You are on page 1of 50

QUYỀN BÀO CHỮA

1. Lý luận chung về bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội dưới 18 tuổi
1.1. Khái niệm quyền bào chữa của người bị buộc tội dưới 18 tuổi trong tố tụng hình sự Việt Nam
* Khái niệm người dưới 18 tuổi
Theo khoản 1 Điều 21 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám
tuổi”.
Theo Quy tắc Bắc Kinh năm 1985 quy định tại Điều 2.2a: “Người nào chưa thành niên là trẻ em hay thanh thiếu
niên mà tùy vào từng hệ thống pháp luật có thể bị xử lý khi phạm tội, theo một phương thức khác với người lớn”.
Theo quy tắc Havana năm 1990 tại điều 11a quy định: “Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi”.
Theo Bình luận chung số 24 năm 2019 có quy định như sau: “Trẻ em ở độ tuổi tối thiểu chịu trách nhiệm hình sự
trở lên tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội nhưng dưới 18 tuổi thì có thể bị buộc tội theo quy định của pháp luật và
phải được áp dụng các thủ tục tư pháp dành cho người chưa thành niên”.
* Ngoài ra, theo quy định của Bộ luật TTHS năm 2015, tất cả người bị buộc tội đều có quyền tự bào chữa, nhờ
người bào chữa. Tuy nhiên, khoản 1 Điều 76 Bộ luật TTHS năm 2015 có quy định về việc chỉ định người bào chữa:
“Trong các trường hợp sau đây nếu người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ không mời người bào
chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa cho họ:
a) Bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử
hình;
b) Người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa; người có nhược điểm về tâm thần hoặc là
người dưới 18 tuổi”.
→ Với quy định này có thể thấy, ngoài quyền tự bào chữa, nhờ người bào chữa thì người bị buộc tội còn có quyền
được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định người bào chữa cho họ trong những trường hợp luật định.
Điều 76 BLTTHS năm 2015 đã mở rộng diện người bào chữa gồm cả trợ giúp viên pháp lý để bào chữa cho
người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi, đây là quy định nhằm tạo điều kiện thuận lợi để bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp
pháp người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi mà còn phù hợp với nhu cầu và điều kiện thực tiễn hiện nay khi đa phần trợ
giúp pháp lý đều không có thẻ luật sư nên khó khăn trong việc tiếp cận và bảo vệ quyền lợi cho người bị buộc tội.
BLTTHS năm 2015 quy định người tiến hành tố tụng đối với vụ án có người dưới 18 tuổi phải là người đã được
đào tạo hoặc có kinh nghiệm điều tra, truy tố, xét xử vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi, có hiểu biết về tâm lý học,
khoa học giáo dục đối với người dưới 18 tuổi. Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm phải có một Hội thẩm là giáo viên
hoặc cán bộ Đoàn thanh niên hoặc người có kinh nghiệm, hiểu biết tâm lý người dưới 18 tuổi; phiên tòa xét xử bị cáo là
người dưới 18 tuổi phải có mặt người đại điện của bị cáo, đại diện của nhà trường, tổ chức nơi bị cáo học tập, sinh hoạt.
BLTTHS năm 2015 bổ sung quy định người bị tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt cũng có quyền tự
bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình. Quy định này giúp cho việc tham gia bảo vệ quyền lợi cho người bị
buộc tội nói chung và người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi nói riêng được sớm hơn.

Trước yêu cầu bảo vệ quyền con người và xu hướng hội nhập quốc tế ngày càng mạnh mẽ và do sự thiếu hiểu biết
về quá trình TTHS, sự chưa trưởng thành, sự sợ hãi hoặc những nguyên nhân khác nên nguyên tắc suy đoán vô tội trở nên
rất cần thiết. Đây là một nguyên tắc có vai trò và ý nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình tố tụng hình sự.
Điều 13 BLTTHS 2015 quy định nguyên tắc này như sau: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến
khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp
luật”.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 14 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị: “Người bị cáo buộc là
phạm tội hình sự có quyền được coi là vô tội cho tới khi hành vi phạm tội của người đó được chứng minh theo pháp
luật”.
Theo quy định của Bộ luật TTHS, người bị buộc tội dưới 18 tuổi có quyền tự bào chữa để bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của mình. Tuy nhiên, do hạn chế về kiến thức pháp luật, kỹ năng bào chữa (đặc biệt là đối với người dưới 18
tuổi) và có thể do đang bị giam giữ nên họ không thể thực hiện được việc tự bào chữa có hiệu quả. Họ cần có người khác
có khả năng để bào chữa, do đó, bên cạnh quyền tự bào chữa, pháp luật đã quy định họ có quyền nhờ luật sư, trợ giúp viên
pháp lý, bào chữa viên nhân dân để bào chữa cho mình.
Theo quy định tại Điều 16 BLTTHS 2015 nêu rõ về việc đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội: “..”.
Theo Điều này quyền bào chữa hoặc nhờ người bào chữa của người dưới 18 tuổi phạm tội tuy chưa rõ ràng nhưng với quy
định thì người dưới 18 tuổi là bị can đương nhiên sẽ có đầy đủ quyền tự bào chữa hay nhờ người khác bào chữa, đồng thời
cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm và tạo điều kiện thuận lợi cho người phạm tội đặc
biệt là bị can dưới 18 tuổi thực hiện quyền bào chữa của mình.
Quyền bào chữa là quyền quan trọng nhất của người vi phạm pháp luật hình sự, nó đóng vai trò như là một
phương tiện pháp lý cần thiết để người bị buộc tội nói chung và người bị buộc tội dưới 18 tuổi nói riêng bảo vệ quyền và
1
lợi ích hợp pháp của mình. Riêng đối với người dưới 18 tuổi do có những hạn chế nhất định về sự phát triển thể chất cũng
như tinh thần nên sẽ gặp rất nhiều khó khăn và quyền lợi hợp pháp của họ có thể bị xâm hại nếu không có người trong quá
trình điều tra, truy tố và xét xử. Chính vì vậy, trong những vụ án mà người bị buộc tội người dưới 18 tuổi thì việc có người
bào chữa tham gia trong các giai đoạn tố tụng là hết sức cần thiết.
Đảm bảo thực hiện QBC đối với người bị buộc tội dưới 18 tuổi là nhằm mục đích tạo cho họ có một chỗ dựa
vững chắc về pháp lý, tinh thần, kiến thức, niềm tin để công khai đứng ra bảo vệ mình, chống lại sự cáo buộc có tội của
bên buộc tội. Vì vậy, đối với những vụ án mà người bị buộc tội dưới 18 tuổi thì việc có người bào chữa là bắt buộc, ngay
cả trong trường hợp họ không thuê người bào chữa. Đây chính là một quyền lợi mang tính chất đặc thù, khác biệt và ưu
tiên hơn so với người bị buộc tội đã thành niên.
1.2. Vai trò và đặc điểm của quyền bào chữa của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi.
* Vai trò quyền bào chữa của người bị buộc tội dưới 18 tuổi
Đối với đối tượng là người dưới 18 tuổi, do những hạn chế nhất định về sự phát triển thể chất cũng như tinh thần,
cho nên có thể họ sẽ gặp rất nhiều khó khăn và quyền lợi hợp pháp của họ có thể bị xâm hại nếu không có NBC trong quá
trình điều tra, truy tố và xét xử. Chính vì vậy, rất cần có sự tham gia của NBC trong những vụ án đối với người dưới 18
tuổi. Việc bào chữa trong những vụ án do người bị buộc tội dưới 18 tuổi thực hiện tội phạm tuân theo những quy định
chung của Bộ luật TTHS. Tuy nhiên, do những hạn chế trong sự phát triển về thể chất cũng như tinh thần của các đối
tượng này, cho nên pháp luật quy định thủ tục bắt buộc phải có sự tham gia của NBC trong những vụ án này. Đây là điểm
khác biệt giữa việc bào chữa trong những vụ án do người dưới 18 tuổi thực hiện so với vụ án do người đã thành niên thực
hiện. Việc tôn trọng và bảo đảm thực hiện trên thực tế QBC trong TTHS là một biểu hiện sinh động của việc bảo vệ quyền
con người.
Để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được khách quan, công bằng, tránh bỏ sót tội phạm, không xuất hiện tình
trạng oan sai thì việc bào chữa là rất cần , giúp cơ quan tiến hành tố tụng tìm ra sự thật của vụ án. Mặt khác, để một vụ án
hình sự được giải quyết tốt thì trong quá trình giải quyết vụ án hình sự luôn luôn phải tồn tại song song hai cơ chế: Cơ chế
buộc tội thuộc về Nhà nước và cơ chế gỡ tội thuộc về bên yếu thế (có thể nói cách khác là quyền bào chữa).
Tóm tại, quyền bào chữa cho bị can dưới 18 tuổi phạm tội không chỉ có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của họ mà còn là điều kiện để đảm bảo hiệu quả của các hoạt động tố tụng hình sự như hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử hay nói cụ thể hơn là thể hiện bản chất tốt đẹp, nhân văn của Nhà nước pháp quyền Xã hội
Chủ nghĩa.
* Đặc điểm về nội dung, hình thức thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội dưới 18 tuổi
Đặc điểm về nội dung
Trong hoạt động TTHS, quyền bào chữa là quyền quan trọng nhất của người vi phạm pháp luật hình sự. Đây là
tổng hợp các hành vi tố tụng do bị can, bị cáo thực hiện nhằm phủ nhận một phần hay toàn bộ sự buộc tội của các cơ quan
THTT, làm giảm nhẹ hoặc loại trừ TNHS của mình trong VAHS. Thông thường sự tham gia của NBC phụ thuộc vào ý chí
của bị can, bị cáo. Họ có thể trực tiếp mời hoặc ủy quyền cho người thân của mình mời NBC. Tuy nhiên, trong một số
trường hợp đặc biệt luật quy định sự tham gia của NBC vào trong vụ án không phụ thuộc vào ý chí của bị can, bị cáo.
Sự tham gia bắt buộc của NBC trong TTHS là quy định mang đầy tính nhân đạo của pháp luật TTHS Việt Nam.
Quy định về sự tham gia của NBC vào trong vụ án không phụ thuộc vào ý chí của bị can, bị cáo là làm tăng thêm tính bảo
đảm QBC cho họ. QBC và sự tham gia của NBC không chỉ cần thiết, có ích cho người bị can, bị cáo là người người 18
tuổi mà còn cần thiết, có ích cho hoạt động tố tụng của chính các cơ quan THTT. Sự đối trọng, phản biện của hoạt động
bào chữa đối với hoạt động của các cơ quan thực hiện chức năng buộc tội CQĐT, VKSND chính là yếu tố hạn chế sai
lầm, hạn chế làm oan người vô tội trong hoạt động của những cơ quan này đồng thời buộc những cơ quan này phải không
ngừng hoàn thiện năng lực chuyên môn nghiệp vụ của mình nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội trong đấu
tranh phòng chống tội phạm và bảo vệ QCN trong TTHS.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội là nguyên tắc cơ bản, đặc trưng của luật Tố tụng hình sự
Việt Nam, áp dụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, trở thành phương châm, định hướng chi phối toàn bộ quá trình
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước về hoạt động tố tụng hình sự.
Đặc điểm về các hình thức thực hiện quyền bào chữa
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội có hai nội dung cơ bản là xác định nội dung quyền bào
chữa của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo bao gồm quyền tự bào chữa và quyền nhờ người khác bào chữa;
đồng thời, quy định cơ quan tiến hành tố tụng trên cơ sở quy định của Luật Tố tụng hình sự trách nhiệm trong việc bảo
đảm quyền bào chữa của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Tại khoản 1, khoản 2 Điều 422 BLTTHS năm 2015 quy định như sau: “1.Người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi
có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; 2..Người đại diện của người dưới 18 tuổi bị buộc tội có quyền lựa
chọn người bào chữa hoặc tự mình bào chữa cho người dưới 18 tuổi bị buộc tội”.
Đây là một quy định nhân văn, phù hợp đặc điểm về lứa tuổi, tâm sinh lý và sự phát triển về thể chất của người
dưới 18 tuổi. BLTTHS năm 2015 đã trực tiếp thể hiện, thực hiện quyền này. Ngoài các quyền năng riêng biệt, người bị
2
buộc tội là người dưới 18 tuổi cũng được hưởng các quyền giống như người thành niên để có thể tự bào chữa cho mình
một cách tốt nhất, như quyền được nghe, được biết lý do mình bị bắt, được biết lý do mình bị khởi tố…
 Thứ nhất, về quyền tự bào chữa
Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa. Tự bào chữa là việc người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo tự mình thực
hiện các quyền tố tụng được pháp luật quy định cho họ nhằm đưa ra các chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của họ trước cơ quan tiến hành tố tụng trong các quá trình giải quết vụ án hình sự.
Tự bào chữa là quyền năng tố tụng đặc thù được pháp luật ghi nhận và bảo đảm cho phép bị can, bị cáo là người
chưa thành niên tự mình có thể thực hiện các hành vi tố tụng và quyền tố tụng nhằm bác bỏ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự của mình. Để thực hiện quyền tự bảo vệ mình trước sự buộc tội của các cơ quan THTT, Bộ luật TTHS
quy định cho bị can được biết mình bị khởi tố về tội gì; được nhận quyết định khởi tố, quyết định áp dụng, thay đổi hoặc
hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; bản kết luận điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra; quyết định đình chỉ, tạm
đình chỉ vụ án; bản cáo trạng, quyết định truy tố; các quyết định tố tụng khác theo quy định của pháp luật TTHS; đưa ra
tài liệu, đồ vật, yêu cầu. Tại điểm ii (b) khoản 2 Điều 40 CƯQT về quyền trẻ em quy định: “mọi trẻ em bị coi là đã vi
phạm pháp luật hình sự; được thông báo nhanh chóng và trực tiếp về những điều bị buộc tội và nếu thích hợp thông báo
qua cha mẹ hay người giám hộ pháp lý, được sự giúp đỡ về pháp lý hoặc những giúp đỡ thích hợp khác để chuẩn bị và
trình bày sự bảo vệ của mình”.
Thứ hai, về quyền nhờ người khác bào chữa
Quyền được nhờ Luật sư hoặc người khác bào chữa là một quyền cơ bản của người bị buộc tội và tồn tại song
song với quyền tự bào chữa.
Người bị buộc tội có quyền được nhờ luật sư hoặc người khác để bào chữa. Nhờ luật sư hoặc người khác bào
chữa là việc người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thông qua luật sư hoặc người khác để thực hiện các quyền tố
tụng được pháp luật quy định nhằm đưa ra các chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trước cơ quan tiến
hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Việc lựa chọn NBC phụ thuộc vào ý chí của người bị buộc tội (khoản 1 Điều 75 BLTTHS 2015). Họ có quyền
thực hiện hoặc từ chối quyền được nhờ NBC. Trong trường hợp người bị buộc tội tự thuê NBC, thì chi phí cho việc bào
chữa sẽ do họ tự chi trả.
Mặc dù, pháp luật đã quy định một cách cụ thể các quyền nêu trên nhưng trong thực tế do trình độ hiểu biết pháp
luật, nhận thức còn hạn chế hay vì những lý do khác mà người bị buộc tội dưới 18 tuổi thường không thể vận dụng có
hiệu quả quyền pháp luật đã chính thức thừa nhận QBC của người bị buộc tội dưới 18 tuổi và đưa ra cơ chế nhằm bảo
đảm cho người CTN thực hiện được QBC trên thực tế. Đây là một quy định hết sức tiến bộ và đúng đắn. Sự tham gia tố
tụng của NBC là rất cần thiết, bằng kinh nghiệm nghề nghiệp và sự hiểu biết của mình, NBC tham gia vào quá trình giải
quyết vụ án để có thể giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi. Đồng thời, sự tham gia của NBC
cũng góp phần vào việc xác định sự thật của vụ án, không để người dưới 18 tuổi bị buộc tội oan sai. Đồng thời, sự tham
gia của NBC cũng góp phần vào việc xác định sự thật của vụ án, không để người dưới 18 tuổi bị buộc tội oan sai.
Tại điểm d Điều 37 của CƯQT về quyền trẻ em quy định các quốc gia thành viên phải đảm bảo rằng: “những trẻ
em bị tước quyền tự do có quyền đòi hỏi được nhanh chóng hưởng sự giúp đỡ về pháp lý và những sự giúp đỡ thích hợp
khác, cũng như quyền chất vấn tính chất hợp pháp của việc tước quyền tự do của các em trước một Tòa án hay cơ quan
khác có thẩm quyền, độc lập và có quyền đòi hỏi một cách nhanh chóng về bất kỳ hành động nào như vậy”. Đây là một
nguyên tắc tối ưu nhất nhằm bảo đảm QBC đối với người bị buộc tội nói chung và người bị buộc tội dưới 18 tuổi nói
riêng.
Như vậy, quyền tự bào chữa và quyền nhờ người khác bào chữa là hai nội dung của QBC, nó có tác dụng bổ sung
cho nhau chứ không triệt tiêu lẫn nhau và có thể cùng song song tồn tại. Điều này có nghĩa là khi người bị buộc tội nhờ
Luật sư hoặc người khác bào chữa cho mình thì họ vẫn có quyền tự bào chữa và ngược lại. Tại phiên tòa, sau khi kiểm sát
viên trình bày lời luận tội bị cáo được quyền trình bày lời bào chữa, nếu bị cáo có nhờ NBC thì sau khi NBC bào chữa cho
bị cáo, bị cáo có quyền bổ sung ý kiến bào chữa.
Ngoài ra, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm cho
người bị buộc tội thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật Tố tụng
hình sự.
2. So sánh pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc
tội dưới 18 tuổi
Tiêu chí Pháp luật quốc tế Pháp luật Việt Nam
so sánh
Tính Khoản 4 điều 37 Công ước LHQ về quyền trẻ em: Tại Việt nam chỉ có quy định chung về tính
nhanh nhanh chóng, kịp thời trong xét xử, cụ thể:
chóng, Điều 25 BLTTHS 2015: “Điều 25. Tòa án xét xử
kịp thời kịp thời, công bằng, công khai
3
=> Không quy định rõ về quyền bào chữa.
Quyền Điều 15 quy tắc Bắc Kinh: Khoản 1,2 điều 422 BLTTHS 2015:
tự bào Điểm a điều 18 quy tắc Havana: => Việt Nam quy định chi tiết hơn về người đại
chữa diện trong BLDS 2015. Pháp luật Việt Nam nêu
hoặc nhờ rõ quyền tự bào chữa không chỉ của bị can, bị cáo
người dưới 18 tuổi, mà còn có thể là người đại diện hợp
bào chữa pháp của họ.
- Tại Việt Nam chưa có quy định điều khoản cụ
thể đảm bảo tính riêng tư và bảo mật của các cuộc
tiếp xúc giữa luật sư và bị can, bị cáo.
Chỉ định - Mục iii điểm b khoản 2 điều 40 Công ước LHQ về - Khoản 5 điều 414 Luật TTHS 2015: “5. Bảo
người quyền trẻ em: đảm quyền bào chữa, quyền được trợ giúp pháp
bào chữa lý của người dưới 18 tuổi.”
- Khoản 3 điều 422 BLTTHS 2015: “Trường hợp
người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi không có
người bào chữa hoặc người đại diện của họ
không lựa chọn người bào chữa thì Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải chỉ định người
bào chữa theo quy định tại Điều 76 của Bộ luật
này.”
=> Việt Nam có sự cụ thể hóa về trách nhiệm của
các cơ quan tư pháp trong trường hợp không tìm
được người bào chữa cho bị can, bị cáo dưới 18
tuổi. Đặc biệt là cụ thể hóa các cơ quan có thẩm
quyền chỉ định bào chữa trên cơ sở pháp luật thế
giới
- Về các thủ tục chỉ định người bào chữa, TTLT
số 6/2018 về Thực hiện quy định của BLTTHS
đối với người dưới 18 tuổi:
“Điều 10. Bảo đảm việc tham gia tố tụng của
người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp
=> Đây là một quy định rất rõ ràng và cụ thể các
thủ tục chỉ định người bào chữa, thể hiện được sự
linh hoạt của Việt Nam trong quá trình tiếp thu
pháp luật thế giới.

