Professional Documents
Culture Documents
Bài tập cá nhân LHS
Bài tập cá nhân LHS
KHOA LUẬT
Hà Nội, 22/3/2022
1. Nội dung vụ án:
- Khoảng 22 giờ 20 phút, ngày 20/12/2020, tại khu vực đoạn đường Tôn Thất
T1 thuộc tổ xx, khu xx, phường H12, thành phố H13, tỉnh Quảng Ninh, là khu
vực đông dân cư, do mâu thuẫn trong sinh hoạt, nhóm H1 Đạo L1, Đỗ Thành
C1, Nguyễn Vũ G1, Nguyễn Thành V1, Nguyễn Công V2, Vũ ThA1h T1, Vũ
Tiến N1, Lư Tiến H1, H1 N1 L2, Nguyễn Văn Đ1, Quảng Văn M1 và nhóm
Nguyễn A1h D1, Nguyễn Thị T2, Vũ Văn A1 đã có hành vi sử dụng hung khí
và tay chân đánh nhau gây náo loạn khu dân cư, làm ảnh hưởng xấu đến tình
hình trật tự trị A1, A1 toàn xã hội nơi công cộng. Trong đó: Nguyễn Vũ G1, Vũ
ThA1h T1, H1 N1 L2, Quàng Văn M1, Nguyễn Thị T2, Vũ Văn A1 và Nguyễn
Alh D1 sử dụng gậy 3 khúc, muôi kim loại, cán chổi bằng gỗ, các V2 đá, dao,
điều cày, ghế nhựa; H1 Đạo L1, Đỗ Thành C1, Nguyễn Thành V1, Nguyễn
Công V2, Vũ Tiến N1, Lư Tiến H1 và Nguyễn Văn Đ1 sử dụng tay chân.
Nguyễn A1h D1 đã có hành vi dùng dao đâm, chém H1 Đạo L1 gây thương
tích, tổn hại 17% sức khỏe; dùng dao đâm, chém Đỗ Thành C1 gây thương tích,
tổn hại 10% sức khỏe.
2.
- Để sắp xếp, hệ thống hóa các tội phạm trong Bộ luật Hình sự theo từng
chương, bảo đảm tính khoa học, thuận lợi cho công tác nghiên cứu và áp dụng.
- Để xác định tội phạm theo tính chất và mức độ nguy hiểm, từ đó quy định hình
phạt và áp dụng hình phạt.
- Để áp dụng biện pháp ngăn chặn do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định cho phù
hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm.
- Để xác định thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam, thời hạn chuẩn bị xét xử,
thời hạn xóa án tích cho phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của các tội
phạm cụ thể..v..v..
- H1 Đạo L1, Đỗ Thành C1, Nguyễn Thành V1, Nguyễn Công V2, Vũ Tiến N1,
Lư Tiến H1, Nguyễn Văn Đ1, thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng vì những
người này chỉ xô xát dẫn đến tội gây rối trật tự công cộng theo quy định tại
khoản 2 Điều 318 của Bộ Luật Hình Sự.
- Nguyễn Vũ G1, Vũ ThA1h T1, H1 N1 L2, Nguyễn Thị T2, Vũ Văn A1 và
Quàng Văn M1 thuộc loại tội phạm nghiêm trọng vì đã có hành vi sử dụng hung
khí nguy hiểm theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 318 của Bộ Luật Hình Sự.
3.
- Chủ thể của tội phạm: H1 Đạo L1, Đỗ Thành C1, Nguyễn Vũ G1, Nguyễn
Thành V1, Nguyễn Công V2, Vũ ThA1h T1, Vũ Tiến N1, Lư Tiến H1, H1 N1
L2, Nguyễn Văn Đ1, Quảng Văn M1 và nhóm Nguyễn A1h D1, Nguyễn Thị
T2, Vũ Văn A1.
- Khách thể của tội phạm: Xâm phạm trật tự công cộng, xâm phạm đến quyền
được tôn trọng và bảo vệ sức khỏe của người khác.
