You are on page 1of 59

Phần Khái quát

Loại hình tác giả văn học trung đại Việt Nam1

I. Khái quát chung

1. Khái niệm “kiểu/loại hình tác giả”

- Một tập hợp chủ thể sáng tác mang những đặc trưng riêng biệt có thể khu biệt
với các nhóm chủ thể sáng tác khác

- Việc phân loại “kiểu tác giả” chỉ tương đối vì thực tế sáng tác có độ giao thoa
giữa các kiểu tác giả. Quan niệm về các loại hình tác giả nhà nho (hành đạo, ẩn
dật, tài tử) cũng tương đối.

2. Các hướng phân loại loại hình tác giả VHTĐVN

- Theo giới: tác giả nam – tác giả nữ - tác giả “thác nữ” (mượn giọng nữ)

- Theo địa vị xã hội: vua chúa, quý tộc/tôn thất/hoàng tộc/hoàng thân, quan chức,
văn quan, võ tướng, trí thức, bình dân…

- Theo lý tưởng triết – mĩ: nhà nho, nhà sư, đạo sĩ…

II. Một số kiểu tác giả tiêu biểu trong VHTĐVN

2.1. Tác giả nhà sư

2.1.1. Tiền đề hình thành

- Phật giáo du nhập sớm vào Việt Nam, trước tiên từ Ấn Độ theo đường biển,
sau đó từ Trung Hoa qua đường bộ. Từ đầu công nguyên đã hình thành trung
tâm Phật giáo Luy Lâu và có nhiều thế hệ thiền sư được truyền thừa

- Nhiều thế hệ thiền sư của các dòng Thiền Tì ni đa lưu chi, Vô Ngôn Thông,
Thảo Đường đã tích cực tham gia chính sự. Trong những giai đoạn đầu của nhà
nước quân chủ Nho giáo Đại Việt, các thiền sư đều tinh thông Tam giáo, đều
cùng quan điểm sử dụng văn chương như một công cụ truyền đạo và/hoặc tham
gia luận bàn chính sự.

2.1.2. Đặc điểm loại hình

- Tác giả thiền sư giai đoạn phát triển thịnh đạt của văn học Phật giáo Thiền tông
trước thế kỷ XV có đặc điểm riêng: đều tinh thông Tam giáo và/hoặc tham gia
chính sự. Căn nguyên dựa trên nền tảng xã hội “đa tôn giáo hòa đồng”, quyền
lợi của nhà nước quân chủ Nho giáo và sự hoằng pháp Phật đạo có sự thống
nhất cao, đồng thời là sự “tịnh hành” cởi mở với các tôn giáo tín ngưỡng khác
(Đạo giáo, dân gian bản địa…)
- Tác giả thiền sư các giai đoạn sau: khá đa dạng, song văn bản tác phẩm chưa
được giới thiệu/nghiên cứu đầy đủ

2.1.3. Nội dung sáng tác

- Truyền bá, luận giải, ca tụng giáo lý, giáo pháp Phật giáo (chủ yếu Thiền tông)

- Bàn luận công việc triều chính

2.1.4. Hình thức tác phẩm

- Thể loại chủ yếu: văn xuôi/văn luận thuyết chữ Hán (ngữ lục, lục, thực lục…);
kệ; thơ Thiền

- Bút pháp nghệ thuật: sử dụng Thiền ngữ, công án, thoại đầu, ngôn ngữ thiên
nhiên

2.1.5. Tác giả tiêu biểu

 - Giai đoạn X-XIV: Viên Chiếu, Mãn Giác, Vạn Hạnh, Không Lộ, Huyền Quang,
… 

- Giai đoạn XVII – XIX: Chân Nguyên (1646 - 1726), Hương Hải (1627 - 1715),
Nguyên Thiều, Thạch Liêm,…

2.2. Tác giả nhà nho

2.2.1. Tiền đề hình thành

- Chế độ phong kiến Đại Việt chịu ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo và tiếp thu thể
chế chính trị quân chủ ngay từ giai đoạn đầu xây dựng quốc gia độc lập sau
nghìn năm Bắc thuộc.

- Qua gần mười thế kỷ du nhập, tồn tại, chính thức độc tôn từ thế kỷ XV, dù có
lúc thăng trầm, Nho giáo về cơ bản giữ địa vị tư tưởng chính thống gắn liền với
sự thịnh suy của các triều đại quân chủ nối tiếp nhau.

2.2.2. Đặc điểm loại hình

- Tác giả nhà nho đa số làm quan, sự nghiệp sáng tác thường gắn liền với sự
nghiệp chính trị

- Mô hình phân loại “nhà nho hành đạo – nhà nho ẩn dật – nhà nho tài tử” một
mặt phản ánh đặc thù tư tưởng và quan niệm xuất xử của tác giả nhà nho, mặt
khác cũng cho thấy sự hỗn dung giữa ba kiểu tác giả. Trong thực tế, nhiều tác
giả nhà nho vừa “hành đạo” vừa “ẩn dật”, lúc ra làm quan khi về ẩn cư tùy theo
thời thế. Đồng thời, với một số tác giả nhà nho mang đậm chất nghệ sĩ, họ có
thể đại diện cả ba kiểu loại “hành đạo - ẩn dật – tài tử”, đơn cử: Nguyễn Trãi,
Nguyễn Du, Phạm Quý Thích, Phạm Thái, Nguyễn Công Trứ, Dương Khuê, Chu
Mạnh Trinh…

- Loại hình “nhà nho tài tử” tuy có mầm mống từ trước thế kỷ XVIII (Nguyễn
Trãi), song chỉ thực sự xuất hiện từ giai đoạn thế kỷ XVIII – XIX khi quan niệm
văn học thay đổi theo hướng đề cao Tài – Tình, tạo nên trào lưu văn học “chủ
Tình” “quý Chân”…

2.2.3. Nội dung sáng tác

- Thể hiện lý tưởng chính trị Nho giáo: Đức trị, Thân dân…

- Tuyên truyền đạo đức Nho giáo: Tam cương, Ngũ thường, Ngũ luân…

- Ca ngợi phẩm chất người quân tử

- Phản ánh những khuynh hướng tư tưởng khác nhau ở những thời đại cụ thể

2.2.4. Hình thức tác phẩm

- Thể loại chủ yếu: thơ chữ Hán, thơ Nôm, văn xuôi tự sự (truyện ngắn, ký, tiểu
thuyết chương hồi), văn học chức năng hành chính, văn học chức năng lễ nghi
tôn giáo, các thể loại văn học dân tộc (ngâm khúc, truyện nôm, hát nói, diễn ca
lịch sử…)

- Bút pháp nghệ thuật: bút pháp cổ - trung đại với một số đặc trưng cơ bản như
ước lệ, tượng trưng, sùng cổ, quy phạm và giải quy phạm…

2.2.5. Tác giả tiêu biểu

Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Nguyễn Dữ, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Đình Chiểu,
Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương…

Nhà nho từ X – XIV: Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh, Lê Văn Hưu, Trần
Quốc Tuấn, Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi, Chu Văn An

XV – XVII: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Dữ, Lê
Quý Đôn, Ngô Sĩ Liên, Hoàng Sỹ Khải, Nguyễn Hãm, Đào Duy Từ

XVIII – giữa XIX: Nguyễn Du, Ngô Thì Sĩ, Phạm Nguyễn Du, Nguyễn Du, Cao Bá
Quát, Lê Hữu Trác, Đặng Trần Côn, Phạm Đình Hổ, Ngô gia văn phái, Nguyễn
Chinh,

Nửa cuối XIX: Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Trần Tế Xương, Nguyễn Đình
Chiểu, Nguyễn Khuyến, Đào Tấn, Phạm Phú Thứ, Nguyễn Thông, Nguyễn Lộ
Trạch, Nguyễn Quang Bích

2.3. Tác giả vua chúa


2.3.1. Tiền đề hình thành

- Truyền thống người Việt ưa thích thơ ca, ăn nói vần vè; nước Việt được mệnh
danh “thi quốc”, nhiều tầng lớp xã hội đều có thể làm thơ, kể chuyện

- Quan niệm văn chương trung đại đề cao chức năng giáo huấn, chức năng xây
dựng và bảo vệ triều đại của văn học

- Chế độ khoa cử Nho giáo chọn hiền tài làm việc nước thông qua các môn thi
văn sách, thơ phú

2.3.2. Đặc điểm loại hình

- Tác giả hoàng đế đời Trần có đặc điểm riêng độc đáo không lặp lại: loại hình
“hoàng đế - thiền sư – thi nhân”

- Tác giả là vua (nhà Lý, Lê sơ, Lê trung hưng, Tây Sơn, Nguyễn…) hoặc chúa
(Trịnh Căn, Trịnh Cương, Trịnh Doanh, Trịnh Sâm…) thường để lại sáng tác
mang tính văn học chức năng – thơ văn thiên về chức năng giáo huấn, tuyên
truyền đạo lý, tán dương triều đại

2.3.3. Nội dung sáng tác

Khá đa dạng và khác biệt giữa các loại hình tác giả nêu trên

2.3.4. Hình thức tác phẩm

- Thể loại chủ yếu: thơ chữ Hán, thơ Nôm, văn học chức năng (chiếu, dụ…)

- Bút pháp nghệ thuật: bút pháp cổ - trung đại với một số đặc trưng cơ bản như
ước lệ, tượng trưng, sùng cổ, quy phạm

2.3.5. Tác giả tiêu biểu

Mẫu hình “hoàng đế-thi nhân”: Trần Nhân Tông, Lê Thánh Tông,…

2.4. Tác giả tôn thất

2.4.1. Tiền đề hình thành

- Tôn thất thường có điều kiện khoa cử hoặc tập ấm, được thụ hưởng nền học
vấn tốt nhất trong xã hội, đồng nghĩa với việc được thường xuyên trau dồi kỹ
thuật sáng tác văn chương

- Sự nghiệp sáng tác gắn liền với thịnh suy của triều đại

2.4.2. Đặc điểm loại hình


- Tác giả tôn thất thường đồng thời là quan chức (nhà Trần, Nguyễn) tiếp thu tư
tưởng chính thống và quan niệm sáng tác văn học trung đại

- Một số tác giả tôn thất có tư tưởng tiến bộ, nhân đạo, hướng tới đời sống
người dân nghèo khổ: Trần Nguyên Đán, Miên Thẩm, Miên Trinh…

2.4.3. Nội dung sáng tác: Đa dạng

2.4.4. Hình thức tác phẩm

- Thể loại chủ yếu: thơ văn chữ Hán

- Bút pháp nghệ thuật: bút pháp cổ - trung đại với một số đặc trưng cơ bản như
ước lệ, tượng trưng, sùng cổ, quy phạm và giải quy phạm…

2.4.5. Tác giả tiêu biểu

Trần Quang Khải, Trần Nguyên Đán, Miên Thẩm, Miên Trinh,…

2.5. Tác giả nữ

2.5.1. Tiền đề hình thành

- Sự suy vi của hệ thống chính trị quân chủ Nho giáo đồng thời với sự trỗi dậy
của các luồng tư tưởng Phật giáo, Đạo giáo, tín ngưỡng dân gian… tạo nên
quan niệm “bình đẳng” về vị thế người nữ

- Điều kiện gia tộc quyền quý hoặc trí thức cấp cao tạo điều kiện nảy nở và khích
lệ tài năng tác giả nữ xuất thân tầng lớp trên

2.5.2. Đặc điểm loại hình

- Tác giả nữ không rõ tiểu sử, nhân thân; còn nhiều tồn nghi về cuộc đời cũng
như văn bản tác phẩm: Hồ Xuân Hương

- Tác giả nữ có tiểu sử rõ ràng hoặc sơ lược (phu nhân quan chức, tiểu thư con
quan, công chúa…): Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan, Lê Ngọc Hân,
Nguyễn Nhược Thị, Mai Am, Diệu Liên…

- Tác giả nữ đồng thời là nhân vật của sáng tác văn chương (truyện văn xuôi
chữ Hán): Điểm Bích, Ngô Chi Lan…

2.5.3. Nội dung sáng tác: Đa dạng

 2.5.4. Hình thức tác phẩm

- Thể loại chủ yếu: thơ văn chữ Hán, thơ Nôm, ngâm khúc
- Bút pháp nghệ thuật: bút pháp cổ - trung đại với một số đặc trưng cơ bản như
ước lệ, tượng trưng, sùng cổ, quy phạm và giải quy phạm…

2.5.5. Tác giả tiêu biểu:

Ngô Chi Lan, Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan, Mai Am, Diệu Liên…

2.6. Tác giả “mặt nạ”: hiện tượng “mượn giọng (nữ)” “thác lời (nữ)”

2.6.1. Tiền đề hình thành

- Sự suy vi của hệ thống chính trị quân chủ Nho giáo đồng thời với sự trỗi dậy
của các luồng tư tưởng Phật giáo, Đạo giáo, tín ngưỡng dân gian… tạo nên
quan niệm “bình đẳng” cho vị thế người nữ

- Ảnh hưởng trào lưu tiểu thuyết thị dân đời Minh - Thanh

2.6.2. Đặc điểm loại hình

- Tác giả nữ không rõ tiểu sử, nhân thân; còn nhiều tồn nghi về cuộc đời cũng
như văn bản tác phẩm: “hiện tượng Hồ Xuân Hương”

- Tác giả nữ đang tồn nghi: Lê Ngọc Hân

- Hiện tượng “mượn giọng nữ” trong ngâm khúc 

2.6.3. Nội dung sáng tác: Đa dạng

2.6.4. Hình thức tác phẩm

- Thể loại chủ yếu: thơ Nôm, ngâm khúc

- Bút pháp nghệ thuật: bút pháp cổ - trung đại với một số đặc trưng cơ bản như
ước lệ, tượng trưng, sùng cổ, quy phạm và giải quy phạm…

III. Khái lược tiến trình loại hình tác giả:

 - Giai đoạn văn học thế kỷ X – XIV: kiểu tác giả đa dạng: nhà sư, hoàng đế,
văn quan, võ tướng, quý tộc/tôn thất, nhà nho,...

- Giai đoạn văn học thế kỷ XV – XIX:

+ kiểu tác giả chủ yếu là nhà nho và vua chúa, quan chức;

+ sự phân loại tác giả nhà nho rõ rệt hơn: nhà nho bác học, nhà nho bình dân,
nhà nho hành đạo – ẩn dật - tài tử…;

+ các loại hình tác giả khác (thiền sư, đạo sĩ) chưa được giới thiệu văn bản rộng
rãi;
+ xuất hiện rõ rệt tác giả nữ có tiểu sử;

+ xuất hiện hiện tượng “mượn giọng nữ”

IV. Một số tác giả tiêu biểu

1.     Trần Nhân Tông (1258 - 1308): hoàng đế - thiền sư

2.     Nguyễn Trãi (1380 - 1442): nhà nho

3.     Nguyễn Du (1765 - 1820): nhà nho

4.     Hồ Xuân Hương (? - ?): tác giả nữ?, tác giả “mượn giọng”?

5.     Nguyễn Khuyến (1835 - 1909): nhà nho

1. Trần Nhân Tông (1258 – 1308)


* Tư tưởng trị quốc – an dân (Tấm lòng yêu nước)
a, Nhóm thơ tặng/ tiếp/ tiễn sứ Trung Hoa
5 bài trong 4 lần tiếp sứ Nguyên các năm 1289, 1291, 1295, 1301
(Tặng Bắc sứ Lí tư diễn, 1289), (Qũy trương hiển khanh)
Quỹ Trương Hiển Khanh xuân bính
Giá chi vũ bãi, thí xuân sam,
Huống trị kim triêu tam nguyệt tam.
Hồng ngọc đôi bàn xuân thái bính,
Tòng lai phong tục cựu An Nam.
- Phong tục điệu múa, trang phục, ẩm thực – Đơn sơ, dân giã nhưng là phong tục lâu đời
của người Việt – cốt lõi phong tục riêng của từng cộng đồng người
Xuân thái bình – món rau riêng của người Việt k có ở Trung Hoa – niềm tự hào dân tộc
- An Nam – cách người Trung Hoa (triều đại đô hộ VN) gọi VN (mở đầu là thời Đường –
An Nam đô hộ phủ)
Nghệ thuật ngoại giao – tạo sự hòa hiếu, thể hiện sự tôn trọng, nhún nhường mềm dẻo
của lịch sử
b, Nhóm thơ tức cảnh/ xúc cảnh. Tính thời sự
* Quân tu kí (2 câu ứng khẩu 1285 trên đường đánh giặc ở Vạn Kiếp)
“Cối Kê cựu sư quân tu ký
Hoan Diễn do tồn thập vạn binh”
(Cối Kê chuyện cũ ngươi nên nhớ
Hoan Diễn còn kia chục vạn quân)
- Cối Kê là điển cố đánh thắng quân Ngô của Việt vương công tiễn – câu chuyện lịch sử
dài lâu 10 năm trời giữa Ngô – Việt (Sự nếm mật nằm gai của VV công tiễn + mưu kế
của nàng Tây Thi)
- Hoan Diễn (Hoan ái + diễn châu: Thanh hóa và nghệ an)

* Tức sự (1288 trong lễ bái yết ở phủ Long Hưng, sau chiến thắng Bạch Đằng)
“Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
Sơn hà thiên cổ điện kim âu”
(Xã tắc hai phen bon ngựa đá
Non sông ngàn thuở vững âu vàng)
- Sử dụng đối ngẫu về chữ và ý – qua gian lao đã dựng được xã tắc sơn hà

* Xuân nhật yết Chiêu Lăng


“Tì hổ thiên môn túc
Y quan thất phẩm thông
Bạch đầu quân sĩ tại
Vãng vãng thuyết Nguyên Phong
(Quân thị vệ như hùm gấu, trước nghìn cửa đứng nghiêm túc
Áo mũ các quan đủ cả bảy phẩm
Người lính già đầu bạc còn đến ngày nay
Thường kể lại chuyện đời Nguyên Phong)
- Nguyên Phong (Trần Thái Tông) 1251 – 1258, 3 sự kiện thắng Mông – Nguyên (tháng
1); Thánh Tông lên ngôi (tháng 2), Nhân Tông chào đời (tháng 11)

Thiên Trường phủ


c, Nhóm văn bản VHCN

* Tư tưởng Thiền tông


a, Thiên Trường vãn vọng
Sự yên bình
Tâm trạng của nv trữ tình trước cảnh tn – bình thản, ấm áp
Những cặp phạm trù (tiền – hậu, hữu – vô) cặp phạm trù xuất hiện trong chức tác thiền
tông
Trạng thái tính không
Quy ngưu tận – tiếng sáo mục đồng – gợi ra bức tranh “thập mục ngưu đồ”
b, Hạnh thiên trường hành cung – 1289
c, Sơn phòng mạn hứng 1/2
Tự bản thân mình giải thoát
Không phải phàm tục – cớ gì phải đi tìm thần tiên – tức là đạt đến sự giác ngộ
Sự thanh tịnh của con người nơi tu hành trên núi
Hai câu thơ đầu đối nhau
Triêu hoa lạc/ dạ vũ hàn
Vũ trụ vô thường – sự tan biến rồi còn lại hoa tận, xuân tàn, vũ tình
Sự luân hồi, luân chuyển
d, Xuân vãn
ngắm cánh hoa rụng
e, Thơ kệ: Cư trần lạc đạo
g, Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca (kệ lối thất ngôn tứ tuyệt)
- Triết lí thiền Tông:
+ Bày tỏ con đường tu hành: đạt tới Tâm Giác ngộ tự tại thanh tĩnh; tư tưởng Tính Không
phá chấp nhị kiến hữu – vô, sắc – không… Vô Tâm/ vô ngôn; thể nghiệm tính Phật bình
đẳng
+ Thể hiện tư tưởng cởi mở, hòa hợp, từ bi, bao dung của Phật giáo: cư trần lạc đạo, hài
hòa Phật – Lão – Nho, đạo – đời, sống thuận theo tự nhiên, không cạnh tranh, không bài
xích dị đoan.