Từ bảng so sánh trên có thể thấy, mặc dù có một số quy định còn hạn chế, đặc biệt là chưa có điều khoản cụ thể
cho các thủ tục mà còn dựa vào sự linh hoạt trong đánh giá năng lực nhận thức và hành vi của bị can, bị cáo dưới 18 tuổi,
thì Việt Nam đã xây dựng được các quy định khá chi tiết và tiến bộ về đảm bảo quyền bào chữa của những đối tượng này.

4
GIẢI QUYẾT NHANH CHÓNG, KỊP THỜI
I. Những vấn đề cơ bản liên quan đến nguyên tắc đảm bảo giải quyết nhanh chóng, kịp thời các vụ án liên quan
đến người dưới 18 tuổi
1. Quy định của pháp luật Việt Nam về nguyên tắc đảm bảo giải quyết nhanh chóng, kịp thời các vụ án liên quan đến
người dưới 18 tuổi
a. Sự biểu hiện trong quy định của pháp luật Việt Nam
Nguyên tắc đảm bảo giải quyết nhanh chóng, kịp thời các vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi theo pháp luật
tố tụng hình sự Việt Nam ghi nhận và quy định trong các văn bản khác nhau:
Trong các quy định của Bộ luật TTHS năm 2015: Điều 25 quy định tòa xét xử kịp thời, công bằng, công khai.
Ngoài ra, khoản 7 Điều 414 cũng có quy định “Bảo đảm giải quyết nhanh chóng, kịp thời các vụ án liên quan đến người
dưới 18 tuổi.”
Trong các quy định của Luật Trẻ em 2016: khoản 2 Điều 70 quy định: “Ưu tiên giải quyết nhanh chóng các vụ
việc liên quan đến trẻ em để giảm thiểu tổn hại đến thể chất và tinh thần của trẻ em”. Mặt khác, khoản 8 Điều 70 cũng có
quy định về sự phối hợp kịp thời, chặt chẽ giữa các cơ quan.
Không những thế, nguyên tắc đảm bảo giải quyết nhanh chóng, kịp thời các vụ án liên quan đến người dưới 18
tuổi còn được quy định trong một số văn bản khác:
- Điều 13 Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT– VKSNDTC– TANDTC– BCA– BTP– BLĐTBXH.
- Khoản 5 Điều 3 Thông tư số 43/2021/TT– BCA.
- Thông tư số 43/2021/TT– BCA.
- Điểm a khoản 1 Điều 7 Nghị quyết số 06/2019/NQ–HĐTP.
- Quyết định số 8316/QĐ–BCA–C02 ngày 26/12/2018.
Bên cạnh việc quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật, nguyên tắc đảm bảo giải quyết nhanh chóng, kịp thời
các vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi còn được thể hiện qua sự phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong một
số giai đoạn tố tụng, nhất là các vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi. Điều đó được quy định chi tiết trong Thông tư
liên tịch số 01/2022/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP-BLĐTBXH về phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền
trong tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm các vụ án xâm
hại tình dục người dưới 18 tuổi.
b. Trong các gia đoạn của quá trình tố tụng hình sự
* Tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
- Việc tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
được thực hiện theo quy định của Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC và
Thông tư liên tịch số 01/2021/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 29/11/2021 sửa đổi, bổ sung một số
điều của Thông tư liên tịch số 01/2017.
- Cơ quan điều tra có thẩm quyền sau khi thụ lý giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thì thông
báo ngay cho cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội cấp huyện nơi người bị xâm hại tình dục dưới 18 tuổi cư trú
hoặc nơi xảy ra vụ việc xâm hại tình dục biết để phối hợp thực hiện ngay các hoạt động hỗ trợ, bảo vệ người dưới 18 tuổi
bị xâm hại tình dục theo quy định của pháp luật.
* Tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm của Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an, Trạm Công an, Đồn Biên
phòng, Trạm kiểm soát Biên phòng ở khu vực biên giới đất liền, bờ biển, hải đảo
- Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an, Trạm Công an khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm xâm hại
tình dục người dưới 18 tuổi thực hiện theo quy định tại Điều 5, Điều 6 Thông tư số 43/2021/TT-BCA ngày 22/4/2021 của
Bộ trưởng Bộ Công an; Thông tư liên tịch số 01/2017 và Thông tư liên tịch số 01/2021.
- Đồn Biên phòng, Trạm kiểm soát Biên phòng ở khu vực biên giới đất liền, bờ biển, hải đảo khi tiếp nhận tố giác,
tin báo về tội phạm xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi thực hiện theo quy định Thông tư liên tịch số 01/2017 và Thông
tư liên tịch số 01/2021.
Trường hợp cần giải cứu, bảo vệ người Việt Nam dưới 18 tuổi bị xâm hại tình dục ở khu vực biên giới đất liền,
hải đảo thì Đồn Biên phòng, Trạm kiểm soát Biên phòng ở khu vực biên giới đất liền, bờ biển, hải đảo có trách nhiệm
phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền của nước có chung đường biên giới để giải cứu, bảo vệ họ; đồng thời báo ngay
cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền và tiếp tục phối hợp, hỗ trợ trong quá trình giải quyết tiếp theo.
* Cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội nhận thông tin, thông báo, tố giác về hành vi xâm hại tình dục
người dưới 18 tuổi, thực hiện kiến nghị khởi tố
- Cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội các cấp, Tổng đài điện thoại quốc gia bảo vệ trẻ em (số 111) khi
nhận thông tin, thông báo, tố giác về việc người dưới 18 tuổi bị xâm hại tình dục thì thực hiện theo quy trình được quy
định tại Nghị định số 56/2017/NĐ-CP ngày 09/5/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Trẻ em.
- Trường hợp có các thông tin, tài liệu phản ánh về việc người dưới 18 tuổi bị xâm hại tình dục trên địa bàn thì cơ
quan Lao động - Thương binh và Xã hội có văn bản kiến nghị khởi tố và tài liệu kèm theo gửi đến Cơ quan điều tra có
5
thẩm quyền, đồng thời thông báo ngay bằng văn bản cho Viện kiểm sát có thẩm quyền biết. Cơ quan điều tra có thẩm
quyền có trách nhiệm thụ lý và giải quyết kiến nghị khởi tố, thông báo kết quả giải quyết cho cơ quan Lao động - Thương
binh và Xã hội biết theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
* Xác định tuổi của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị buộc tội, người bị xâm hại tình dục dưới
18 tuổi
- Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm tạo điều kiện cung cấp cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền các
giấy tờ, tài liệu theo quy định của Thông tư liên tịch số 06/2018 để xác định độ tuổi của người bị tố giác, người bị kiến
nghị khởi tố, người bị buộc tội và người bị xâm hại tình dục dưới 18 tuổi.
- Trong giai đoạn truy tố
Việc phối hợp giao nhận hồ sơ vụ án kết thúc điều tra và vật chứng được thực hiện theo quy định tại Điều 238 của
Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 36 Thông tư liên tịch số 04/2018. Cơ quan điều tra thông tin cho Viện kiểm sát về việc
giao nhận hồ sơ vụ án và vật chứng để bố trí, sắp xếp thời gian, tiếp nhận nhanh chóng, kịp thời.
Ngoài ra, việc phối hợp bổ sung chứng cứ phải tuân thủ quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong giai đoạn
truy tố, nếu thấy các chứng cứ đã thu thập còn mâu thuẫn chưa được làm rõ thì Kiểm sát viên trao đổi với Điều tra viên để
yêu cầu bổ sung chứng cứ. Điều tra viên có trách nhiệm thực hiện yêu cầu bổ sung chứng cứ và chuyển ngay các tài liệu,
chứng cứ sau khi thu thập, bổ sung được cho Kiểm sát viên.
- Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
* Phối hợp chuyển, nhận hồ sơ vụ án và bản cáo trạng
- Viện kiểm sát bàn giao hồ sơ vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi và bản cáo trạng cho Tòa án để xét xử
sơ thẩm theo quy định tại Điều 244 và Điều 276 của Bộ luật Tố tụng hình sự, thông tin cho Tòa án để bố trí, sắp xếp thời
gian, tiếp nhận hồ sơ nhanh chóng, kịp thời.
- Khi bàn giao hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát chuẩn bị đầy đủ các tài liệu chứng cứ, hoàn thiện các thủ tục tố tụng để
bàn giao hồ sơ cho Tòa án. Nếu hồ sơ vụ án chưa đầy đủ (như chưa giao được cáo trạng cho bị can, chưa có bản thống kê
vật chứng, thiếu danh sách những người cần triệu tập đến phiên tòa) hoặc sắp xếp tài liệu không đúng trình tự so với bảng
kê tài liệu, vật chứng; đánh số bút lục nhầm lẫn, thì Tòa án yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung, khắc phục ngay.
* Phối hợp khi xét xử sơ thẩm tại phiên tòa
- Người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng khi tham gia phiên tòa phải thực hiện theo quy định của
Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC ngày 21/09/2018 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quy định chi tiết việc xét xử
vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi thuộc thẩm quyền của Tòa gia đình và người chưa thành
niên (sau đây viết tắt là Thông tư số 02/2018), Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC ngày 28/7/2017 của Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao quy định về phòng xử án.
- Trường hợp thấy cần thiết phải công bố công khai tại phiên tòa các chứng cứ, tài liệu là dữ liệu điện tử, công bố
lời khai đã được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh trong quá trình giải quyết vụ án thì Kiểm sát viên phối hợp với Thẩm
phán chủ tọa phiên tòa thực hiện việc công bố. Việc công bố tài liệu, chứng cứ công khai tại phiên tòa được thực hiện
khách quan, đúng pháp luật…
Nhìn chung, có thể thấy rằng nguyên tắc đảm bảo giải quyết nhanh chóng, kịp thời các vụ án liên quan đến người
dưới 18 tuổi được pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và một số văn bản khác có liên quan quy định rất tương thích với
các quy định trong Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em và hướng dẫn, giải thích của Liên hợp quốc về tư pháp
đối với người chưa thành niên. Điều này là hoàn toàn phù hợp tới tình hình nước ta trong giai đoạn hiện nay.
2. Sự kết hợp giữa nguyên tắc đảm bảo giải quyết nhanh chóng, kịp thời với các nguyên tắc khác được quy định trong
BL TTHS và các văn bản khác liên quan
Các nguyên tắc khi tiến hành tố tụng hình sự đối với người dưới 18 tuổi được quy định trong Bộ luật TTHS năm
2015), giữa chúng luôn có ý nghĩa nhất định, một mục đích chung đó chính là bảo đảm quá trình tố tụng được hiệu quả
đồng thời bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người dưới 18 tuổi trong các vụ án có liên quan.
Hiện nay, nguyên tắc bảo đảm giải quyết nhanh chóng, kịp thời các vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi được
quy định cụ thể tại khoản 7 Điều 414 Bộ luật TTHS năm 2015 về các nguyên tắc tiến hành tố tụng đối với người dưới 18
tuổi:
“Điều 414: Nguyên tắc tiến hành tố tụng
...”
Đồng thời được hướng dẫn trong thi hành trong Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC ngày 21/9/2018 của Chánh án
TANDTC.
Vậy pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam đã có quy định nguyên tắc thành một khoản riêng trong một điều luật để
qua đó các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng sẽ căn cứ vào đó khi giải quyết vụ án có liên quan đến người dưới 18
tuổi.
Các nguyên tắc khi tiến hành tố tụng hình sự đối với người dưới 18 tuổi được quy định trong Bộ luật TTHS năm
2015 luôn có một mục đích chung đó là góp phần làm cho quá trình tố tụng được hiệu quả, đồng thời bảo đảm lợi ích tốt
6
nhất cho người dưới 18 tuổi trong vụ án có liên quan. Trong đó, nguyên tắc bảo đảm giải quyết nhanh chóng, kịp thời các
vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi cũng có những mối liên hệ nhất định với các nguyên tắc khác.
Cụ thể, khi nguyên tắc này kết hợp với nguyên tắc bảo đảm thủ tục tố tụng thân thiện, phù hợp với tâm lý, lứa
tuổi, mức độ trưởng thành, khả năng nhận thức của người dưới 18 tuổi; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người
dưới 18 tuổi; bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi thì mới có thể bảo đảm các quyền và lợi ích tốt nhất cho đối
tượng bị xâm hại là người dưới 18 tuổi.
Bên cạnh đó, việc kết hợp nguyên tắc này với nguyên tắc bảo đảm giữ bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi cũng
khá quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án. Thực tiễn cho thấy rằng việc giữ bí mật cá nhân cho người dưới 18 tuổi là
người bị hại rất quan trọng, bởi họ đang ở độ tuổi phát triển, cần được bảo vệ nhân cách và phẩm giá cũng như sự an toàn
và phúc lợi của họ. Việc để lộ thông tin về người bị hại là người dưới 18 tuổi ra công luận có thể gây ra những hậu quả hết
sức nặng nề. Vậy nên, việc bảo đảm hai nguyên tắc trên trong các vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi là điều hết sức
cần thiết.
Không chỉ vậy, khi kết hợp với nguyên tắc bảo đảm quyền tham gia tố tụng của người đại diện của người dưới 18
tuổi, nhà trường, Đoàn Thanh niên, người có kinh nghiệm, hiểu biết về tâm lý, xã hội, tổ chức khác nơi người dưới 18 tuổi
học tập, lao động và sinh hoạt, việc tham gia vào quá trình giải quyết vụ án của các cá nhân, tổ chức xã hội… sẽ bảo đảm
cho người dưới 18 tuổi được hỗ trợ về mặt tinh thần (có thể cả về pháp lý), ổn định về tâm sinh lý cho người dưới 18 tuổi,
bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của họ, đồng thời có thể hạn chế được sự lạm quyền hoặc vi phạm pháp luật của
những người tiến hành tố tụng. Việc tôn trọng quyền được tham gia, trình bày ý kiến của người dưới 18 tuổi khi được tiến
hành một cách nhanh chóng, kịp thời sẽ góp phần thúc đẩy việc giải quyết vụ án diễn ra thuận lợi hơn. Với mục đích đó,
người dưới 18 tuổi phải được đặc biệt trao cơ hội để nói lên ý kiến của mình trong bất kỳ quá trình tố tụng nào có liên
quan đến họ, trực tiếp hoặc thông qua một người đại diện hay một cơ quan thích hợp, theo cách thức phù hợp.
Ngoài ra, việc bảo đảm quyền bào chữa, quyền được trợ giúp pháp lý của người dưới 18 tuổi cũng cần được giải
quyết nhanh chóng, kịp thời do xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý, sự nhận thức của người dưới 18 tuổi về mặt pháp luật
còn hạn chế. Chính vì thế mà nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa, quyền trợ giúp pháp lý của người dưới 18 tuổi cần
phải được đảm bảo song song với nguyên tắc giải quyết nhanh chóng, kịp thời để có sự ảnh hưởng tích cực đến chất lượng
xét xử và việc xác định sự thật khách quan của vụ án.
Cuối cùng, việc bảo đảm các nguyên tắc xử lý của Bộ luật Hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nếu được
giải quyết nhanh chóng, kịp thời sẽ bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục,
giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội.
3. Ý nghĩa của nguyên tắc đối với các chủ thể trong quá trình giải quyết vụ án hình sự liên quan đến người dưới 18
tuổi
- Đối với bị hại, gia đình bị hại:
Việc giải quyết nhanh chóng vụ án sẽ giúp giảm bớt sự bất an, lo lắng và áp lực tâm lý đang đè nặng lên gia đình
bị hại, giúp họ cảm thấy được sự quan tâm và hỗ trợ từ phía các cơ quan chức năng. Việc giải quyết kịp thời vụ án cũng
giúp gia đình bị hại có cơ hội để bắt đầu quá trình hồi phục, gắn kết và điều trị cho những tổn thương cả về tinh thần, thể
chất và tài chính mà họ đã phải chịu đựng, tránh được những tác động tiêu cực lâu dài như ảnh hưởng đến sự phát triển và
học tập của các em nhỏ trong gia đình, ảnh hưởng đến mối quan hệ trong gia đình và xã hội. Vì vậy, nguyên tắc đảm bảo
giải quyết nhanh chóng, kịp thời các vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi theo pháp luật tố tụng hình sự cũng là một
cách để bảo vệ và hỗ trợ cho các gia đình bị hại, việc này sẽ giúp họ có thể chiến đấu và bảo vệ quyền lợi của mình một
cách tự tin và hiệu quả hơn.
- Người bị buộc tội, bị can, bị cáo:
Nguyên tắc đảm bảo giải quyết nhanh chóng, kịp thời các vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi theo pháp luật
tố tụng hình sự có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc bảo vệ và đảm bảo quyền lợi của người chưa thành niên. Người
chưa thành niên là những người đang trong quá trình hình thành và phát triển, vì vậy, các vụ án liên quan đến đối tượng
này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tương lai và sự phát triển của chính họ. Nếu các vụ án này không được giải quyết nhanh
chóng, kịp thời, họ có thể bị tổn thương về tinh thần và thể chất, ảnh hưởng đến sự phát triển và khả năng hòa nhập vào xã
hội, việc giải quyết vụ án nhanh chóng giúp giảm thiểu các tác động tiêu cực lên tinh thần và sức khỏe của người dưới 18
tuổi đồng thời giúp họ hồi phục nhanh chóng và quay trở lại cuộc sống bình thường.
- Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng:
Đối với các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thì việc áp dụng triệt để nguyên tắc này sẽ góp phần khơi
dậy niềm tin của người dân vào hệ thống pháp luật và hoạt động của các cơ quan chức năng trong việc đảm bảo quyền lợi
của đối tượng là người chưa thành niên. Bên cạnh đó cũng hỗ trợ cho việc duy trì trật tự, an ninh và giữ gìn sự ổn định
trong xã hội.

