thõa mãn nhu cầu của người phạm tội thường là vô đạo đức, phi pháp luật, không
lựa chọn những phương pháp thỏa mãn nhu cầu hợp lý. Ví dụ : chiếm đọat tài sản của người
khác để thõa mãn nhu cầu vật chất của cá nhân.

59. Có thể kết luận rằng phòng ngừa tội phạm chưa đạt khi số vụ phạm tội, số người phạm tội
tăng.

Nhận định sai

Đánh giá hiệu quả phòng ngừa tội phạm được xác định và so sánh dựa trên cơ sở các thông số
của các khía cạnh lượng và chất của tình hình tội phạm, các tiêu chí như tỉ lệ tội phạm phổ
biến, nghiêm trọng, thiệt hại. Các tiêu chí này có thể xem xét độc lập nhưng khi đánh giá cuối
cùng về hiệu quả phòng ngùa tội phạm cần xem xét chúng trong mối liên hệ với nhau. Do đó
nếu đánh giá hiệu quả phòng ngừa tội phạm chỉ căn cứ vào số vụ phạm tội, số người phạm tội
tăng là chưa đầy đủ.

60 Các thông số của tình hình tội phạm là nội dung bắt buộc phải có trong một kế hoạch
phòng ngừa tội phạm.

Nhận định sai

Những nội dung bắt buộc phải có trong một kế hoạch phòng ngừa tội phạm bao gồm: đối
tượng của kế hoạch, thời gian và địa bàn áp dụng kế hoạch; mục tiêu kế hoạch; các biện pháp
phòng ngừa tội phạm; chủ thể thực hiện kế hoạch; nguồn kinh phí thực hiện kế hoạch.

63. Tội phạm ẩn nhân tạo (ẩn chủ quan) do người phạm tội tạo ra.

Nhận định sai.

Nguyên nhân chính dẫn đến tội phạm ẩn nhân tạo là có sự tham gia của con người, cụ thể là
những người có quyền hạn nhất định, mặc dù tội phạm đã bị phát hiện những những chủ thể
có quyền hạn này cố tình không xử lý với nhiều lí do khác nhau. Lý do để không xử lý tội
13
phạm thực chất là do có sự tồn tại của tội phạm ẩn tự nhiên khác như các tội phạm về đưa,
nhận hối lộ, làm sai lệch hồ sơ vụ án, tội làm trái các quy định của nhà nước

Vì vậy, tội phạm ẩn nhân tạo (ẩn chủ quan) do người phạm tội của tội phạm ẩn tự nhiên tạo
ra.

64. Nguyên tắc nhân đạo trong hoạt động phòng ngừa tội phạm chỉ hướng tới việc bảo vệ nạn
nhân của tội phạm.

Nhận định sai

Nguyên tắc nhân đạo trong phòng ngừa pháp phòng ngừa tội phạm không được hạ thấp danh
dự nhân phẩm con ngừơi mà phải nhằm khôi phục con người và tạo điều kiện để con người
phát triển. Những đối tượng dễ bị tổn thương hoặc phải chịu những chế tài pháp lí thường
được đối xữ theo tinh thần nhân đạo.

65. Sự dự báo tội phạm bằng phương pháp thống kê có thể được sử dụng trong mọi trường
hợp cần dự báo.

Nhận định sai

Những tội phạm có độ ẩn cao không nên sử dụng phương pháp thống kê, vì số liệu thống kê
những tội phạm có độ ẩn cao không phản ánh đầy đủ thực trạng tình hình TP. Vì thế chỉ dựa
vào số liệu thống kê để dự báo chắc chắn sẽ cho kết quả thiếu chính xác.

66. Nhiệm vụ của Tội phạm học dự báo sự xuất hiện của Tội phạm mới.

Nhận định đúng

Nhiệm vụ của TPH là dự báo tội phạm. Dự báo về tội phạm là dự báo tội phạm trong tương
lai, phải thấy khả năng xuất hiện của những loại tội phạm mới, cũng như khả năng mất đi hay
giảm hẳn của 1 số tội phạm cụ thể trước những biến đổi của đời sống xã hội

67. Các thông số của tình hình tội phạm thể hiện bản chất, thuộc tính của tình hình tội phạm.

Nhận định sai

Tính chất của tình hình tội phạm được thể hiện qua thuộc tính và đặc điểm của THTP, còn cơ
cấu THTP nói riêng và thông số THTP nói chung là các thông tin số liệu, phản ánh mức độ
tồn tại, và tính phổ biến của tình hình tội phạm trên thực tế.

68. Khía cạnh nạn nhân trong nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cụ thể luôn cho thấy lỗi
của nạn nhân.

