You are on page 1of 14

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

KHOA LUẬT

BÀI TẬP CÁ NHÂN


HỌC PHẦN:
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1

Họ và tên: ĐỖ MẠNH HÙNG


Ngày sinh: 17/12/2003
Mã sinh viên: 21A510100096
Lớp: 2696

Hà Nội, 22/3/2022
1. Nội dung vụ án:

- Khoảng 22 giờ 20 phút, ngày 20/12/2020, tại khu vực đoạn đường Tôn Thất
T1 thuộc tổ xx, khu xx, phường H12, thành phố H13, tỉnh Quảng Ninh, là khu
vực đông dân cư, do mâu thuẫn trong sinh hoạt, nhóm H1 Đạo L1, Đỗ Thành
C1, Nguyễn Vũ G1, Nguyễn Thành V1, Nguyễn Công V2, Vũ ThA1h T1, Vũ
Tiến N1, Lư Tiến H1, H1 N1 L2, Nguyễn Văn Đ1, Quảng Văn M1 và nhóm
Nguyễn A1h D1, Nguyễn Thị T2, Vũ Văn A1 đã có hành vi sử dụng hung khí
và tay chân đánh nhau gây náo loạn khu dân cư, làm ảnh hưởng xấu đến tình
hình trật tự trị A1, A1 toàn xã hội nơi công cộng. Trong đó: Nguyễn Vũ G1, Vũ
ThA1h T1, H1 N1 L2, Quàng Văn M1, Nguyễn Thị T2, Vũ Văn A1 và Nguyễn
Alh D1 sử dụng gậy 3 khúc, muôi kim loại, cán chổi bằng gỗ, các V2 đá, dao,
điều cày, ghế nhựa; H1 Đạo L1, Đỗ Thành C1, Nguyễn Thành V1, Nguyễn
Công V2, Vũ Tiến N1, Lư Tiến H1 và Nguyễn Văn Đ1 sử dụng tay chân.
Nguyễn A1h D1 đã có hành vi dùng dao đâm, chém H1 Đạo L1 gây thương
tích, tổn hại 17% sức khỏe; dùng dao đâm, chém Đỗ Thành C1 gây thương tích,
tổn hại 10% sức khỏe.

2.

2.1 Phân loại tội phạm:

- Tội phạm được chia thành 4 loại:


+ Tội phạm ít nghiêm trọng:
Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã
hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định
đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm;
+ Tội phạm nghiêm trọng:
Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã
hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với
tội ấy là từ trên 03 năm đến 07 năm tù;
+ Tội phạm rất nghiêm trọng:
Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối
với tội ấy là từ trên 07 năm đến 15 năm tù;
+ Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng:
Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này
quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử
hình.
2.2 Tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự của Nhà nước ta rất đa
dạng, phức tạp, xâm phạm, đến các lĩnh vực khác nhau. Phân loại tội phạm
là sự cần thiết vì:

- Để sắp xếp, hệ thống hóa các tội phạm trong Bộ luật Hình sự theo từng
chương, bảo đảm tính khoa học, thuận lợi cho công tác nghiên cứu và áp dụng.
- Để xác định tội phạm theo tính chất và mức độ nguy hiểm, từ đó quy định hình
phạt và áp dụng hình phạt.
- Để áp dụng biện pháp ngăn chặn do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định cho phù
hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm.
- Để xác định thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam, thời hạn chuẩn bị xét xử,
thời hạn xóa án tích cho phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của các tội
phạm cụ thể..v..v..

2.3 Trong vụ án trên thì:

- H1 Đạo L1, Đỗ Thành C1, Nguyễn Thành V1, Nguyễn Công V2, Vũ Tiến N1,
Lư Tiến H1, Nguyễn Văn Đ1, thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng vì những
người này chỉ xô xát dẫn đến tội gây rối trật tự công cộng theo quy định tại
khoản 2 Điều 318 của Bộ Luật Hình Sự.
- Nguyễn Vũ G1, Vũ ThA1h T1, H1 N1 L2, Nguyễn Thị T2, Vũ Văn A1 và
Quàng Văn M1 thuộc loại tội phạm nghiêm trọng vì đã có hành vi sử dụng hung
khí nguy hiểm theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 318 của Bộ Luật Hình Sự.

3.