7
II. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc đảm bảo giải quyết nhanh chóng, kịp thời các vụ án liên quan dưới người 18 tuổi
1. Trong các quá trình giải quyết vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi
Về nguyên tắc tiến hành tố tụng đối với các vụ án liên quan người dưới 18 tuổi được Bộ luật TTHS năm 2015 quy
định tại Điều 414 được tập trung vào hai nhóm vấn đề chính bao gồm: những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích hợp
pháp của người chưa thành niên và những vấn đề về thủ tục tố tụng, yêu cầu khi xử lý vụ án hình sự có người dưới 18 tuổi
tham gia. Trong đó, nguyên tắc bảo đảm giải quyết nhanh chóng, kịp thời vụ án hình sự liên quan đến người dưới 18 tuổi
là một trong những nguyên tắc cơ bản nhằm tránh làm tổn thương, giảm thiểu đối với người dưới 18 tuổi là bị hại, tạo
điều kiện để người bị hại cũng như bị người bị buộc tội, bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi có thể nhanh chóng trở lại
cuộc sống bình thường sau khi tham gia quá trình tố tụng hình sự.
Tiền đề để cho vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi được giải quyết nhanh chóng thì giai đoạn tiếp nhận, giải
quyết tin báo, tố giác rất quan trọng vì đây là giai đoạn mà cơ quan tiến hành tố tụng có thể tiếp cận tội phạm đối với
người dưới 18 tuổi. Tại Điều 13 Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày
21/12/2018 cũng có quy định “Đối với vụ án, vụ việc có người bị hại dưới 18 tuổi bị xâm hại tình dục, bị bạo hành hoặc bị
mua bán thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải phối hợp chặt chẽ với
nhau và phối hợp với cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan ngay từ khi phát hiện nguồn tin về tội phạm; khẩn
trương kiểm tra, xác minh, thu thập chứng cứ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, bảo đảm giải quyết vụ án, vụ việc nhanh
chóng, kịp thời, trong thời gian ngắn nhất”. Với quy định này thì đối với các vụ việc liên quan đến xâm hại tình dục, bạo
hành và mua bán người dưới 18 tuổi là những vụ án có những điểm khác biệt như chứng cứ thường gắn liền với bị hại và
dễ bị mất đi và bị hại còn ở độ tuổi chưa có nhận thức hoàn chỉnh, thể chất chưa phát triển toàn diện nên cần được tiếp
nhận thông tin tội phạm nhanh chóng và kịp thời để thực hiện các hoạt động tố tụng khác từ đó thúc đẩy tiến trình giải
quyết vụ án. Ngoài ra, Thông tư 43/2021/TT-BCA cũng đã quy định cơ quan có thẩm quyền ưu tiên thực hiện các biện
pháp cấp bách so với việc tiếp nhận, xử lý thông tin báo, tố giác trong những tình huống đặc biệt chẳng hạn như ngăn
chặn hành vi, cấp cứu, hỗ trợ y tế, ổn định tâm lý, tinh thần, bảo vệ hiện trường và kết hợp thăm khám, thu thập dấu vết,
chứng cứ1.
Hằng năm, các đơn vị pháp y trên cả nước giám định khoảng 2000 trường hợp có dấu hiệu xâm hại tình dục, bạo
hành trẻ em gây ảnh hưởng nghiêm trọng cả về mặt thể xác và tinh thần. Để có cơ sở về hành vi phạm tội đối với người
dưới 18 tuổi với các hành vi nêu trên được giải quyết một cách nhanh chóng, kịp thời thì Bộ y tế đã ban hành Quyết định
số 5609/QĐ-BYT ban hành tạm thời quy trình giám định pháp y đối với trẻ em bị hoặc nghi ngờ bị xâm hại tình dục và
quy trình giám định pháp y đối với trẻ em bị hành hạ, ngược đãi, đánh đập. Đây cũng là một trong những biểu hiện trên
thực tế cho thấy nguyên tắc giải quyết bảo đảm, kịp thời được đảm bảo thông qua các quyết định, thông tư của các bộ.
Các quy định của các bộ ban hành trong thông tư, quyết định góp phần thúc đẩy cho vụ án hình sự liên quan đến người
dưới 18 tuổi được giải quyết và kịp thời. Nhưng trong các giai đoạn tố tụng khác để giải quyết các vụ án liên quan đến
người dưới 18 tuổi thì chưa có quy định cụ thể để cụ thể hóa nguyên tắc này trong các giai đoạn.
Như vậy, trên thực tế các vụ án hình sự liên quan đến người dưới 18 xảy ra rất nhiều nhưng nguyên tắc bảo đảm
giải quyết nhanh chóng, kịp thời các vụ án hình sự đối với chủ thể đặc biệt này chưa thật sự được đảm bảo vì đây chỉ quy
định dưới dạng nguyên tắc chung mà không có các quy định cụ thể dành cho từng giai đoạn tố tụng thì nguyên tắc này chỉ
mang tính khuyến khích cho cơ quan tiến hành tố tụng, cho những người tiến hành tố tụng thực hiện chứ không có tác
dụng như một khung pháp lý bắt buộc họ tuân theo.
2. Sự phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền để đảm bảo nguyên tắc
Thực trạng về các vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi đã và đang là vấn đề được các cơ quan có thẩm nói
riêng và mọi người nói chung quan tâm một cách tích cực. Trước tình hình đó, các cơ quan tiến hành tố tụng đã triển khai
nhiều biện pháp phát hiện xác minh khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử theo pháp luật. Tuy nhiên, vẫn còn các tội phạm chưa
được phát hiện, xác minh, khởi tố, điều tra và xử lý kịp thời nên đòi hỏi phải nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, người
có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phòng, chống tội phạm đối với người dưới 18 tuổi.
Trên cơ sở đó, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã phối hợp với Toà án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc
phòng, Bộ Lao động - Thương binh & xã hội ban hành Thông tư liên tịch số 01/2022/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-
BQP-BLĐTBXH ngày 18/02/2022 quy định về công tác phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm các vụ án xâm hại tình dục người
dưới 18 tuổi “ Thông tư liên tịch này quy định quan hệ phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong thực hiện một số
quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử sơ thẩm các vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi”.
Ngoài ra, Thông tư này đã có các quy định về việc phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội các cấp và các cơ quan, tổ chức, cá
nhân có liên quan trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình trong các giai đoạn tố tụng. Phối hợp trong giai đoạn tiếp

1
Điều 6, 7 Thông tư 43/2021/TT-BCA.
8
nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, giai đoạn điều tra vụ án – Chương II TTLT số 01/2022,
phối hợp trong giai đoạn truy tố - Chương III TTLT số 01/2022, phối hợp trong giai đoạn xét xử sơ thẩm – Chương IV
TTLT số 01/2022, phối hợp trong một số hoạt động khác – Chương V TTLT số 01/2022.
Về trách nhiệm phối hợp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân: Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng, cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội các cấp và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên
quan trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình khi tham gia giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ thực hiện các
nội dung theo quy định (bảo mật thông tin cá nhân của người dưới 18 tuổi bị xâm hại tình dục; có biện pháp ứng phó kịp
thời, loại trừ những nguy cơ dẫn đến người dưới 18 tuổi có thể tiếp tục bị xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp khác; kịp thời thu thập, bảo quản chứng cứ và nhanh chóng thực hiện khám bệnh, chữa
bệnh, hỗ trợ ổn định tinh thần cho người bị xâm hại tình dục dưới 18 tuổi, bảo đảm việc giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật; bảo đảm quyền có
người đại diện, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi trong hoạt động tố tụng;
thực hiện các hoạt động khác trong quá trình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử sơ thẩm vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi theo quy định của pháp luật. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải phối hợp với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan bảo vệ và tạo
điều kiện để cho người dưới 18 tuổi yên tâm học tập và lao động, đồng thời tham gia tố tụng thuận lợi).
Như vậy, với tư cách là chủ thể áp dụng nguyên tắc thì pháp luật đã quy định về việc tăng cường sự phối hợp giữa
các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng với các cá nhân, tổ chức. Với những quy định cụ thể trên đã thúc đẩy
sự phối hợp giữa các cơ quan thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình từ đó cũng là tiền đề cho các vụ án liên quan đến
người dưới 18 tuổi được đảm bảo thực hiện một cách nhanh chóng và kịp thời song cũng bảo vệ được quyền và lợi ích
hợp pháp của các chủ thể là người dưới 18 tuổi.
III. Đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam và các văn bản quốc tế liên quan đến nguyên tắc
1. So sánh giữa quy định của pháp luật Việt Nam với quy định của ĐƯQT

Tiêu chí Pháp luật Việt Nam Điều ước quốc tế

Quy định về - Khoản 7 Điều 414 BLTTHS Quy tắc 20 Quy tắc Bắc Kinh
việc xét xử, xử lý 2015 quy định: “Bảo đảm giải quyết quy định về việc tránh trì hoãn không
nhanh chóng, kịp thời nhanh chóng, kịp thời các vụ án liên quan cần thiết: “Mỗi vụ án phải được xét xử
ngay từ các giai đoạn đến người dưới 18 tuổi.” nhanh chóng ngay từ đầu, không được
đầu - Khoản 2 Điều 70 Luật Trẻ em có bất kỳ sự trì hoãn không cần thiết
2016 quy định: “Ưu tiên giải quyết nhanh nào.”
chóng các vụ việc liên quan đến trẻ em để
giảm thiểu tổn hại đến thể chất và tinh
thần của trẻ em.”
- Điều 13 Thông tư liên tịch số
06/2018 quy định: “…; khẩn trương kiểm
tra, xác minh, thu thập chứng cứ, khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử, bảo đảm giải
quyết vụ án, vụ việc nhanh chóng, kịp
thời, trong thời gian ngắn nhất.”
- Khoản 5 Điều 3 Thông tư số
43/2021/TT-BCA quy định: “Quá trình
tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố, điều tra các vụ
án xâm hại người dưới 18 tuổi phải nhanh
chóng, kịp thời.”