* Tâm hồn thi nhân (ca vịnh cảnh thiên nhiên)


Tính giao thoa giữa cảnh đẹp thiên nhiên/ cảm xúc thi nhân và triết lí/ ý vị Thiền Tông
hoặc triết lí/ ý vị Lão – trang trong những bài thơ tả cảnh chùa/ tiếng chuông, vịnh núi,
hoa mai, cảnh phủ đệ…
Tình yêu thiên nhiên luôn gắn với cảm quan Thiền, phong vị Thiền: vừa mang chất trữ
tình, lãng mạn vừa thanh sơ thoát tục
Tâm hồn thi nhân không xa lánh cõi thế mà luôn cảm nhận vẻ đẹp sống động của trần
gian
Các nhóm thơ:
+ Trữ tình/ lãng mạn: Xuân hiểu, nị nguyệ thập thất dạ, nguyệt, tảo mai, khuê oán
+ Thiên nhiên lưỡng tính đời thiền/ trần – đạo: xuân cảnh, lạng châu vãn cảnh, vũ lâm
thu vãn, đề phổ minh tự thủy tạ,…
+ Thiên nhiên mang đậm ý vị Thiền: Xuân vãn (mượn thiên nhiên nói về quá trình tu
hành), Động Thiên hồ thượng, Đăng Bảo Đài sơn; Sơn phòng mạn hứng, Đại Lãm Thần
Quang tự, Thiên trường vãn vọng
(mượn cảnh thiên nhiên bày tỏ triết lí/ ý vị Thiền)

Xuân hiểu
Nhất song bạch hồ điệp
Phách phách sấn hoa phi
(Một đôi bướm trắng
Phần phật cánh, bay đến với hoa)
Xuân cảnh
Dương liễu hoa thâm/ điểu ngữ trì
Họa đường thiềm ảnh/ mộ vân phi
(trong khóm hoa dương liễu rậm, chim hót chậm rãi
Dưới bóng thềm ngôi nhà chạm vẽ, mây chiều lướt bay)
(cách thưởng thức tiếng chim của người Thiền – chậm hơn, nhẹ hơn, yên tĩnh hơn)
(cảnh giới vô ngôn và vô tâm)

TỔNG KẾT
- Cảm hứng yêu nước: tinh thần tự chủ, tự tôn dân tộc, thái độ kiên định công lý, khát
vọng hòa bình lập trường ngoại giao hữu hảo; nội dung thơ văn bám sát thời kì chính trị -
ngoại giao của triều đại, đất nước
- Tư tưởng tôn giáo/ thiền tông: đề cao cảnh giới “cư trần lạc đạo” với tinh thần phá chấp,
giác ngộ triết lí tính không (vô tâm)
- Tâm hồn thi nhân và tình yêu thiên nhiên: tâm hồn nghệ sĩ đa cảm, tinh tế cảm nhận vẻ
đẹp thanh sạch của thiên nhiên; tư tưởng thoát tục và ý vị Thiền.
HÌNH THỨC NGHỆ THUẬT
- Thể thơ/ văn đa dạng:
+ VHCN (tấu, biểu, thơ tặng sứ…; kệ, ngữ, lục – văn chính luận, thơ ngoại giao, luận
thuyết tôn giáo
+ Truyện văn xuôi chữ Hán (văn sử truyện) có phong cách
+ Thơ chữ Hán: bút pháp “họa thần”, tâm trạng sâu kín
+ Phú Nôm, ca Nôm (người khai sinh)
+ Hình tượng thiên nhiên đa nghĩa
+ Dụng điển (Phật điển, Nho điển, Đạo điển)

NGUYỄN TRÃI
(1308 – 1442)
1. Thời đại
- Biến động dữ dội: chuyển giao triều đại + mất nước + chiến tranh vệ quốc + xây dựng
triều địa mới + mặt trái chính sự
- Chứng kiến gần đủ những thăng trầm của lịch sử suốt 62 năm cuộc đời
- Văn Trần 20n – Hồ 7n – Thuộc Minh/ chống Minh (Hậu Trần, Lam Sơn) 20n
Lê sơ 15n (oan án thời Lê Thái Tổ, Thái Tông)

NỘI DUNG TÁC PHẨM


CẢM HỨNG YÊU NƯỚC TRONG THƠ NGUYỄN TRÃI
1.a. Tư tưởng Nhân nghĩa – Thân dân
* An dân – cốt lõi nguyên lí nhân nghĩa
- Nhân nghĩa chi cử/ yếu tại an dân
Điếu phạt chi sư mạc tiên khử bạo
- “Hòa bình là gốc của nhạc, thanh âm là gốc của văn… Xin bệ hạ yêu nuôi muôn dân để
chốn xóm thôn không còn tiếng oán hận buồn than, như thế mới không mất cái gốc của
nhạc” (bàn về nhạc với Thái Tông)
- “Pháp lệnh không bằng nhân nghĩa… Người làm vua phải để lòng nơi nhân nghĩa, nhân
nghĩa..”
- Thương xót dân – nạn nhân của kẻ xâm lược: => Nhằm mục đích chính trị (+) đất
nước (dân trong mối qh với đất nước để từ đó khẳng định vấn đề chung của cộng đồng,
của thể chế chính trị)
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Bại nhân nghĩa nát cả đất trời”
Nạn nhân của bình đao, loạn lạc: Loạn hậu cảm tác
- Nhân nghĩa luôn gắn liền với an dân, thân dân
(Nhân vật cụ thể: kẻ ăn xin, người hành khất… - ta xếp vào cảm hứng nhân đạo)
(Khái niệm nhân dân chung với mối tương quan với quốc… - xếp vào cảm hứng yêu
nước)
- Đánh giá đúng vai trò và sức mạnh của nhân dân
+ Vai trò nòng cốt kháng chiến: “Yết can vi kì manh lệ chi đồ tứ tập…/ Đầu giao hưởng
sĩ phụ tử chi binh nhất tâm” => Kế thừa, phát huy tư tưởng thân dân đời Trần của Hưng
Đạo Vương
…. khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước” (Hưng Đạo
Vương trả lời Anh Tông), đoàn kết quân dân bằng tình nghĩa gia đình
+ Sức mạnh tôn tạo và lật đồ triều đại: Quan hải (đóng cửa biển)
“Phúc chu/ thủy tín/ dân do thủy
Thị hiểm/ nan bằng/ mệnh tại thiên”
(Thuyền bị lật mới tin dân như nước/ Cậy hiểm yếu thì khó dựa vì có mệnh)
- Nhân nghĩa gắn với độc lập dân tộc và khát vọng xây dựng triều đại hòa bình
“Duy ngã Đại Việt chi quốc/ Thục vi văn hiến chi bang” (bnđc)
Hạ Quy Lam Sơn – Kì Nhất: Quyền mưu bản thị dụng trừ gian/ Nhân nghĩa duy trì quốc
thể an (Quyền mưu vốn chỉ dùng để trừ gian/ Nhân nghĩa mới duy trì cho thế nước được
yên)
Quan duyệt thủy trận:
“Bắc hải đương niên dĩ lục kình
Yến an do lự cật nhung bình…
Thánh tâm dục dữ dân hưu tức
Văn trị chung tu trí thái bình
(Câu 1 – 2, 7 – 8: năm ấy đã diệt xong cá kình ở biển Bắc/ Nay đã yên ổn vẫn còn lo
luyện tập quân sự… lòng vua muốn cùng nhân dân nghỉ ngơi/ Rốt cuộc phải dùng văn trị
mà xây dựng cảnh thái bình)
(Văn trị, tức là đức trị)
- Nhân nghĩa gắn với đức Hiếu sinh, trọng bang giao, hòa bình
“Thể lòng trời bất sát, ta cũng mở đường hiếu sinh…
Nó đã sợ chết cầu hóa, mở lòng thú phục
Ta muốn toàn quân làm cốt, để dân nước nghỉ ngơi”
(bnđc)
“Thần vũ chẳng giết/ Đức lớn hiếu sinh/ Nghĩ đến kế lâu dài đất nước/ Thả cho về mười
vạn tù binh/ Nối hai nước tình hòa hiếu/ Tắt muôn đời lửa chiến tranh/ Đất nước vạn toàn
là thượng sách/ Cốt sao cho dân được an ninh”
Yêu thương cả con người nước bạn
1.b Tư tưởng trung hiếu – “nghĩa quân thân”
* Nghĩa quân thân sâu nặng của người quân tử không màng danh lợi
- Bui một tấm lòng trung lẫn hiếu/ Mài chăng khuyết nhuộm chăng đen (thuật hứng 24)
- Quân thân chưa báo lòng canh cánh/ Tình phụ cơm trời áo cha (ngôn chí 7)
“Hải khẩu dạ bạc hữu cảm 1”
“tuế nguyệt vô tình song mãn bạch
Quân thân tại niệm thốn tâm đan”
(năm tháng vô tình hai đám tóc mai đã bạc/ quân thân ghi dạ một tấc lòng son)
“hải khẩu dạ bạc hữu cảm 2”
“… bình sinh độc bão tiên ưu niệm
Tọa ủng hàn khâm dạ bất miên”
(suốt đời ôm chí “lo trước thiên hạ”/ ngồi khoác mảnh chăn lạnh thâu đêm không ngủ”)
* Trung hiếu day dứt hòa quyện với Lão Trang + Phật giáo
- Đề Đông Sơn tự
“Một niềm trung hiếu (với vua và cha) cứ vấn vít mãi trong lòng/ luống hổ với suối, thẹn
với rừng vì đã trái với lời thề xưa/ hơn ba chục năm qua chỉ là giấc mộng trên cõi trần/
vài tiếng chim kêu mới gọi ta tỉnh lại”
=> Mâu thuẫn tư tưởng chính trị - nhân sinh
(Nho >< Lão Trang – Phật giáo: căn nguyên từ thời đại, môi trường sống; nguồn gốc của
bi kịch oan khiên)
=> Tiểu kết: Tư tưởng yêu nước
* Tư tưởng nhân nghĩa – thân dân
- Nhân nghĩa gắn liền với “an dân”, thương dân”, coi trọng sức mạnh nhân dân, biết ơn
dân
- Nhân nghĩa gắn liền với độc lập dân tộc, khát vọng xây dựng triều đại vững mạnh, hòa
bình
- Nhân nghĩa gắn với đức hiếu sinh, tinh thần trọng bang giao hòa
=> Giao hòa CHNĐ
* Tư tưởng trung hiếu
- Nghĩa “quân thân” sâu nặng của người quân tử trung tín
- Nghĩa trung hiếu day dứt, hòa quyện với tư tưởng Lão trang + Phật giáo => Giao thoa
CH chính trị, đạo lý

CẢM HỨNG THẾ SỰ TRONG THƠ NGUYỄN TRÃI


Tiêu chí/ biểu hiện:
- Phản ánh, phê phán, cảm khái về mặt trái của xã hội, thói đời, nhân tình thế thái
- Phân tích, biện luận, lý giải, đánh giá, triết lý về xã hội, đặc biệt là về tiêu cực xã hội
2.a. Nỗi buồn về “lòng người” và thế cuộc
- Ngôn chí 5: Dễ hay ruột biển sâu cạn/ Khôn biết lòng người vắn dài
- Ngôn chí 19: Đã biết cửa quyền nhiều hiểm hóc/ Cho hay đường lợi cực quanh co
- Mạn thuật 4: Ngoài chưng mọi chốn đều thông hết/ Bui một lòng người cực hiểm thay
Oan thán (Chúng báng cô trung tuyệt khả liên/ Bao kẻ gièm pha một mình trung rất đáng
thương)
- Ký hữu: Bình sinh thế lộ thán truân chuyên/ Vạn sự duy ưng phó lão thiên
- Loạn hậu cảm tác: Thần châu nhất tự khỉ can qua/ Vạn tính ngao ngao khải nại hà?
- Thù hữu nhân kiến ký: Mạnh mẽ như rồng, lướt thuyền muôn hộc/ Dù yên ổn mà vẫn sợ
lật ở giữa dòng
2.b. Tự tôn nhân cách kẻ sĩ
- Thuật hứng 1/ Tức sự 3
CẢM HỨNG THIÊN NHIÊN
3. Tình yêu thiên nhiên và tâm hồn ẩn sĩ – nghệ sĩ
3.a. Thiên nhiên và tâm hồn ẩn sĩ
- Sống hòa mình vào thiên nhiên vạn vật, lắng nghe và cảm nhận vẻ đẹp thanh sơ, tĩnh
lặng của thiên nhiên (Tức sự 1)
(Đai lân phù hổ, lòng chăng ước – không mong ước mộng công danh)
(Trại đầu xuân độ)
(Mộ xuân tức sự)
- Tâm sự lánh đời, tư tưởng Lão Trang, mâu thuẫn day dứt giữa lí tưởng Nho gia với tấm
lòng trung hiếu và nỗi thất vọng, sự buông bỏ, dao động giữa Nho – Lão
(Côn Sơn ca – dẫu ở nơi nhàn nhã,
(Hoan bi ưu lạc diệt vãng lai/ Nhất vinh nhất tạ hoàn lương tục – tinh thần vô thường của
Phật giáo)
3.b. Thiên nhiên và tâm hồn nghệ sĩ
- Yêu say thiên nhiên và tự nhận mình là “ngâm ông” (Hí đề)
(Chu trung ngẫu thành – kì nhị)
- Chất tình tứ, lãng mạn (Ba tiêu)

NGUYỄN DU
Nguyễn Du sinh ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu 1765 (tức ngày 3/1/1766 Dương
lịch), ra đời ở kinh Thành Thăng Long, mất ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn 1820 (tức
ngày 16/9/1820 Dương lịch), hưởng dương 55 tuổi.
Nguyễn Du có tên tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, biệt hiệu là Hồng Sơn hiệp lộ
và Nam Hải điếu đồ. Quê quán gốc của ông ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà
Tĩnh.
Nguyễn Du là con thứ bảy của ông Hoàng giáp Xuân quận công Nguyễn Nghiễm,
làm thủ tướng Lê triều. Bác ruột ông là Nguyễn Huệ cùng anh trai Nguyễn Khản đều đỗ
tiến sĩ, làm quan đồng thời. Còn người anh thứ hai là Điều nhạc hầu, làm trấn thủ Sơn
Tây. Nhìn chung, Nguyễn Du thuộc dòng dõi trâm anh thế gia đệ nhất trong nước thời
bấy giờ.
Tuy nhiên, cuộc đời Nguyễn Du gắn liền với những biến động thời thế dữ dội:
Trịnh – Nguyễn phân tranh, các cuộc khởi nghĩa nông dân, cuộc chiến giữa Tây Sơn và
Nguyễn Ánh,… Chỉ trong 30 năm, giang sơn lắm lần đổi chủ: sau sự sụp độ của nhà Lê,
chính quyền Tây Sơn nắm quyền, Tây Sơn suy đồi, nhà Nguyễn thừa cơ thay thế. Mỗi
cuộc bể dâu kéo theo sự phân hóa, sự thay đổi lớn trong đời sống xã hội; sự thăng trầm
của các danh gia vọng tộc trong đó có họ Nguyễn Tiên Điền.
Giáo trình văn học trung đại Việt Nam đã chia cuộc đời Nguyễn Du thành bốn
chặng:
Chặng thứ nhất (1765 – 1780): Thời thơ ấu, Nguyễn Du sống trong vàng son
nhung lụa. Ấn tượng về quá khứ vàng son đã để lại trong lòng nhà thơ nhiều nuối tiếc.
Chặng thứ hai (1780 – 1786): Trong khoảng thời gian này, cuộc sống của Nguyễn
Du trong gia đình người anh cả bị xáo trộn bởi những biến cố lớn. Cũng chính từ đây,
Nguyễn Du lâm vào cảnh số phận long đong, “ăn nhờ hết miền sông đến miền biển”.
Chặng thứ ba (1786 – 1802): Nguyễn Huệ tiến quân ra Bắc, thành công diệt Trịnh.
Năm 1788, Quang Trung hoàng đế lên ngôi. Vua Lê Chiêu Thống bỏ chạy, triều Lê –
Trịnh sụp đổ đồng nghĩa với chỗ dựa của họ Nguyễn Tiên Điền không còn. Nguyễn Du
đau đớn, bàng hoàng, từng có suy nghĩ khôi phục nhà Lê song bất thành.
Chặng thứ tư (1802 – 1820): Sau khi Nguyễn Huệ băng hà, Tây Sơn lâm vào cảnh
diệt vong, triều Nguyễn được Gia Long tạo dựng. Nguyễn Du ra làm quan cho nhà
Nguyễn và được trọng dụng, nhưng ông không mấy mặn mà với con đường quan chức.
Năm Minh Mệnh nguyên niên (1820), ông được cử sang Tàu làm chánh sứ báo tang,
nhưng chưa kịp đi đã lâm bệnh qua đời.

Gia thế
Theo một bản gia phả của dòng họ Nguyễn ở huyện Nghi Xuân, Nguyễn Du sinh ngày 23
tháng 11 năm Ất Dậu (tức ngày 3 tháng 1 năm 1766 tại kinh thành Thăng Long.
Cha của Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm (1708 – 1775), sinh ở làng Tiên Điền, huyện
Nghi Xuân, Hà Tĩnh, tên tự Hy Tư, hiệu Nghị Hiên, biệt hiệu là Hồng Ngự cư sĩ, đậu Nhị
giáp tiến sĩ, làm quan đến chức Đại Tư đồ (Tể tướng), tước Xuân Quận công thời vua Lê
chúa Trịnh. Dinh cơ ông ở Thăng Long. Phường Bích Câu.

Mẹ là bà Trần Thị Tần[4] (24/8/1740 – 27/8/1778), con gái một người làm chức Câu kế.
Bà Tần quê ở làng Hoa Thiều, xã Minh Đạo, huyện Tiên Du (Đông Ngàn), xứ Kinh Bắc,
nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Bà Tần là vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm (kém chồng 32 tuổi,
sinh được 5 con, bốn trai và một gái).[5][6]
Về sau, Nam Dương công Nguyễn Doãn Miện (tức Nguyễn Nhiệm, là cháu của Trạng
nguyên Nguyễn Thiến) di cư vào Hà Tĩnh, trở thành vị tổ phụ của dòng họ Nguyễn Tiên
Điền.
Thời thơ ấu
Năm Đinh Hợi (1767), khi Nguyễn Du mới một tuổi, Nguyễn Nghiễm được thăng Thái
tử Thái bảo, hàm tòng nhất phẩm, tước Xuân Quận công nên Nguyễn Du thời đó sống
trong giàu sang phú quý.
Năm Tân Mão (1771), Nguyễn Nghiễm thôi giữ chức Tể tướng, Nguyễn Du theo cha về
quê, đến năm 13 tuổi thì mồ côi cả cha lẫn mẹ.
Năm Giáp Ngọ (1774), cha Nguyễn Du sung chức tể tướng, cùng Hoàng Ngũ Phúc đi
đánh chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Từ thời gian này Nguyễn Du chịu nhiều mất mát liền
kề.
Năm Ất Mùi 1775, anh trai Nguyễn Trụ (sinh năm 1757) qua đời.
Năm Bính Thân 1776 thân phụ ông mất.
Năm Mậu Tuất 1778, khi 12 tuổi, thân mẫu Nguyễn Du là bà Trần Thị Tần mất. Cũng
trong năm này, anh thứ hai của Nguyễn Du là Nguyễn Điều (sinh năm 1745) được bổ làm
Trấn thủ Hưng Hóa. Mới 13 tuổi, Nguyễn Du mồ côi cả cha lẫn mẹ nên ông phải ở với
người anh khác mẹ là Nguyễn Khản (hơn ông 31 tuổi).
Năm Canh Tý (1780), Nguyễn Khản là anh cả của Nguyễn Du đang làm Trấn thủ Sơn
Tây bị khép tội mưu loạn trong Vụ án năm Canh Tý, bị bãi chức và bị giam ở nhà Châu
Quận công. Lúc này, Nguyễn Du được một người thân của Nguyễn Nghiễm là Đoàn
Nguyễn Tuấn đón về Sơn Nam Hạ nuôi ăn học.
Năm Nhâm Dần (1782), Trịnh Sâm mất, Kiêu binh phế Trịnh Cán, lập Trịnh Tông lên
ngôi chúa. Hai anh của Nguyễn Du là Nguyễn Khản được làm Thượng thư bộ Lại kiêm
Trấn thủ Hưng Hóa, Thái Nguyên, tước Toản Quận công và Nguyễn Điều làm Trấn
thủ Sơn Tây.
Quỳnh Hải tức Quỳnh Châu thuộc trấn Sơn Nam xưa, nay là huyện Quỳnh Côi,
tỉnh Thái Bình, quê vợ của Nguyễn Du. Năm 1786, sau khi Nguyễn Khản thất lộc,
Nguyễn Du lánh nạn về Quỳnh Côi ở nhà anh vơ là Đoàn Nguyễn Tuấn ở xã Hải An (lúc
này Lê Chiêu Thống chưa chạy sang Trung Quốc (nguồn thi viện bài Quỳnh Hải nguyên
tiêu)
Mười năm ở quê vợ là quãng “Mười năm gió bụi”, bao cảnh cơ hàn, bần cực đã đến
với Nguyễn Du. Khi bố vợ là Đoàn Nguyễn Thục mất, người con trai lớn mất, Nguyễn
Du cùng người con trai nhỏ Nguyễn Tứ về quê cũ ở xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh
Hà Tĩnh. Trở lại quê, dinh cơ của cha đã tan hoang, anh em đôi ngã, Nguyễn Du thốt lên
“Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán” (Quỳnh Hải nguyên tiêu - trở về Hồng Lĩnh, gia đình
không còn, anh em lưu tán). Nguyễn Du được bà con họ tộc chia cho mảnh đất tại thôn
Thuận Mỹ làm nhà để ở. Và cũng từ đây, Nguyễn Du có biệt hiệu “Hồng Sơn liệp
hộ”(người đi săn ở núi Hồng) và “Nam Hải điếu đồ” (người câu cá ở bể Nam).
Thanh Hiên thi tập, Nguyễn Du làm trong thời kỳ còn hàn vi và có thể phân chia
ra làm ba giai đoạn:
1. Mười năm gió bụi (1786-1795) là thời gian ông lẩn trốn ở Quỳnh Côi.
2. Dưới chân núi Hồng (1796 - 1802), về ẩn ở quê nhà.
3. Làm quan ở Bắc Hà (1802-1804).
Năm Nhâm Tuất (1802), Gia Long lên ngôi, Nguyễn Du được bổ làm Tri huyện Phù
Dung (phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam); tháng 11 làm Tri phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam
(tỉnh Hà Tây). Năm Quý Hợi (1803), được cử cùng phái bộ nghênh tiếp sứ thần nhà
Thanh sang sắc phong cho vua Gia Long. Mùa thu năm Giáp Tý (1804), Nguyễn Du cáo
bệnh về quê. Năm Ất Sửu (1805), được thăng Đông Các Đại học sĩ, tước Du Đức hầu
(hàm ngũ phẩm). Tháng 9 năm Đinh Mão (1807) giữ chức giám khảo thi Hương ở Hải
Dương, sau xin về quê. Năm Kỷ Tỵ (1809), ông giữ chức Cai Bạ tỉnh Quảng Bình. Tháng
9 năm Nhâm Tuất (1812), Nguyễn Du xin nghỉ về quê 2 tháng để xây mộ cho anh là
Nguyễn Nễ, tháng 2 năm Quý Dậu (1813) có chỉ triệu về kinh, được thăng hàm Cần
Chánh điện học sĩ, cử đi sứ Trung Quốc với tư cách là Tuế cống Chánh sứ. Tháng 4 năm
Giáp Tuất (1814), Nguyễn Du trở về nước, có tập thơ “Bắc Hành tạp lục” và được vua
Gia Long thăng chức Hữu Tham tri bộ Lễ (hàm Tam phẩm). Mùa thu năm Kỷ Mão
(1819), được cử làm Đề điệu trường thi Quảng Nam, ông dâng biểu từ chối, được chuẩn
y. Tháng 8 năm Canh Thìn (1820) vua Gia Long mất, Minh Mạng lên ngôi, Nguyễn Du
được cử làm Chánh sứ sang nhà Thanh báo tang và cầu phong. Tuy nhiên, chưa kịp thực
hiện thì ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn (6/9/1820), Nguyễn Du bị cảm bệnh và mất tại
kinh thành Huế, hưởng thọ 55 tuổi.