- Chủ thể của tội phạm: H1 Đạo L1, Đỗ Thành C1, Nguyễn Vũ G1, Nguyễn
Thành V1, Nguyễn Công V2, Vũ ThA1h T1, Vũ Tiến N1, Lư Tiến H1, H1 N1
L2, Nguyễn Văn Đ1, Quảng Văn M1 và nhóm Nguyễn A1h D1, Nguyễn Thị
T2, Vũ Văn A1.
- Khách thể của tội phạm: Xâm phạm trật tự công cộng, xâm phạm đến quyền
được tôn trọng và bảo vệ sức khỏe của người khác.
- Mặt chủ quan của tội phạm: H1 Đạo L1, Đỗ Thành C1, Nguyễn Vũ G1,
Nguyễn Thành V1, Nguyễn Công V2, Vũ ThA1h T1, Vũ Tiến N1, Lư Tiến H1,
H1 N1 L2, Nguyễn Văn Đ1, Quảng Văn M1 và nhóm Nguyễn A1h D1, Nguyễn
Thị T2, Vũ Văn A1 phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp vì những Người phạm tội này
nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của
hành vi đó có thể xảy ra và mong muốn hậu quả xảy ra.
- Mặt khách quan của tội phạm: do mâu thuẫn trong sinh hoạt dẫn đến nhóm
người H1 Đạo L1, Đỗ Thành C1, Nguyễn Vũ G1, Nguyễn Thành V1, Nguyễn
Công V2, Vũ ThA1h T1, Vũ Tiến N1, Lư Tiến H1, H1 N1 L2, Nguyễn Văn Đ1,
Quảng Văn M1 và nhóm Nguyễn A1h D1, Nguyễn Thị T2, Vũ Văn A1 xô xát
đánh nhau gây mất trật tự công cộng tại tại khu vực đoạn đường Tôn Thất T1
thuộc tổ xx, khu xx, phường H12, thành phố H13, tỉnh Quảng Ninh.

4.
* Phân tích các loại cấu thành tội phạm:

- Thứ nhất, về yếu tố mặt khách quan: đây là những dấu hiệu thể hiện ra bên
ngoài của hành vi phạm tội mang tính chất khách quan, phương tiện cũng như
công cụ sử dụng để gây án, phương pháp gây án, thời điểm mà tội phạm thực
hiện hành vi, hậu quả của hành vi xác định là hành vi nguy hiểm cho xã hội và
mối quan hệ giữa hành vi và hậu quả.
+ Hành vi phạm tội mang tính chất khách quan có tính chất nguy hiểm cho xã
hội đó là một trong những dấu hiệu mang tính chất tiên quyết, bắt buộc. Nếu
hành vi của người đó thực hiện có tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng
kể, không gây nguy hại cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ thì
không coi đó là hành vi phạm tội. Hành vi nguy hiểm cho xã hội đó là những
hành vi mà người phạm tội thực hiện các việc mà Bộ Luật Hình sự 2015 cấm
hay không thực hiện những việc mà Bộ Luật Hình sự 2015 điều chỉnh.
+ Hậu quả thể hiện ở mặt khách quan đó là hậu quả thực tế về mặt vật chất cũng
như tinh thần của người bị hại. Thiệt hại về vật chất có thể xác định đó là những
thiệt hại bao gồm đó là về tài sản bị mất, tài sản bị hư hỏng, tài sản bị hủy hoại,
mức độ phần trăm tổn thương cơ thể, chết người… Thiệt hại về tinh thần có thể
xác định đó là những thiệt hại đến danh dự, đến nhân phẩm của người bị hại,
xâm phạm đến tư tưởng, chính sách của Nhà nước. Việc xác định được hậu quả
của tội phạm chính là căn cứ quyết định đến mức độ nguy hiểm của tội phạm.
- Thứ hai, về yếu tố mặt chủ quan: được xác định đó là những thứ thuộc về bên
trong biểu hiện của tội phạm đó. Những dấu hiệu này xác định đó là tư tưởng
cũng như tâm lý của tội phạm khi thực hiện hành vi đó là dấu hiệu về lỗi cố ý,
lỗi vô ý, động cơ và mục đích.
+ Về lỗi cố ý có hai loại đó là lỗi cố ý trực tiếp, lỗi cố ý gián tiếp. Lỗi vô ý có
hai loại đó là lỗi vô ý vì quá tự tin và lỗi vô ý do cẩu thả. Lưu ý trong trường
hợp này đó là về lỗi vô ý do cẩu thả vì lỗi vô ý do cẩu thả có thể bị nhầm lẫn với
sự kiện bất ngờ do nếu xác định được là sự kiện bất ngờ thì sẽ không bị truy cứu
trách nhiệm hình sự. Sự kiện bất ngờ đó là người có hành vi nguy hiểm cho xã
hội họ không thể thấy trước được hậu quả hoặc tại thời điểm đó họ không buộc
phải thấy trước hậu quả. Còn về lỗi vô ý do cẩu thả thì chủ yếu do người đó chủ
quan nghĩ rằng hậu quả không thể xảy ra dẫn đến gây ra hậu quả nghiêm trọng.
- Thứ ba, về yếu tố chủ thể: chủ thể của tội phạm được Bộ luật hình sự 2015 xác
định đó là gồm cá nhân và pháp nhân thương mại.
+ Cá nhân: là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm đối với mọi
hành vi phạm tội mình gây ra, trừ một số trường hợp được điều chỉnh cụ thể.
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì sẽ chịu trách nhiệm đối với những hành
vi phạm tội được xác định đó là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm
trọng. Năng lực trách nhiệm hình sự đặt ra với mọi cá nhân đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự trừ trường hợp đó là trong quá trình xác định là thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội người đó đang bị mắc bệnh tâm thần có xác nhận của cơ
sở giám định hoặc bệnh khác nhưng xác định rằng mất khả năng điều khiển
hành vi của mình cũng như khả năng nhận thức về những gì họ đã làm.
+ Pháp nhân thương mại đó là các doanh nghiệp hoặc các tổ chức kinh tế khác
khi có tư cách pháp nhân và đủ điều kiện chịu trách nhiệm hình sự. Cần phân
biệt rõ rằng việc pháp nhân thương mại chịu trách nhiệm hình sự không đồng
nghĩa với việc cá nhân trong đó không phải chịu trách nhiệm đối với những
hành vi mà họ đã làm.
- Thứ tư, về yếu tố khách thể: đây là những mối quan hệ xã hội mà trong Bộ
Luật hình sự điều chỉnh, bảo vệ, đã bị người có hành vi phạm tội gây ra thiệt hại
hoặc trực tiếp đe dọa
+ Những mối quan hệ này được xác định đó là: chế độ chính trị, độc lập, thống
nhật, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, an toàn xã hội, quyền con người …
mà Bộ luật hình sự quy định đó là tội phạm.
- Trong vụ án trên thì:
+ Cấu thành tội phạm cơ bản: : H1 Đạo L1, Đỗ Thành C1, Nguyễn Vũ G1,
Nguyễn Thành V1, Nguyễn Công V2, Vũ ThA1h T1, Vũ Tiến N1, Lư Tiến H1,
H1 N1 L2, Nguyễn Văn Đ1, Quảng Văn M1 và nhóm Nguyễn A1h D1, Nguyễn
Thị T2, Vũ Văn A1.
+ Cấu thành tội phạm tăng nặng: Vũ ThA1h T1
+ Cấu thành tội phạm giảm nhẹ: L1, V1, C1, V2, H1, N1, Đ1

5.
* Phân tích các giai đoạn thực hiện tội phạm:

5.1 Chuẩn bị phạm tội:


– Căn cứ theo Bộ luật hình sự 2015, chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn
công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm
hoặc thành lập, tham gia nhóm tội phạm, trừ trường hợp thành lập hoặc tham
gia nhóm tội phạm quy định.
– Đặc điểm:
+ Người phạm tội chưa bắt tay vào thực hiện hành vi phạm tội mà chỉ tạo tiền
đề cần thiết để thực hiện hành vi đó
+ Chuẩn bị phạm tội không được đặt ra đối với tội phạm có cấu thành hình thức
– Trách nhiệm hình sự:
+ Người có hành vi chuẩn bị phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự vì hành vi
của họ đã thỏa mãn các dấu hiệu cấu thành tội phạm của hành vi phạm tội chưa
hoàn thành.
+ Trách nhiệm hình sự chỉ đặt ra đối với người có hành vi chuẩn bị thực hiện tội
phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng.
+ Chưa trực tiếp xâm hại đến các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ mà
mới chỉ đặt khách thể đó trong tình trạng nguy hiểm.