9
Nhận xét: Lần đầu tiên trong BLTTHS ghi nhận và quy định các nguyên tắc tiến hành tố tụng giải
quyết vụ án liên quan đến người chưa thành niên. BLTTHS năm 2015 đã xây dựng một điều mới (Điều 414)
trong đó đã quy định đầy đủ, toàn diện 07 nguyên tắc mà cơ quan, người tiến hành tố tụng phải quán triệt, tôn
trọng và nghiêm túc thực hiện khi tiến hành tố tụng đối với người chưa thành niên. Tuy nhiên vẫn còn bất cập
như TTLT số 06/2018 chỉ quy định “vụ án, vụ việc có người bị hại dưới 18 tuổi bị xâm hại tình dục, bị bạo
hành hoặc bị mua bán” mà không bao gồm các tội phạm khác cũng như người dưới 18 tuổi là tội phạm trong vụ
việc là điểm thiếu sót của luật Việt Nam hiện hành.

Quy định Chưa có quy định Quy tắc 20 Quy tắc Bắc Kinh
không trì hoãn vô lý quy định về việc tránh trì hoãn không
cần thiết: “Mỗi vụ án phải được xét xử
nhanh chóng ngay từ đầu, không được
có bất kỳ sự trì hoãn không cần thiết
nào.”

Nhận xét: Xuất phát từ nguyên tắc vì lợi ích tốt nhất của trẻ em phải là mối quan tâm hàng đầu, trong
các văn kiện quốc tế đã đưa ra những khuyến nghị mỗi vụ án, vụ việc phải được xét xử nhanh chóng và không
có bất kỳ sự trì hoãn không cần thiết nào ảnh hưởng tới quá trình tố tụng. Và qua nghiên cứu pháp luật của Việt
Nam thì không có quy định cụ thể nào về việc không được trì hoãn vô lý và việc này có thể dẫn đến ảnh hưởng
tâm lý của người phạm tội cũng như người bị hại dưới 18 tuổi trong quá trình tố tụng.

Quy định về - Khoản 5 Điều 3 Thông tư số Đoạn 54 Bình luận chung số 24


rút ngắn thời hạn tố 43/2021/TT-BCA quy định: “Trường hợp của Ủy ban quyền trẻ em của Liên Hợp
tụng đủ điều kiện giải quyết theo thủ tục rút Quốc quy định: “Ủy ban nhấn mạnh
gọn thì phải tiến hành giải quyết vụ án rằng thời gian tính từ lúc thực hiện hành
theo thủ tục rút gọn theo quy định của Bộ vi phạm tội đến khi kết thúc quá trình tố
luật Tố tụng hình sự năm 2015.” tụng phải ngắn nhất có thể.”
- Khoản 1 Điều 7 Nghị quyết
06/2019/NQ-HĐTP quy định: “Áp dụng
thủ tục rút gọn đối với các trường hợp đủ
điều kiện theo quy định của pháp luật tố
tụng hình sự”

Nhận xét: Nhìn chung, pháp luật Việt Nam đã có bước tiến khi tiếp thu các quy định về quyền trẻ em
trên thế giới. Các quy định của pháp luật Việt Nam có sự liên kết, hài hòa giữa các văn bản quy phạm pháp luật
với nhau, tránh sự rườm rà không nhất quán và hoàn toàn phù hợp với văn kiện quốc tế về quyền trẻ em.

2. Đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam và hoàn thiện những bất cập trong quy định
Tóm lại, song song việc bắt kịp bước tiến của thời đại mới Việt Nam luôn quan tâm đến những giá trị cơ bản, cốt
lõi. Biểu hiện rõ ràng nhất là khoa học pháp lý Việt Nam ta dần mở rộng những quy định liên quan đến người dưới 18 tuổi
nhằm bảo vệ tốt nhất sự phát triển toàn diện của họ. Tuy nhiên, qua việc phân tích nguyên tắc đảm bảo giải quyết nhanh
chóng, kịp thời các vụ án hình sự có liên quan đến người dưới 18 tuổi và so sánh quy định của pháp luật Việt Nam và các
văn bản của pháp luật quốc tế về vấn đề này thì nhóm có một vài đánh giá như sau:
Thứ nhất, về thời hạn giải quyết vụ án hình sự liên quan đến người dưới 18 tuổi.
Ngoài quy định tại điểm b khoản 2 Điều 7 NQ 06/2019 về thời hạn đưa ra xét xử các vụ án xâm hại tình dục có bị
hại là người dưới 18 tuổi thì không quá 1/2 thời hạn pháp luật cho phép đối với các trường hợp tương ứng thì pháp luật
hiện nay chưa có một quy định cụ thể nào về thời hạn giải quyết vụ án hình sự liên quan đến người dưới 18 tuổi. Khoản 5
Điều 3 Thông tư số 43/2021/TT-BCA quy định: “Quá trình tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố, điều tra các vụ án xâm hại người dưới 18 tuổi phải nhanh chóng, kịp thời.” Hay Điều 13 Thông tư liên tịch số
06/2018 quy định: “Đối với vụ án, vụ việc có người bị hại dưới 18 tuổi bị xâm hại tình dục, bị bạo hành hoặc bị mua bán
thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải phối hợp chặt chẽ với nhau và

10
phối hợp với cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan ngay từ khi phát hiện nguồn tin về tội phạm; khẩn trương kiểm
tra, xác minh, thu thập chứng cứ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, bảo đảm giải quyết vụ án, vụ việc nhanh chóng, kịp
thời, trong thời gian ngắn nhất.” Việc giải quyết vụ án “phải nhanh chóng, kịp thời” hay “trong thời gian ngắn nhất” chỉ
mang tính nguyên tắc, tức không có một quy định cụ thể nào trên thực tế. Đồng thời cũng không có bất kỳ quy định nào
liên quan đến chế tài xử lý trong trường hợp cơ quan có thẩm quyền không thúc đẩy vụ án được giải quyết nhanh nhất có
thể thay vào đó là kéo dài để bằng với thời hạn của một vụ án hình sự thông thường. Từ đây, ta có thể thấy thời hạn giải
quyết vụ án hình sự liên quan đến người dưới 18 tuổi có thể ngắn hơn hoặc bằng với thời gian giải quyết một vụ án hình
sự thông thường. Người dưới 18 tuổi trong TTHS có thể là người bị buộc tội, bị hại hay người làm chứng nhưng dù ở vai
trò nào họ cũng là đối tượng non nớt dễ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố xung quanh. Xuất phát từ yếu tố tâm sinh lý của
người dưới 18 tuổi, việc kéo dài thời hạn giải quyết bằng với thời hạn giải quyết một vụ án thông thường có thể làm họ
hoang mang, lo sợ có khả năng ảnh hưởng đến sự thật khách quan của vụ án.
Mặt khác, quy định về thời hạn theo điểm b khoản 2 Điều 7 NQ 06/2019 chỉ áp dụng cho các vụ án xâm hại tình
dục có bị hại là người dưới 18 tuổi nhưng đây cũng là quy định đầu tiên đề cập đến thời hạn giải quyết vụ án hình sự liên
quan đến người dưới 18 tuổi. Do đó, Việt Nam cần xây dựng những quy định cụ thể về thời hạn trong từng gia đoạn tố
tụng cụ thể đối với các vụ án hình sự liên quan đến người dưới 18 tuổi để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của
họ.
Thứ hai, về quy định không trì hoãn vô lý việc giải quyết vụ án hình sự liên quan đến người dưới 18 tuổi. Trì hoãn
vô lý là việc cố tình kéo dài việc giải quyết vụ án hình sự mà không thuộc trường hợp được pháp luật quy định hoặc
không thể giải thích cho hành vi cố tình kéo dài việc giải quyết vụ án hình sự. Pháp luật Việt Nam hiện nay chưa có quy
định về việc không được phép trì hoãn vô lý việc giải quyết một vụ án hình sự nhưng ta có quy định rất cụ thể về các
trường hợp được phép tạm ngưng hay hoãn việc giải quyết một vụ án hình sự. Việc ra đời các quy định đó sẽ giúp hạn chế
vấn đề trì hoãn vô lý việc giải quyết một vụ án hình sự. Tuy nhiên, Việt Nam cũng cần xây dựng thêm những quy định
liên quan đến chế tài khi cơ quan có thẩm quyền cố tình trì hoãn vô lý việc giải quyết vụ án hình sự, đặc biệt là các vụ án
có liên quan đến người dưới 18 tuổi.
Thứ ba, pháp luật Việt Nam cần có những quy định cụ thể quy định về trách nhiệm của từng cơ quan trong tất cả
các giai đoạn tố tụng hình sự. Tại Điều 13 Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-
BLĐTBXH ngày 21/12/2018 quy định về việc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng phải phối hợp chặt chẽ với nhau và phối hợp với cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan trong việc giải quyết
đối với vụ án, vụ việc có người bị hại dưới 18 tuổi bị xâm hại tình dục, bị bạo hành hoặc bị mua bán. Như vậy, quy định
trên chỉ quy định các cơ quan, tổ chức phải phối hợp chặt chẽ để giải quyết nhanh chóng các vụ án liên quan tới người
dưới 18 tuổi với các tội phạm đặc thù như: Tội phạm xâm hại tình dục, bạo hành,... Từ đây ta thấy quy định trên chưa thực
sự chỉ rõ trách nhiệm của từng cơ quan, tổ chức trong việc giải quyết một vụ án hình sự liên quan đến người dưới 18 tuổi.
Đồng thời, quy định chỉ giới hạn trong một số tội phạm mang tính đặc thù. Do đó, pháp luật Việt Nam cần có những quy
định cụ thể về trách nhiệm của từng cơ quan và chế tài xử lý nếu cố tình làm trái với quy định của từng cơ quan trong tất
cả các giai đoạn tố tụng hình sự cũng như mở rộng thêm, quy định áp dụng cho nhiều loại tội phạm hơn.
KẾT LUẬN
Chăm sóc và bảo vệ trẻ em là nhiệm vụ chung của toàn nhân loại, không có sự phân biệt giữa các quốc gia có chế
độ xã hội và bản sắc dân tộc khác nhau. Với người Việt Nam, việc chăm sóc và bảo vệ trẻ em không chỉ là nhiệm vụ mà
còn là một truyền thống tốt đẹp, lâu đời của dân tộc. Xuất phát từ đặc điểm về lứa tuổi, quá trình tố tụng hình sự đối với
người dưới 18 tuổi, đặc biệt là người dưới 18 tuổi phạm tội đòi hỏi phải có những điểm đặc biệt nhất định phù hợp với
trình độ nhận thức và sự phát triển về mặt tâm sinh lý, sao cho việc giải quyết vụ án hình sự được hiệu quả nhưng đồng
thời cũng phải bảo vệ được họ trước quá trình tư pháp, để họ chịu trách nhiệm đối với hành vi của mình và được tạo cơ
hội nhằm tránh mắc phải những sai phạm như vậy trong tương lai. Như vậy, trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, nguyên
tắc bảo đảm giải quyết nhanh chóng, kịp thời các vụ án hình sự liên quan đến người dưới 18 tuổi là kim chỉ nam cho hoạt
động tố tụng đối với các vụ án có người tham gia tố tụng dưới 18 tuổi. Điều này đã mang lại ý nghĩa rất lớn cả gia đình
nạn nhân, bị cáo hay người bị hại. Đồng thời thể hiện tốt trách nhiệm của cơ quan nhà nước đối với trẻ chưa thành niên
trong trường hợp bị xâm phạm rằng luôn nhằm hướng tới một xã hội công bằng khách quan cũng như tạo nên môi trường
tích cực cho trẻ em được phát triển lành mạnh an toàn.
Trong thực tiễn ngày nay, nguyên tắc đảm bảo giải quyết nhanh chóng, kịp thời các vụ án liên quan đến người
dưới 18 tuổi đã là một nguyên tắc tất yếu và yêu cầu phải được bảo đảm khi tiến hành tố tụng hình sự đối với người dưới
18 có liên quan trong vụ án. Các cơ quan có thẩm quyền đã thực hiện tốt những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc này khi
giải quyết các vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, thực tế áp dụng nguyên tắc ở Việt Nam vẫn còn những
hạn chế cần khắc phục. Việt Nam cần xây dựng thêm những quy định cụ thể, chi tiết. Đồng thời tăng cường công tác kiểm
tra, giám sát các hoạt động tố tụng nhằm đảm bảo quá trình tố tụng được diễn ra minh bạch, khách quan. Ngoài ra, mở
rộng các khóa đào tạo nghiệp vụ ngắn hạn nhằm tăng cường hiểu biết cho người tiến hành tố tụng liên quan đến tâm sinh
lý của người dưới 18 tuổi. Để từng bước tiến tới một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh ta cần không ngừng hoàn thiện
11
pháp luật nhưng song song với đó là cần bảo tồn, gìn giữ những giá trị cốt lõi, đặc biệt là bảo vệ tốt nhất cho sự phát triển
của người dưới 18 tuổi.