* Phim tài liệu “Đại thi hào Nguyễn Du”:


Nguyễn Du – sự giao thoa giữa tam giác không gian 3 vùng văn hóa
Làng cổ Tiên Điền Nghệ An (núi Hồng Lĩnh và dòng Lam giang), dòng chảy văn hóa xứ
Nghệ. Văn hóa Hồng Sơn có 2 dòng văn rất là lớn: dòng văn Trường Đô ở xã Trường
Lộc, Tân Lộc và ở Nghi Xuân có dòng văn Tiên Điền, có truyền thống nhiều người làm
quan trong triều đình, đều đỗ đạt cao, đều say mê sáng tạo văn chương.
Vùng danh lam Phật tích Yên Lư (ảnh hưởng bởi quê mẹ Kinh Bắc).
=> Sinh thành nên con người – là sự tinh kết của 3 tam giác tự nhiên và nhân văn. Tam
giác thứ nhất có 3 đỉnh điểm là Bích Câu ở Thăng Long, Tiên Sơn Bắc Ninh và Nghi
Xuân xứ Nghệ(nhà sử học Lê Văn Lan). Tam giác thứ hai tạo nên Nguyễn Du chính là
tam giác huyết thống. Tam giác thứ ba là tam giác văn hóa, nơi ba nền văn hóa chung đúc
lại: văn hóa cung đình, văn hóa đô hình, văn hóa dân gian và dân tộc.
* Cốt cách làm nên Nguyễn Du vĩ đại: ở giai đoạn thời thơ ấu và niên thiếu
(cậu Chiêu Bảy Nguyễn Du)
Phim “Đêm hội Long Trì)
- Sự tài hoa là sự tài tình, dẫu tài tình khi lắm cho trời đất ghen.
- Khi ở Thăng Long cho đến tuổi lên 5, khi thì ở xứ Nghệ đến khi theo cha về quê nhà,
cho đến năm lên 10, cha mất; đến năm lên 12 mẹ mất. Từ năm 1778 đến 1783, Nguyễn
Du lại được đưa ra ra Thăng Long để có 5 năm gấm vóc nữa khi sống với người anh trai
cùng cha khác mẹ là tiến sĩ, bồi tùng Nguyễn Khản, nổi tiếng đại gia, tài tử, tài hoa nhất
kinh kì khi được chúa Trịnh Sâm coi như bạn thân thiết.
- Cũng là một thiếu gia công tử, chịu ảnh hưởng bởi cả văn hóa đài các nơi chốn kinh kì
lẫn văn hóa xứ Nghệ chân chất tính dân tộc, tuổi trẻ của Nguyễn Du đầy ắp cuộc phiêu
lưu văn chương và tình ái: khi thì làm thơ chữ Nôm lục bát, hẹn hò cùng người con gái
lái đò trên sông Nhị Hà; lúc lại dùng thể thơ ngũ ngôn tỏ tình người con gái hái sen bên
hồ Tây (bài thơ “Thái liên”)
“Hái, hái sen Hồ Tây
Hoa gương trên thuyền đầy
Hoa tặng người mình trọng
Gương tặng người mình say”
- Năm 1783, ở tuổi 18, đó là thời gian mà có rất nhiều biến động ập đến cơ đồ nhà chúa
Trịnh và anh trai Nguyễn Khản, Nguyễn Du đã kịp tới Sơn Lam, dự khoa thi Hương năm
Qúy Mão, nhận học vị sinh đồ, đỗ Tam Thương
- Những binh đao khói lửa, mở màn cho cảnh mà Nguyễn Du gọi đó là “thập tải phong
trần”, “mười năm gió bụi” của cuộc đời mình. Một ngàn kiêu binh cùng Tây Sơn Nguyễn
Huệ năm 1784 và 1786 đã đẩy một cậu ấm Chiêu Bảy vào vòng gió bụi lênh đênh.
(Sự kiện nổi loạn: vây kín dinh thự Nguyễn Khản, trong chốc lát hóa thành đất bằng.
Nguyễn Khản bắt được hung tin, hoảng hốt thay y phục, theo ngõ tắt chạy trốn thoát
được. Cậy có công phò chúa, rồi phò vua lên ngôi, lính Tam Phủ thực coi thiên hạ không ra
gì, tha hồ tác oai tác quái trong dân gian. Trước tình hình đó, một số người muốn củng cố
quyền lực cho nhà chúa và vị trí của mình như Quốc cữu Dương Khuông, Tham tụng Nguyễn
Khản… đã âm mưu giết hại, chia rẽ lính Tam Phủ để làm cho chúng suy yếu. Biết được âm
mưu này, lính Tam Phủ đến phủ chúa, ép Trịnh Khải phải giao nộp những kẻ chủ mưu cho
chúng xử tội. Nguyễn Khản hoảng sợ chạy trốn lên Sơn Tây, lính Tam Phủ kéo đến phá đổ
tan tành dinh thự của ông ta. Quốc cữu Dương Khuông vì là cậu ruột của chúa nên Trịnh
Khải phải năn nỉ mãi binh lính mới tha cho và phải chấp nhận đưa ra nhân vật thế mạng là
Chiêm Võ hầu Nguyễn Chiêm để chúng xử tử. Nguyễn Khản chạy thoát lên Sơn Tây nương
náu ở nhà em ruột là Nguyễn Điều đang giữ chức Trấn thủ xứ này”

Năm 1786, lấy vợ.


Tiếp tục nương náu ở làng Hải An, huyện Quỳnh Côi, trần Sơn Nam, tỉnh Thái Bình
“Thập tải phong trần” từ năm 1787 đến 1796, khi phải lưu lạc về sống nhờ nhà vợ
Từ tuổi 18 đến tuổi 30, với niềm cô trung với nhà Lê, Nguyễn Du chỉ còn cách đem hết
sự nhạy cảm trong tâm hồn trí thức công tử, quan sát, cảm nhận, nghiền ngẫm,
Chỉ có nơi văn chương kí thác nỗi lòng với bao cảnh ngộ, tâm trạng => Làm nên “Thanh
Hiên thi tập”
Ở đây có sự đổi thay trong suy nghĩ của chàng trai thời loạn, khi đã thoát khỏi “tháp ngà
ngã nhân” mà hướng về miền tha nhân.
Năm 1796, với mái tóc bạc trắng khi mới tuổi 30, Nguyễn Du rời quê vợ Thái Bình, tiếp
tục bước vào vòng dạt trôi gió bụi phong trần; nhưng về quê cha làng Tiên Điền.
Nguyễn Du bên bờ sông Lam, dưới chân núi Hồng trong những năm cuối cùng của thế kỉ
18 đầy biến động, tang thương; mới có 2 tên là Hồng sơn hiệp lộ và Nam Hải điếu đồ.
Nỗi niềm người tráng sĩ bạc đầu chỉ biết buồn bã, ngẩng đầu lên mà hỏi trời cao, cay
đắng khi mọi thứ đều mờ mịt. Và trong cái mờ mịt ấy, Nguyễn Du đã có phen bỏ trốn gia
đình theo Gia Long (Nguyễn Ánh). Việc bất thành, Nguyễn Du bị tướng nhà Tây Sơn là
Nguyễn Văn Thận bắt giam 3 tháng. Nhưng cũng chính trong thời khắc này, ông còn
hướng vào mỗi những khổ tâm của bản thân mà hướng rộng ra hơn là nỗi đau nhân tình
thế thái của muôn kiếp chúng sinh, để cho ra đời một áng văn chương chữ Nôm bất hủ
(184 câu): Văn chiêu hồn – tiếng nói thương yêu, xót thương cho thập loại chúng sinh
“Bốn bề gió bụi tình nhà việc nước mà rơi lệ
Mười tuần lao tù nỗi lòng thắc thỏm cái sống chết”

Trong những năm trở về xứ Nghệ, khi giao duyên cùng cô gái phường vải, thì đó chính là
lúc của sự trỗi dậy cốt cách văn nhân tài tử; kết hợp vào đấy men say văn hóa xứ nghệ
với 48 câu thơ trong “Thác lời trai phường nón” và 98 câu văn tế “Tế sống Trường Lưu”.
=> Tiền đề sáng tạo của một con người trải qua một cuộc bể dâu “Đoạn trường tân thanh”
(tức “Truyện Kiều)
1802 – 1820: Ra làm quan nhà Nguyễn
1805 – 1809 (trong thời gian ông làm quan Đông Các)
Nhưng gần đây có thể đẩy thời gian sáng tác truyện Kiều sớm hơn trước khi ND ra làm
quan nhà Nguyễn
Nhiều học giả cho rằng Nguyễn Du viết ĐTTT khi ông ở Tiên Điền.
1802: Làm Tri huyện huyện Phù Dung, trấn Sơn Nam và Tri phủ Thường Tín, Hà Tây
1803: Tiếp sứ thần nhà Thanh (TQ) tại ải Nam Quan
1805: Thăng Đông Các Đại học sĩ, tước Du Đức hậu
1807: Làm Giám khoa thi Hương tại Hải Dương
1809: Làm Cai Bạ tỉnh Quảng Bình
1813: Thăng Cẩm Chánh điện học sỹ và làm Chánh sứ đi Trung Quốc
1815: Thăng chức Hữu Tham tri bộ Lễ
=> 19 năm làm quan, Nguyễn Du sống âm thầm, lặng lẽ. Ông vẫn làm hết công việc, đi
sứ nhưng không bày tỏ, đăm đắm vào hoạt động sáng tác. Khi ông theo về nhà Nguyễn,
sự ám ảnh về sự sụp độ, một ẩn ức, một suy tư – cá tính nhà nghệ sĩ. Không hướng vào
con đường công danh bổng lộc mà hướng vào thế giới nội tâm.
- Là một đại quan, nhưng trên hết và trước hết ông là thi sĩ; luôn đau lòng vì nhân tình thế
thái. Long Thành cầm giả ca là những kỉ niệm, dấu ấn đặc biệt nhất trong thời gian ông
làm quan
1813, làm Chánh sứ đi Trung Quốc, được trở lại kinh thành Thăng Long và bất ngở,
trong một buổi kết tân, gặp lại vị ca nương từng quen biết.
ND vẫn còn và đau đáu nỗi niềm “Bất tri tam bách dư niên hậu/ Thiên hạ hà nhân khấp
Tố Như”

* Vô âm nữ (Hồ Xuân Hương)


Xuân tình – sinh thực khí nữ - đề cao khoái lạc
Nhưng lại thấy đó là may mắn, không có l, không bị chuột tha, ong đốt – cái nhìn lạc
quan
Thoát khỏi điều tiếng làm dâu

* Bánh trôi nước:


Vẻ đẹp hình thể trắng tròn và vẻ đẹp phẩm chất
Tấm lòng son – tấm lòng thủy chung, nhân cách tốt đẹp
Trắng và tròn – ngực, mông – nặn thế nào cũng không dời đổi
Qua nghĩa phồn thực – nó hòa quyện vào ý nghĩa tâm tình – đẹp toàn vẹn về hình thể -
cuộc đời gian truân, chìm nổi – chịu sự đối xử không công bằng của giới nam quyền

* Sự phá cách trong thơ làng cảnh Nguyễn Khuyến

VĂN HỌC TRUNG ĐẠI – CÔ MỸ PHƯƠNG


THỂ LOẠI VÀ NGÔN NGỮ VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM

A/ GIỚI THIỆU CHUNG


I. Khái niệm, đặc trưng, phân loại thể loại văn học
1. Khái niệm
- Thể loại (genre) là một thuật ngữ bắt nguồn từ tiếng Pháp, có nguồn gốc Latin
(genus) được dùng để chỉ sự phân loại văn học. Nó được sử dụng tương thông với
các khái niệm thể, văn thẻ trong lí luận cổ đại Trung Quốc để chỉ dạng thức và
hình thái cụ thể của tác phẩm văn học, tồn tại tương đối ổn định, gắn liền với cách
thức tổ chức tác phẩm được quy định bởi phương thức chiếm lĩnh và phản ánh hiện
thực mang tính đặc thù.
- Thể loại:
tức nói đến kiểu cấu tạo văn bản/ loại hình tác phẩm mà có sự thống nhất về mặt
hình thức: kết cấu, bố cục, ngôn ngữ,… và nội dung: đề tài, cảm hứng,… Tương
ứng với một nội dung nhất định, có một hình thức nhất định.
=> Đặc điểm mang tính chất ổn định.
“Thể loại tác phẩm văn học là khái niệm chỉ quy luật loại hình của tác phẩm, trong
đó tương ứng với một loại nội dung nhất định có một loại hình thức nhất định, tạo
cho tác phẩm một hình thức tồn tại chỉnh thể” (giáo trình LLVH)
2. Đặc trưng
- Tính lịch sử:
- Tính dân tộc
- Tính ổn định, thống nhất
+ Thể loại văn học bao giờ cũng có sự thống nhất, quy định lẫn nhau giữa đối
tượng biểu hiện, miêu tả của tác phẩm và hình thức tư duy sáng tạo của nhà văn,
phương thức thể nghiệm tình cảm trong sáng tạo, hình thức bố cục, kết cấu của tác
phẩm, đặc điểm thủ pháp biểu hiện và vận dụng ngôn ngữ,…
(thể loại – loại hình sáng tác – chuỗi những sáng tác có sự lặp lại có quy luật các
yếu tố của tác phẩm)
<Tiến trình: Manh nha xuất hiện – tạo được dạng thức ổn định – biểu hiện ra thành
quy phạm>
=> Mỗi thể loại lại tạo ra một kênh giao tiếp riêng với người đọc, đòi hỏi ở người
đọc cách tư duy, nhận thức, truyền thống và kinh nghiệm riêng.
- Tính vận động, biến đổi
+ Mỗi thể loại được xác định với những nguyên tắc tổ chức nghệ thuật đặc thù (thi
pháp không gian, thời gian, thi pháp cốt truyện, thi pháp nhân vật) nhưng nó không
đứng yên mà biến đổi không ngừng do sự chi phối của quan niệm văn học và nhu
cầu xã hội ở mỗi thời kì.
+ Nguyên tắc mang tính phương pháp luận trong nghiên cứu văn học sử dưới góc
nhìn thể loại là nguyên tắc hệ thống: Khảo sát thể loại trong mối quan hệ tương tác
với nhau, trong cả mối liên hệ với các loại hình nghệ thuật khác như âm nhạc, hội
họa, kiến trúc,…
+ Nguyên tắc mang tính phương pháp luận trong nghiên cứu thể loại là nguyên tắc
loại hình, lịch sử: Nhìn nhận thể loại như một hiện tượng lịch sử, vừa ổn định vừa
biến đổi không ngừng.
3. Phân loại
* Phương Tây: Nghệ thuật thơ ca (Aristole) – cuốn lí luận văn học, nghệ thuật đầu
tiên của châu Âu đề cập đến 4 loại hình thơ ca (văn học): Sử thi, bi kịch, hài kịch
và thơ trữ tình.
* Trung Quốc:: Ban Cố (Thiên Nghệ văn chí, sách Hán thư), Nhâm Phàng (Văn
chương duyên khởi), Lưu Hiệp (văn tâm điêu long), Tiêu Thống (văn tuyển),…
* Việt Nam:
- Trước thể kỉ XVIII: Chỉ có một số kiến giải mang tính riêng lẻ về đặc điểm, bản
chất của số ít thể loại, chủ yếu là thi ca
- Thế kỉ XVIII – XIX: Các thi tuyển, văn tuyển: Việt âm thi tập, Tình tuyển chư
gia luật thi, Trích diễm thi thập, Hoàng Việt thi tuyển,…; các công trình biên khảo
về thư tịch của Lê Qúy Đôn (Hiến chương – thi văn – truyện kí – phương kĩ); Phan
Huy Chú (Hiến chương, Thi văn, Truyện kí),…
Thời hiện đại: Phan Kế Bính, Bùi Kỉ, Dương Quảng Hàm,….
=> Các nhà nghiên cứu, học giả xác lập những tiêu chí nhận diện thể loại khác
nhau => Hình dung về hệ thống thể loại theo cách thức khác nhau

a, Một số quan niệm phân chia thể loại


- “Chia ba”: quan niệm thể loại văn học phương Tây: thơ – tiểu thuyết – kịch (căn
cứ pương thức phản ánh hiện của tác phẩm)
- “Chia bốn”: quan niệm thể loại văn học Trung Hoa (Lục Cơ, Tiêu thống, Lưu
hiệp): Thơ ca – văn xuôi – tiểu thuyết – kịch (căn cứ hình thức lời nói, cấu trúc văn
bản)
- “Chia năm”: quan niệm văn học Việt Nam: thơ ca – văn xuôi – tiểu thuyết – kịch
– kí và văn chính luận (cáo, chiếu, biểu, hịch, tuyên ngôn độc lập, thư, văn bia, văn
tiểu phẩm…)