- Mặt chủ quan của tội phạm: H1 Đạo L1, Đỗ Thành C1, Nguyễn Vũ G1,
Nguyễn Thành V1, Nguyễn Công V2, Vũ ThA1h T1, Vũ Tiến N1, Lư Tiến H1,
H1 N1 L2, Nguyễn Văn Đ1, Quảng Văn M1 và nhóm Nguyễn A1h D1, Nguyễn
Thị T2, Vũ Văn A1 phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp vì những Người phạm tội này
nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của
hành vi đó có thể xảy ra và mong muốn hậu quả xảy ra.
- Mặt khách quan của tội phạm: do mâu thuẫn trong sinh hoạt dẫn đến nhóm
người H1 Đạo L1, Đỗ Thành C1, Nguyễn Vũ G1, Nguyễn Thành V1, Nguyễn
Công V2, Vũ ThA1h T1, Vũ Tiến N1, Lư Tiến H1, H1 N1 L2, Nguyễn Văn Đ1,
Quảng Văn M1 và nhóm Nguyễn A1h D1, Nguyễn Thị T2, Vũ Văn A1 xô xát
đánh nhau gây mất trật tự công cộng tại tại khu vực đoạn đường Tôn Thất T1
thuộc tổ xx, khu xx, phường H12, thành phố H13, tỉnh Quảng Ninh.
4.
* Phân tích các loại cấu thành tội phạm:
- Thứ nhất, về yếu tố mặt khách quan: đây là những dấu hiệu thể hiện ra bên
ngoài của hành vi phạm tội mang tính chất khách quan, phương tiện cũng như
công cụ sử dụng để gây án, phương pháp gây án, thời điểm mà tội phạm thực
hiện hành vi, hậu quả của hành vi xác định là hành vi nguy hiểm cho xã hội và
mối quan hệ giữa hành vi và hậu quả.
+ Hành vi phạm tội mang tính chất khách quan có tính chất nguy hiểm cho xã
hội đó là một trong những dấu hiệu mang tính chất tiên quyết, bắt buộc. Nếu
hành vi của người đó thực hiện có tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng
kể, không gây nguy hại cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ thì
không coi đó là hành vi phạm tội. Hành vi nguy hiểm cho xã hội đó là những
hành vi mà người phạm tội thực hiện các việc mà Bộ Luật Hình sự 2015 cấm
hay không thực hiện những việc mà Bộ Luật Hình sự 2015 điều chỉnh.
+ Hậu quả thể hiện ở mặt khách quan đó là hậu quả thực tế về mặt vật chất cũng
như tinh thần của người bị hại. Thiệt hại về vật chất có thể xác định đó là những
thiệt hại bao gồm đó là về tài sản bị mất, tài sản bị hư hỏng, tài sản bị hủy hoại,
mức độ phần trăm tổn thương cơ thể, chết người… Thiệt hại về tinh thần có thể
xác định đó là những thiệt hại đến danh dự, đến nhân phẩm của người bị hại,
xâm phạm đến tư tưởng, chính sách của Nhà nước. Việc xác định được hậu quả
của tội phạm chính là căn cứ quyết định đến mức độ nguy hiểm của tội phạm.
- Thứ hai, về yếu tố mặt chủ quan: được xác định đó là những thứ thuộc về bên
trong biểu hiện của tội phạm đó. Những dấu hiệu này xác định đó là tư tưởng
cũng như tâm lý của tội phạm khi thực hiện hành vi đó là dấu hiệu về lỗi cố ý,
lỗi vô ý, động cơ và mục đích.
+ Về lỗi cố ý có hai loại đó là lỗi cố ý trực tiếp, lỗi cố ý gián tiếp. Lỗi vô ý có
hai loại đó là lỗi vô ý vì quá tự tin và lỗi vô ý do cẩu thả. Lưu ý trong trường
hợp này đó là về lỗi vô ý do cẩu thả vì lỗi vô ý do cẩu thả có thể bị nhầm lẫn với
sự kiện bất ngờ do nếu xác định được là sự kiện bất ngờ thì sẽ không bị truy cứu
trách nhiệm hình sự. Sự kiện bất ngờ đó là người có hành vi nguy hiểm cho xã
hội họ không thể thấy trước được hậu quả hoặc tại thời điểm đó họ không buộc
phải thấy trước hậu quả. Còn về lỗi vô ý do cẩu thả thì chủ yếu do người đó chủ
quan nghĩ rằng hậu quả không thể xảy ra dẫn đến gây ra hậu quả nghiêm trọng.