5.2 Phạm tội chưa đạt:


– Là hành vi cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì
những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn.
– Đặc điểm:
Người phạm tội đã thực hiện hành vi được quy định trong mặt khách quan của
cấu thành tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng. Hành vi của họ chưa
thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu khách quan của cấu thành tội phạm
+ Người phạm tội thực hiện hành vi liền trước hành vi được mô tả trong mặt
khách quan của cấu thành tội phạm
+ Mới chỉ thực hiện được một hành vi trong những hành vi quy định trong cấu
thành tội phạm
+ Thực hiện hết hành vi, hậu quả xảy ra cho xã hội rồi nhưng hậu quả đó chưa
phù hợp với hậu quả được quy định trong cấu thành tội phạm.
Hậu quả của tội phạm chưa xảy ra hoặc người phạm tội đã gây ra hậu quả nguy
hiểm cho xã hội nhưng chưa phù hợp với hậu quả được quy định trong cấu
thành tội phạm
– Trách nhiệm hình sự:
+ Họ sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự khi hành vi của họ chưa đáp ứng
đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm.
+ Người có hành vi phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự cao hơn
với tội chuẩn bị phạm tội.

5.3 Tội phạm hoàn thành:


– Tội phạm hoàn thành là hành vi phạm tội đã thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu
được mô tả trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm
– Xuất phát từ tình chất nguy hiểm cho xã hội của từng loại tội phạm, luật hình
sự xác định thời điểm hoàn thành của tội phạm thông qua việc mô tả những dấu
hiệu trong cấu thành tội phạm.
+ Cấu thành tội phạm vật chất: thời điểm hoàn thành của loại tội này phải thỏa
mãn đầy đủ các dấu hiệu khách quan của cấu thành tội phạm: hành vi nguy
hiểm, hậu quả xảy ra, mối quan hệ giữa hành vi và hậu quả.
+ Cấu thành tội phạm hình thức: thời điểm hoàn thành của loại tội này chỉ cần
đáp ứng dấu hiệu hành vi nguy hiểm cho xã hội.
+ Cấu thành tội phạm cắt xén: chỉ cần có hành động biểu hiện ý định phạm tội
thì tội phạm đã hoàn thành.
– Tội phạm hoàn thành được coi là trường hợp phạm tội thông thường mà hành
vi phạm tội xảy ra trong thực tế hoàn toàn phù hợp hành vi được mô tả trong
cấu thành tội phạm.

* Trong vụ án trên, tội phạm thực hiện đến giai đoạn Tội phạm hoàn thành vì
nhóm người này đã xô xát gây mất trật tự công cộng, sử dụng và tàng trữ các vũ
khí vật liệu cấm và đã gây tổn hại hơn 11% đến sức khỏe người khác.

6.
*Các hình phạt theo quy định của luật hình sự hiện nay

6.1 Cảnh cáo:


- Cảnh cáo là sự khiển trách công khai của Nhà nước đối với người phạm tội về
tội phạm mà họ đã thực hiện ((Điều 34 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ
sung năm 2017).
- Trong 7 hình phạt chính đối với người phạm tội thì cảnh cáo là hình phạt chính
nhẹ nhất. Cảnh cáo thể hiện sự lên án công khai của Nhà nước đối với người
phạm tội, được thực hiện khi hội đồng xét xử tuyên án đối với tội phạm mà họ
đã thực hiện. Cảnh cáo tuy không có khả năng gây thiệt hại về vật chất cũng
như hạn chế nhất định về thể chất cho người phạm tội nhưng với tính chất là sự
khiển trách công khai của Nhà nước đối với người phạm tội, cảnh cáo vẫn có
tác động nhất định đến tinh thần của người bị kết án để qua đó giáo dục họ.
Hình phạt cảnh cáo được quy định, áp dụng cho người phạm tội ít nghiêm trọng
và có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (được quy định tại Điều 51
Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017) nhưng chưa đến mức
được miễn hình phạt. Ở đây có ranh giới giữa miễn hình phạt và áp dụng hình
phạt cảnh cáo. Việc xác định ranh giới này trong thực tế không phải dễ dàng
mặc dù Điều 59 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đã quy
định các điều kiện được miễn hình phạt.