II. Hệ thống thể loại văn học trung đại Việt Nam
1. Phân loại
- Nguồn gốc: Thể loại văn học có nguồn gốc ngoại lai – thể loại văn học dân tộc
- Văn tự: Thể loại văn học gắn với văn tự Hán – thể loại văn học gắn với văn tự
Nôm
- Mục đích sáng tác (phương thức tư duy nghệ thuật): Thể loại văn học chức năng
(hành chính, lễ nghi – tôn giáo) – thể loại văn học nghệ thuật
- Hình thức lời văn: Thể loại thơ ca – thể loại văn xuôi
- Phương thức phản ánh, hình thức lời văn: vận văn, biền văn/ tản văn, kịch bản
văn học
2. Đặc trưng
a, Phản ánh đặc thù của nền văn học trẻ
- Tiếp thu thể loại: trong suốt tiến trình văn học trung đại Việt Nam
- Việt hóa, dân tộc hóa thể loại có nguồn gốc ngoại lai
(tiểu thuyết chương hồi)
- Sáng tạo thể loại
(tạo ra các thể loại nội sinh: ngâm khúc, truyện thơ nôm)
=> Nhìn nhận tiến trình văn học theo tiến trình thể loại:
- Giai đoạn đầu: tiếp thu thể loại và Việt hóa thể loại
- Giai đoạn tiếp theo: tiếp thu và Việt hóa thể loại
- Giai đoạn cuối: tiếp thu thể loại, Việt hóa thể loại, sáng tạo thể loại. Thể loại nội
sinh giữ vị trí ưu thắng
b, Đa dạng, phong phú, mang tính loại hình đậm nét, phản ánh những đặc trưng
của văn học trung đại VN
- Đa dạng, phong phú: Số lượng phong phú, nguồn gốc, hình thức đa dạng
- Mang tính loại hình đậm nét: đề cao khuôn mẫu, công thức, quy phạm.
- Phản ánh những đặc trưng của văn học trung đại Việt Nam
+ Thể hiện quan niệm rộng về văn học: bao gồm tất cả các thư tịch, trước tác (văn
học chức năng và văn học nghệ thuật)
+ Thể hiện tính chất văn – sử - triết bất phân (tính nguyên hợp, tính đa chức năng)
“Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại VN” (Trần Đình Sử)
“Không một thể loại nào của văn học nào thuần túy văn học” – dung nạp các chức
năng phi văn học (văn sử triết bất phân)
“Không thể loại nào không đạt tới chất văn học”
+ Đề cao chức năng giáo huấn
c, Tính không thuần nhất
- Hệ quả của quan niệm “văn – sử - triết” bất phân. Xuất phát từ quan niệm không
chặt chẽ về thể loại và người sáng tạo
(Lan trì kiến văn lục – tập truyện truyền kì tiêu biểu của 18 - 19
Truyện kì mạn lục – thống nhất lối viết…
Dung nạp của nhiều lối viết: truyện truyền kì có nhiều yếu tố kì ảo, kí ghi chép sự
thật, truyện kí…
Vũ Trung tùy bút – Phạm Đình Hổ - tính khồng đồng bộ của tác phẩm trong tập
sáng tác
Có nhiều thiên là truyện, truyện kí và truyện truyền kì
Tiểu thuyết chương hồi – văn xuôi, tản văn xen vào đó là bài thơ)
- Sự giao thoa giữa các thể loại văn học chức năng và văn học nghệ thuật, truyện –
sử, truyện – kí, thi – kệ,…
- Sự đan xen thể loại trong văn bản tác phẩm: cả quy mô tập tác phẩm và quy mô
tác phẩm
d, Tên gọi thể loại:
- Thường xuất hiện ở phần cuối nhan đề tác phẩm: Thiên đô chiếu, Dụ chư tì tướng
hịch văn, Bình Ngô đại cáo, truyền kì mạn lục…
- Sự không đồng nhất giữa tên thể loại và bản chất tác phẩm (Bích Câu kì ngộ kí,
Tục công dư tiệp kí, Kim Hoa thi thoại, truyền kì tân phả)
(thể loại là kí nhưng thực ra là truyện truyền kì, có du nạp nhiều yếu tổ kì ảo)
(truyền kì tân phả - thể loại phả mang tính ghi chép – mang đậm yếu tố của truyện
truyền kì)
(Thể loại mạn lục – tự do + sáng tác)
(Hòang lê nhất thống chí – ý thức họ đang làm sử, thời trung đại vị thế của sử cao
hơn – tư duy của nhà Nho: sử có vị thế cao)
a, Các thể loại vần văn (thơ ca)
- Thơ chữ Hán (cổ phong, đường luật, từ khúc…)
- Thơ Nôm (cổ phong, đường luật)
- Diễn ca (lịch sử/ tôn giáo) <Thiên Nam Minh giám)
- Ngâm khúc
- Truyện thơ Nôm
- Hát nói
b, Các thể loại biền văn, tản văn, văn xuôi
(văn xuôi = biền văn + tản văn)
- Biền văn:
+ Công văn (chính luận): hịch, cáo, chiếu, biểu, tấu, sớ
+ Phú: văn tế, (Hán, Nôm), câu đối
- Tản văn: (hình thức lời văn nhưng k phải thể loại)
+ Kí: tùy bút, kí sự, bi kí…
+ Văn thuyết minh: tự, dạt, dẫn, thư
+ Văn khảo cứu: khảo, luận, biện, thuyết
+ Văn chép sử: bản kỉ, liệt truyện, chỉ..
- Văn xuôi:
+ Truyện ngắn: hành trạng, thần tích, chí phái, truyện truyền kì
+ Tiểu thuyết chương hồi
c, Kịch bản văn học
- Tuồng/ hát bội
- Chèo
3. Hệ thống thể loại
* Giai đoạn hình thảnh (thế kỉ X – XIV)
- Thể loại văn học tiếp nhận từ Trung Quốc, gắn với văn tự Hán chiếm ưu thế
- Thể loại văn học chức năng ở vị trí trung tâm – được sử dụng, được hậu thuẫn
trong ngoại giao
- Thể loại văn học nghệ thuật đạt nhiều thành tựu lớn. Thơ ca và văn xuôi đều có
nhiều thành tựu trong các tác phẩm thơ ca lớn hơn.
* Giai đoạn phát triển (thể kỉ XV – XVII)
- Bên cạnh những thể loại có nguồn gốc ngoại lai, thể loại văn học dân tộc cũng
được kiến tạo (thơ Nôm Đường luật, diễn ca lịch sử, truyện Nôm)
- Văn học chữ Nôm có bước trưởng thành mạnh mẽ
- Văn học nghệ thuật dần đi vào trung tâm
- Truyện văn xuôi ngày một phát triển
* Giai đoạn đỉnh cao (thế kỉ XVIII – giữa XIX)
- Thể loại văn học nghệ thuật giữ vị trí trung tâm: chữ Hán và chữ Nôm, thơ ca và
văn xuôi, ngoại nhập và nội sinh
- Thể loại văn học dân tộc phát triển rực rỡ, văn học nôm có nhiều thành tựu đỉnh
cao
- Hệ thống thể loại ngoại nhập có sự biến đổi mạnh mẽ, phù hợp với nhu cầu thể
hiện những nội dung mới (phản ảnh hiện thực, biểu đạt cảm xúc cá nhân của con
người)
* Giai đoạn kết thúc (nửa cuối thế kỉ XIX)
- Thể loại văn học chức năng và văn học nghệ thuật song hành
- Xuất hiện văn học quốc ngữ ở Nam Bộ
III. Ngôn ngữ văn học trung đại Việt Nam
I. Ngôn ngữ và chữ viết
* Ngôn ngữ:
- Chữ viết:
+ Chữ Hán:
. Người Việt tiếp xúc với chữ Hán từ thời Bắc thuộc, đến thế kỉ X, đã nắm vững và
sử dụng thành thục chữ Hán trong các văn bản hành chính, tôn giáo, văn học
. Các triều đại phong kiến thời độc lập chọn chữ Hán làm chữ viết chính thức
(chính trị, xã hội, bang giao)
- Từ thế kỉ X trở về trước: tiếng Hán, chữ Hán là ngoại ngữ. Từ thế kỉ X trở về sau:
chữ Hán là một văn tự.
+ Chữ Nôm:
. Chữ viết được cấu tạo từ chữ Hán, dùng để ghi âm tiếng Việt
. Thời điểm được hình thành: thế kỉ IX – XIII
. Thời điểm được sử dụng trong sáng tác văn học: thế kỉ XIII
- Sự khác nhau giữa chữ Hán và chữ Nôm
+ Chữ Hán: ghi âm Hán Việt
+ Được chuẩn hóa, thống nhất hóa, sử dụng trong điều hành chính quyền
+ Nghiêng về sắc thái cổ xưa, cổ kính, cao cả, tao nhã, trừu tượng, khái quát,…
(được tiếp thu qua thư tịch, kinh sử, văn chương…)
+ Nghiêng về tính quy phạm
* Chữ Nôm: ghi âm tiếng Việt
- Chưa được chuẩn hóa, điển phạm hóa, được sử dụng trong điều hành chính
quyền.
2. Chữ Nôm và văn học trung đại

2. Bộ phận văn học chữ Hán và bộ phận văn học chữ Nôm
(Chữ Hán - điển phạm hóa, cố định hóa, chuẩn mực hóa – gắn liền với lớp nghĩa nhất
định ít gây tranh cãi >< Chữ Nôm: cùng một chữ viết đọc ra nhiều âm tiếng Việt khác
nhau, sử dụng phức tạp hơn…)
a, Bộ phận văn học chữ Hán
- Hình thành sớm, tồn trại trong suốt tiến trình văn học trung đại Việt Nam
(những tác phẩm khai sinh ra nền văn học viết dân tộc)
- Lực lượng sáng tác: tầng lớp trí thức phong kiến
- Phạm vi nội dung: chính sự, lí tưởng, luân lí, đạo đức, tôn giáo, lịch sử (biểu đạt cái cao
cả, tao nhã)
- Thể loại: thể loại văn học ngoại nhập, thể loại văn học chức năng, thể loại đa dạng, cả
thơ lẫn văn xuôi
- Phạm vi phổ biến: tầng lớp trí thức
- Đặc điểm: thiên về tính quan phương chính thống, tính giáo husaans, nói chí tải đạo
b, Bộ phận văn học chữ Nôm (ghi âm trực tiếp tiếng Việt, nghe là hiểu)
- Ra đời muộn hơn
- Lực lượng sáng tác: tầng lớp trí thức phong kiến, trí thức bình dân
- Phạm vi nội dung: những vấn đề của cuộc sống hằng ngày, cuộc sống đời thường (biểu
đạt cái thông tục, đời thường)
- Thể loại: thể loại văn học nội sinh, thể loại văn học nghệ thuật, đa phần là thể loại thơ
ca
- Phạm vi phổ biến: đông đảo các tầng lớp xã hội
- Đặc điểm: tính dân chủ, tính dân tộc, chứa đựng tinh thần cách tân
3. Tinh chất song ngữ của văn học trung đại Việt Nam
* Sự tồn tại song song hai dòng văn học Hán va Nôm
* Hiện tượng tác giả song ngữ: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê
Thánh Tông
Tác giả thuần nhất: Lý – Trần, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Đình Chiểu, Tú Xương,…
* Hiện tượng tác phẩm song ngũ: Truyền kì mạn lục (tân biên truyền kì mạn lục), Chinh
phụ ngâm khúc, Thu dạ lữ hoài ngâm (Kim dạ…),
* Sự xâm nhập, pha trọn của văn Hán và Nôm, nhan đề - nội dung đan xen ngôn ngữ
trong văn bản

I. KHÁI QUÁT VỀ THƠ CA TRUNG ĐẠI VIỆT NAM


1. Khái niệm thơ ca
* Nội dung: phản ánh cuộc sống, thể hiện tâm trạng, cảm xúc, bộc lộ tư tưởng của chủ
thể trữ tình
2. Diễn tiến của thơ ca trung đại VN
* Thể thơ có nguồn gốc Trung Quốc viết bằng chữ Hán:
- Các thể thơ ca vay mượn từ TQ, bằng chữ Hán: xuất hiện từ thế kỉ X và tồn tại suốt thời
kì trung đại. Tiêu biểu thơ cổ phong, thơ Đường luật,… Tác giả: Trần Nhân Tông, Phan
Sư Mạnh, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Thánh Tông, Nguyễn Du, Cao Bá Quát,
Nguyễn Khuyến,…
Thơ Đường luật – quy luật cực kì chặt chẽ
Nhị tứ lục phân minh
2 nhóm: 4 câu và 8 câu trong một bài
Thơ cổ phong: Không có những quy định và lề lối chặt chẽ như thơ Đường luật
Thơ cổ phong không phân đối chặt chẽ
Gần như không có yêu cầu về đối
* Thể thơ có nguồn gốc TQ viết bằng chữ Nôm: xuất hiện từ thé kỉ XIII và chính thức
phát triển vào thế kỉ XV. Tiêu biểu thơ Nôm đường Luật. Tác giả: Nguyễn Trãi, Nguyễn
Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Khuyến, Tú Xương
* Thể thơ ca do người Việt tạo nên: xuất hiện từ khoảng thế kỉ XVI, tiểu biểu thơ lục bát,
song thất lục bát, thơ hát nói
Tác giả: Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Chu Mạnh Trinh, Dương Khuê
3. Đặc điểm của thơ ca trung đại Việt Nam
- Kết hợp tỏ chí và tỏ tình: quan niệm “thi dĩ ngôn chí”, chí trong ý chí, chí hướng; tình
trong cảm , cảm xúc/ Thơ trung đại không chỉ thể hiện tâm tư, tình cảm mà còn có vai trò
quan trọng trong việc truyền dẫn tư tưởng, triết lí, bài học, giáo huấn… => Coi trọng
chức năng thực tiễn của thơ ca (đánh giặc, can gián, truyền giáo, ngoại giao, phúng
điếu,..)
- Thơ ca trung đại đại diện cho tieengsnois của tập thể, của cộng đồng: tác giả ít xưng
danh (tên riêng, sử dụng đại từ nhân xưng ngôi thú nhất), câu thơ thường bị tỉnh lược chủ
ngữ => Chủ thể trữ tình là tác giả, như cũng có thể đại diện cho tất cả mọi người cùng
hoàn cảnh, tâm trạng.

TỔNG HỢP ĐẶC ĐIỂM NHẬN DIỆN THƠ ĐƯỜNG LUẬT


(tạp chí văn hóa nghệ thuật)
1. Xung quanh khái niệm thơ Đường luật và thơ Đường luật Việt Nam

Thơ Đường luật

Do thơ Đường luật là thể thơ ngoại nhập từ Trung Quốc nên người Việt Nam tiếp nhận
toàn bộ những quy định cách luật do các thi nhân đời Đường đề ra. Vì thế, khái niệm thơ
Đường luật từ bao đời nay được sử dụng khá thống nhất. Tuy nhiên vẫn có lúc, khái niệm
này chưa được dùng chính xác, thậm chí có sự nhầm lẫn với các khái niệm khác.

Cách nhầm lẫn phổ biến nhất là nhầm khái niệm thơ Đường luật với khái niệm thơ
Đường như Lạc Nam (Phan Văn Nhiễm) trong Tìm hiểu các thể thơ (1995).

Một số khác lại nhầm khái niệm này với khái niệm luật thi như Phạm Huy Toại trong
Đường luật chỉ nam (1952). Ngay trong cuộc đấu tranh mới - cũ của thơ ca những năm
1932 - 1945, khái niệm này ít nhiều cũng đã bị đồng nhất với khái niệm thơ cũ hay đánh
đồng với khái niệm thơ cổ điển...

Với những trường hợp như Lạc Nam, Phạm Huy Toại, sự nhầm lẫn do không nắm chắc
kiến thức về lý luận, dùng theo thói quen. Còn sự nhầm lẫn với thơ cổ điển do thơ Đường
luật đã có sự gắn kết lâu đời với thơ ca cổ điển Việt Nam, giữ vị trí độc tôn trong suốt
thời trung đại. Vì thế, thơ Đường luật đã đại diện cho thơ cổ điển từ góc độ thể loại.

Còn sự nhầm lẫn với khái niệm thơ cũ, có phức tạp hơn. Bởi đây là một khái niệm mới
phát sinh ở đầu TK XX, do phái mới đặt ra để phân biệt với thơ mới. Ngay từ năm 1942,
trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh, Hoài Chân, khi tìm cách xác định lại các khái
niệm thơ mới, thơ cũ, đã cho rằng cái danh hiệu thơ cũ đã dùng nhiều lần nhưng cuối
cùng vẫn mỗi người hiểu một cách. Vì thế khi mới ra đời, khái niệm này được phái mới
dùng để chỉ lối thơ Đường luật (chủ yếu là lối thất ngôn bát cú trên các báo công khai hồi
đó), còn phái cũ lại nhân việc thơ Đường luật bị phê phán mà đồng nhất thơ cũ với thơ cổ
điển.

Sau này nhân tìm hiểu phong trào thơ mới, nhiều học giả đã xác định lại khái niệm thơ cũ
để phân biệt với khái niệm thơ Đường luật. Trần Đình Hượu viết: “Đồng nhất thơ cũ với
Đường luật thì họ phải phủ nhận cả Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, cả
những nhà thơ Trung Hoa mà chính họ cũng tôn sùng” (1). Còn Nguyễn Tấn Long lại
khẳng định: “Từ trước đến nay đã có nhiều người nói đến và cắt nghĩa thơ mới, thơ cũ.
Họ phân tách cái khác biệt về hình thức và nội dung giữa hai thứ thơ ấy. Nói đến thơ cũ
họ nhìn thẳng vào thể thơ Đường luật thất ngôn bát cú, cũng chỉ gọi thể thơ ấy là cũ mà
thôi... Còn cũ hơn thơ Đường luật nữa, vẫn không bị lấy nó làm đối tượng của thơ mới.
Thế thì cái mới, cũ chỉ là hai danh từ để chỉ sự thay đổi của nền thi ca trong một thế hệ
chứ không phải để minh định hình thức và nội dung giữa hai thể thơ” (2).

Thơ Đường luật phải được hiểu đúng là khái niệm loại thể, phân biệt hoàn toàn với các
khái niệm vừa nêu. Theo chúng tôi, nên thống nhất theo cách hiểu như sau: “Thơ Đường
luật (thơ cận thể) là thể thơ cách luật ngũ ngôn hoặc thất ngôn được đặt ra từ đời Đường
ở Trung Quốc. Có ba dạng chính: thơ bát cú (mỗi bài tám câu), thơ tứ tuyệt (mỗi bài bốn
câu) và thơ bài luật (dạng kéo dài của thơ Đường luật), trong đó thơ bát cú, nhất là thơ
thất ngôn bát cú (mỗi bài tám câu, mỗi câu bảy chữ) được coi là dạng cơ bản, vì từ nó có
thể suy ra các dạng khác...” (3). Có thể thấy đây là một định nghĩa khá chính xác, vừa
giải thích được thời điểm, địa điểm ra đời, vừa xác định rõ những quy định cách luật mà
các thi nhân đời Đường đặt ra. Thực chất khái niệm thơ Đường luật dùng để chỉ một thể
loại thơ ca, chứ không phải một thời đại, một loại hình hay một trào lưu thơ ca. Không
thể nhầm nó với khái niệm thơ Đường (một khái niệm rộng, dùng để chỉ toàn bộ thơ ca
được sáng tác vào đời Đường (618-907) thời đại hoàng kim của lịch sử phát triển thơ ca
Trung Quốc). Cũng không thể nhầm với khái niệm luật thi, dùng để chỉ loại thơ thất ngôn
bát cú cách luật mà nhiều sách lý luận đã xác định rõ. Càng không thể nhầm với khái
niệm thơ cổ điển, bởi theo tác giả Trần Đình Sử, thơ cổ điển ở đây không đơn giản là thơ
thời cổ xưa, hay thơ của trường phái cổ điển chủ nghĩa, mà là thơ thuộc loại hình thơ ca
cổ điển.

Thơ Đường luật Việt Nam

Thơ Đường luật Việt Nam là thơ do người Việt Nam sáng tác theo thể thơ Đường luật.
Xét yếu tố văn tự, thơ Đường luật Việt Nam bao gồm thơ Đường luật bằng chữ Hán, chữ
Nôm và chữ quốc ngữ. Xét số lượng câu trong bài, bao gồm: tứ tuyệt, bát cú và trường
thiên. Xét số lượng chữ trong câu, bao gồm: thất ngôn, ngũ ngôn, thất ngôn pha lục ngôn.
Về căn bản thơ Đường luật Việt Nam tuân thủ những quy định cách luật của thơ đời
Đường, đời Tống. Tuy nhiên, về niêm, luật, vần, đối, và bố cục của một bài Đường luật,
khi đưa vào thi cử ở Việt Nam, nhiều quy định đã trở nên khắt khe hơn.

Về Đường luật bát cú (luật thi), bao gồm: ngũ ngôn bát cú, thất ngôn bát cú và thất ngôn
xen lục ngôn. Ở Trung Quốc, Đường luật bát cú được hình thành, hoàn thiện cùng với
Đường luật tứ tuyệt, còn ở Việt Nam, Đường luật bát cú lại xuất hiện, thịnh hành muộn
hơn.