Nhận định sai, ví dụ mẹ giết con mới đẻ

69. 2 nhóm đặc điểm nhận thức tâm lý XH có vai trò quyết định một người thực hiện hành vi
phạm tội.

→ sai, dù mang những yếu tố tác động vào cả 3 khâu nhưng thiếu tình huống hoàn cảnh
khách quan bên ngoài, chính là điều kiện của tội phạm cụ thể → không thể mang tính chất
quyết định 1 TPCT diễn ra khi có sự tác động của đặc điểm bên trong (nhân thân) và bên
ngoài (tình huống hoàn cảnh cụ thể). Phải có sự tương tác giữa 2 đặc điểm này.

14
Đặc điểm sinh học tác động vào khâu thứ 2 và khâu thứ 3, không là nguyên nhân mà là điều
kiện.

PHÂN TÍCH

1)Nhân thân người phạm tội và nhân thân nạn nhân của tội phạm có mối liên hệ nào không?
Vì sao?

Nhân thân người phạm tội là những đặc điểm dấu hiệu đặc trưng nhất phản ánh bản chất của
người phạm tội, những đặc điểm dấu hiệu này tác động với những tình huống và hoàn cảnh
khách quan khác đã tạo ra xử sự phạm tội của người đó.

Nhân thân của nạn nhân là những đặc điểm, dấu hiệu đặc trưng nhất phản ánh bản chất của
nạn nhân của tội phạm, những đặc điểm dấu hiệu này cũng phần nào ảnh hưởng đến việc xảy
ra hành vi tội phạm. Ví dụ: người bị hạn chế về mặt thể chất (như trẻ em, người già…), người
có ưu thế về mặt xã hội (như ông, bà, cha, mẹ, thầy cô, người thi hành công vụ…), người có
hạn chế về mặt xã hội (tù binh, hàng binh…).

Nhân thân người phạm tội và nhân thân nạn nhân có mối liên hệ biện chứng tùy theo đối
tượng tác động.

Tùy từng trường hợp thì nhân thân nạn nhân là nguyên nhân điều kiện thúc đẩy tội phạm cũng
có trường hợp thì nhân thân nạn nhân không có liên quan gì đến nhân thân người phạm tội.

Ví dụ như ờ tội khủng bố, bọn phạm tội đã đặt bom ở nhà ga, noi tập trung nhiều người qua
lại làm chết, bị thương rất nhiều hành khách cũng như huỷ hoại tài sản của những người đó.
Trường hợp này, nhiều người đã ngẫu nhiên trờ thành nạn nhân của tội phạm, người phạm tội
không quan tâm đến nạn nhân là ai, sẵn sàng giết chết hoặc làm bị thương thường dân bất kì
để đạt được mục đích chính trị của mình.

2) Phân tích động cơ phạm tội trong cơ chế hành vi phạm tội

Trong tâm lý học có rất nhiều quan niệm khác nhau về động cơ hoạt động của con người, theo
thầy Hải, Động cơ được hiểu là sự thúc đẩy bên trong dẫn đến hành vi này hay hành kia khác.
Nó thường được coi là nguyên nhân trực tiếp của tội phạm. Nghiên cứu động cơ sẽ trả lời
được câu hỏi vì sao con người lại có những xử sự khác nhau. Các tội phạm cố ý luôn có động
cơ.

Nhu cầu của chủ thể đóng vai trò chính trọng việc hình thành động cơ của hành vi phạm tội,
nó phản ánh sự phụ thuộc của người đó vào thế giới bên ngoài. (Các nhóm nhu cầu gồm: vật
chất, an ninh, tình dục, giao tiếp xã hội, kiến thức và thế giới quan).

Bản thân động cơ là sự thúc đẩy bên trong không phải là tội phạm. Tiền đề của nó là những
nhu cầu, xúc cảm sở thích những định hướng về giá trị. Nhu cầu xúc cảm sở thích hay những
định hướng về giá trị là những thành phần bên trong của nhân thân mà dưới tác động của
chúng sẽ tạo nên động cơ của tội phạm. Tuy nhiên còn những nhân tố bên ngoài, những tình
huống đời sống cụ thể có vai trò nhất định trong cơ chế của hành vi phạm tội. Trong trường
hợp cố ý phạm tội thì bao giờ hành vi của người phạm tội cũng được thúc đẩy bởi động cơ
phạm tội, chỉ những trường hợp phạm tội do vô ý, cẩu thả quá tự tin mới không có động cơ
phạm tội thúc đẩy.

– Hành vi phạm tội ở đây được hiểu là mặt khách quan và chủ quan thỏa mãn các dấu hiệu
cấu thành tội phạm. Như vậy, động cơ phạm tội thuộc mặt chủ quan của hành vi, thúc đẩy
hoạt động phạm tội đạt mục đích

15
3) Những đặc điểm sinh học và xã hội của nhân thân người phạm tội?