6.2 Phạt tiền:


- Phạt tiền là hình phạt buộc người phạm tội phải nộp một khoản tiền nhất định
vào ngân sách nhà nước (Điều 35 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung
năm 2017).
- Phạt tiền tước đi lợi ích vật chất của người phạm tội, tác động đến tình trạng
tài sản của họ và thông qua đó tác động đến ý thức, thái độ của người phạm tội.
Phạt tiền cũng có tính răn đe, giáo dục đối với người khác và qua đó có khả
năng phòng ngừa chung.
- Phạt tiền có thể là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung.
- Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với tội phạm ít nghiêm trọng, tội
phạm nghiêm trọng được BLHS quy định như tội chiếm giữ trái phép tài sản
(Điều 176 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017); tội sử dụng
trái phép tài sản (Điều 177 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm
2017); tội tổ chức tảo hôn (Điều 183 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung
năm 2017) hoặc có thể đổi với tội phạm rất nghiêm trọng nếu là tội xâm phạm
trật tự quản lí kinh tế, tội phạm về môi trường, tội xâm phạm an toàn công cộng,
trật tự công cộng hoặc tội phạm khác được BLHS quy định như tội buôn lậu
(Điều 188 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017); tội vận
chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới (Điều 189 Bộ luật hình sự năm
2015, sửa đổi bổ sung năm 2017); tội sản xuất, buôn bán hàng cẩm (Điều 190
Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017) V.V..
- Phạt tiền là hình phạt bổ sung được quy định và áp dụng đối với các tội phạm
về tham nhũng, ma tuý hoặc một số tội phạm khác như: Các tội xâm phạm trật
tự quản lí kinh tế, các tội phạm về chức vụ V.V..
- Mức phạt tiền được quy định tại các điều luật về các tội phạm cụ thể nhưng
phải đảm bảo tối thiểu không được thấp hơn 1.000.000 đồng.

6.3 Cải tạo không giam giữ:


- Cải tạo không giam giữ là hình phạt chính, buộc người phạm tội phải cải tạo,
giáo dục tại nơi làm việc, học tập, cư trú dưới sự giám sát của cơ quan, tổ chức
nơi họ làm việc, học tập hoặc của chính quyền địa phương, nơi họ cư trú (Điều
36 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017).
- Trong hệ thống hình phạt, cải tạo không giam giữ được coi là nhẹ hơn hình
phạt tù có thời hạn nhưng nặng hơn phạt tiền và cảnh cáo. Cải tạo không giam
giữ được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng, có
nơi làm việc ổn định hoặc nơi cư trú rõ ràng và thấy không cần thiết phải cách
ly khỏi xã hội. Như vậy, hai điều kiện cần của cải tạo không giam giữ là điều
kiện về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và điều kiện bảo
đảm hiệu quả của việc áp dụng hình phạt. Ngoài ra còn đòi hỏi, việc cách ly
người phạm tội khỏi xã hội là không cần thiết.
- Thời hạn của hình phạt cải tạo không giam giữ là từ 06 tháng đến 03 năm.
- Việc giám sát người bị áp dụng hình phạt này được giao cho cơ quan hoặc tổ
chức nơi người đó làm việc, học tập hoặc được giao cho ủy ban nhân dân cấp xã
nơi người đó cư trú.
- Trong thời gian chấp hành hình phạt này, người bị kết án phải thực hiện một
số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ và bị khấu trừ hàng
tháng một phần thu nhập từ 05% đến 20% để sung quỹ nhà nước. Toà án có thể
miễn khấu trừ thu nhập trong trường hợp có lí do đặc biệt. Nếu người chấp hành
án đang thực hiện nghĩa vụ quân sự thì không khấu trừ thu nhập của họ.
- Trong trường hợp không có hoặc bị mất việc làm, người bị kết án phải lao
động phục vụ cộng đồng không quá 04 giờ trong một ngày và không quá 05
ngày trong một tuần. Việc buộc lao động này không được áp dụng đối với phụ
nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 06 tháng tuổi, người già yếu, người bị
bệnh hiểm nghèo, người bị khuyết tật nặng hoặc đặc biệt nặng.
- Ngoài ra, người bị kết án còn phải thực hiện các nghĩa vụ được quy định trong
Luật thi hành án hình sự (xem: Xem: Điều 75 Luật thi hành án hình sự và Các
điều từ 96 đến 102 Luật thi hành án hình sự).
- Thời gian bị tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt cải
tạo không giam giữ, cứ một ngày tạm giữ, tạm giam bằng 03 ngày cải tạo không
giam giữ.