Về Đường luật tứ tuyệt (luật tuyệt) bao gồm: thất ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn tứ tuyệt, bán cổ
bán luật. Đây là thể loại xuất hiện sớm nhất trong dòng Đường luật ở Việt Nam. Tuy
nhiên, do việc xác định rõ phạm vi khái niệm của luật tuyệt được tiến hành khá muộn nên
ngay cả với những người sáng tác, đôi khi khái niệm này còn bị nhầm lẫn với khái niệm
thơ tứ tuyệt nói chung.

2. Ý nghĩa thi pháp của Đường luật bát cú

Đường luật bát cú là sản phẩm của tư duy nghệ thuật thơ Trung Quốc thời nhà Đường.
Đây là lối thơ cơ bản, thông dụng nhất, vì ở Trung Quốc tuy thơ tứ tuyệt xuất hiện trước
thơ bát cú, nhưng việc điều phối thanh điệu lại bắt đầu từ bát cú.

Về cơ bản, Đường luật bát cú lấy 8 câu làm chính. Mỗi câu gồm 5 hoặc 7 chữ. Thơ 7 chữ
8 câu gọi là: thất ngôn bát cú, hay là: thất ngôn luật thi, gọi tắt là: thất luật. Thơ 5 chữ 8
câu gọi là: ngũ ngôn bát cú (ngũ ngôn luật thi), gọi tắt là: ngũ luật.

Về những quy định cách luật, Đường luật bát cú có 5 điểm chính là: niêm, luật, vần, đối
và cách bố cục. Niêm nghĩa là dính, luật nghĩa là quy tắc. Trong luật thi, niêm chỉ sự kết
dính các câu thơ theo trục dọc, luật chỉ quy tắc phối thanh để liên kết các câu thơ theo
trục ngang. Xét về ý nghĩa thi pháp, sự liên kết giữa niêm và luật trước hết tạo cảm giác
bài thơ như một tấm gấm được dệt bởi các sợi kinh (dọc), vĩ (ngang) đều đặn không thể
mắc lỗi. Đặc biệt yêu cầu về niêm là câu 8 phải niêm với câu 1 (các câu khác từng cặp
một 2 - 3, 4 - 5, 6 - 7, 1 - 8), thể hiện tính chất chỉnh thể khép kín của bài luật thi, không
thể thêm vào hoặc bớt đi. Hơn thế, trong một bài Đường luật bát cú, hiện tượng cứ 3 câu
thì vị trí các chữ có thanh bằng, thanh trắc được lặp lại cho thấy sự hô ứng giữa các bộ
phận trong chỉnh thể. Quy định này làm cho bài thơ về mặt âm điệu tuy không phong
phú, đa dạng, nhưng rất hài hòa, êm ái, phù hợp để thể hiện trạng thái tĩnh.

Những yêu cầu về đối của một bài Đường luật bát cú cũng rất nghiêm khắc. Đối làm cho
cấu trúc bài thơ thêm cân đối hài hòa, tự nó xác lập quan hệ giữa các liên thơ, ý thơ mà
không cần các từ quan hệ. Có nhiều câu thơ, ngoài ý nghĩa tự thân còn có một phần ý
nghĩa được gửi gắm ở câu đối diện.

Vần cũng là một nét quan trọng trong Đường luật bát cú. Khác với luật, vần chỉ có một
quy định dứt khoát là trừ câu thơ đầu có thể tính đến chuyện hiệp vận, vần luôn rơi vào
câu thơ số chẵn. Những câu thơ số lẻ không bao giờ hiệp vận. Điều này tạo thêm một sự
đối lập nữa về mặt cấu trúc giữa câu thơ số lẻ và câu số chẵn.

3. Sự vận động của Đường luật bát cú sau khi du nhập vào Việt Nam

Đối với những quy định cách luật của một bài Đường luật bát cú, về lý thuyết cơ bản,
người Việt Nam vẫn lấy những quy định của các thi nhân đời Đường và một phần đời
Tống làm chuẩn. Các sách nghiên cứu lý luận và văn học sử Việt Nam vẫn nhắc tới năm
điểm cơ bản là: niêm, luật, vần, đối và cách bố cục giống như quy định của các thi nhân
đời Đường. Tuy nhiên, qua tìm hiểu thực tế, sáng tác thơ Đường luật ở Việt Nam, đối với
riêng Đường luật bát cú, có nhiều điểm hoàn toàn không phải được định ra từ đời Đường
hoặc đời Tống. Có thể do yêu cầu thi cử, yêu cầu phổ biến quy cách làm thơ luật, yêu cầu
gọi tên, hoặc bộc lộ tư tưởng tình cảm khác mà người Việt Nam trong quá trình sử dụng
đã biến đổi thể thơ ngoại nhập này bằng nhiều cách.

Tác giả Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức đã phân tích những cách thay đổi khác nhau
trong các bài thơ Đường luật. Từ việc phối hợp thể lục ngôn với thể thất ngôn Đường luật
dẫn tới một thể thất ngôn xen lục ngôn đặc biệt của Việt Nam, đến việc phối hợp nhiều
thể thơ Trung Quốc với thể thơ Việt Nam để tạo thành một thể thơ hỗn hợp. Ví dụ bài Bồ
đề thắng cảnh thi gồm ba khổ, “khổ đầu là một bài lục ngôn bát cú cách luật; khổ hai là
một bài thất ngôn cách luật, họa lại đúng 5 vần bài lục ngôn trên: khổ ba 18 câu lục bát
gián thất biến cách...” (4).

Bên cạnh đó, có những thay đổi lại không xuất phát từ nhu cầu Việt hóa thể loại ngoại
nhập. Chẳng hạn những quy định về cách đối, về niêm, vần, luật của thơ Đường luật bát
cú. Thậm chí, có những điểm còn chưa xác định nổi là do các thi nhân đời Đường định ra
hay do các thi nhân Việt Nam trong quá trình sử dụng đã căn cứ vào văn bản sáng tác mà
cụ thể hóa thành tên gọi.

Gần đây, trong một công trình nghiên cứu chuyên biệt các tác giả Nguyễn Khắc Phi, Trần
Đình Sử đã đặt vấn đề nghi vấn về bố cục của một bài thơ Đường luật. Các thuật ngữ đề,
thực, luận, kết không phải đã xuất hiện từ thời nhà Đường, cũng không phải được quy
định từ thời nhà Tống. “Ít nhất cho đến ranh giới Minh - Thanh, quan niệm về sự xắp xếp
ý tứ trong một bài luật thi vẫn còn khá uyển chuyển; mặc dù đã xuất hiện các khái niệm
khởi, thừa, chuyển, hợp, nhưng họ không hề gắn một cách cứng nhắc các phần cần có ấy
của một bài luật thi với những câu cụ thể” (5). Trong khi đó, qua các công trình nghiên
cứu và giới thiệu thơ Đường luật ở Việt Nam, hầu hết đều theo mô hình 2/2/2/2 và đặt tên
cho bốn phần đó là đề, thực, luận, kết, đồng thời gắn cho mỗi phần một nhiệm vụ xác
định.

Như vậy, tác giả Nguyễn Khắc Phi vẫn chưa chỉ ra được những quy định cụ thể về bố cục
một bài Đường luật bát cú mà Từ điển văn học đưa ra là do người Việt Nam tự đặt tên
trên cơ sở những mô hình có sẵn hay do các học giả Trung Quốc khởi xướng? Ông chỉ có
thể khẳng định: liên là đơn vị hết sức cơ bản của luật thi còn đề, thực, luận, kết không
phải là bố cục cố định của một bài Đường luật bát cú.

Năm 1998, nhà thơ Quách Tấn có nói đến vấn đề bố cục của luật thi, giải thích khá kỹ
rằng: “Khi luật thơ mới ra đời, các câu thơ trong bài không có tên, Đường nhân chỉ gọi là
câu nhất nhị, câu tam tứ, câu ngũ lục, câu thất bát mà thôi. Đến đời Tống (960 - 1297),
Nghiêm Vũ mới đặt tên câu nhất nhị gọi là khởi liên hay phát cú (cũng gọi là phát đoan),
câu tam tứ gọi là hạm liên, câu ngũ lục gọi là cảnh liên, câu thất bát gọi là lạc cú hay kiết
cú. Qua đời Nguyên (1234 - 1368), Dương Tái đổi tên câu nhất nhị gọi là phá đề, chia bài
thơ làm bốn phần là khởi (hay khai), thừa, chuyển, hiệp và dạy: khởi như mở cửa thấy
núi, đột ngột tranh vanh, hoặc như mây ngàn từ trong hố bay ra, nhẹ nhàng thong thả;
thừa như con rắn cỏ, sợi dây chuyền, chẳng đứt chẳng rời; chuyển như sóng lớp muôn
mảnh, tất có nguồn cao đổ xuống; hiệp như gió quanh khí tụ, ngậm chứa sâu thẳm” (6).
Từ ý kiến của các tác giả Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, Quách Tấn, có thể thấy rõ
ràng việc nhận xét về sự chặt chẽ bố cục của luật thi trước đây chưa hẳn đã chính xác, sự
sắp xếp các liên thơ là do yêu cầu diễn đạt, ý tứ quy định chứ không phải là vấn đề thuần
túy hình thức.

Ngoài ra, khi xem xét vấn đề vần trong luật thi cũng vậy. Do đặc điểm ngôn ngữ chi phối,
nhẽ ra vần trong thơ Đường luật Việt Nam đơn giản hơn nhiều so với vần trong thơ
Đường luật Trung Quốc. Nhưng ở Việt Nam từ khi có thơ Đường luật xuất hiện đến hết
TK XIX chưa có một quyển sách nào nghiên cứu về thi vận, nên cả thơ Đường luật Hán
và thơ Đường luật Nôm đều dựa vào các sách quan vận của Tàu làm lý thuyết. Tuy nhiên,
nếu căn cứ vào đặc điểm ngôn ngữ, có thể thấy vần trong thơ Đường luật Việt Nam cũng
có nhiều điểm khác với vần trong thơ Đường luật Trung Quốc. Trong khi người Trung
Quốc căn cứ vào ngũ thanh để chia ra 106 bộ vần, thì người Việt Nam lại dựa vào 6
thanh để chia làm hai loại: vần bằng và vần trắc. Mặt khác để gieo vần được chỉnh đốn,
người Việt Nam còn dựa vào khuôn để sắp xếp các bộ vận. Chẳng hạn cùng một khuôn
an, có những tiếng như: bàn, bán, bạn, bản, bãn, ban. Những tiếng này được chia làm hai
loại vần: ban, bàn là những tiếng đồng thanh, đồng khuôn cùng một bộ vần, đều là vần
bằng. Còn những tiếng: bạn, bãn, bán, bản cũng đồng một khuôn tuy khác thanh nhưng
vẫn cùng một bộ vần, là vần trắc… Thơ Đường luật Việt Nam ít dùng vần trắc, nhưng
với vần bằng, cũng có nhiều bài không theo quy tắc đồng khuôn. Thậm chí có những bài
không theo quy tắc đồng khuôn vẫn được đánh giá rất cao. Chẳng hạn như bài Thu vịnh
của Nguyễn Khuyến (7).

Như vậy, từ việc sáng tác một bài Đường luật bát cú đến gọi thành tên những yêu cầu cụ
thể, để hiểu về niêm, luật, vần đối, bố cục… là cả một chặng đường dài gần chục thế kỷ.
Trong chặng đường đó có rất nhiều bài lại không thể áp dụng các tên gọi này một cách
hợp lý. Vì vậy, người phân tích, bình giảng cũng như người nhận dạng đặc điểm của thể
thơ này có lẽ nên tùy cơ ứng biến, xem xét từng vấn đề trên cơ sở thực tế sáng tác chứ
không nên hoàn toàn căn cứ vào lý thuyết của luật thi Trung Quốc cũng như Việt Nam.

______________

1. Trần Đình Hượu, Cái mới của Thơ mới từ xung khắc đến hòa giải, Nhìn lại một cuộc
cách mạng trong thi ca, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1993, tr.61.

2. Nguyễn Tấn Long, Việt Nam thi nhân tiền chiến, Quyển hạ, Nxb Văn học, Hà Nội,
1996, tr.48, 49.

3. Từ điển văn học, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1983-1984, tr.379.

4. Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức, Các thể thơ ca và sự phát triển của hình thức thơ ca
trong văn học Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1971, tr.20.

5. Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử, Về thi pháp thơ Đường, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng,
1997, tr.54

6, 7. Quách Tấn, Thi pháp thơ Đường, Nxb Trẻ, TP. HCM, 1998, tr.40, 36.

Nguồn : Tạp chí VHNT số 385, tháng 7-2016

Tác giả : TRẦN THỊ LỆ THANH

THƠ ĐƯỜNG LUẬT HÁN


3. Đặc điểm
a) Luật:
- Cách sắp xếp các chữ bằng trắc ở mỗi dòng thơ. Luật thơ được tính từ chữ thứ 2 ở câu
thơ đầu: chữ thứ 2 là thanh trắc thì bài thơ theo luật bằng…
(tuân thủ theo luật thơ đường Luật chặt chẽ)
Độc Tiểu Thanh kí
“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư
Chi phấn hữu thần liên tử hậu.”
b) Niêm:
Sự kết dính giữa dòng thơ trên với dòng thơ dưới về âm luật. Hai dòng thơ niêm với nhau
thì sẽ cùng một luật (cùng bằng hoặc cùng trắc). Niêm trong thơ luật Đường bắt buộc ở
câu 1-8, 2-3, 4-5, 6-7 (tính từ chữ thứ 2 của mỗi câu); với thơ tứ tuyệt, niêm giữa câu 1-4,
2-3.
Những câu có niêm giống nhau – luật giống nhau
Bài thơ “Mộ xuân tức sự” – thất ngôn tứ tuyệt – niêm câu 1-4, 2-3
“Nhàn trung tận nhật bế thư trai
Môn ngoại toàn vô tục khách lai
Đỗ Vũ thanh trung xuân hướng lão
Nhất đỉnh sơn vũ luyện hoa khai”
c, Kết cấu:
- Một bài thơ thất ngôn bát cú có thể chia làm 4 cặp câu
- Cách gọi tên:
+ Ở Trung Quốc: đầu liên, hàm liên, cảnh liên, vĩ liên: Khai – Thừa – Chuyển – Hợp
+ Ở Việt Nam: Đề - Thực – Luận – Kết
- Cách đặt câu
+ Câu đầu: Phá đề, mở đề
+ Câu 2: thừa đề (ý chuyển tiếp từ câu 1)
+ Câu 3 – 4: thực (cắt nghĩa câu đề)
+ Câu 5 – 6: luận (bày tỏ suy nghĩ, tình cảm của người viết, mở rộng nội dung của 2 câu
thực)
+ Câu 7 – 8: kết
- Cách phân chia khác:
- 2/4/2 (2 câu đầu và 2 câu cuối thiên về ý khái quát, 4 câu giữa diễn giảng cụ thể)
- 6/2 hoặc 4/4 (cảnh – tình)
- Kết cấu bài thơ Đường luật Hán liên quan mật thiết với việc “lập ý” (đặt ý, dựng ý) của
nhà thơ. Một số mô hình kết cấu thường gặp trong thơ trung đại
+ Kết cấu theo thời gian (tuyến tính)
+ Kết cấu theo không gian – không gian đối lập (xa – gần, cao – thấp)
+ Kết cấu tương phản, đối lập
+ Kết cấu “đề, thực, luận, kết”; “khai, thừa, chuyển, hợp”
+ Khái quát, luận đề -> cụ thể, hiện tượng (hoặc ngược lại)
+ Cảnh -> tình (hoặc ngược lại)
4. Quá trình hình thành, phát triển
* Giai đoạn thế kỉ X – XIV
- Xuất hiện sớm trong nền văn học trung đại Việt Nam
- Được sử dụng trong các hoạt động tôn giáo – tín ngưỡng, hành chính, ngoại giao
- Việc đưa thơ Đường luật Hán vào thi cử tạo điều kiện để hình thức thơ ca này được phổ
biến rộng rãi
- Càng về sau (thời Trần), thơ chữ Hán càng đi sâu hơn vào cuộc sống, mang đặc điểm
tính chất của văn học nghệ thuật
- Đội ngũ sáng tác: tầng lớp Nho sĩ, vua chúa quý tộc
- Nội dung phong phú, đa dạng: trữ tình, ngôn chí,…
* Giai đoạn thế kỉ XV – XVII
- Việc sáng tác thơ Đường luật Hán được sự hậu thuẫn mạnh mẽ của triều đình phong
kiến, đặc biệt dưới thời Lê Thánh Tông.
- Đặc điểm: thơ “ngôn chí” chiếm ưu thế; tính khuôn mẫu, công thức được coi trọng =>
Nội dung thơ ca gò bó, không đa dạng, hình thức thơ ca khuôn sáo, cứng nhắc
- Lực lượng sáng tác: vua chúa, các nhà Nho cử tử. Những nhà thơ có đóng góp quan
trọng vào quá trình phát triển của thơ Đường luật Hán giai đoạn này là những tác giả
được đào tạo dưới triều Trần – Hồ hoặc chịu ảnh hưởng của học phong thời Trần – Hồ
như Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn, Nguyễn Mộng Tuân, Thái Thuận,…
* Giai đoạn thế kỉ XVIII – nửa đầu XIX
- Phát triển mạnh mẽ, đạt được nhiều thành tựu to lớn
- Sự khẳng định ptr không thể thay thế của các thể loại văn học dân tộc
Trưởng thành về chất và dồi dào về số lượng
- Cơ sở: vua chúa coi trọng văn học, khuyến khích việc sáng tác thơ văn, thơ Đường luật
Hán được sử dụng trong thi cử, tuyển chọn nhân tài, sự xuất hiện và phát triển của các thi
xã, thi đàn như Chiêu Anh các, thi xã Bình Dương…
- Đặc điểm: Thơ Đường luật Hán gia tăng chất liệu hiện thực, hướng về tình cảm tự
nhiên, cảm xúc riêng tư của con người, yếu tố thảm mĩ, nghệ thuật của thơ ca được coi
trọng.
- Lực lượng sáng tác: Nhà Nho , bên cạnh tư tưởng Nho giáo, họ còn tiếp nhận, chịu ảnh
hưởng của các hệ tư tưởng Phật giáo, Đạo giáo (kết hợp yếu tố Nho – Phi Nho)
* Giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX:
- Thơ Đường luật Hán vẫn giữ vai trò quan trọng trong cấu trúc văn học, tuy nhiên so với
thơ Đường luật Nôm, mức độ lan tỏa yếu thế hơn.
- Cơ sở: hình thức thơ ca quen thuộc, được sử dụng thuần thục, quy mô bài thơ phù hợp
với nhu cầu sáng tác nhanh, phản ánh những vấn đề đang diễn ra của đời sống hiện thực.
- Nội dung: bày tỏ tâm sự cá nhân, phản ánh những vấn đề thời sự, trào phúng hiện
thực…
- Lực lượng sáng tác: Nhà nho vừa mang ý thức hệ Nho giáo, vừa mang lập trường dân
tộc
* Một số lưu ý khi phân tích thơ Đường luật Hán:
- Đây là thể loại mang tính quy phạm chặt chẽ, chú ý đến các yếu tố niêm, luật, vần (sự
hài hòa về thanh điệu) và các tín hiệu nghệ thuật: thất niêm, thất luật, chiết vận (lược bỏ
vần),…
- Chú ý đến nghệ thuật đối – đặc trưng thi pháp thơ Đường luật. Đối không chỉ tạo sự
sóng đôi, cân xứng giữa các câu thơ mà còn có vai trò quan trọng trong việc nhấn mạnh
nội dung biểu đạt
- Chú ý đến cấu tứ của bài thơ để lựa chọn cách phân tích theo trình tự hợp lí
- Chú ý đến 2 câu kết: Trong thơ Đường luật, câu kết đóng vai trò khép lại sự, tình trong
bài thơ nhưng đồng thời mở ra suy tư, cảm xúc mới.