12
GIÁM SÁT GIÁO DỤC
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÁC BIỆN PHÁP GIÁM SÁT, GIÁO DỤC NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI
1. Các biện pháp giám sát, giáo dục là gì?
Biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi không có khái niệm rõ ràng mà được xem là các “biện
pháp không chính thức” (xử lý thay thế hình sự), giáo dục, phục hồi cộng đồng khi người dưới 18 tuổi phạm tội, thuộc các
trường hợp được miễn TNHS mà không cần phải áp dụng các thủ tục tố tụng hình sự chính thức hay các biện pháp xử lý
hành chính.
Người dưới 18 tuổi phạm tội có tâm lý chưa ổn định và dễ bị ảnh hưởng bởi môi trường bên ngoài. Nếu họ bị dư
luận lên án bởi hành vi phạm tội của mình thì các biện pháp này ngoài việc răn đe, giáo dục họ về những hành vi của mình
mà còn tạo cho họ cơ hội tái hòa nhập cộng đồng. Để họ cảm thấy không bị bỏ rơi sau khi cơ quan tiến hành tố tụng áp
dụng một trong các biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội; giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành
mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội.
* Đặc điểm của các biện pháp giám sát, giáo dục:
- Được áp dụng trong trường hợp được miễn TNHS.
- Mang tính phục hồi, hướng đến nhiều hơn việc cải tạo, giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội, giúp họ có thể hoà nhập lại
với cộng đồng.
- Không mang tính chất thay thế cho hình phạt, vì các biện pháp giám sát giáo dục được áp dụng đối với người dưới 18
tuổi được miễn TNHS, khi đó sẽ không đặt ra vấn đề hình phạt đối với họ. Như vậy, các biện pháp này không thể coi là
thay thế cho hình phạt.
- Phải bảo đảm “lợi ích tốt nhất” của người dưới 18 tuổi.
2. Đối tượng được áp dụng và thẩm quyền áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục
* Đối tượng được áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục:
Khoản 2 Điều 91 BLHS năm 2015 có quy định như sau:
“ 2. Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc
phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này, thì có thể được miễn TNHS và
áp dụng các biện pháp quy định tại Mục 2 Chương này:…”
=> Như vậy, các biện pháp giám sát, giáo dục chỉ được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn TNHS
theo các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 91 BLHS năm 2015.
* Thẩm quyền áp dụng:
Điều 92 BLHS xác định cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục là cơ quan tiến hành tố
tụng bao gồm: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Và theo quy định tại Điều 230, Điều 248, Điều 326 BLTTHS
2015 thì chủ thể có thẩm quyền miễn TNHS là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án.
=> Như vậy, việc miễn TNHS và áp dụng biện pháp giám sát, giáo dục trong giai đoạn tố tụng nào do cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng giai đoạn đó thực hiện. Cụ thể: Trong giai đoạn điều tra, thẩm quyền miễn TNHS và áp dụng biện
pháp giám sát, giáo dục thuộc về Cơ quan điều tra đang thụ lý, giải quyết vụ án; trong giai đoạn truy tố, thẩm quyền miễn
TNHS và áp dụng biện pháp giám sát, giáo dục thuộc về Viện kiểm sát đang thụ lý, giải quyết vụ án; trong giai đoạn xét
xử, thẩm quyền miễn TNHS và áp dụng biện pháp giám sát, giáo dục thuộc về Toà án đang thụ lý, giải quyết vụ án.
3. Trường hợp áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục
Điều 92 BLHS 2015 quy định về điều kiện chung áp dụng biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi phạm
tội trong trường hợp được miễn TNHS như sau: “Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án chỉ quyết định miễn TNHS
và áp dụng biện pháp khiển trách, hòa giải tại cộng đồng hoặc biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, nếu người
dưới 18 tuổi phạm tội hoặc người đại diện hợp pháp của họ đồng ý với việc áp dụng một trong các biện pháp này.”
Có thể thấy việc áp dụng một trong các biện pháp giám sát, giáo dục chỉ được thực hiện nếu có sự đồng ý của
người dưới 18 tuổi phạm tội hoặc người đại diện hợp pháp của họ. Trong trường hợp không có sự đồng ý của người dưới
18 tuổi phạm tội hoặc người đại diện của người dưới 18 tuổi phạm tội thì cơ quan tiến hành tố tụng không áp dụng các
biện pháp giám sát, giáo dục và vẫn tiếp tục tiến hành các thủ tục tố tụng hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Theo đó, trước khi ra quyết định miễn TNHS và áp dụng biện pháp giám sát, giáo dục đối với người 18 tuổi phạm
tội, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán phải thông báo và giải thích về điều kiện, khả năng áp dụng các biện pháp
này cho người dưới 18 tuổi; cha, mẹ hoặc người đại diện hợp pháp của họ biết. Đây là điều kiện rất quan trọng để quyết
định áp dụng hay không việc miễn TNHS và biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Bởi vì chỉ
khi người 18 tuổi phạm tội hoặc người đại diện hợp pháp của họ đồng ý áp dụng thì mới nâng cao tính tự giác chấp hành,
đảm bảo các biện pháp đó có hiệu quả trên thực tế, đáp ứng yêu cầu giúp người dưới 18 tuổi nhận thức được lỗi lầm,
phòng chống việc tái phạm.
4. Cơ sở của việc quy định và áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
4.1. Cơ sở lý luận của biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

13
Đường lối nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng, bảo đảm quyền con người, lấy con người là mục tiêu,
động lực của sự phát triển, nhất là đối với trẻ em. Việc tham gia Công ước của LHQ về quyền trẻ em, hệ thống pháp luật
bảo vệ quyền trẻ em của nước ta ngày càng hoàn thiện, trong đó dành sự đặc biệt quan tâm cho đối tượng người dưới 18
tuổi vi phạm pháp luật.
Xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý của người dưới 18 tuổi:
- Xét về góc độ tâm sinh lý:
+ Người dưới 18 tuổi là người ở vào thời kỳ chuyển tiếp từ độ tuổi trẻ em lên độ tuổi người lớn, chưa phát triển đầy
đủ về sinh lý cơ thể, tâm lý và ý thức; cơ thể của các em còn đang ở thời kỳ phát triển về mọi mặt…
+ Có nhu cầu độc lập, muốn tự khẳng định bản thân, hiếu thắng, thiếu kiên nhẫn, thiếu tính thực tế, dễ bị tổn
thương, dễ bị kích động vào những hoạt động phiêu lưu, mạo hiểm, không muốn phụ thuộc vào gia đình.
+ Tuổi đời còn ít, còn ít va chạm, tiếp xúc với các hiện tượng của cuộc sống xã hội; kinh nghiệm sống chưa nhiều
nên còn non nớt về nhận thức và tinh thần, hiểu biết về pháp luật và các chuẩn mực xã hội còn hạn chế
- Xét về góc độ đặc điểm pháp lý:
+ Người dưới 18 tuổi chưa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ của công dân, chưa có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
(Điều 20 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Người chưa thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp quy
định tại các điều 22, 23 và 24 của Bộ luật này”.
+ Trong quá trình tố tụng người tham gia tố tụng dưới 18 tuổi là đối tượng dễ bị xâm hại các quyền và lợi ích hợp
pháp vì họ còn quá non nớt, chưa phát triển nhận thức đầy đủ để có thể bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của
mình bên cạnh đó họ rất hay nhạy cảm nên dễ bị tổn thương về tâm lý, ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện của cá nhân
họ.
=> Như vậy, xuất phát từ những đặc điểm trên, việc đối tượng phạm tội là người dưới 18 tuổi phải tiếp xúc với hệ thống
tư pháp hình sự, quy trình tố tụng nghiêm ngặt sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới tâm lý cũng như ảnh hưởng đến uy tín, danh dự
và sự phát triển trong tương lai của người chưa thành niên. Do vậy, kế thừa nguyên tắc nhân đạo, khoan hồng đặc biệt đối
với trẻ em, chính sách hình sự của Nhà nước ta đối với việc truy cứu TNHS đối với người dưới 18 tuổi nhằm mục đích
chủ yếu là giáo dục, giúp đỡ họ nhận thức, sửa chữa lỗi lầm, tạo điều kiện để họ phát triển lành mạnh và trở thành công
dân có ích cho xã hội.
4.2. Cơ sở pháp lý quy định việc áp dụng biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Thứ nhất, các văn bản pháp lý quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết:
- Công ước về quyền trẻ em Điều 40 Công ước
- Quy tắc 52 Hướng dẫn của LHQ về phòng ngừa vi phạm pháp luật của người chưa thành niên (Hướng dẫn Riyadh) kêu
gọi các chính phủ ban hành và thực thi “luật và thủ tục để thúc đẩy và bảo vệ quyền và lợi ích của người chưa thành niên”.
- Theo Bình luận Quy tắc số 11.4 của Quy tắc Bắc Kinh
- Đoạn 15, BLC số 24
- Xuất phát từ những lợi ích nêu trên, tại Điều 40(3)(b) Công ước LHQ về Quyền Trẻ em và Quy tắc Bắc Kinh số 6 & 11
đã khuyến khích Các quốc gia sử dụng “XLCH” như một biện pháp thay thế cho việc xử lý vụ án người chưa thành niên
vi phạm pháp luật qua hệ thống tư pháp bất cứ khi nào phù hợp và có thể, với điều kiện tôn trọng đầy đủ quyền con người
và các nguyên tắc pháp lý.
Thứ hai, theo pháp luật Việt Nam:
- Hiến pháp năm 2013 cũng có những quy định mới, tiến bộ về quyền con người, quyền công dân. Theo đó, quyền con
người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo vệ bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Tại khoản 1 Điều 37
Hiến pháp 2013 có quy định: “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia
vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những
hành vi khác vi phạm quyền trẻ em.”
- BLTTHS đã dành toàn bộ Chương XXVIII - Thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi. Thủ tục tố tụng đối với người bị
bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi được áp dụng theo quy định của Chương này, đồng thời theo
những quy định khác của Bộ luật này không trái với những quy định của Chương này bao gồm: nguyên tắc tiến hành tố
tụng; người tiến hành tố tụng, việc giám sát đối với người dưới 18 tuổi phạm tội; áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp
cưỡng chế, việc tham gia tố tụng của người đại diện, nhà trường, tổ chức; trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp khiển trách,
biện pháp hòa giải tại cộng đồng, biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng...
- Luật trẻ em năm 2016, tại Điều 5 có quy định:
“1. Bảo đảm để trẻ em thực hiện được đầy đủ quyền và bổn phận của mình.
2. Không phân biệt đối xử với trẻ em.
3. Bảo đảm lợi ích tốt nhất của trẻ em trong các quyết định liên quan đến trẻ em.
4. Tôn trọng, lắng nghe, xem xét, phản hồi ý kiến, nguyện vọng của trẻ em.

14
5. Khi xây dựng chính sách, pháp luật tác động đến trẻ em, phải xem xét ý kiến của trẻ em và của các cơ quan, tổ chức có
liên quan; bảo đảm lồng ghép các mục tiêu, chỉ tiêu về trẻ em trong quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội quốc
gia, ngành và địa phương.”
Ngoài ra, khoản 1 Điều 71 Luật này cũng quy định: “Trẻ em vi phạm pháp luật bị áp dụng biện pháp giáo dục tại
xã, phường, thị trấn hoặc biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính;
biện pháp khiển trách, hòa giải tại cộng đồng hoặc biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn khi được miễn TNHS; hình
phạt cải tạo không giam giữ; án treo theo quy định của BLHS; trẻ em đã chấp hành xong biện pháp đưa vào trường giáo
dưỡng hoặc tù có thời hạn được áp dụng các biện pháp bảo vệ sau đây nhằm khắc phục các nguyên nhân và điều kiện vi
phạm pháp luật, phục hồi, tránh tái phạm…”
5. Ý nghĩa trong việc quy định các biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội
Như đã phân tích, người dưới 18 tuổi là một chủ thể đặc biệt và mang nhiều đặc điểm của lứa tuổi dễ bị tổn
thương bởi các yếu tố môi trường và xã hội, từ đó ảnh hưởng xấu tới sự phát triển của họ. Việc đảm bảo quyền bào chữa,
quyền được trợ giúp pháp lý vừa đảm bảo sự công bằng, bình đẳng trong pháp luật vừa có sự tác động tới mặt tinh thần
đối với các chủ thể là người dưới 18 tuổi khi tham gia quá trình tố tụng.
Một đứa trẻ không có nhiều hiểu biết về pháp luật, không có nhiều kiến thức xã hội phải một mình đối diện với
các cơ quan tiến hành tố tụng và chịu đựng sự nghiêm khắc mà không có sự bảo vệ, an ủi dẫn tới việc nảy sinh những tổn
thương nghiêm trọng về mặt tinh thần. Chúng cảm thấy mình bị bỏ rơi bởi gia đình, nhà trường và xã hội, vì lỗi lầm của
mình mà mọi người đều chỉ muốn trừng phạt nó. Thậm chí, sau khi đã vượt qua được những tổn thương đó, đứa trẻ có thể
trở nên chai sạn, nảy sinh tâm lý bất cần hoặc nghiêm trọng hơn là tâm lý chống đối xã hội và dẫn tới hành vi tái vi phạm
các tội phạm hình sự một cách dễ dàng.
Vì vậy, nhất định phải có sự bảo vệ đối với người bị buộc tội chưa thành niên trong suốt quá trình tố tụng, ngay từ
những thủ tục đầu tiên và kéo dài liên tục tới khi kết thúc quá trình. Đảm bảo quyền bào chữa, quyền được trợ giúp pháp
lý đối với người bị buộc tội chưa thành niên để họ thấy được sự quan tâm, bảo vệ của xã hội dành cho họ, rằng mục đích
của quá trình tố tụng hình sự không phải để trừng phạt, mà là để cải tạo, giáo dục sớm đưa người bị buộc tội trở lại cuộc
sống bình thường, giúp người bị buộc tội nhận ra lỗi lầm của mình, thực sự mong muốn được sửa chữa cho lỗi lầm đó.
CHƯƠNG II: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ CÁC BIỆN PHÁP GIÁM
SÁT, GIÁO DỤC

Tiêu chí Pháp luật Việt Nam Pháp luật quốc tế

Bản chất - Các biện pháp giám sát, giáo dục vẫn là biện pháp - Từ lâu, pháp luật quốc tế đã ghi nhận về chương
xử lý kèm theo chế định miễn TNHS (XLCH) 2. trình tư pháp phục hồi. Tuy nhiên vẫn chưa có sự
Việc miễn TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm thống nhất về khái niệm của tư pháp phục hồi. Mỗi
tội trong trường hợp này là miễn TNHS “có điều quốc gia có cách giải thích cũng như sử dụng các
kiện” bao gồm việc áp dụng các biện pháp giám thuật ngữ khác nhau để đặt tên cho mô hình tư pháp
sát, giáo dục. này như: tư pháp tích cực (positive justice), tư pháp
- Ngoài ra, biện pháp giáo dục tại trường giáo mang tính liên hệ (relational justice), tư pháp khắc
dưỡng là một biện pháp khác với các biện pháp phục (reparative justice), tư pháp cộng đồng
giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi. Bởi đây vừa (community justice). Hiện nay, thuật ngữ
là một biện pháp tư pháp vừa là biện pháp xử lý “restorative justice” được sử dụng phổ biến hơn cả 3.
hành chính (đối với người dưới 14 tuổi thực hiện - Theo Điều 15 của BLC số 24: “Các biện pháp xử
hành vi trái pháp luật thì nó được áp dụng như biện lý đối với trẻ em tránh sử dụng các thủ tục tố tụng
pháp xử lý hành chính). Còn các biện pháp giám tư pháp đã được áp dụng vào nhiều hệ thống trên
sát, giáo dục là biện pháp thuộc về nhóm các biện thế giới và thường được gọi là chuyển
pháp khoan hồng giảm nhẹ hoặc “giải phóng” hướng. Chuyển hướng liên quan đến việc đưa các
TNHS cho người phạm tội. Có nghĩa là các biện vấn đề ra khỏi hệ thống tư pháp hình sự chính thức,
pháp giám sát, giáo dục được áp dụng trong trường thường là các chương trình hoặc hoạt động. Ngoài
hợp Tòa án xét thấy không cần thiết áp đặt TNHS việc tránh bị kỳ thị và hồ sơ tội phạm đối với trẻ
đối với người chưa thành niên phạm tội. Mặt khác, em, cách tiếp cận này mang lại kết quả tốt cho trẻ
nếu thấy cần phải áp dụng TNHS đối với người em, phù hợp với an toàn công cộng và đã được
chưa thành niên phạm tội, thì biện pháp giáo dục chứng minh là hiệu quả về mặt chi phí.”

3
Lê Huỳnh Tấn Duy, Hoàn thiện quy định của BLTTHS năm 2015 về các biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi trên cơ sở hướng
dẫn của LHQ về tư pháp phục hồi, Tạp chí Khoa học Pháp lý Việt Nam, 06(109)/2017, Trang 37 - 43.
15
tại trường giáo dưỡng là một trong những lựa chọn.