6.4 Trục xuất:


- Trục xuất là hình phạt buộc người nước ngoài bị kết ấn trong thời hạn nhất
định phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hoà XHCN Việt Nam ((Điều 37 Bộ luật
hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017)
- Trục xuất là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung tuỳ theo trường hợp được
toà án áp dụng. Khi quyết định hình phạt đối với người nước ngoài, toà án căn
cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội, các tình tiết tăng nặng, giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của họ để quyết định trục xuất là hình
phạt chính hoặc hình phạt bổ sung.

6.5 Tù có thời hạn:


- Tù có thời hạn là hình phạt chính, buộc người phạm tội phải cách li khỏi xã
hội trong thời gian nhất định để giáo dục, cải tạo (Điều 38 Bộ luật hình sự năm
2015, sửa đổi bổ sung năm 2017).
- Tù có thời hạn là hình phạt nghiêm khắc hơn hình phạt cải tạo không giam
giữ. Sự hạn chế tự do của người bị kết án tù có thời hạn là nội dung pháp lí chủ
yếu của loại hình phạt này. Theo Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ
sung năm 2017, tù có thời hạn có mức tối thiểu là ba tháng và mức tối đa là hai
mươi năm. Trong trường hợp phạm nhiều tội, mức tối đa của hình phạt này là
ba mươi năm (Điều 55 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017).
- Hình phạt tù có thời hạn không được áp dụng đối với người lần đầu phạm tội ít
nghiêm trọng do vô ý và có nơi cư trú rõ ràng.
- Người bị kết án tù có thời hạn chấp hành án tại ttại giam. Thời gian bị tạm giữ,
tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ một ngày tạm giữ,
tạm giam bằng một ngày tù.

6.6 Tù chung thân:


- Tù chung thân là hình phạt chính, buộc người phạm tội phải cách li khỏi xã hội
suốt đời để giáo dục, cải tạo (Điều 39 BLHS).
- Trong hệ thống hình phạt Việt Nam, tù chung thân là hình phạt rất nghiêm
khắc, chỉ nhẹ hơn hình phạt tử hình, về điều kiện áp dụng tù chung thân, Điều
39 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định, người phạm
tội đặc biệt nghiêm trọng nhưng chưa đến mức xử phạt tử hình thì xử phạt tù
chung thân. Đối với tội phậm đặc biệt nghiêm trọng, toà án phải dựa vào các
căn cứ quyết định hình phạt (Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ
sung năm 2017) để lựa chọn một trong ba hình phạt: Tử hình, tù chung thân, tù
có thời hạn (ở mức cao) để áp dụng đối vói người phạm tội. Thông thường trong
thực tiễn, hình phạt tù chung thân được áp dụng đối với trường hợp đặc biệt
nghiêm trọng mà nếu áp dụng hình phạt tù có thời hạn ở mức tối đa vẫn còn nhẹ
nhưng nếu phạt tử hình thì chưa thật cần thiết.
- Do tính chất nghiêm khắc của hình phạt tù chung thân và xuất phát từ nguyên
tắc xử lí người chưa thành niên phạm tội, luật hình sự Việt Nam không cho
phép áp dụng tù chung thân đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Trong thời gian chấp hành án tù chung thân, nếu người bị kết án có kết quả cải
tạo tốt thì người người phạm tội có thể được giảm thời hạn chấp hành hình phạt.