KẾT CẤU ĐỘC TIỂU THANH KÍ


* Theo cấu trúc “Đề - thực – luận – kết”:
2 câu đề là tả cảnh và kể sự; 2 câu thực nhắc lại câu chuyện cuộc đời oan trái của nhân
vật Tiểu Thanh; 2 câu luận bình luận về cuộc đời nàng Tiểu Thanh, thể hiện suy tư, trăn
trở về số phận của 2 kẻ tài sắc; 2 câu kết là niềm khao khát được đồng cảm, chia sẻ của
nhà thơ – người tự ý thức mình cũng là kẻ tài tình, chịu nhiều phiền lụy.
* Theo cấu trúc 4/4 (cảnh, sự/ tình): 4 câu đầu là tiếng khóc thương người con gái tài sắc
mà số phận truân chiên; 4 câu sau là tiếng khóc thương cho kẻ hồng nhan bạc mẹnh, tài
hoa đa truân nói chung trong đó có tiếng khóc thương chính mình của Nguyễn Du
* Theo cấu trúc 2/6: 2 câu đầu là bối cảnh viếng nàng Tiểu Thanh; 6 câu cuối là cảm xúc,
suy tư về số phận nhân vật, số phận người tài sắc và chính bản thân mình.
* Theo cấu trúc 6/2: 6 câu đầu là tâm sự, cảm xúc về nàng Tiểu Thanh, 2 câu cuối là sự
suy tư về bản thân
* Theo cấu trúc 2/4/2: 2 câu đầu là bối cảnh viếng nàng Tiểu Thanh, 4 câu giữa là bình
luận về cuộc đời Tiểu Thanh, 2 câu cuối là suy tư về bản thân.

TÌM HIỂU BÀI THƠ ĐỘC TIỂU THANH KÍ


- Độc tiểu thanh kí là bài thơ Thất ngô bát cú đường luật theo luật bằng, sử dụng vần
chính đảm bảo sự cân xứng, hài hòa về thanh bằng, thanh trắc, yêu cầu chặt chẽ về dối
(thanh điệu, từ loại, cấu trúc ngữ pháp, ý
- Độc Tiểu thanh kí có những yếu tố nghệ thuật đáng chú ý, ít nhiều mang tính chất “lệch
chuẩn” so với quy cách thơ Đường luật.
- Chủ thể trữ tình không ẩn danh mà khẳng định sự hiện hữu bằng đại từ nhân xưng ngôi
thứ nhất (ngã), bằng danh xưng (Tố Như)
- Hai câu thơ cuối cùng với những tín hiệu nghệ thuật lạ: hiện tượng thất niêm so với quy
chuẩn thơ Đường, sự xuất hiện của con số “ba trăm năm lẻ”, hiện tượng tác giả tự xưng
tên mình
Niềm tâm sự k bình an của con người cá nhân cảm thấy cô độc giữa không gian, thời
gian, của người nghệ sĩ thấu hiểu sâu sắc bi kịch của thân phận con người.
Thất niêm (1-8, 6-7)

TÌM HIỂU TƯƠNG TỰ CẢM HOÀI CỦA ĐẶNG DUNG


TÌM HIỂU VỀ THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU NÓI CHUNG
THƠ CHỮ HÁN CAO BÁ QUÁT
TÌM HIỂU THƠ NÔM ĐL

THƠ NÔM ĐƯỜNG LUẬT


I. Khái niệm
- Thơ Nôm Đường luật là khái niệm được dùng để chỉ những sáng tác bằng chữ Nôm
theo thể ĐL hoàn chỉnh hoặc ĐL phá cách.
+ Đường luật hoàn chỉnh: những bài thơ tuân thủ theo yêu cầu của thể thơ Nôm ĐL
+ Đường luật phá cách: hình thức có điểm tương đồng với thơ ĐL + điểm khác biệt (sự
phá cách hình thành thể thức thơ ca mới cho dân tộc)
* Tiêu chí nhận diện thể loại:
- Viết bằng chữ Nôm
- Theo thể thơ Đường luật
(ĐL hoàn chỉnh là tuân thủ một cách nghiêm nhặt những quy tắc về niêm luật, phối thanh
ngắt nhịp của thơ Đường luật Trung Quốc; Đường luật phá cách, có những thay đổi về số
chữ trong câu, quy cách ngắt nhịp so với thơ Đường luật chuẩn mực: sự đan xen 6 chữ
xen trong bài thơ 7 chữ)
- Được mở đầu vào khoảng cuối thế kỉ XIII, chính thức có mặt với Quốc âm thi tập của
Nguyễn Trãi và kết thúc vào cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX với sáng tác của Nguyễn
Khuyến, Tú Xương,…
=> Tập thơ mở đường cho dòng văn học Nôm phát triển: “Quốc âm thi tập”
* Một số điểm lưu ý:
- So với những thể loại có nguồn gốc ngoại lai thư Thơ ĐL Hán, truyện truyền kì, tiểu
thuyết chương hồi,… và thể loại văn học nội sinh dân tộc như truyện nôm, ngâm khúc,
diễn ca lịch sử, hát nói, thơ Nôm ĐL có những điểm riêng biệt:
+ Hình thức thể loại được tiếp nhận từ TQ
- Các quy cách hình thức không được giữ nguyên mà có những thay đổi, cái biên, gắn
liền với nhu cầu tạo dựng một lối thơ riêng của dân tộc. (sự khác biệt giữa thơ ôm ĐL và
các thể loại có nguồn gốc ngoại lai và nội sinh
- Là sự phá cách không ổn định, không tạo thành mô hình riêng và khoogd dồng đều ở
các tác giả, các giai đoạn
* Các quan niệm khác nhau:
- Thơ nôm ĐL như là một biến thể của lối thơ Đl không phải một thể loại độc lập
- Xem thơ Nôm ĐL là thể loại vă học có nguồn gốc ngoại lai nhưng được Việt hóa – kết
quả tất yếu của quá trình tiếp biến văn hóa, giống như phú chữ Nôm, văn tế Nôm (hành
trình tiếp tiến của các thể loại văn học trung đại Việt Nam: tiếp nhận – việt hóa – sáng
tạo)
- Xem thơ Nôm ĐL là thể loại văn học độc lập đã vượt qua giai đoạn Việt hóa những yếu
tố tiếp thu từ nước ngoài để trở thành thể loại văn học dân tộc, có địa vị ngang hàng với
Ngâm khúc, truyện Nôm, hát nói
=> Thơ Nôm ĐL minh chứng cho quy luật phát triển của văn học trung đại VN: vừa
hướng tâm vào quỹ đạo văn hóa Trung Hoa để tiếp thu, kế thừa những tinh hoa vừa li tâm
để kiến tạo gương mặt văn hóa riêng của dân tộc.
=> Mục đích tạo dựng lối thơ riêng cho người Việt
* Về phương diện hình thức:
Có thể chia thơ Nôm ĐL thành 2 nhóm
- Những tác phẩm tuân thủ chặt chẽ tính quy phạm của thơ ĐL
- Những tác phẩm có sự thay đổi, cải biến. Ở nhóm 2, đặc điểm đáng chú ý là sự có mặt
của thể thơ thất ngôn xen lục ngôn, cách hiệp vần lưng và cách ngắt nhịp chẵn, được
đánh giá có tiết tấu phù hợp với nhịp điệu tâm hồn của người Việt.
* Về thể thơ thất ngôn xen lục ngôn:
- Thời điểm xuất hiện: khoảng thế kỉ XIII, gắn liền với phong trào sáng tác chữ Nôm, do
Hàn Thuyên vf các trí thức đầu đười Trần khởi xướng.
Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục gọi lối thơ này là Hàn luật, nhấn mạnh
tính phá cách so với thi luật thơ Đường
- Đến thế kỉ XV, kiểu câu thơ thất ngôn xen lục ngôn xuất hiện khá phổ biến trong các
tập thơ quốc âm: quốc âm thi tập, hồng đức quốc âm thi tập, bạch vân quốc ngữ thi tập
Sang thế kỉ XVII, XVIII, hình thức thơ này vẫn còn tồn tại nhưng số lượng giảm dần
* Về nguồn gốc:
- Là sự tổ hợp giữa câu thơ 6 chữ của thơ cổ phong với câu thơ 7 chữ của thơ Đường luật
Trung Quốc. Bất cập: câu thất trong trong TTTNXLN có nhiều khác biệt so với thơ thất
ngôn ĐL
- 6 chữ trong thơ ca dân gian + câu 7 chữ trong thơ ĐL
- Được tạo dựng trên chính kết cấu và hình thức của một bài thơ ĐL. Các nhà thơ cổ VN
đã tạo ra câu lục ngôn bằng cách cắt giảm một chữ trong câu thất ngôn rồi phối hợp các
câu lục ngôn với các câu thất để tạo nên các thể thơ này.

* Đặc điểm thơ TNXLN:


- Vừa chứa đựng một số yếu tố thơ ĐL: số câu trong bài, cách ngắt nhịp, cách hiệp vần,
tính chất đối xứng, vừa phá cách, phá vỡ cấu trúc hình thức quy chuẩn của bài thơ Luật
Đường. Các nhà nghiên cứu gọi đây là sự kết hợp giữa các yếu tố luật Đường và phi luật
Đường.
- Sự có mặt của từ một đến 2 câu lục ngôn trong một bài tứ tuyệt, từ một đến bảy câu lục
ngôn trong một bài cú.
- Sự kết hợp đa dạng và phong phú các câu lục ngôn với câu thất ngôn, tạo ra những lối
ngắt nhịp mới (cách ngắt nhịp lẻ - chẵn), cách gieo vần mới, nhất là vần lưng (kết hợp
vần bằng – trắc, chân – lưng), kiểu câu và kiểu bài mới hơn so với thơ luật Đưòng.
* Ý nghĩa:
- Sự xuất hiện của thể thơ là một sự kiện quan trọng thể hiện nhu cầu phá cách thơ ĐL,
tìm tòi lối đi riêng cho thơ ca VN. Trong bối cảnh chúng phải tiếp thu cả chữ Hán và thể
loại VH TQ, đây là những cách tân rất đáng trân trọng.
- Những thử nghiệm quan trọng về hình thức như kết hợp câu thơ lục ngôn và thất ngôn,
kết hợp vần chân và cần lưng, vần bằng và vần trắc, cách ngắt nhịp chẵn đã đặt nền móng
cho các thể thơ dân tộc như lục bát, song thất lục bát, thơ hát nói (những thể thơ nhất
thiết sử dụng câu lục ngôn, cách hiệp vần lưng và cách ngắt nhịp chẵn)
* Về phương diện nội dung
- Không có sự phân biệt tuyệt đối những sáng tác Đường luật Hán và Đường luật Nôm
- So với những thể loại như là Ngâm khúc, truyện Nôm, hát nói, thơ ĐL Nôm không
hướng đến một đề tài, chủ đề nhất định. Thơ Nôm ĐL vừa dùng để tự sự, đồng thời cũng
có thể mạnh khi trữ tình. Thể loại này có khả năng phản ánh phạm vi hiện thực đa dạng:
từ lí tưởng, hoài bão cho đến khao khát cá nhân của con người; từ thế giới tự nhiên cho
đến những vấn đề lịch sử, xã hội, từ miêu tả cuộc sống thường nhật cho đến khái quát
quy luật vũ trụ, triết lí nhân sinh.
- Nội dung làm nên diện mạo riêng cho thơ Nôm ĐL là những vấn đề của cuộc sống đời
thường của con người đời thường và tiến hơn bước nữa là của con người phàm trần, con
người đã thức tỉnh ý thức của chính mình.

III. Các giai đoạn phát triển


* Giai đoạn thế kỉ X – XIV: giai đoạn manh nha
phong trào sáng tác thơ quốc âm rất thịnh hành vào thời trần, tuy nhiên hầu hết các bài
thơ đã bị thất lạc. Theo Đại Việt sử kí toàn thư, thơ ca quốc âm được bắt đầu từ Hàn
Thuyên.
- Hiệp còn giữ được bài thơ tương truyền của cung phi Điểm Bích; một số câu thơ, bài
thơ được ghi chép trong Truyện Hà Ô Lôi.
“Người hòa vạn vật cảnh hòa lạc
Màu thích ca ni cũng hữu tình”
(Cung phi Điểm Bích)
- Sự ra đời của Quốc âm thi tập – tập thơ TV có quy mô lớn và đạt đến sự thành thục về
mặt nghệ thuật vào thế kỉ XV là minh chứng cho thấy thơ Nôm ĐL đã được tạo dựng nền
tảng từ các thế kỉ trước đó (chặng 15 – 17: trước QATT thơ Nôm ĐL đã có bề dày nhất
định rồi)
* Giai đoạn thế kỉ XV – XVII: Giai đoạn trưởng thành của thơ Nôm ĐL
- Sự xuất hiện của những tập thơ lớn như Quốc âm thi tập, Hồng Đức quốc âm thi tập,
Bạch Vân quốc ngữ thi tập khẳng định vai trò của các sáng tác chữ Nôm trong việc kiến
tạo diện mạo thơ ca ói riêng, văn học trung đại nói chung.
- Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi là tập thơ Nôm ĐL đầu tiên hiện còn giữ được. Tập
thơ thể hiện xu hướng dân tộc hóa trên cả phương diện hình thức (kiến tạo câu thơ 6 chữ,
đưa những thành ngữ, tục ngữ, nhưng hình tượng nghệ thuật đậm đà tính dân tộc,… và
nội dung (hướng tới những vấn đề của cuộc sống con người Việt, TN nước Việt).
- Hồng Đức Quốc âm thi tập: tiếp tục xu hướng dân tộc hóa đồng thời mở rộng xu hướng
xã hội hóa. Hình thức gia tăng câu thơ 6 chữ và mở rộng vốn từ láy
khả năng biểu đạt được mở rộng: sử dụng thơ Nôm ĐL để trào phúng/ tự sự
=> Có những bước chuyển so với Bạch vân quốc ngữ thi tập
- Bạch Vân quốc ngữ thi tập: tiếp tục các xu hướng trên, đồng thời phát triển theo hướng
gia tăng chất thế sự và chất triết lí cho thơ Nôm ĐL
(thế sự: suy tư, đánh giá, bàn luận về chuyện đời – phê phán vđ hiện thực – chủ yếu bàn
luận đến vấn đề đạo đức của con người)
- Thơ Nôm các chúa Trịnh: hàng trăm bài thơ Nôm của Trịnh Căn, vịnh điện Thiên Hòa,
thơ Nôm của Trịnh Cương, Trịnh Sâm.
* Giai đoạn thế kỉ XVIII – XIX: giai đoạn phát triển
- Đi theo quỹ đạo chung của văn học trung đại, hướng nhiều hơn đến hiện thực và khẳng
định nhu cầu giải phóng của con người
- Có sự xuất hiện những lối thơ Nôm ĐL riêng: Hồ Xuân Hương, bà Huyện Thanh Quan,
Nguyễn Công Trứ,..
- HXH: Đại diện cho lối thơ Nôm ĐL phá cách triệt để. Cái bản năng, cao quý của ĐL trở
thành nội dung cốt lõi trong thơ HXH. Nhà thơ nữ họ Hồ đã đưa một nội dung không
nghiêm chỉnh vào hình thức nghiêm chỉnh, tạo nên diện mạo hoàn toàn mới, khai phá vai
trò hoàn toàn mới của thơ Nôm ĐL.
- Bà HTQ: số lượng bài thơ không nhiều nhưng vẫn tạo dựng một phong cách riêng. Thơ
mang đầy đủ đặc trưng chính thống của thơ ĐL nói chung và thơ Nôm ĐL nói riêng.
Mực thước, trang nhã, hài hòa nhưng không cứng nhắc => Khẳng định được một cách
mạnh mẽ sức sống, vẻ đẹp tươi mới của lối thơ ĐL quy chuẩn.
- NCT: một gương mặt sáng tác thơ Nôm với bản sắc riêng. Thơ Nôm của ông mang vẻ
đẹp tự do, phóng khoáng, đầy nội lực. Nhà thơ bước qua mọi giới hạn, mọi ràng buộc để
khẳng định dấu ấn cá nhân của mình. Nếu cái gai góc, sắc sảo, làm nên cá tính riêng của
thơ Nôm HXH thì vẻ xù xì, thô rấp, hào sảng, mạnh mẽ, nhưng tự nhiên, sống động là
đặc trưng của thế giới nghệ thuật thơ Nôm ĐL.
* Giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX: giai đoạn kết tinh thành tựu của thơ Nôm ĐL
- Thơ Nôm ĐL dã chứng minh khả năng theo sát diễn biến của ls, xã hội, đáp ứng những
nhu cầu phản ánh của con người đương thời.
- Bằng thơ Nôm ĐL NK và Tú Xương… đã thực hiện thành công cuộc chuyển giao văn
học từ phạm trù trung đại sang phạm trù cận hiện đại. Chức năng phản ánh của thể loại
không chỉ dừng ở trữ tình thế sự, trào phúng thế sự mà vươn tới chỗ phản ánh thực tại xã
hội, một cách cụ thể, chân thực, sống động. Từ những hình tượng nhân vật theo thể loại
trong thơ Nôm trước đó, giai đoạn này đã xuất hiện những cá nhân cụ thể riêng biệt.
- Xu hướng dân chủ hóa, xã hội hóa về nd và hình thức

IV. Một số lưu ý


* Xác định được đặc điểm cơ bản của thơ Nôm ĐL: sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố Nôm
và yếu tố ĐL
- Yếu tố Nôm: yếu tố dân tộc, tính chất đời thường, bình dị
- Yếu tố ĐL: đặc điểm quy phạm của thơ ĐL, tính chất cao cả, vẻ đẹp tao nhaz
* Chỉ ra được sự kết hợp yếu tố Nôm và yếu tố ĐL trong bài thơ: mức độ đậm nhạt của 2
yếu tố, phương diện biểu đạt 2 yếu tố, giá trị thẩm mĩ, giá trị biểu cảm biểu đạt của 2 yếu
tố: yếu tố Nôm và ĐL trong BKCG

Rồi hóng mát thuở ngày trường,


Hoè lục đùn đùn tán rợp trương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tịn mùi hương.
Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.
Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương

- Yếu tố ĐL:
Đề tài: thiên nhiên và ngôn chí
Các yếu tố của thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, vần chính (1, 2, 4, 6, 8), đối (âm và
ý), ở vị trí 3-4, 5-6; các câu thất tuân thủ niêm luật, bố cụ 6/2 (cảnh/ tình)
Chủ thể trữ tình: con người với niềm ưu dân ái quốc
con người ở ẩn: quay lưng với thế sự, đắm vào thiên nhiên di dưỡng tính tình
- Yếu tố Nôm:
+ thể thơ: thất ngôn xen lục ngôn, cách ngắt nhịp chẵn ở các vị trí câu ¾
+ đề tài: thiên nhiên mùa hè và khung cảnh cuộc sống đời thường ở làng quê
+ bút pháp: thiên về tả, tái hiện bức tranh thiên nhiên ngày hè ở làng quê với màu sắc tươi
`sáng, âm thanh rộn rã, sinh động, khỏe khoắn
+ Ngôn ngữ: sự kết hợp giữa từ Hán Việt và thuần Việt (từ láy)
+ Hình ảnh: quen thuộc, bình dị từ hiện thực cuộc sống: thạch lựu, sen, ve, chợ cá (trạng
thái vận động, căng tràn sức sống)
+ Chủ thể trữ tình: con người thiết tha với cuộc sống, với cái đẹp

(cải biến thơ ĐL sao cho phù hợp với quan niệm, tư tưởng, lời ăn tiếng nói của nhân dân.