→ Kết luận: Việc xây dựng các biện pháp có tên gọi là biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới
18 tuổi phạm tội được miễn TNHS trong BLHS và BLTTHS là dựa trên cơ sở tham khảo, học tập các
chương trình tư pháp phục hồi của một số nước cũng như hướng dẫn của LHQ. Việc ghi nhận những biện
pháp này là một điểm tiến bộ, phát triển và thay đổi đúng đắn theo xu hướng của thế giới, bổ sung cho cơ
quan tiến hành tố tụng một cách thức xử lý linh hoạt, nhân văn đối với người dưới 18 tuổi vi phạm pháp
luật hình sự.

Điều kiện - Việc áp dụng biện pháp khiển trách, hòa giải tại - Về XLCH, Ủy ban liên cơ quan của LHQ về tư
áp dụng cộng đồng hoặc biện pháp giáo dục tại xã, phường, pháp người chưa thành niên định nghĩa như sau:
thị trấn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được “Một đứa trẻ được XLCH khi đứa trẻ đó vi phạm
miễn TNHS khi có đủ các điều kiện: pháp luật song vụ án đã được giải quyết bằng các
(1) Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong biện pháp thay thế cho việc áp dụng xét xử chính
các trường hợp được miễn TNHS quy định tại thức thông thường của cơ quan có thẩm quyền có
khoản 2 Điều 91 Bộ luật này; liên quan. Để được XLCH, trẻ em và/hoặc cha mẹ
(2) Người dưới 18 tuổi phạm tội hoặc người đại hay người giám hộ của các em phải đồng ý chuyển
diện hợp pháp của họ đồng ý với việc áp dụng một hướng xử lý vụ việc của đứa trẻ. XLCH có thể bao
trong các biện pháp quy định tại các điều 93, 94 và gồm các biện pháp dựa trên các nguyên tắc của tư
95 của Bộ luật này. pháp phục hồi.”4
- Theo Điều 16 BLC số 24: “Chuyển hướng nên là
cách giải quyết ưu tiên đối với trẻ em trong phần
lớn các trường hợp. Các quốc gia thành viên nên
liên tục mở rộng phạm vi tội phạm mà có thể
chuyển hướng, bao gồm cả những hành vi phạm tội
nghiêm trọng khi thích hợp. Các điều kiện để
chuyển hướng phải được thiết lập càng sớm càng
tốt sau khi tiếp xúc với hệ thống và ở các giai đoạn
khác nhau trong suốt quá trình. Chuyển hướng nên
là một phần không thể thiếu của hệ thống tư pháp
trẻ em và phù hợp với Điều 40(3)(b) của Công ước,
quyền con người và các biện pháp bảo vệ pháp lý
của trẻ em phải được tôn trọng và bảo vệ đầy đủ
trong tất cả các quy trình và chương trình chuyển
hướng.”

→ Kết luận: Quy định của BLHS tạo điều kiện cho người dưới 18 tuổi được bày tỏ nguyện vọng của
mình về các biện pháp giám sát, giáo dục mà họ mong muốn, đồng thời, quy định này cũng phù hợp với
chuẩn mực của pháp luật quốc tế về XLCH đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Tuy nhiên, với quy định
của pháp luật Việt Nam thì người dưới 18 tuổi phạm tội cũng mới chỉ có thể được miễn chứ không phải
họ đương nhiên được miễn TNHS.
Hơn nữa, điều kiện thứ nhất đầu tiên để áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục đối với người chưa
thành niên là phải được miễn TNHS. Đối chiếu với quy định pháp luật các nước và hướng dẫn của LHQ
thì không có điều kiện bắt buộc này. Điều này chứng tỏ Việt Nam còn khá khắt khe và e dè trong việc áp
dụng những biện pháp này cũng như gián tiếp thể hiện đây thật ra không phải là biện pháp thay thế cho
hình phạt vì đã miễn TNHS thì đương nhiên không áp dụng hình phạt. Điều kiện thứ hai cho thấy cơ quan
lập pháp Việt Nam đã không đề cập đến ý chí, nguyện vọng của người bị hại trong việc quyết định áp
dụng biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội. Điều này đi ngược lại với một trong
những nguyên tắc cơ bản trong việc sử dụng tư pháp phục hồi đã được hướng dẫn bởi ECOSOC.

Thẩm quyền - Tùy thuộc vào từng giai đoạn tố tụng, thẩm quyền - Tuỳ thuộc vào loại biện pháp áp dụng mà có các
áp dụng áp dụng ba biện pháp trên thuộc về cơ quan điều chủ thể có thẩm quyền áp dụng khác nhau.
tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Những người có quyền

4
Trang web của Ủy ban Liên cơ quan của LHQ về Tư pháp Vị thành niên, từ vựng: http://www.juvenilejusticepanel.org/glossary/D.
16
quyết định việc áp dụng là Thủ trưởng, Phó Thủ
trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện
trưởng Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử.

→ Nếu như pháp luật quốc tế ít và hầu như không căn cứ vào giai đoạn để làm điều kiện để áp dụng
các biện pháp này mà chỉ căn cứ vào loại biện pháp áp dụng để xác định chủ thể có thẩm quyền áp dụng,
ra quyết định (điển hình là biện pháp hoà giải giữa nạn nhân và người phạm tội được áp dụng trong hầu
hết các giai đoạn của quá trình tố tụng) thì pháp luật Việt Nam lại cho rằng giai đoạn tố tụng là điều kiện
tiên quyết để xác định. Từ đó, việc BLTTHS năm 2015 không cho phép Chánh án, Phó Chánh án Tòa án
áp dụng ba biện pháp trên là điều cần phải xem xét lại. Giả sử trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm,
nếu Tòa án nhận thấy có đủ điều kiện để áp dụng một biện pháp giám sát, giáo dục cho bị can thì vẫn phải
mở phiên tòa và Hội đồng xét xử sẽ ra quyết định áp dụng biện pháp này. Đây là điều không cần thiết và
đi ngược lại nguyên tắc giải quyết nhanh chóng, kịp thời các vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi được
ghi nhận bởi chính BLTTHS năm 2015 theo quy định tại khoản 7 Điều 414.

Nguyên tắc - Việc xử lý người dưới 18 tuổi được công nhận là -Việc sử dụng chương trình tư pháp phục hồi nên
áp dụng có 3 cấp độ từ thấp đến cao, theo thứ tự là miễn tuân thủ theo các nguyên tắc được quy định tại Phần
TNHS, áp dụng biện pháp giám sát, giáo dục, áp II (từ mục 6 đến mục 10) quy định về Những
dụng biện pháp tư pháp và hình phạt. Theo đó: nguyên tắc cơ bản của việc sử dụng các chương
+ Mức độ nhẹ nhất, biện pháp giám sát, giáo trình tư pháp phục hồi trong lĩnh vực hình sự của
dục gồm các biện pháp khiển trách; hòa giải tại ECOSOC7, bao gồm:
cộng đồng; giáo dục tại xã, phường, thị trấn được - Thứ nhất, chương trình tư pháp phục hồi có thể
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án áp được sử dụng ở bất kỳ giai đoạn nào của quá trình
dụng trong suốt quá trình tố tụng trong trường hợp tố tụng hình sự (TTHS) (tùy thuộc vào quy định của
người dưới 18 tuổi đáp ứng đủ các điều kiện quy pháp luật quốc gia).
định khoản 2 Điều 91 BLHS. - Thứ hai, chương trình này chỉ nên được áp dụng
+ Mức độ tiếp theo, Tòa án xem xét đến việc khi có đầy đủ chứng cứ để kết tội bị cáo và có sự tự
áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo do, tự nguyện đồng ý của nạn nhân và người phạm
dưỡng, nếu như biện pháp này bảo đảm hiệu quả tội. Nạn nhân và người phạm tội có thể rút lại sự
giáo dục và phòng ngừa người dưới 18 tuổi phạm đồng ý đó vào bất kỳ thời điểm nào của quá trình.
tội. Những thỏa thuận phải đạt được trên cơ sở tự
+ Mức độ cao nhất, Tòa án chỉ áp dụng hình nguyện và chỉ bao gồm các nghĩa vụ hợp lý, tương
phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, trong xứng.
trường hợp không thỏa điều kiện áp dụng các biện - Thứ ba, nạn nhân và người phạm tội thông thường
pháp trên. phải đồng ý về những dữ kiện cơ bản của một vụ án
- BLHS công nhận xem xét song song đồng thời làm cơ sở cho sự tham gia của họ trong quá trình
các biện pháp giám sát, giáo dục tại mục 2 và biện phục hồi. Sự tham gia của người phạm tội không
pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng tại mục 3. được sử dụng như chứng cứ nhận tội trong quá trình
Điều đó có nghĩa là trong quá trình tố tụng, Cơ tố tụng sau này.
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án cân nhắc miễn - Thứ tư, những khác biệt dẫn đến sự không cân
TNHS và áp dụng biện pháp giám sát, giáo dục; bằng về quyền lực, những khác biệt về văn hóa giữa
riêng Tòa án khi xét xử có thể cân nhắc xem xét các bên nên được xem xét khi quyết định chuyển vụ
đồng thời cả biện pháp giám sát, giáo dục và biện án đến và trong khi thực hiện tiến trình phục hồi.
pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng nếu thấy - Thứ năm, sự an toàn của các bên nên được xem
bảo đảm hiệu quả giáo dục, phòng ngừa5. xét khi quyết định chuyển vụ án đến và trong khi
- Tuy nhiên, theo khoản 6 Điều 423 BLTTHS năm thực hiện tiến trình phục hồi.
20156 thì không nhắc gì đến việc xem xét áp dụng - Thứ sáu, khi quá trình phục hồi không thích hợp
các biện pháp giám sát, giáo dục. hoặc không thể áp dụng, vụ án nên được chuyển

5
Trần Ngọc Lan Trang - Nguyễn Phương Thảo, Một số vấn đề pháp lý về các biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội trong BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và BLTTHS năm 2015, Tạp chí Khoa học Pháp lý Việt Nam, 07(128)/2019, trang 64 - 75.
6
“Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải quyết định hình phạt đối với bị cáo thì Hội đồng xét xử áp dụng biện pháp giáo dục tại trường
giáo dưỡng.”
7
Economic and Social Council - Hội đồng Kinh tế và Xã hội LHQ.
17
- Nguyên tắc thực hiện việc giám sát, giáo dục: đến các cơ quan có thẩm quyền của hệ thống tư
Điều 3 NĐ 37/2018 quy định chi tiết thi hành các pháp hình sự và nên đưa ra một quyết định về việc
biện pháp giám sát giáo dục người dưới 18 tuổi làm thế nào để tiếp tục giải quyết vụ án mà không
phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự. phải trì hoãn. Trong những trường hợp như vậy,
những người tiến hành tố tụng nên cố gắng động
viên người phạm tội thực hiện trách nhiệm đối với
nạn nhân, cộng đồng bị ảnh hưởng, ủng hộ sự tái
hòa nhập cộng đồng của nạn nhân và người phạm
tội.

→ Kết luận: Do được hình thành muộn hơn nên pháp luật Việt Nam đã có sự học hỏi so với các văn bản
pháp luật quốc tế và pháp luật của các quốc gia khác trên thế giới. Nhìn chung, về cơ bản thì các nguyên
tắc để áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục được ghi nhận trong BLHS, BLTTHS được thể hiện
tương đối giống với hướng dẫn của ECOSOC về những nguyên tắc cơ bản của việc sử dụng các chương
trình tư pháp phục hồi trong lĩnh vực hình sự. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại sự khác biệt và bất cập nhất
định, điển hình là giai đoạn áp dụng và thẩm quyền áp dụng các biện pháp.

Giai đoạn - Điều 426 BLTTHS quy định thẩm quyền quyết - Chương trình tư pháp phục hồi có thể được áp
áp dụng định áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục đối dụng tại bất kỳ giai đoạn nào của quá trình tố tụng
với người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn TNHS hình sự. Về cơ bản, có 04 thời điểm chính: điều tra
thuộc về Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa (police level), truy tố (prosecution level), xét xử
án. Từ đó, ta có thể nhận thấy rằng việc áp dụng (court level) và thi hành án (corrections). Việc áp
các biện pháp giám sát giáo dục được thực hiện dụng chương trình này như một biện pháp thay thế
hầu hết trong các giai đoạn tố tụng bao gồm giai cho hình phạt tù; là một phần hoặc kèm theo hình
đoạn điều tra, truy tố và xét xử từ sau khi đã có phạt không giam giữ hoặc trong quá trình giam giữ
quyết định khởi tố vụ án và khởi tố bị can đối với hoặc sau khi được thả ra khỏi nhà tù.
người dưới 18 tuổi thực hiện hành vi phạm tội. Theo Điều 40(3)(b) CRC; Phần diễn giải Quy tắc 11
Quy tắc Bắc Kinh thì các biện pháp XLCH có thể
được áp dụng đối với NCTN phạm tội vào thời
điểm trước hoặc trong suốt quá trình tố tụng.

→ Kết luận: Việc quy định các biện pháp này theo pháp luật Việt Nam có thể được sử dụng trong nhiều
giai đoạn tố tụng và điều này hoàn toàn phù hợp với hướng dẫn của ECOSOC. Tuy nhiên, việc có áp dụng
hay không lại hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định của các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền và tùy
thuộc vào giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng căn cứ vào tình hình thực tế vụ án; yêu cầu đấu tranh
phòng và chống tội phạm; khả năng cải tạo, giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội trong môi trường xã hội
bình thường cũng như nhân thân của chính người dưới 18 tuổi phạm tội đó. Do vậy mà việc áp dụng các
biện pháp giám sát, giáo dục càng trở nên khó khăn hơn. Nói cách khác, chính điều kiện miễn TNHS
trước khi áp dụng các biện pháp này là một rào cản lớn khiến việc áp dụng chỉ có thể được tiến hành từ
sau khi có quyết định khởi tố bị can, tức là bắt đầu từ giai đoạn điều tra chứ không phải từ những khâu
đầu tiên của quá trình giải quyết vụ án.