6.7 Tử hình:
- Tử hình là hình phạt chính, tước bỏ quyền sổng của người bị kết án (Điều 40
Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017).
- Tử hình là hình phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt.
- Tử hình chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, gây nguy
hại đặc biệt lớn cho xã hội. Tử hình không đặt ra mục đích cải tạo và giáo dục
người bị kết án nhưng vẫn có mục đích phòng ngừa riêng vì loại bỏ hoàn toàn
khả năng phạm tội lại của người bị kết án. Ngoài ra, tử hình khi được áp dụng
cũng có tác động đến ý thức của người khác trong xã hội. Tử hình được áp dụng
với người phạm tội đặc biệt nghiêm ttọng xâm phạm tính mạng con người, các
tội phạm về ma tuý, tham nhũng và một số tội đậc biệt nghiêm trọng khác như:
Các tội xâm phạm an ninh quốc gia, các tội phá hoại hoà bình, chống loài
người, tội phạm chiến tranh, tội khủng bố V.V..
- Thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước, BLHS quy định không áp dụng
hình phạt tử hình đối với 7 đối tượng sau:
+ Người phạm tội là người dưới 18 tuổi khi phạm tội;
+ Người phạm tội là phụ nữ có thai khi phạm tội;
+ Người phạm tội là phụ nữ có thai khi xét xử;
+ Người phạm tội là phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội;
+ Ngưởi phạm tội là phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi xét xử;
+ Người phạm tội là người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội;
+ Người phạm tội là người đủ 75 tuổi trở lên khi xét xử.
+ Đối với người bị kết án tử hình nếu thuộc một ttong 4 loại đối tượng sau thì
hình phạt tử hình không được thi hành: Người bị kết án là phụ nữ có thai; người
bị kết án là phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi; người bị kết án là người
đủ 75 tuổi trở lên; người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ
mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận
hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tía,
xử lí tội phạm hoặc lập công lớn.
- Trong trường hợp không thi hành án tử hình thì hình phạt tử hình được ân
giảm thành tù chung thân. Người bị kết án tử hình có quyền xin Chủ tịch nước
ân giảm án, trong trường hợp được ân giảm thì hình phạt tử hình chuyển thành
tù chung thân.
- Tử hình được hoãn thi hành nếu ngay trước khi thi hành người chấp hành án
khai báo những tình tiết mới về tội phạm. Thi hành án tử hình được thực hiện
bằng tiêm thuốc độc, thủ tục thực hiện việc tiêm thuốc độc do Chính phủ quy
định. Thân nhân hoặc người đại diện hợp pháp của người chấp hành án có thể
được nhận tử thi của người chấp hành án để an táng.

6.8. Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định:
- Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định là hình
phạt bổ sung, buộc người phạm tội không được giữ chức vụ, không được hành
nghề hoặc thực hiện công việc nhất định (Điều 41 BLHS).
- Hình phạt này được quy định đối với các tội phạm có sự lợi dụng chức vụ,
nghề nghiệp hoặc công việc nhất định cũng như đối với các tội phạm do thiếu
trách nhiệm ừong khi thực hiện công vụ hoặc do vi phạm quy tắc nghề nghiệp
hoặc hành chính (các điêu 154,158,237, 238, 239, 240... Bộ luật hình sự năm
2015, sửa đổi bổ sung năm 2017).
- Thời hạn cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định có thể từ 01 năm đến 05 năm được tính từ ngày chấp hành xong hình phạt
tù hoặc từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật nếu hình phạt chính là cảnh cáo,
phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc trong trường hợp người bị kết án được
hưởng án treo.
- Hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định nhằm tăng cường hiệu quả của hình phạt chính, loại bỏ điều kiện để người
bị kết án có thể phạm tội lại.
6.9 Cấm cư trú:
- Cấm cư trú là hình phạt bổ sung, buộc người bị kết án phạt tù không được tạm
trú và thường trú ở một số địa phương nhất định (Điều 42 Bộ luật hình sự năm
2015, sửa đổi bổ sung năm 2017).
- Hình phạt này được áp dụng cho người bị phạt tù khi xét thấy họ có thể lợi
dụng điều kiện thuận lợi của địa phương thực hiện tội phạm sau khi chấp hành
xong hình phạt tù. Địa phương có thể bị cẩm cư trú là: Thành phố lớn; khu công
nghiệp tập trung; khu vực biên giới, bờ biển, hải đảo; khu vực có những cơ sở
quốc phòng quan trọng; khu vực có các đầu mối giao thông quan trọng... Đây là
những địa phương cần thiết phải bảo đảm an ninh và trật tự an toàn xã hội ở
mức độ cao.
Thời hạn cấm cư trú có thể từ 01 năm đến 05 năm kể từ ngày chấp hành xong
hình phạt tù.
- Người bị cấm cư trú có nghĩa vụ không được cư trú ở những địa phương đã bị
cấm theo quyết định của toà án nhưng có thể được phép đến đó mỗi lần không
quá 05 ngày với các điều kiện (có lí do chính đáng; địa phương bị cấm là quê
quán hoặc là nơi có thân nhân, gia đình đang sinh sống và được sự đồng ý của
uỷ ban nhân dân cấp xã nơi đến).