NGÔN CHÍ (BÀI 14)


Cách ngắt nhịp lẻ của câu thất ngôn:
* Bát cơm xoa/ nhờ ơn xã tắc
Gian lều cỏ/ đội đức Đường Ngu
* Câu lục: Dạy láng giềng mấy sĩ nhu

THUẬT HỨNG (bài 10)


* Câu lục:
Giàu mấy kiếp tham lam bấy
Sống bao lâu, đáo để màng
* Có vần chân, vần lưng

NGÂM KHÚC
Còn gọi là khúc ngâm song thất lục bát, là một thể loại trữ tình có quy mô trường thiên,
phản ánh tâm trạng bi kịch của con người, được viết bằng thể thơ song thất lục bát và
ngôn ngữ dân tộc.
- Ngâm có nghĩa là thán, thán trong lòng có điều đau đớ nên miệng phát ra thành tiếng,
ngâm là buồn mà than thở, oán thán rầu rĩ. Trong thể loại văn học,…
- Tiêu chí nhận diện
Quy mô: trường thiên/ cảm hứng: trữ tình, buồn/ ngôn ngữ: chữ Nôm, chữ quốc ngữ/ thể
thơ: song thất lục bát
1. Cơ sở hình thành, phát triển
1.1. Cơ sở lịch sử - xã hội`
- Bối cảnh xã hội có nhiều bất ổn, chính trị khủng hoảng, kinh tế suy thoái, đời sống nhân
dân khó khăn
- Thời đại lịch sử cho phép người ta cảm nhận được nỗi đau của mọi kiếp người trong xã
hội một cách rõ rệt. Con người có nhu cầu giãi bày tâm sự, kể lể nỗi lòng. Ngâm khúc ra
đười nhằm đáp ứng những đòi hỏi ấy của con ngời thời đại.
- Ở các đô thị lớn, kinh tế hàng hóa trong bối cảnh hỗ loạn, không bị quản chế ngặt nghèo
đã có những bước phát triển, kèm theo đó là sự xuất hiện của các tầng lớp thị dân. Ở tầng
lớp này, nhu cầu cá nhân, ý thức về quyền sống, quyền hạnh phúc phát triển mạnh mẽ và
nó đã có những tác động đến đời sống tinh thần thời đại
- Con người nhận ra sự đối lập giữa hiện thực và khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc
của họ. Sự thất vọng, bi quan bao trùm. Ngâm khúc đã khai thác triệt để tâm trạng này.
- Sự ra đời hoàn thiện về những thể nghiệm để khẳng định ưu thế của chữ nôm trong việc
phản ánh những vấn đề thuộc đời sống bth, đời sống tâm tư tình cảm của người việt
- Sự phát triển của thể loại thơ tự tình, trữ tình thời trung đại, đặc biệt là những tác phẩm
trữ tình, tự tình dài hơi như ca, ngâm, hành, vãn, khúc vịnh chữ Hán, chữ Nôm trong đó
có một nhân vật trữ tình tự giãi bày cũng có ý nghĩa quan trọng đói với sự ra đời và phát
triển của ngâm khúc.
- Sự phát triển của quan niệm thơ ca; thơ nói chí, thể hiện đạo lí sang thơ giãi bày tình
cảm chân thực, những điều tai nghe mắt thấy cũng góp phần cho sự ra đời của ngâm
khúc.
* Đặc điểm thể thơ song thất lục bát
- Có ưu thế trong việc trữ tình
+ cấu trúc: nhiều khổ thơ, mỗi khổ thơ được cấu tạo bao gồm 2 câu 7 chữ, một câu 6 chữ,
một câu 8 chữ hiệp vần với nhau nhịp nhàng
+ đặc điểm: giàu nhạc tính, nhịp điệu luyến láy, phù hợp với việc diễn tả tâm trạng buồn
+ phối thanh, hiệp vần, ngắt nhịp (chú ý 2 câu thất ngôn)
“trong cung quế/ âm thầm chiếc bóng
Đêm năm canh/ trông ngóng làn lần”
- Cấu trúc khổ thơ phù hợp với việc thiết lập thủ pháp điệp, đối trên nhiều cấp độ, kết cấu
đăng đối trùng điệp
2. Các giai đoạn phát triển
- Thế kỉ 16 – 17: giai đoạn tìm tòi, thể nghiệm về nội dung (cảm hứng) và hình thức (thể
thơ)
- Thế kỉ 18 – 19:
+ XVIII: 3 ngâm khúc lớn: chinh phụ ngâm khúc, cung oán ngâm khúc, ai tư vãn.
Nhân vật trữ tình là người phụ nữ, vấn đề trung tâm trong các khúc ngâm: tình yêu, hạnh
phúc
+ XIX: khúc ngâm lớn: tự tình khúc, thu dạ lữ hoài ngâm (nhân vật trữ tình là nam giới)
- Giai đoạn thế kỉ 20:
số lượng các khúc ngâm phong phú (17 khúc ngâm) nhưng không có tác phẩm nào đạt
thành tựu xuất sắc như giai đoạn trước. Nhân vật trữ tình phong phú, đa dạng hơn
ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI NGÂM KHÚC
1. Ngâm khúc đánh dấu khuynh hướng mới của vhtđ vn: đi sâu khai thác thế giới nội tâm
của con người với cùng bậc cảm xúc phong phú; tính tự tình là một trong những đặc
trưng của thể loại. Tự ở đây có nghĩa là kể, tự tình là kể lại diễn biến tình cảm thông qua
tâm tư, cảm xúc, hành động của nhân vật.
- Nhân vật: trong ngâm khúc, hầu như ta chỉ thường xuyên bắt gặp hình thức nhân vật tự
bộc lộ, phô diễn tâm trạng mình thông qua dòng độc thoại.
- Kết cấu: Trong ngâm khúc có sự xuất hiện của ba thời: quá khứ, hiện tại, tương lai được
đặt trong thế soi chiếu nhau, lấy hiện tại làm trung tâm. Trong tương quan ba thời quá
khứ, hiện tại, tương lai; mối quan hệ song song quá khứ hiện tại được đề cập nhiều hơn.
(hiện tại là thời điểm trung tâm, ngâm khúc là tác phẩm của hiện tại, cảm nhận về thế giới
xung quanh bằng cảm nhận hiện tại – suy tư về quá khứ - ngóng vọng về tương lai)
- Cảm hứng chủ đạo: Cảm hứng “tự thương”, than vãn, tự than thân trách phận
Tiếng nói tự thương – tác giả bày tỏ thái độ tự thương cho chính mình; nhân vật tự
thương chính mình
tiếng nói trữ tình – tiếng than vãn, kể lể, giãi bày nỗi thống khổ, bất hạnh của bản thân
tiếng nói trần tình – mong được người khác thấu hiểu, chia sẻ (thu dạ lữ hoài ngâm)
- Giọng điệu: giọng than vãn, kể lể, giãi bày, da diết, não nề, mang đậm sắc thái buồn
thương, ai oán.
song thất lục bát – cấu trúc lặp đi lặp lại – thể hiện tính chất rền rĩ, than vãn, kể lể
2. Đi sâu vào thế giới nội tâm con người, Ngâm khúc đánh dấu sự xuất hiện tiếng nói của
những con người cá nhân đòi quyền hạnh phúc trong văn học.
- Nhân vật trong ngâm khúc luôn xuất hiện ở trong thời điểm hạnh phúc đã mất. Hình
tượng nhân vật phản ánh bi kịch của số phận con người; bi kịch hồng nhan bạc mệnh, tài
mệnh tương đối, bi kịch cuộc đời ngắn ngủi, vô thường.
- Tiếng nói trữ tình chủ đạo trong ngâm khúc không chỉ là lời kể lể, than thở cho số phận
bi thương của con người mà còn là tiếng nói khao khát hạnh phúc riêng tư, hạnh phúc
trần thề
3. Ngôn ngữ, thể loại
(trước đó có thiên nam ngữ lục – tác phẩm tự sự Nôm)
Chữ Nôm – phương tiện có giá trị tối ưu – thể hiện đời sống tâm hồn con người VN
- Ngôn ngữ: Với ngâm khúc, tiếng việt đã khẳng định được khả năng to lớn trong việc
biểu đạt thế giới tâm hồn con người. Mọi cung bậc cảm xúc, mọi ngóc ngạch trong đời
sống tâm tư con người đều được ngâm khúc biêt đạt bằng một hệ thống ngôn ngữ giàu
âm thanh, màu sắc, nhạc điệu…
- Ngôn ngữ phong phú đa dạng và tinh tế, giàu sắc biểu cảm khi diễn tả các cung bậc cảm
xúc trong thế giới nội tâm của con người
- Ngôn ngữ phong phú, sống động và gợi cảm khi miêu tả thiên nhiên, ngoại hình, ngoại
vật
- Có sự kết hợp hài hòa giữa lớp từ hán việt và thuần việt, giữa tính trang trọng, điển nhã
và tính chất đời thường, gần gũi, sinh động
* Thể thơ:
- Đây là thể thơ có sức mạnh đặc biệt trong việc phô diễn tâm trạng buồn. Sự lặp lại
mang tính chất chu kì (ủ ê, ảo não, ít những biến động) của những khổ thơ có cấu trúc
giống nhau góp phần diễn tả rất thành công cái miên man, vô tận dường như không có
điểm dừng của nỗi sầu não con người.
(Sự phân đoạn – nhà nghiên cứu Phan Ngọc – lặp đi lặp lại, vần điệu luyến láy lại với
nhau, dòng chảy tiếp nối không ngừng nghỉ)
- Tính nagacj dồi dào, nhịp điệu linh hoạt giúp tác phẩm Ngâm khúc có thể phản ánh một
ách tinh tế các trạng thái tình cảm khác nhau.
- Mô hình thể thơ stlb: Phù hợp với phương thức kết cấu đăng đối, trùng điệp – một thủ
pháp nghệ thuật được sử dụng phổ biến trong ngâm khúc
(tiểu đối trong câu thơ lục bát)
(bình đối giữa cặp câu thất – đối giữa hai câu)
(đối đoạn giữa đoạn thơ trên với đoạn thơ dưới)
(điệp cấu trúc đoạn
VỊ TRÍ NGÂM KHÚC
- Ngâm khúc là một thể loại nội sinh, một trong hai thể loại văn học dân tộc có quy mô
lớn, đạt được những thành tựu rực rỡ, đóng góp quan trọng vào việc kiến tạo diện mạo
của văn học Việt Nam giai đoạn thế kỉ XVIII và nửa đâu XIX
- Sự có mặt của ngâm khúc đã khẳng định bước trưởng thành và phát triển mạnh mẽ của
văn học tiếng việt
- Với ngâm khúc, lần đầu tiên trong văn học, đời sống nội tâm của con người được khai
thác và biểu đạt trọn vẹn, từ việc khám phá con người bên trong, những vấn đề bức thiết
về số phận và khát vọng của con người cá nhân cũng được thể hiện sâu sắc.
CHINH PHỤ NGÂM
1. Nguyên tác
- Tiểu sử: quê gốc ở làng Nhân mục, huyện Thanh Trì, Hà Nội
- Cuộc đời: nổi tiếng là người thông minh, học giỏi nhưng đỗ đạt không cao
“tiếng lừng thiên hạ” – chức quan cao nhất: tri huyện
- Làm quan thời gian ngắn, sau đó xin cáo quan do không phù hợp với đời sống khuôn
khổ
- Sự nghiệp sáng tác
* Bản Hán Văn:
- Quy mô tác phẩm: 483 câu
- Thể thơ: trường đoản cú (câu dài, câu ngắn xen nhau, cách ngắt câu linh hoạt, phù hợp
với diễn tả cảm xúc
- Thời điểm sáng tác:
- Lối thơ: tập cổ (tập tự, tập cú – tập hợp chữ, câu thơ của người xưa thành thơ)
I. Bản diễn Nôm hiện hành
a, tình hình văn bản
- Các bản diễn Nôm CPNK
b, Tác giả
- Quan niệm truyền thống (tục truyền): Đoàn Thị Điểm (ý kiến củ nhà nghiên cứu Vũ
Hoạt, hoàn cảnh tương đồng, tài thơ…)
- Quan niệm khác: Phan Huy Ích (Tân diễn Chinh phụ ngâm khúc thành ngẫu thuật; bản
sao bằng chữ quốc ngữ dòng họ Phan Huy giữ, ngôn ngữ, văn phong của bản Nôm hiện
hành phù hợp với nửa sau thế kỉ XVIII.
* Ý nghĩa:
- Đề bài bắt nguồn từ: nguồn thi đề, thi liệu truyền thống, hiện thực lịch sử, trái tim trắc
ẩn của nhà thơ trước số phận đau khổ, bi kịch của con người
- Đề tài phản ánh những vấn đề trọng đại của hiện thực lịch sử, cuộc sống và khát vọng
hạnh phúc của con người thời đại
* Bố cục:
- Câu 1 đến câu 64: Người cp hồi tưởng về khung cảnh ngày biệt li
- Câu 65 – 112: hình dung về cuộc sống của người chinh phu nơi chiến trường
=. Bi kịch của chinh phụ: thương cho chồng + thương cho chính mình
- Câu 113 – 377: giãi bày nỗi cô đơn, sầu muộn của người vợ chờ chồng trong mỏi mòn,
thất vọng
- Câu 378 – hết: hi vọng về ngày đoàn viên trong khải hoàn
* Giá trị nội dung:
- Là tiếng lòng của người phụ nữ có chồng tòng quân, toàn bộ khúc ngâm là lời độc thoại
nội tâm của nhân vật. Điểm nhìn của tác phẩm được đặt về phía nhân vật, những khái
quát tổng kết cũng được rút ra từ chính những nhận thức của nhân vật.
- Tiếng nói trữ tình trong CPNK là tiếng nói trữ tình nhập vai
(mượn giọng/ hư cấu giọng) (tác giả sáng tạo ra nhân vật – để nhân vật nói hộ mình…)
- Giá trị khái quát: CPNK đề cập đến vấn đề nhức nhối của thời đại (chiến tranh) và khái
quát được những nội dung có ý nghĩa nhân sinh sâu sắc (số phận, khát vọng hạnh phúc
của con người).
Nhiệm vụ buổi sau:
Tìm hiểu đặc trưng của thể loại Ngâm khúc qua đoạn thơ sau:
Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu,
Hỏi ngày về ước nẻo quyên ca.
Nay quyên đã giục oanh già,
Ỷ nhi (36) lại gáy trước nhà líu lo.

Thuở đăng đồ (37) mai chưa dạn gió,


Hỏi ngày về chỉ độ đào bông.
Nay đào đã quyến gió đông,
Phù dung lại đã bên sông ba xòa

Hẹn cùng ta Lũng Tây (38) sâm ấy,


Sớm đã trông nào thấy hơi tăm.
Ngập ngừng lá rụng cành trâm,
Chiều hôm nghe dậy tiếng cầm (39) lao xao
Hẹn nơi nao Hán Dương (40) kiểu nọ
Chiều lại tìm nào có tiêu hao.
Ngập ngừng gió thổi chéo bảo,
Bãi hôm tuôn dẫy nước trào mênh mông. (41)

Tin thường lại người không thấy lại,


Hoa dương tàn đã trải rêu xanh.
Rêu xanh mấy lớp xây quanh,
Sân đi một bước trăm tình ngẩn ngơ.

Thư tưởng tới người chưa thấy tới


Bức rèm thưa lần giãi bóng dương.
Bóng dương mấy buổi xiên ngang,
Lời sao mười hẹn chín thường đơn sai?
Nội dung:
lỗi hẹn ngày về - lỗi hẹn nơi trở về - nỗi thất vọng khi thư tín không được hồi đáp
=> Sự khai thác thế giới nội tâm của nhân vật thông qua những dòng tâm trạng bày tỏ cảm
xúc, dòng độc thoại nội tâm
- Lời thở than cho số phận, cho duyên vợ chồng dở dang vì chinh chiến trận mạc

- Kết cấu: Trong ngâm khúc có sự xuất hiện của ba thời: quá khứ, hiện tại được đặt trong thế soi
chiếu nhau, lấy hiện tại làm trung tâm.
Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu,…./ Nay quyên đã giục oanh già,

- Cảm hứng chủ đạo: Cảm hứng “tự thương”, than vãn, tự than thân trách phận
nhân vật tự thương chính mình
tiếng nói trữ tình – tiếng than vãn, kể lể, giãi bày nỗi thống khổ, bất hạnh của bản thân
- Giọng điệu: giọng than vãn, kể lể, giãi bày, da diết, não nề, mang đậm sắc thái buồn thương, ai
oán.
- Ngôn ngữ: Hệ thống ngôn ngữ phong phú, sống động và gợi cảm
- Ngôn ngữ phong phú đa dạng và tinh tế, giàu sắc biểu cảm khi diễn tả các cung bậc cảm xúc
trong thế giới nội tâm của con người – trường từ vựng thể hiện sắc thái bi thương, não nề của
tâm trạng con người và cảnh vật: tiêu hao, ngập ngừng, mênh mông, lao xao, ngẩn ngơ,…
Trường hệ thống biểu tượng:
- Thể thơ: song thất lục bát – cấu trúc lặp đi lặp lại – thể hiện tính chất rền rĩ, than vãn, kể lể,
miên man vô tận nỗi sầu não của con người
(Kết cấu trùng điệu: hai câu thất – niềm hi vọng thì cặp lục bát – nỗi thất vọng)
Mô hình thể thơ stlb: Phù hợp với phương thức kết cấu đăng đối, trùng điệp – một thủ pháp nghệ
thuật được sử dụng phổ biến trong ngâm khúc
(tiểu đối trong câu thơ lục bát)
(bình đối giữa cặp câu thất – đối giữa hai câu)
(đối đoạn giữa đoạn thơ trên với đoạn thơ dưới)
(điệp cấu trúc đoạn)

1. Lỗi hẹn ngày về


Tính liên tục tuần hoàn của thời gian được ý thức thường xuyên như một đoạn thơ trách người
chinh phu lỡ hẹn diễn ra với ý niệm thời gian liên tục tuần hoàn của vũ trụ, nhất là vòng tuần
hoàn bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Nhưng ở đây tác giả không diễn đạt trực tiếp bằng những từ
chỉ mùa: xuân, hạ, thu, đông mà dùng những hình ảnh biểu trưng.
 
Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu (xuân)
Hỏi ngày về ước nẻo quyên ca (hè)
Nay quyên đã giục oanh già (sang hè)
Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo (thu)
Thuở đãng đồ mai chưa dạn gió (đông)
Hỏi ngày về chỉ độ đào bông (xuân)
Nay đào đã quyến gió đông (hết xuân)
Phù dung lại rã bên sông ba xoà (thu)
 
Chim oanh biểu trưng cho mùa xuân, trong thơ ca cổ hình ảnh này xuất hiện khá phổ biến nhất là
trong Đường thi. Chim đỗ quyên là biểu trưng cho mùa hè.

Cả đoạn thơ không một từ chỉ thời gian, mà nó chỉ hiện lên những hình ảnh của những
sinh thể trong đời sống tự nhiên: chim oanh, chim đỗ quyên, chim én, hoa mai, hoa đào,
hoa phù dung. Chúng đến rồi chúng lại đi, chúng tàn rồi chúng lại nở. Nhưng qua đó người
đọc có thể hình dung ra được sự tuần hoàn trôi chảy đến bất tận của thời gian. Bên cạnh đó trong
đoạn thơ, tác giả còn dùng kết cấu thơ trùng điệp nhằm nhấn mạnh sự lặp đi lặp lại những cảm
xúc trong lòng người chinh phụ. Tâm trạng chính phụ diễn tiến theo hai vế hy vọng - thất vọng.
Nàng cứ đợi chờ hy vọng khi một mùa  xuân trôi qua, một năm trôi qua thì đến mùa sau,  năm
sau người chinh phu sẽ trở về như lời hẹn ước về đáp lại lòng mong đợi, thương nhớ của nàng.
=> Nỗi niềm thất vọng của người chinh phụ tăng dần, niềm hi vọng ngày một vơi
2. Lỗi hẹn nơi trở về
- Chàng hẹn về đồn binh Lũng Tây – nơi người chinh phụ đến hẹn – lá rụng, chim chóc xôn xao
thôn vắng mà không thấy bóng dáng
- Chàng hẹn về cầu Hán Dương – chinh phụ đến nơi – gió thổi chéo bào, chiều tiêu hao, nước
triều dâng mênh mông nơi bãi vắng
=> Địa danh tiêu biểu cho nơi tập quân, đóng quân – lời thở than trách móc của người chinh phụ:
đợi chờ với bao sầu muộn
(Kết cấu trùng điệu: hai câu thất – niềm hi vọng thì cặp lục bát – nỗi thất vọng)
3. Tin tức lần nữa
Hi vọng chỉ còn lại một nửa (tin thường lại) còn các dòng thơ sau đều là nỗi thất vọng, buồn đau
ngập tràn

NỘI DUNG CHINH PHỤ NGÂM


GIÁ TRỊ NỘI DUNG
1. Chiến tranh và số phận con người
- Chiến tranh không phải là chủ đề trực tiếp của tác phẩm. Vấn đề trung tâm dặt ra là cuộc sống,
số phận con người trong bối cảnh loạn li, bất ổn
- Nhận thức về chiến tranh của người chinh phụ trong tác phẩm không bất biến mà có sự thay đổi
(soi chiếu quá khú – hiện tại)
- Chiến tranh là cơ hội con người tìm kiếm hạnh phúc (ảo tưởng, ngoại thân – thực tế, tự thân,
thiết thân)
- Chiến tranh gắn liền với nỗi khổ đau, bất hạnh của con người
+ Bi kịch của người chinh phu
+ Bi kịch của người chinh phụ