Phân loại Theo pháp luật Việt Nam, các biện pháp giám UNODC cho rằng hiện có rất nhiều chương
sát, giáo dục người dưới 18 tuổi bao gồm: trình tư pháp phục hồi khác nhau đang được vận
- Khiển trách (Điều 93 BLHS 2015); hành ở các nước trên thế giới. Tuy nhiên, theo cơ
- Hoà giải tại cộng động (Điều 94 BLHS 2015); quan này có những dạng chương trình chính sau
- Giáo dục tại xã, phường, thị trấn (Điều 95 đây:
BLHS). - Hòa giải giữa nạn nhân và người phạm tội (victim
offender mediation);
1. Biện pháp khiển trách - Họp nhóm gia đình và cộng đồng (community and
- CSPL: Điều 93 BLHS 2015. family group conferencing);
- Là biện pháp mang tính ít nghiêm khắc nhất - Kết án vòng tròn (circle sentencing);
trong 03 biện pháp giám sát, giáo dục. - Vòng tròn hòa giải (peacemaking circles);
- Đối tượng áp dụng: người từ đủ 16 tuổi đến dưới - Ban cộng đồng và giám sát mang tính khắc phục
18 tuổi lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng; người (reparative probation and community boards and

18
dưới 18 tuổi là người đồng phạm có vai trò không panels).
đáng kể trong vụ án.
- Cơ quan có thẩm quyền áp dụng: Cơ quan điều 1. Hòa giải giữa nạn nhân và người phạm tội
tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án quyết định áp dụng - Một trong những chương trình xuất hiện sớm nhất.
biện pháp khiển trách. Việc khiển trách đối với - Thời điểm áp dụng: tất cả các giai đoạn của quá
người dưới 18 tuổi phạm tội phải có sự chứng kiến trình tố tụng và thi hành án.
của cha mẹ hoặc người đại diện hợp pháp của - Các hình thức hòa giải: trực tiếp (nạn nhân và
người dưới 18 tuổi. người phạm tội trực tiếp gặp nhau) hoặc gián tiếp
- Các nghĩa vụ mà người dưới 18 tuổi được áp (hòa giải viên gặp các bên riêng biệt).
dụng biện pháp khiển trách phải thực hiện bao - Thẩm quyền áp dụng: cảnh sát, công tố viên, Tòa
gồm: án, hoặc văn phòng giám sát (probation office).
+ Tuân thủ pháp luật, nội quy, quy chế của nơi - Thẩm quyền thực hiện: cảnh sát, công tố viên, Tòa
cư trú, học tập, làm việc; án, hoặc văn phòng giám sát (probation office).
+ Trình diện trước cơ quan có thẩm quyền khi - Điều kiện áp dụng hòa giải trực tiếp: (1) người
được yêu cầu; phạm tội phải chấp nhận hoặc không từ chối trách
+ Tham gia các chương trình học tập, dạy nghề nhiệm đối với tội phạm; (2) người phạm tội và nạn
do địa phương tổ chức, tham gia lao động với hình nhân đồng ý và (3) cảm thấy an toàn khi tham gia
thức phù hợp. hòa giải.
- Thời gian thực hiện các nghĩa vụ nêu trên là từ 03 - Thành phần tham gia: hòa giải viên, người phạm
tháng đến 01 năm. tội, nạn nhân, bạn bè và những người ủng hộ hai
- Biện pháp khiển trách được tiến hành theo các bên (thường không tham gia).
bước sau: - Kết quả: thỏa thuận giữa hai bên (có thể bao gồm
+ CSPL: Điều 427 BLTTHS 2015. vấn đề khắc phục và bồi thường thiệt hại cho nạn
+ Khi miễn trách nhiệm hình sự cho người nhân). Nội dung của thỏa thuận có thể được đưa vào
dưới 18 tuổi phạm tội mà xét thấy có đủ điều kiện bản án hoặc là một điều kiện trong quyết định áp
áp dụng biện pháp khiển trách theo quy định của dụng án treo.
Bộ luật Hình sự thì Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng
Cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng 2. Họp nhóm gia đình và cộng đồng
Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử quyết định áp dụng - Mang tính thể chế hệ thống cao nhất (đã được quy
biện pháp khiển trách đối với người dưới 18 tuổi định trong luật pháp của New Zealand áp dụng cho
phạm tội trong vụ án do cơ quan mình thụ lý, giải tư pháp người chưa thành niên từ năm 1989). Mô
quyết. hình này có nguồn gốc từ truyền thống giải quyết
+ Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án tranh chấp của người Maori (nhóm người bản địa
phải giao ngay quyết định áp dụng biện pháp khiển New Zealand) và hiện nay được áp dụng dưới nhiều
trách cho người bị khiển trách, cha mẹ hoặc người biến thể như một hình thức XLCH của cảnh sát tại
đại diện của họ. Nam Úc, Nam Phi, Ireland, Lesotho và tại các thành
phố ở một số bang của Mỹ như Minnesota,
2. Biện pháp hoà giải tại cộng đồng Pennsylvania and Montana.
- CSPL: Điều 94 BLHS 2015. - Thẩm quyền áp dụng: cảnh sát hoặc Tòa án.
- Là biện pháp mang tính nghiêm khắc hơn so với - Thành phần tham gia: hòa giải viên (convenor),
biện pháp khiển trách. người phạm tội, nạn nhân, gia đình, bạn bè, thành
- Đối tượng áp dụng: viên cộng đồng (giáo viên, người sử dụng lao
+ Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm động...).
tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng; - Mục đích áp dụng: bắt buộc người phạm tội đối
+ Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm diện với hậu quả của tội phạm, đưa ra một kế hoạch
tội rất nghiêm trọng quy định tại điểm b khoản 2 khắc phục, và trong những trường hợp nghiêm
Điều 91 của Bộ luật này. trọng hơn xác định nhu cầu cho việc giam giữ, giám
- Điều kiện áp dụng: ngoài 02 điều kiện quy định sát nghiêm khắc hơn.
tại Điều 92, biện pháp hòa giải tại cộng đồng đòi - So với hình thức hòa giải giữa nạn nhân và người
hỏi thêm điều kiện người bị hại hoặc người đại phạm tội thì họp nhóm gia đình và cộng đồng có
diện hợp pháp của người bị hại đã tự nguyện hòa mục đích rộng hơn, thu hút sự tham gia của cộng
giải và đề nghị miễn TNHS. Cơ quan có thẩm đồng vào quá trình tìm ra phương án giải quyết,
quyền áp dụng: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát đồng thời xác định trách nhiệm của cộng đồng trong
hoặc Tòa án phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã. việc giám sát, giúp đỡ người phạm tội để thực hiện
các biện pháp khắc phục cũng như tái hòa nhập như

19
- Người được áp dụng biện pháp hòa giải tại cộng đã xác định trong thỏa thuận.
đồng thực hiện các nghĩa vụ sau đây:
+ Xin lỗi người bị hại và bồi thường thiệt hại;
+ Tuân thủ pháp luật, nội quy, quy chế của 3. Kết án vòng tròn
nơi cư trú, học tập, làm việc; - Mô hình này được sử dụng tại một số cộng đồng
+ Trình diện trước cơ quan có thẩm quyền khi người bản địa ở Canada, là một ví dụ điển hình cho
được yêu cầu; tư pháp khuyến khích sự tham gia trực tiếp của các
+ Tham gia các chương trình học tập, dạy thành viên cộng đồng trong việc xử lý tội phạm.
nghề do địa phương tổ chức, tham gia lao động với Chương trình này được thực hiện chủ yếu bởi Ủy
hình thức phù hợp. ban Tư pháp cộng đồng (Community Justice
- Việc hòa giải được tiến hành theo các bước sau: Committee).
CSPL: Điều 428 BLTTHS 2015; Nghị định số - Thẩm quyền áp dụng: cảnh sát, công tố viên, thẩm
37/2018/NĐ-CP, Điều 16 Thông tư liên tịch số phán
06/2018/TTLT có những quy định về vấn đề phối - Thành phần tham gia: thẩm phán, công tố viên,
hợp giữa các cơ quan trong việc áp dụng biện pháp nhân viên cảnh sát, nạn nhân, người phạm tội, gia
giám sát, giáo dục này. đình, thành viên cộng đồng
Bước 1: Trước khi tổ chức hòa giải. - Trình tự, thủ tục: (1) Xác định vụ án cụ thể có
- Các chủ thể có thẩm quyền ra quyết định áp dụng thích hợp để áp dụng thủ tục này không, (2) Chuẩn
biện pháp hòa giải tại cộng đồng nếu xét đủ điều bị các bên tham gia, (3) Tìm kiếm thỏa thuận giữa
kiện để áp dụng. Quyết định phải giao cho người các bên, (4) Đưa ra phương án theo dõi, bảo đảm
dưới 18 tuổi phạm tội, cha mẹ hoặc người đại diện người phạm tội thực hiện thỏa thuận.
của họ; bị hại, người đại diện của bị hại và Ủy ban
nhân dân xã, phường, thị trấn nơi tổ chức việc hòa
giải tại cộng đồng chậm nhất là 03 ngày trước ngày
tiến hành hòa giải. Ủy ban nhân dân cấp xã nơi
người dưới 18 tuổi phạm tội cư trú chủ trì, phối
hợp bố trí thời gian, địa điểm hòa giải, mời người
tham gia hòa giải và chuẩn bị các vấn đề khác liên
quan đến việc tổ chức hòa giải tại địa phương.
Bước 2: Tổ chức hòa giải tại cộng đồng.
- Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên hoặc Thẩm phán
được phân công tiến hành hòa giải phải phối hợp
với Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi tổ
chức việc hòa giải và phải lập biên bản hòa giải.
- Trình tự tiến hành buổi hòa giải hiện pháp luật
không quy định. Đây là điểm giống nhau giữa pháp
luật New Zealand và pháp luật Việt Nam. Tác giả
cho rằng việc không quy định là một điều hợp lý,
để buổi hòa giải được linh hoạt tùy vào sự điều
khiển của chủ thể tổ chức buổi hòa giải cũng như
diễn biến tâm lý của các bên tham gia vào buổi hòa
giải. Nội dung buổi hòa giải sẽ xoay quanh những
vấn đề hành vi phạm tội cũng như những cam kết,
nghĩa vụ mà người dưới 18 phải thực hiện nếu hòa
giải thành.
Bước 3: Kết thúc buổi hòa giải.
- Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán tiến
hành hòa giải phải đọc lại biên bản cho những
người tham gia hòa giải nghe. Nếu có người yêu
cầu ghi những sửa đổi, bổ sung thì Điều tra viên,
Kiểm sát viên, Thẩm phán đã lập biên bản phải ghi
những sửa đổi, bổ sung đó vào biên bản và ký xác
nhận. Trường hợp không chấp nhận yêu cầu thì
phải ghi rõ lý do vào biên bản. Biên bản hòa giải
được giao ngay cho những người tham gia hòa giải.

20
hiện các nghĩa vụ sau đây:
+ Chấp hành đầy đủ nghĩa vụ về học tập, lao
động;
+ Chịu sự giám sát, giáo dục của gia đình, xã,
phường, thị trấn;
+ Không đi khỏi nơi cư trú khi không được
phép;
+ Tuân thủ pháp luật, nội quy, quy chế của
nơi cư trú, học tập, làm việc;
+ Trình diện trước cơ quan có thẩm quyền
khi được yêu cầu;
+ Tham gia các chương trình học tập, dạy
nghề do địa phương tổ chức, tham gia lao động với
hình thức phù hợp.
- Nếu người được giáo dục tại xã, phường, thị trấn
đã chấp hành một phần hai thời hạn, có nhiều tiến
bộ thì theo đề nghị của Ủy ban nhân dân cấp xã
được giao trách nhiệm quản lý, giáo dục, cơ quan
đã áp dụng biện pháp này có thể quyết định chấm
dứt thời hạn giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
- Trình tự, thủ tục như sau:
CSPL: Điều 429 BLTTHS 2015.
+ Khi miễn TNHS cho người dưới 18 tuổi
phạm tội mà xét thấy có đủ điều kiện áp dụng biện
pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn theo quy
định của Bộ luật Hình sự thì Thủ trưởng, Phó Thủ
trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện
trưởng Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử quyết định
áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong vụ án do
cơ quan mình thụ lý, giải quyết.
+ Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra quyết
định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị
trấn, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải
giao quyết định cho người bị áp dụng biện pháp
này, cha mẹ hoặc người đại diện của họ và chính
quyền xã, phường, thị trấn nơi họ cư trú.

→ Kết luận: Về điều kiện áp dụng thì đối với từng biện pháp cụ thể ngoài điều kiện chung tại Điều 92 thì
lại có những điều kiện áp dụng riêng biệt. So với hòa giải tại cộng đồng và giáo dục tại xã, phường, thị
trấn thì biện pháp khiển trách có mức độ nghiêm khắc thấp nhất. Vì vậy điều kiện để áp dụng biện pháp
này cũng khắt khe hơn. Điều kiện áp dụng hai biện pháp còn lại được quy định dựa trên các trường hợp cụ
thể trong đó người chưa thành niên ở hai nhóm tuổi khác nhau có thể được miễn TNHS.
Về thủ tục áp dụng, ba biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi được quy định khá đơn giản
trong pháp luật Việt Nam. Đối với khiển trách và giáo dục tại xã, phường, thị trấn; BLTTHS năm 2015
quy định rõ là khi miễn TNHS những người có thẩm quyền quyết định áp dụng, chỉ riêng đối với biện
pháp hòa giải tại cộng đồng thì mới có sự khác biệt. Theo điểm g khoản 5 Điều 428 khi kết thúc hòa giải
người bị hại, người đại diện của họ có thể đề nghị miễn TNHS cho người phạm tội. Điều này gián tiếp
cho thấy biện pháp hòa giải tại cộng đồng được áp dụng trước khi người phạm tội được miễn TNHS.
Trong khi đó, khoản 2 Điều 94 BLHS năm 2015 lại quy định việc hòa giải tại cộng đồng chỉ được tổ chức
thực hiện khi người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp đã tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn TNHS.
BLTTHS năm 2015 cũng chưa quy định cách thức xử lý tiếp theo trong trường hợp hòa giải không thành
hoặc các bên không thực hiện, thực hiện không đúng những thỏa thuận đạt được khi kết thúc hòa giải.

Về hậu quả - Mặc dù BLHS năm 2015 quy định rất cụ thể các - Mặc dù hiện nay các chuẩn mực quốc tế không

21
pháp lý khi nghĩa vụ của người được áp dụng biện pháp giám quy định về trường hợp người chưa thành niên
người dưới sát, giáo dục nhưng lại không có quy định về hậu phạm tội được XLCH nhưng không thực hiện đầy
18 tuổi vi quả pháp lý trong trường hợp người được áp dụng đủ các cam kết (nghĩa vụ) của mình thì sẽ xử lý như
phạm các biện pháp giám sát, giáo dục vi phạm các nghĩa vụ thế nào mà trong BLC số 24 (2019) chỉ quy định về
nghĩa vụ trong thời gian được áp dụng biện pháp giám sát, việc người chưa thành niên phạm tội hoàn thành
trong thời giáo dục. XLCH thì phải dẫn đến việc kết thúc chắc chắn và
gian áp cuối cùng của vụ việc. Tuy nhiên, để phát huy được
dụng các hiệu quả của các biện pháp giám sát, giáo dục cũng
biện pháp như để đạt được mục tiêu cải tạo, giáo dục đối với
giám sát, người dưới 18 tuổi phạm tội, tạo cơ sở để người
giáo dục dưới 18 tuổi phạm tội bắt buộc phải thực hiện các
nghĩa vụ của mình, trên cơ sở học hỏi kinh nghiệm
của pháp luật một số nước có quy định hậu quả
pháp lý trong trường hợp người chưa thành niên
phạm tội không thực hiện hoặc thực hiện không đầy
đủ các nghĩa vụ của mình khi được XLCH, tác giả
kiến nghị BLHS năm 2015 cần quy định rõ chế tài
áp dụng trong trường hợp người dưới 18 tuổi phạm
tội không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ
các nghĩa vụ của mình khi được áp dụng các biện
pháp giám sát, giáo dục.

→ Kết luận: Việc không quy định hậu quả pháp lý khi vi phạm nghĩa vụ trong thời gian áp dụng các biện
pháp ở BLHS đã làm giảm hiệu quả cũng như ý nghĩa của các biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội trên thực tế. Bởi một khi cơ quan tiến hành tố tụng đã quyết định miễn
TNHS và áp dụng một trong các biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thì coi
như TNHS của người dưới 18 tuổi phạm tội đã chấm dứt. Trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội không
thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các nghĩa vụ của mình thì họ cũng không phải gánh chịu thêm bất
cứ hậu quả pháp lý bất lợi nào. Vì vậy, cần phải đưa ra thêm các chế tài hoặc các biện pháp xử lý hành
chính cần thiết để điều chỉnh.

KẾT LUẬN CHƯƠNG II


Thể hiện theo tinh thần đảm bảo “lợi ích tốt nhất” của người dưới 18 tuổi, pháp luật Hình sự Việt Nam đã có những quy
định cụ thể để xử lý người dưới 18 tuổi mà không cần phải sử dụng các thủ tục tố tụng chính thức thông qua các biện pháp giám
sát, giáo dục. Tuy nhiên, một số quy định về XLCH đối với người dưới 18 tuổi vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế nhất định. Vì thế,
trên cơ sở gợi mở của pháp luật quốc tế, Việt Nam cần có những sự thay đổi, bổ sung phù hợp.