6.10 Quản chế:


- Quản chế là hình phạt bổ sung, buộc người bị kết án phạt tù phải cư trú, làm
ăn sinh sổng và cải tạo ở một địa phương nhất định dưới sự kiểm soát, giáo dục
của chính quyền và nhân dân địa phương sau khi chấp hành xong hình phạt
tù (Điều 43 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017)..
- Người bị áp dụng hình phạt quản chế có nghĩa vụ: Trở về địa phương mà bản
án chỉ định là nơi quản chế ngay sau khi chấp hành xong hình phạt tù; không
được tự ý rời khỏi nơi quản chế trong thời gian quản chế. Người bị áp dụng hình
phạt này còn bị tước một số quyền trong các quyền được quy định tại Điều 44
Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (quyền ứng cử đại biểu cơ
quan quyền lực nhà nước và quyền lànj việc trong các cơ quan nhà nước và
quyền phục vụ trong lực lượng vũ ữang nhân dân) và bị cấm hành nghề hoặc
làm công việc nhất định.
- Quản chế được áp dụng đối với người phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia,
người tái phạm nguy hiểm hoặc trường họp khác được BLHS quy định.
Thời hạn quản chế là từ 01 năm đến 05 năm, kể từ ngày chấp hành xong hình
phạt tù.

6.11 Tước một số quyền công dân:


- Tước một số quyển công dân là hình phạt bổ sung, buộc người bị kết án phạt
tù không được ứng cử đại biếu cơ quan quyền lực nhà nưởc, không được làm
việc trong các cơ quan nhà nước, không được phục vụ trong lực lượng vũ trang
nhân dân (Điều 44 BLHS).
- Khi bị áp dụng hình phạt này, người bị kết án bị tước một hoặc một số quyền
ttong các quyền có thể bị tước. Hình phạt này được áp dụng cho công dân Việt
Nam bị phạt tù về tội xâm phạm đến an ninh quốc gia hoặc tội phạm khác được
BLHS quy định.
- Thời hạn tước một số quyền công dân là từ 01 năm đến 05 năm. Thời hạn
được tính từ ngày chấp hành xong hình phạt tù hoặc kể từ ngày bản án có hiệu
lực pháp luật trong trường hợp người bị kết án được hưởng án treo.

6.12 Tịch thu tài sản:


- Tịch thu tài sản là hình phạt bỏ sung, tước một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc
sở hữu của người phạm tội để nộp vào ngân sách nhà nước (Điều 45 Bộ luật
hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017).
- Tịch thu tài sản được áp dụng đối với những người phạm tội nghiêm trọng, tội
rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm an ninh quốc gia, tội
phạm về ma tuý, tham nhũng hoặc tội phạm khác do BLHS quy định.
- Tài sản bị tịch thu phải thuộc sở hữu của người bị kết án; tài sản đó có thể là
tài sản người bị kết án đang sử dụng hoặc là tài sản đã cho vay, mượn, thuê, gửi
sửa chữa, gửi người khác giữ hoặc đang cầm cố, thế chấp... Tài sản thuộc sở
hữu của người bị kết án có thể tồn tại dưới dạng hiện vật hoặc là tiền, kể cả tiền
gửi ngân hàng, quỹ tín dụng, hoặc là trái phiếu, tín phiếu...
- Trong trường hợp tịch thu toàn bộ tài sản, vẫn phải để lại phần tài sản nhất
định để người bị kết án và gia đình họ có điều kiện sinh sống.

* Trong vụ án trên thì:


- Nguyễn A1h D1, Nguyễn Vũ G1, Nguyễn Thị T2, Vũ Văn A1, Quàng Văn
M1, H1 N1 L2 sẽ bị phạt tiền và cải tạo không giam giữ
- Vũ Thành T1 do có hành vi gây tổn hại nặng đến sức khỏe của người khác nên
sẽ bị phạt tù có thời hạn.
7. Có thể nói các quyết định hình phạt của Tòa án trong vụ án nói trên là hoàn
toàn xác đáng, với từng trường hợp là từng cách xử khác nhau vì những bị cáo
này có độ tuổi khác nhau và phạm tội khác nhau.

8. Không

9. Nội dung quyết định hình phạt có thể thay đổi rằng: Tất cả các bị cáo kia sẽ
chỉ bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ, phạt tiền hoặc tù có thời hạn.

You might also like