- Thứ ba, về yếu tố chủ thể: chủ thể của tội phạm được Bộ luật hình sự 2015 xác
định đó là gồm cá nhân và pháp nhân thương mại.
+ Cá nhân: là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm đối với mọi
hành vi phạm tội mình gây ra, trừ một số trường hợp được điều chỉnh cụ thể.
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì sẽ chịu trách nhiệm đối với những hành
vi phạm tội được xác định đó là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm
trọng. Năng lực trách nhiệm hình sự đặt ra với mọi cá nhân đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự trừ trường hợp đó là trong quá trình xác định là thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội người đó đang bị mắc bệnh tâm thần có xác nhận của cơ
sở giám định hoặc bệnh khác nhưng xác định rằng mất khả năng điều khiển
hành vi của mình cũng như khả năng nhận thức về những gì họ đã làm.
+ Pháp nhân thương mại đó là các doanh nghiệp hoặc các tổ chức kinh tế khác
khi có tư cách pháp nhân và đủ điều kiện chịu trách nhiệm hình sự. Cần phân
biệt rõ rằng việc pháp nhân thương mại chịu trách nhiệm hình sự không đồng
nghĩa với việc cá nhân trong đó không phải chịu trách nhiệm đối với những
hành vi mà họ đã làm.
- Thứ tư, về yếu tố khách thể: đây là những mối quan hệ xã hội mà trong Bộ
Luật hình sự điều chỉnh, bảo vệ, đã bị người có hành vi phạm tội gây ra thiệt hại
hoặc trực tiếp đe dọa
+ Những mối quan hệ này được xác định đó là: chế độ chính trị, độc lập, thống
nhật, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, an toàn xã hội, quyền con người …
mà Bộ luật hình sự quy định đó là tội phạm.
- Trong vụ án trên thì:
+ Cấu thành tội phạm cơ bản: : H1 Đạo L1, Đỗ Thành C1, Nguyễn Vũ G1,
Nguyễn Thành V1, Nguyễn Công V2, Vũ ThA1h T1, Vũ Tiến N1, Lư Tiến H1,
H1 N1 L2, Nguyễn Văn Đ1, Quảng Văn M1 và nhóm Nguyễn A1h D1, Nguyễn
Thị T2, Vũ Văn A1.
+ Cấu thành tội phạm tăng nặng: Vũ ThA1h T1
+ Cấu thành tội phạm giảm nhẹ: L1, V1, C1, V2, H1, N1, Đ1
5.
* Phân tích các giai đoạn thực hiện tội phạm:
* Trong vụ án trên, tội phạm thực hiện đến giai đoạn Tội phạm hoàn thành vì
nhóm người này đã xô xát gây mất trật tự công cộng, sử dụng và tàng trữ các vũ
khí vật liệu cấm và đã gây tổn hại hơn 11% đến sức khỏe người khác.
6.
*Các hình phạt theo quy định của luật hình sự hiện nay
6.7 Tử hình:
- Tử hình là hình phạt chính, tước bỏ quyền sổng của người bị kết án (Điều 40
Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017).
- Tử hình là hình phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt.
- Tử hình chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, gây nguy
hại đặc biệt lớn cho xã hội. Tử hình không đặt ra mục đích cải tạo và giáo dục
người bị kết án nhưng vẫn có mục đích phòng ngừa riêng vì loại bỏ hoàn toàn
khả năng phạm tội lại của người bị kết án. Ngoài ra, tử hình khi được áp dụng
cũng có tác động đến ý thức của người khác trong xã hội. Tử hình được áp dụng
với người phạm tội đặc biệt nghiêm ttọng xâm phạm tính mạng con người, các
tội phạm về ma tuý, tham nhũng và một số tội đậc biệt nghiêm trọng khác như:
Các tội xâm phạm an ninh quốc gia, các tội phá hoại hoà bình, chống loài
người, tội phạm chiến tranh, tội khủng bố V.V..
- Thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước, BLHS quy định không áp dụng
hình phạt tử hình đối với 7 đối tượng sau:
+ Người phạm tội là người dưới 18 tuổi khi phạm tội;
+ Người phạm tội là phụ nữ có thai khi phạm tội;
+ Người phạm tội là phụ nữ có thai khi xét xử;
+ Người phạm tội là phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội;
+ Ngưởi phạm tội là phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi xét xử;
+ Người phạm tội là người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội;
+ Người phạm tội là người đủ 75 tuổi trở lên khi xét xử.
+ Đối với người bị kết án tử hình nếu thuộc một ttong 4 loại đối tượng sau thì
hình phạt tử hình không được thi hành: Người bị kết án là phụ nữ có thai; người
bị kết án là phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi; người bị kết án là người
đủ 75 tuổi trở lên; người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ
mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận
hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tía,
xử lí tội phạm hoặc lập công lớn.
- Trong trường hợp không thi hành án tử hình thì hình phạt tử hình được ân
giảm thành tù chung thân. Người bị kết án tử hình có quyền xin Chủ tịch nước
ân giảm án, trong trường hợp được ân giảm thì hình phạt tử hình chuyển thành
tù chung thân.
- Tử hình được hoãn thi hành nếu ngay trước khi thi hành người chấp hành án
khai báo những tình tiết mới về tội phạm. Thi hành án tử hình được thực hiện
bằng tiêm thuốc độc, thủ tục thực hiện việc tiêm thuốc độc do Chính phủ quy
định. Thân nhân hoặc người đại diện hợp pháp của người chấp hành án có thể
được nhận tử thi của người chấp hành án để an táng.
6.8. Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định:
- Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định là hình
phạt bổ sung, buộc người phạm tội không được giữ chức vụ, không được hành
nghề hoặc thực hiện công việc nhất định (Điều 41 BLHS).
- Hình phạt này được quy định đối với các tội phạm có sự lợi dụng chức vụ,
nghề nghiệp hoặc công việc nhất định cũng như đối với các tội phạm do thiếu
trách nhiệm ừong khi thực hiện công vụ hoặc do vi phạm quy tắc nghề nghiệp
hoặc hành chính (các điêu 154,158,237, 238, 239, 240... Bộ luật hình sự năm
2015, sửa đổi bổ sung năm 2017).
- Thời hạn cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định có thể từ 01 năm đến 05 năm được tính từ ngày chấp hành xong hình phạt
tù hoặc từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật nếu hình phạt chính là cảnh cáo,
phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc trong trường hợp người bị kết án được
hưởng án treo.
- Hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định nhằm tăng cường hiệu quả của hình phạt chính, loại bỏ điều kiện để người
bị kết án có thể phạm tội lại.
6.9 Cấm cư trú:
- Cấm cư trú là hình phạt bổ sung, buộc người bị kết án phạt tù không được tạm
trú và thường trú ở một số địa phương nhất định (Điều 42 Bộ luật hình sự năm
2015, sửa đổi bổ sung năm 2017).
- Hình phạt này được áp dụng cho người bị phạt tù khi xét thấy họ có thể lợi
dụng điều kiện thuận lợi của địa phương thực hiện tội phạm sau khi chấp hành
xong hình phạt tù. Địa phương có thể bị cẩm cư trú là: Thành phố lớn; khu công
nghiệp tập trung; khu vực biên giới, bờ biển, hải đảo; khu vực có những cơ sở
quốc phòng quan trọng; khu vực có các đầu mối giao thông quan trọng... Đây là
những địa phương cần thiết phải bảo đảm an ninh và trật tự an toàn xã hội ở
mức độ cao.
Thời hạn cấm cư trú có thể từ 01 năm đến 05 năm kể từ ngày chấp hành xong
hình phạt tù.
- Người bị cấm cư trú có nghĩa vụ không được cư trú ở những địa phương đã bị
cấm theo quyết định của toà án nhưng có thể được phép đến đó mỗi lần không
quá 05 ngày với các điều kiện (có lí do chính đáng; địa phương bị cấm là quê
quán hoặc là nơi có thân nhân, gia đình đang sinh sống và được sự đồng ý của
uỷ ban nhân dân cấp xã nơi đến).
8. Không
9. Nội dung quyết định hình phạt có thể thay đổi rằng: Tất cả các bị cáo kia sẽ
chỉ bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ, phạt tiền hoặc tù có thời hạn.