Khúc tâm tình của người chinh phụ (Hoàng Xuân Hãn)
- Nỗi thương sợ (thường chồng, sợ chàng thiệt thân)
- Nỗi nhớ nhung (than cách trở, trách lỗi ngày hẹn, trách lỗi nơi hẹn, trách lỗi hẹn lần
nữa)
- Nỗi lẻ loi (nuôi mẹ dạy con, giở lật vật cũ)
Nỗi trông ngóng (ngóng tin về, thẫn thở, bạn với đèn)
- Nỗi sầu muộn (sầu nhớ, cảnh gợi sầu)
- Nỗi chán nản (lười biếng, nản lòng)
- Nỗi mong mỏi (mộng được gần, trông bốn bề)
- Nỗi ngờ vực (hối hận, ngờ vực)
- Nỗi lo già (tính ngày qua, còn xa cách, lỡ thời)
- Nỗi ao ước (mong ở kè chồng…)
2. Khát vọng hạnh phúc
-a) Hạnh phúc là sự sum vầy đôi lứa bb v
- Tiền đề: Người chinh phụ chia tay chồng khi tuổi đang còn trẻ (đương chừng niên
thiếu). Chính bởi thế, khát khao được yêu đương, khát khao được gần gũi là những tâm
tư rất thực, đáng được cảm thông và trân trọng
Biểu hiện:
- Miêu tả hình ảnh thiên nhiên quấn quýt, khêu gợi, ngầm ẩn hạnh phúc lứa đôi
- Gửi gắm qua những giấc mơ nồng nàn nhục cảm (dương đài, tương phố, mộng xuân)
- Xem hạnh phúc đôi lứa là chuẩn mực để định giá giá trị, ý nghĩa của sự sống
b) Hạnh phúc chỉ có giá trị trong hiện tại và khi con người còn tuổi trẻ
- Quan niệm về hạnh phúc trong CPN gắn liền với ý thức thời gian và cái nhìn trân trọng
tuổi trẻ
- Thời gian trôi, đồng nghĩa với tuổi trẻ và nhan sắc tàn phai: Nghĩ nhan sắc đang chừng
hoa nở/ Tiếc quang âm lần lữa gieo qua
- Phủ nhận ý niệm về hạnh phúc trong giấc mơ và trong kiếp lai sinh “Đành muôn kiếp
chữ tình là vậy/ Theo kiếp này hơn thấy kiếp sau”
4. Giá trí nghệ thuật
4.1. Bút pháp tượng trưng ước lệ
- Đặc trưng của VH trung đại: hướng đến cái chung, cái phổ biến, khái quát => Diễn đạt
theo những công thức có sẵn, được quan niệm là mẫu mực
- Nguyên tác được viết theo lối tập cổ, sử dụng nhiều thi liệu quen thuộc trong thơ ca
xưa, chi phối bút pháp nghệ thuật, cách sử dụng chi tiết, hình ảnh
4.2. Kết cấu
- Có sự kết hợp giữa sắp đặt thời gian và không gian độc đáo, mang đặc trưng của kết cấu
thể loại ngâm khúc
- Kết cấu thời gian: quá khứ - hiện tại – tương lai đồng hiện
- Kết cấu không gian (chia cắt, song song k gặp gỡ): thiếp trong cánh cửa/ chàng ngoài
chân mây
=> Sự mất mát, nỗi cô đơn của người chinh phụ
- Bao trùm tác phẩm là kết cấu theo dòng chảy tâm lí nhân vật, các trạng thái cảm xúc
không tiếp nối mà chồng chéo, trùng điệp, xâm lấn nhau
4.3. Nghệ thuật phô diễn tình cảm

CƠ SỞ LỊCH SỬ - XÃ HỘI HÌNH THÀNH TRUYỆN NÔM


- Sự khủng hoảng xã hội – sự rạn nứt của quan niệm chính thống, đưa văn học đến gần
hơn với hiện thực
- Bối cảnh xã hội với những đk thuận lợi cho ý thức cá nhân được nảy nở, phát triển
- Sự phát triển của các ngành thủ công nghiệp, nghề in phát triển
CƠ SỞ VĂN HÓA VĂN HỌC HÌNH THÀNH TRUYỆN NÔM
- Sự khởi sắc của văn hóa truyền thống dân tộc
- Sự du nhập của sách vở nước ngoài, đặc biệt là Trung quốc, Ấn Độ (tư tưởng dân chủ,
cốt truyện, mẫu hình nhân vật – truyện tài tử giai nhân
con người trung đại lý tưởng đề cao – con người đè nén mọi thứ riêng tư, cá nhân
truyện nôm tài tử giai nhân – tự hào tài năng cá nhân, giá trị cá nhân; tìm kiếm tình yêu,
hạnh phúc ở đời mình/con người đòi hỏi hưởng thụ
=> Hệ giá trị đánh giá con người thay đổi
- Truyền thống tự sự trong văn học trung đại vn
(so sánh tự sự vhdg: truyền thuyết, cổ tích, thần thoại, ngụ ngôn - cốt truyện truyền
thuyết, cổ tích được tác giả truyện Nôm học hỏi, tiếp nhận)
(tự sự trong văn học viết: tự sự bằng văn, tự sự bằng thơ
- Thể thơ lục bát và khả năng ứng dụng trong tự sự

QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA TRUYỆN NÔM


1. Giai đoạn thế kỉ 16 – 17: giai đoạn hình thành
- Giai đoạn hình thành và khẳng định sự có mặt của thể loại truyện Nôm trong đời sống
văn học dân tộc
- Ở giai đoạn này, có sự xuất hiện song song hai loại hình truyện Nôm: tác phẩm dùng
thơ ĐL làm phương thức tự sự + tác phẩm truyện Nôm lục bát
- Khai thác 3 chủ đề chính: tôn giáo (tuyên truyền, lý giải các triết lí, luận thuyết tôn
giáo) + lịch sử (cuộc đời, số phận nhân vật lịch sử) + thế sự (cuộc sống hôn nhân, gia
đình, mối quan hệ con người, hiện thực đời sống)
=> Tác phẩm truyện Nôm khuyết danh
2. Giai đoạn thế kỉ 18 – nửa đầu thế kỉ 19
- Truyện Nôm phát triển rực rỡ, các nhà nghiên cứu gọi thế kỉ XVIII là thế kỉ truyện Nôm
+ Dòng truyện Nôm ĐL ít phát triển
+ Hình thức thể thơ lục bát dần đi vào quy chuẩn
+ Đề tài trung tâm cuộc sống hôn nhân gia đình và tình yêu tự do
- Xuất hiện những tác phẩm sớm nhất có tên tác giả
- Thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX là giai đoạn truyện Nôm khẳng định được sức mạnh
loại thể, đóng góp to lớn vào thành tựu của văn học trung đại VN, cả về ndung tư tưởng
và hình thức nghệ thuật
3. Phân loại
- Dựa trên tiêu chí tác giả: Truyện Nôm hữu danh và khuyết danh (thuần túy mang tính
hình thức)
- Dựa trên tiêu chí hình thức thể thơ: Truyện Nôm ĐL, truyện Nôm lục bát
- Dựa trên tiêu chí đề tài: truyện Nôm tình yêu, truyện Nôm thế sự, truyện Nôm lịch sử,
tôn giáo, luân lý đạo đức
- Dựa trên tiêu chí nguồn gốc cốt truyện: Dựa trên tích truyện dân gian (truyện cổ tích,
thần thoại hay tiên thoại, Phật thoại); truyện Nôm dựa vào cốt truyện Trung Hoa, truyện
Nôm được sáng tác trên cơ sở chất liệu hiện thực.
TẬP TRUNG VÀO CHỦ ĐỀ TÌNH YÊU TỰ DO + KHẲNG ĐỊNH CUỘC ĐẤU
TRANH BẢO VỆ HẠNH PHÚC CỦA CON NGƯỜI
1. Tiếng nói của khát vọng dân chủ trong tình yêu đôi lứa
- Nguyễn Dữ xây dựng hình tượng người con gái đấu tranh vì tình yêu, chạy theo tình
yêu, theo đuổi tình yêu tự do – con người đi tìm kiếm tình yêu tự do – kết thúc bi đát
- Chủ đề này tuy tập trung ở nhóm truyện Nôm bác học, lấy đề tài cốt truyện từ tiểu
thuyết trung quốc, đặc biệt là nhóm tt tài tử giai nhân
- Mô hình chung của nhân vật xuất thân từ tầng lớp quý tộc. Họ mang đầy đủ giá trị cá
nhân: Sắc – Tài – Tình. Mối quan hệ tình cảm giữa các nhân vật thường bắt nguồn từ
những cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên. Trong tình yêu, nv nam luôn là người chủ động
- Khuynh hướng chung: ngợi ca và hẳng định tình yêu tự do ggg
Dựa vào cơ sở nào, đề cập đến ty tự do, các tác giả truyện Nôm không né tranh, dị nghị
hay cảm thấy hoang mang, hoài nghi mà khẳng định một cách rất mạnh mẽ?

*Vì sao khuynh hướng chung của truyện Nôm là khẳng định tình yêu tự do, khẳng định
cuộc đấu tranh bảo vệ hạnh phúc của con người
- Do nhu cầu biểu hiện khát vọng tình yêu mãnh liệt (nhân vật tự lựa chọn ny, tự đính
ước, tự tiện thành thân) (tinh thần dân chủ, khát vọng giải phóng con người)
- Các truyện Nôm – xây dựng cuộc tranh đấu giữa lễ giáo và tình yêu
- Tình yêu tự do trong truyện Nôm không tuân theo những luật lệ bất nhân của XHPK,
không phụ thuộc vào tải sản, đẳng cấp mà họ tạo dựng nên những mối tình trong sáng,
thủy chung cao thượng; luôn đấu tranh hết mình và chiến thắng mọi thế lực đen tối để
bảo vệ người yêu, sống hết mình cho tình yêu.
- Tiếng nói ca ngợi ty tự do – gắn liền với ý thức về quyền sống, quyền hạnh phúc của
con người => Khát vọng được thành thật với lòng mình
(Được hình thành và nuôi dưỡng bởi tinh thần dân chủ và cảm hứng nhân văn của thời
đại. Ẩn sau bao mối tình tài tử giai nhân, bao cuộc hôn nhân phá vỡ khuôn phép kia là sự
thách thức, phủ định đối với xã hội đương thời, là tinh thần chống phong kiến mạnh mẽ”
(Lý giải: bầu khí quyển tinh thần của thời đại cùng khát vọng sống, khát vọng tự do, dân
chủ)

<Thái độ Nguyễn Dữ - với những người phụ nữ lệch chuẩn – số phận bi kịch, kết thúc bi
thảm>< say sưa mô tả niềm hạnh phúc của con người trong tình yêu, trân trọng, ngợi
ca>i9i89
Song Tinh Bất Dạ - mở đầu cho dòng truyện Nôm viết về đề tài tài tử - giai nhân, ca
ngợi tình cảm đôi lứa/ truyện Nôm bác học đầu tiên xuất hiện ở Đàng trong và là truyện
Nôm bác học có tên tấc giả đầu tiên
Song Tinh khi ở trọ nhà họ Giang – yêu Nhụy Châu >< anh em với nhau => Song Tinh
tương tư tuyệt vọng suýt chết
Cố thi đỗ trạng Nguyên => bị đẩy đi đánh giặc => Nhụy Châu bị Sinh cầu hôn, từ chối,
lập mưu đưa nàng tiến cung => Tự tử => Sau này gặp lại, kết duyên xưa

Truyện Hoa tiên về cuộc tình duyên trắc trở giữa hai nhân vật chính: Lương sinh và Dương Dao
Tiên, vì hai bên viết lời thề nguyền gắn bó với nhau trên hai tờ giấy hoa tiên nên truyện mới có tên
là Hoa tiên.
Theo bản Hoa tiên do Dương Quảng Hàm giới thiệu, thì truyện này dài 1858 câu thơ, và có thể chia
làm 4 hồi:

 Hồi 1: Lương sinh và Dương Dao Tiên thề nguyền cùng nhau (từ câu 1 đến câu 829):
Lương sinh chính tên là Lương Phương Châu (con Lương tướng công, người Tô Châu). Nhân sang
trọ học ở nhà người cậu họ Diêu ở Tràng Châu. Gặp nàng Dương Dao Tiên (con gái Dương tướng
công), chàng tỏ tình với nàng. Lúc đầu Dao Tiên còn e ngại, nhưng nhờ có Vân Hương và Bích
Nguyệt giúp đỡ, nên Dao Tiên cũng sinh lòng yêu mến Lương sinh. Sau khi hai bên cùng thề
nguyền gắn bó (lời thề viết trên hai tờ giáy hoa tiên, nhân thế đặt tên cho truyện), tưởng là duyên
phận không còn trắc trở gì nữa.

 Hồi 2: Lương sinh và Dương Dao Tiên xa cách nhau (từ câu 830 đến câu 1128):
Ngờ đâu, Lương tướng công và Lưu tướng công vốn là người đồng quận và là bạn đồng liêu, lúc
cùng về trí sĩ, hẹn gả con cho nhau. Đến khi Lương sinh về nhà thăm cha mới biết chuyện người vợ
tương lai của mình là Lưu Ngọc Khanh (con gái Lưu tướng công). Mặc dù quá đổi đau khổ, nhưng
chàng cũng đành phải theo lệnh của cha mẹ. Dương Dao Tiên nghe được tin ấy, cho rằng người
mình thương đã bội ước, nên cũng buồn đau không kém. Chợt khi ấy, Dương tướng công (cha
Dương Dao Tiên) có lệnh làm quan ở kinh đô. Ông đem gia đình theo. Đến khi ông nhận lệnh cầm
quân ra trận, mẹ con Dương Dao Tiên đành phải đến ở nhà người cậu họ Tiền.

 'Hồi 3: Lương sinh ra đánh trận, bị quân đối phương bao vây (từ câu 1129 đến câu 1556):
Lương sinh cùng với Diêu sinh (con người cậu họ Diêu) thi đỗ, được bổ làm quan. Làm quan ở kinh
đô, Lương sinh tình cờ gặp lại Dương Dao Tiên, rồi giãi bày tâm sự cùng nàng. Biết cha nàng bị vây
khổn, Lương sinh bèn xin vua đi giải vây. Nào ngờ đánh thua, chàng bị quân đối phương vây chặt.
Nhận được tin đồn rằng Lương sinh tử trận, Lưu Ngọc Khanh cải phục cư tang. Sau, vì mẹ khuyên
lấy chồng khác, nàng nhảy xuống sông tự tử. May mà gặp thuyền của quan Đốc học tên Long đang
trẩy kinh vớt được.

 Hồi 4: Cả nhà đoàn viên vui vẻ (từ câu 1157 đến 1858):
Diêu sinh đánh tan được quân đối phương, giải vây cho Dương tướng công và Lương sinh. Tất cả
đều được nhà vua ban thưởng. Tưởng rằng Lưu Ngọc Khanh đã mất, Lương sinh bèn dâng biểu
tâu việc nàng tuẫn tiết, được nhà vua ban sắc phong cho nàng. Nhà vua lại tự đứng ra làm mối gả
Dương Dao Tiên cho Lương sinh. Đang khi đó thì Đốc học Long cùng Lưu Ngọc Khanh cũng vừa
đến kinh đô. Biết Lương sinh đã có vợ, Ngọc Khanh định đi tu. Nhờ Đốc học Long dâng sớ tâu việc
lên nhà vua. Nhà vua lại Ngọc Khanh kết duyên cùng Lương sinh. Cuối cùng, chẳng những Lương
sinh cưới được Dương Dao Tiên, Lưu Ngọc Khanh; mà còn cưới cả hai người con gái trước kia đã
từng giúp mình đó là Vân Hương và Bích Nguyệt. Thật là một nhà đoàn viên vui vẻ.
III. ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT
1. Kết cấu
- Kết cấu truyện Nôm về cơ bản có thể khái quát theo mô hình: Giới thiệu – gặp gỡ - tai
biến – đoàn tụ
- Giới thiệu: phần mở đầu ở các tác phẩm có chức năng cung cấp những thông tin cho
người đọc về bối cảnh lịch sử xã hội, quê quán, gia thế các nhân vật trung tâm
- Gặp gỡ: gặp gỡ ở truyện Nôm là sự kiện đặc biệt quan trọng, có liên quan chặt chẽ đến
việc phản ánh, thể hiện số phận, tính cách nhân vật. Cách xây dựng sự kiện gặp gỡ có
mối quan hệ mật thiết với tư tưởng chủ đề tác phẩm: chủ đề tình yêu – hạnh phúc gia
đình
- Tai biến: Để khắc họa sự kiện chia ly, các truyện Nôm thường dựng lên nhiều khó khăn
trắc trở trong cuộc đời nhân vật. Nó vừa phản ánh được sự khốc liệt của hiện thực, những
gian nan, thử thách con người đối mặt, vừa có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển cốt
truyện số phận và tính cách nhân vật. Sụ kiện tai biến dược tập trung miêu tả ở cá nhóm
truyện Nom về đề tài tình yêu và truyện Nôm về đề tài gia đình.
- Đoàn tụ: Sự kiện đoàn tụ thường được thể hiện ở các truyện Nôm gắn liền với một kết
thúc có hậu: con người trải qua những thử thách cuối cùng đã tìm lại được hạnh phúc mà
mình mong đợi. Mô típ kết thúc có cậu ở đây có sự ảnh hưởng từ:
+ Những cốt truyện sẵn có
+ Quan niệm nhân sinh tích cực của người VN: thiện luôn luôn thắng ác, những người tốt
bao giờ cũng được đền đáp
+ Quan niệm thẩm mĩ của người trung đại về tính chu kì, lặp lại của vạn vật trong vũ trụ
nhưng không phải sự lặp lại vẹn nguyên mà the chiều hướng tốt đẹp hơn. Kết thúc viên
mãn cho số phận con người là sự hoàn trả lại danh giá cho họ.
2. Nhân vật
2.1. Nhóm truyện Nôm bình dân
- Thế giới nhân vật có sự tương đồng với mô hình thế giới nhân vật trong truyện cổ tích
- Nhân vật chính diện: nhân vật chính bao giò cũng là nv chính diện/ Nhóm nhân vật này
thường được xây dựng theo những khuôn mãu nhất định (trong truyện Nôm, họ là những
con người mạnh mẽ, quyết liệt, sẵn sàng bảo vệ phẩm giá và hạnh phúc gia đình)
- Nhóm nhân vật phản diện: thế lực bạo tàn gây nên cảnh chia li, cách biệt cho những cặp
đôi nam – nữ. Về cơ bản, tính cá thể của nhân vật chưa được thể hiện rõ
- Nhân vật trung gian: có mặt không thường xuyên, liên tục
2.2. Nhóm truyện Nôm bác học
- Nhân vật chính diện: vẫn được xây dựng theo những khuôn mẫu sẵn có (đời sống nội
tâm được quan tam, xuất thâ, ngoại hình, phẩm hạnh, tính cách)
- Nhân vật phản diện: không thật sự đông đảo, có sự xuất hiện của khá nhiều bức chân
dung sống động, mang đến dấu ấn hiện thực rõ nét (nv phản diện bắt đầu hiện diện với cá
tính riêng: cùng là kẻ ác nhưng mã giám sinh, sở khanh và hồ tôn hiến khác nhau)
- Nhân vật trung gian: xuất thân bình dân, đóng vai trò kết nối mối quan hệ giữa các nhân
vật chính
3. Ngôn ngữ, thể thơ
3.1. Ngôn ngữ
- Ngôn ngữ miêu tả, kể chuyện: Ở truyện Nôm bình dân, ngôn ngữ miêu tả không chiếm
vị trí quan trọng, ngôn ngữ kể còn chưa được gọt giũa. Ở nhóm truyện Nôm bác học, bên
cạnh một số tác phẩm ngôn ngữ Hán Việt vẫn còn chiếm tỉ lệ cao, chưa được xử lí một
cách nhuần nhuyễn, nhiều truyện thơ có ngôn ngữ kể và tả đạt đến độ trong sáng, tinh tế,
gợi cảm
- Ngôn ngữ nhân vật: Ngôn ngữ đối thoại đóng vai trò quan trọng việc biểu đạt tính cách
nhân vật, nội dung tư tưởng tác phẩm và thúc đẩy diễn tiến câu chuyện phát triển. Các tác
giả truyện Nôm đã chú ý đến hệ ngôn ngữ phù hợp với từng loại hình nhân vật.
(bình dân: đối thoại/ độc thoại: bác học)
3.2. Thể thơ
- Thể thơ lục bats đến truyện Nôm đã phát huy được sở trường kể chuyện. Hình thức vận
dụng thể thơ lục bát để kể chuyện cũng khá đa dạng: toàn bộ tác phẩm chỉ bằng thể lục
bát, có thể là lục bát kết hợp ĐL (sơ kính tân trang, hoa tiên), lục bát kết hợp văn biền
ngẫu (quan tâm thị kính, tống trân cúc hoa),….
- Thể thơ lục bát không chỉ có thế mạnh khi tự sự mà còn tinh tế, giàu cảm xúc khi trữ
tình

You might also like