* Nhóm đặc điểm sinh học

Nhóm đặc điểm sinh học bao gồm giới tính, tuổi và một số đặc điểm thể chất khác:

– Xác định giới tính người phạm tội cho chúng ta thấy tính chất, mức độ, đặc điểm tội phạm
theo từng giới.

(Tham khảo: Theo số liệu thống kê hình sự ở nước ta cũng như ở các nước khác trên thế nữ
giới phạm tội ít hơn nam giới. Ở Việt Nam từ năm 2001 đến năm 2005, theo thống kê thì số bị
cáo là nữ bị xét xử sơ thẩm chỉ chiếm tỉ lệ 8, 8% trong tổng số người bị đưa ra xét xử. Tuy
nhiên, trong thời gian gần đây, tỉ lệ này có xu hướng tăng lên và các tội phạm do nữ giới thực
hiện ngày càng đa dạng hơn).

– Xác định độ tuổi của người phạm tội cho chúng ta thấy tính chât, mức độ, đặc điểm tội
phạm của từng lứa tuổi, ảnh hưởng của lứa tuổi đến việc thực hiện tội phạm. Qua đó rút ra kết
luận về tính tích cực mang tính tiềm ẩn tội phạm và những đặc trưng của hành vi phạm tội đại
diện cho những nhóm người ở các lứa tuổi khác nhau.

(Tham khảo: Những người ở lứa tuổi thanh thiếu niên thường phạm những tội hung hãn, thù
hằn, bộc phát thì ở lứa tuổi trung niên có sự điềm đạm cân nhắc nhiều thủ đoạn hơn. Tóm lại
lứa tuổi xác định nhu cầu, mục đích sống của con người, những lĩnh vực quan tâm và yêu
thích, lối sống….Phần lớn người chưa thành niên thường thực hiện các tội phạm xâm phạm sở
hữu, điển hình là trộm cắp cướp giật tài sản, tội phạm về ma túy, các tội xâm phạm trật tự
công cộng.

Nhóm 18 – 30 tuổi thực hiện phần lớn các tội phạm có sử dụng bạo lực (giết người, cướp tài
sản, hiếp dâm).

Nhóm 30 – 45 tuổi và từ 45 trở lên đặc trưng bởi các tội phạm về kinh tế, chức vụ, xâm phạm
an ninh quốc gia).

Yếu tố lứa tuổi của người phạm tội ảnh hưởng đến việc thực hiện tội phạm cũng xuất phát từ
các đặc điểm thể chất, tâm lý, xã hội của mỗi lứa tuổi khác nhau. Trong đó, vai trò vị trí xã
hội của mỗi độ tuổi luôn ảnh hưởng quyết định đến việc lựa chọn phương thức thủ đoạn thực
hiện tội phạm

* Nhóm đặc điểm xã hội

Vị trí tính chất xã hội của công việc cho phép kết luận những nhóm và giai tầng xã hội nào,
những lĩnh vực hoạt động nào của đời sống xã hội phổ biến nhất về loại tội phạm này hay loại
tội phạm kia.

– Nghề nghiệp

Khi nghiên cứu về nghề nghiệp, tội phạm học nhận thấy những người không có việc làm ổn
định thường có tỷ lệ phạm tội cao hơn so với người có việc làm ổn định. tội phạm cũng có sự
liên quan chặt chẽ đến ngành nghề mà người phạm tội đang đảm nhiệm (Ngành hải quan thì
phổ biến tội phạm buôn lậu, hối lộ; ngành kiểm lâm thì phổ biến tội phạm phá rừng…)

– Hoàn cảnh gia đình

16
Khi nghiên cứu về hoàn cảnh gia đình, tội phạm học nhận thấy tội phạm có mối liên hệ đến
những gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, những gia đình có hoàn cảnh hôn nhân bất
hạnh hay điều kiện quản lý buông lỏng Gia đình đóng vai trò quan trọng trong đời sống con
người, tác động trực tiếp đến việc hình thành và phát triển nhân cách.

– Nơi cư trú

Khi nghiên cứu về nơi cư trú, tội phạm học nhận thấy tình hình tội phạm thường tập trung ở
những thành phố lớn, những địa bàn có tốc độ phát triển kinh tế xã hội, tốc độ đô thị hóa, tốc
độ dịch chuyển cơ cấu xã hội ở mức cao. Đặc biệt tội phạm cũng thường phát sinh ở những
địa bàn có sự giáp ranh về địa giới hành chính, có sự khó khăn trong việc quan hệ xã hội,
quan hệ con người. Ví dụ Tam giác Hà nội – Quảng ninh – Hải phòng, Thành phố Hồ Chí
Minh

17

You might also like