CHƯƠNG III: MỘT SỐ VƯỚNG MẮC VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
1. Đánh giá:
● Ưu điểm:
- Việc quy định các biện pháp giám sát, giáo dục này đã thể rõ sự quan tâm đặc biệt đối với những đối tượng là người
dưới 18 tuổi phạm tội. Dù cho là người bị buộc tội nhưng họ vẫn chưa có sự hoàn thiện trong nhận thức cũng như tâm
sinh lý nên cũng được xem là một đối tượng dễ bị tổn thương và cũng cần được bảo vệ và trợ giúp.
- Việt Nam với cương vị là nước đầu tiên ở châu Á và nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công  ước của LHQ về Quyền
trẻ em đã và đang thực hiện rất tốt trong việc bảo vệ quyền lợi cho người dưới 18 tuổi, thể hiện rõ sự quyết tâm trở thành
một thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
- Thành công trong việc nội luật hóa các Công ước quốc tế, đưa các nguyên tắc quốc tế trở thành các quy định pháp luật
quốc gia và tuyên truyền rộng rãi các quy định này tới xã hội, thúc đẩy việc giáo dục, nhận thức của mọi người ngay từ
khi còn ngồi trên ghế nhà trường.

22
- So với các văn bản pháp luật quốc tế, Việt Nam cũng đã có sự tiếp thu, cũng như ghi nhận các quy định về các biện pháp
giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi. Tuy vẫn có một số quy định còn hạn chế, bất cập nhưng phải thừa nhận rằng Việt
Nam đã có sự cập nhật những sự tiến bộ và xu thế chung của thế giới về đảm bảo quyền lợi của người dưới 18 tuổi.
- Xã hội đã ngày càng có cái nhìn công bằng, nhân đạo hơn với những người tham gia tố tụng hình sự kể cả người bị buộc
tội. Trước đây, đa phần mọi người có sự định kiến, kỳ thị với những đối tượng là người dưới 18 tuổi tham gia vào quá
trình tố tụng hình sự đặc biệt là đối với người bị buộc tội, nhưng ngày nay xã hội đã có cái nhìn cởi mở, nhân đạo hơn.
Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc cải tạo, giáo dục đối với những người dưới 18 tuổi vướng vào vòng lao
lý.
● Nhược điểm:
- Bên cạnh việc áp dụng tốt các quy định đã được nội luật hóa thì vẫn còn tồn tại nhiều quy định chỉ mang tính hình thức
không được đưa vào thực tiễn. Thậm chí, các quy định này còn tồn đọng nhiều mâu thuẫn, cần có sự thay đổi nhằm bổ
sung thích hợp.
- Thực trạng của pháp luật hiện nay là có quy định nhưng không có hướng dẫn cụ thể dẫn đến các cơ quan chức năng dù
biết nhưng không thể áp dụng. Tình trạng các cơ quan chức năng còn ngần ngại, thiếu trách nhiệm, hạch sách, không vì
quyền lợi của người tham gia tố tụng vẫn còn diễn ra dẫn tới người tham gia tố tụng không dám yêu cầu các quyền cơ bản
của mình. Vì vậy, cần phải xây dựng những quy định chi tiết, tiến bộ, nhân đạo hơn nữa đối với nhóm chủ thể này.
- Đôi khi về ý thức trách nhiệm các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng chưa tích cực giải thích về quyền
và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng là người chưa thành niên. Chưa giải thích cho họ biết mình có còn có thể được
quyền áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục trong trường hợp miễn TNHS để đảm bảo quyền và nghĩa vụ của họ.
- Việc tuyên truyền và giáo dục pháp luật cho người dưới 18 tuổi biết về các quyền lợi của mình chưa được phổ biến.
Nhiều người dưới 18 tuổi có thể biết đến quyền này nhưng lại không biết cách sử dụng nó hay thậm chí là không hề biết
đến các quyền cơ bản này. Điều này cũng sẽ ảnh hưởng ít nhiều đến quyền lợi, lợi ích của người chưa thành niên khi tham
gia quá trình tố tụng.
- Một bộ phận xã hội vẫn còn tồn tại định kiến xấu, kì thị, xa lánh đối với những người tham gia tố tụng chưa thành niên
đặc biệt là người bị buộc tội.
2. Những vướng mắc trong áp dụng
2.1. Về việc quy định sự “đồng ý” của người dưới 18 tuổi phạm tội hoặc người đại diện hợp pháp của người dưới 18
tuổi phạm tội.
Theo quy định tại Điều 92 BLHS 2015:
“Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án chỉ quyết định miễn TNHS và áp dụng biện pháp khiển trách, hòa giải tại
cộng đồng hoặc biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, nếu người dưới 18 tuổi phạm tội hoặc người đại diện hợp
pháp của họ đồng ý với việc áp dụng một trong các biện pháp này”.
=> Như vậy, việc miễn TNHS và áp dụng một trong ba biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
cần có sự “đồng ý” của người dưới 18 tuổi phạm tội hoặc người đại diện hợp pháp của người đó. Tuy nhiên, BLHS năm
2015 và các văn bản hướng dẫn không quy định rõ ràng về quy định này dẫn đến thực tế áp dụng có thể gặp một số vướng
mắc cụ thể như sau:
+ Thứ nhất: Hình thức, thủ tục xác định sự đồng ý của người dưới 18 tuổi phạm tội hoặc người đại diện hợp pháp của
người dưới 18 tuổi phạm tội chưa được quy định cụ thể (bằng lời nói hay văn bản). Tuy nhiên, đây là một trong những
điều kiện mang tính chất quyết định để cơ quan tiến hành tố tụng miễn TNHS và áp dụng các biện pháp giám sát giáo dục
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Do đó, việc đồng ý áp dụng các biện pháp này cần được thể hiện bằng văn bản.
+ Thứ hai: BLHS năm 2015 và văn bản hướng dẫn thi hành không quy định ý kiến của bản thân người phạm tội hay
người đại diện hợp pháp của họ có giá trị cao hơn để cơ quan tiến hành tố tụng xem xét, quyết định. Theo đó, nếu nảy sinh
trường hợp người phạm tội đồng ý nhưng người đại diện hợp pháp không đồng ý hoặc người đại diện hợp pháp đồng ý
nhưng người phạm tội không đồng ý thì sẽ giải quyết như thế nào? Đây cũng là một vướng mắc cần phải quy định cụ thể
hơn.
2.2. Về điều kiện “có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả”
Khoản 2 Điều 91 BLHS 2015 có quy định một trong những điều kiện để người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn
TNHS theo khoản 2 Điều 91 BLHS 2015 là người dưới 18 tuổi “có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần
lớn hậu quả”. Có thể hiểu “nhiều tình tiết giảm nhẹ” là trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội có từ hai tình tiết giảm
nhẹ trở lên quy định tại Điều 51 BLHS. Tuy nhiên, tự nguyện khắc phục hậu quả là một trong các tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 BLHS 2015.
=> Như vậy, tình tiết tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả có nằm trong điều kiện về “có nhiều tình tiết giảm nhẹ” hay
không? Hay có thể hiểu việc miễn TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong trường hợp này là “tự nguyện khắc
phục phần lớn hậu quả” không? Việc xác định thế nào được coi là “đã khắc phục được phần lớn” hậu quả do hành vi
phạm tội của người dưới 18 tuổi gây ra chưa được hướng dẫn cụ thể nên thực tiễn áp dụng dễ dẫn đến tình trạng không
thống nhất, không đảm bảo sự công bằng.
23
2.3. Về trường hợp người được giám sát, giáo dục không chấp hành hoặc chấp hành không đầy đủ nghĩa vụ
BLHS năm 2015 và các văn bản pháp luật có liên quan chỉ quy định các nghĩa vụ đối với người được áp dụng
biện pháp giám sát, giáo dục mà không quy định trường hợp người được giám sát, giáo dục không chấp hành hoặc chấp
hành không đầy đủ thì xử lý như thế nào. Chỉ có quy định tại khoản 5 Điều 22 Nghị định 37/2018/NĐ-CP quy định về
trường hợp người được áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn vắng mặt tại nơi cư trú mà không tuân thủ
đúng quy định về việc xin phép, thông báo, khai báo tạm vắng thì thời gian vắng mặt không được tính vào thời hạn chấp
hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Mặc dù việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội lấy giáo dục, giúp đỡ,
phòng ngừa là chính, nhưng cũng phải đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật, nếu quá nghiêng về giáo dục sẽ làm nhòa
đi yếu tố không thể thiếu là trừng trị.
2.4. Về khái niệm, bản chất pháp lý và các hình thức lựa chọn XLCH
Pháp luật Việt Nam vẫn chưa có sự thống nhất quan điểm về bản chất pháp lý, chưa đưa ra khái niệm về “biện
pháp XLCH” trong BLHS hay các văn bản hướng dẫn khác và còn hạn chế trong việc ghi nhận các lựa chọn để XLCH
người dưới 18 tuổi phạm tội. Do chỉ ghi nhận về miễn TNHS đi kèm với áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục để thay
cho việc truy cứu TNHS và biện pháp tư pháp để thay thế cho việc áp dụng hình phạt, ngoài biện pháp này cơ quan có
thẩm quyền tố tụng không còn các biện pháp mang tính chính thức nào khác để XLCH người dưới 18 tuổi khỏi thủ tục tố
tụng hình sự. Việc chưa xây dựng được hệ thống các biện pháp XLCH phù hợp còn bắt nguồn từ sự thiếu vắng những
chương trình hoạt động, điều trị dựa vào cộng đồng, có sự tham gia của gia đình đóng vai trò như một chương trình
XLCH để giúp người dưới 18 tuổi nhận thức được sự sai trái của hành vi phạm tội, khắc phục những khó khăn là nguyên
nhân chính thúc đẩy người chưa thành niên vào con đường phạm tội.
3. Một số đề xuất , kiến nghị:
Từ thực tiễn áp dụng, nhóm có một số đề xuất, kiến nghị đến các cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn thực hiện áp
dụng các biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội như sau:
- Thứ nhất, cần quy định cụ thể thủ tục xác định sự đồng ý của người dưới 18 tuổi phạm tội hoặc người đại diện hợp pháp
của người dưới 18 tuổi phạm tội, Hội đồng Thẩm phán TANDTC cần ban hành Nghị quyết để hướng dẫn đối với các biện
pháp giảm sát, giáo dục áp dụng trong trường hợp được miễn TNHS.
- Thứ hai, cần quy định rõ tiêu chí chung về tính chất mức độ lỗi, hậu quả của tội phạm, nhân thân của người phạm tội và
các yếu tố khác có liên quan để làm cơ sở cho việc miễn TNHS quy định tại khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015, hạn chế
việc “có thể để tránh tùy tiện trong việc áp dụng và đảm bảo tính công bằng trong việc xử lý tội phạm”. Bởi vì, khi xác
định được các căn cứ để miễn TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, cơ quan có thẩm quyền có thể ra Quyết định áp
dụng các biện pháp giám sát, giáo dục để thay thế cho hình phạt một cách đầy đủ, tuân thủ đúng các quy định của pháp
luật về trình tự, thủ tục, tính chất, mức độ hành vi của người phạm tội.
- Thứ ba, về các điều kiện áp dụng cho các biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cần
được nghiên cứu, chỉnh sửa để phù hợp. Mặt khác, cần nghiên cứu để đưa ra các điều kiện chặt chẽ hơn khi áp dụng các
biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, các nhà làm luật đưa ra nhiều điều kiện quá, dẫn đến
việc trong một số trường hợp khi không đáp ứng được các điều kiện đó thì sẽ xử lý như thế nào? Vì vậy, cần sửa đổi, hoặc
có hướng dẫn cụ thể về các điều kiện áp dụng đối với các biện pháp giám sát, giáo dục trong BLHS năm 2015 và các văn
bản hướng dẫn.
- Thứ tư, cần thống nhất quan điểm về bản chất pháp lý, đưa ra khái niệm cụ thể về “biện pháp XLCH”. Việc quy định bổ
sung thêm Điều luật quy định về bản chất pháp lý và khái niệm của các biện pháp giám sát, giáo dục tại Mục 2 Chương
XII BLHS này ngoài việc thể hiện rõ bản chất của các biện pháp giám sát, giáo dục thì cũng thể hiện rõ được quan điểm
BLHS năm 2015 có quy định về các biện pháp XLCH đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo các chuẩn mực quốc tế và
chỉ có các biện pháp giám sát, giáo dục quy định tại Mục 2 Chương XII BLHS, bao gồm: khiển trách; hòa giải tại cộng
đồng; giáo dục tại xã, phường, thị trấn mới là các biện pháp XLCH đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Hơn nữa là cần
mở rộng hơn các hình thức lựa chọn XLCH, cụ thể là đa dạng hoá các biện pháp giám sát, giáo dục. Bên cạnh đó, cần
thiết kế các chương trình XLCH phù hợp với từng đối tượng cụ thể, chẳng hạn như là người dưới 18 tuổi có hoàn cảnh
khó khăn, nghiện rượu, nghiện ma tuý, có khiếm khuyết về tinh thần hay thể chất,... Với nền tảng sẵn có, Việt Nam hoàn
toàn có thể hoàn thiện những quy định đã có và phát triển thêm những cách thức XLCH phù hợp nhằm giúp cho người
dưới 18 tuổi tránh bị khởi tố hoặc bị tiếp tục bị xử lý bằng thủ tục tố tụng hình sự.

KẾT LUẬN
XLCH là các biện pháp xử lý người dưới 18 tuổi vi phạm pháp luật mà không phải sử dụng đến thủ tục tố tụng
chính thức. Việc quy định và áp dụng XLCH đối với NCTN phạm tội trong pháp luật của mỗi quốc gia là yêu cầu cấp
thiết để bảo vệ các quyền, lợi ích của trẻ BLHS năm 2015 của Việt Nam đã có những quy định cụ thể để xử lý người dưới
18 tuổi phạm tội mà không phải sử dụng đến thủ tục tố tụng chính thức thông qua các biện pháp giám sát, giáo dục gồm:
khiển trách; hòa giải tại cộng đồng; giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
24
Người dưới 18 tuổi phạm tội tuy được miễn TNHS nhưng việc khiển trách hoặc hòa giải tại cộng đồng là cần thiết
bởi 2 biện pháp này mang tính giáo dục cao, khiến cho người phạm tội nhận ra lỗi lầm của mình, đồng thời khiến cho bị
hại và gia đình bị hại cảm thấy được xoa dịu.
Qua đó, ta có thể thấy rằng việc xây dựng một khung pháp lý bảo vệ người dưới 18 tuổi phạm tội trong BLHS nói
riêng và chính sách pháp luật hình sự nói chung là một trong những điểm mới nổi bật, thể hiện rõ chính sách nhân đạo của
Nhà nước ta, tăng tính hướng thiện trong chính sách xử lý hình sự, nhất là đối tượng người chưa thành niên.

25
BÍ MẬT CÁ NHÂN
2. Đối tượng được hưởng quyền
Theo UNCRC 1989, quy tắc Bắc Kinh cũng như Bình luận chung số 24 (2019) không liệt kê cụ thể đối tượng được
hưởng quyền mà áp dụng cho bất kỳ người dưới 18 tuổi (hay còn gọi là trẻ em, người chưa thành niên, thanh thiếu niên)
nào tham gia vào vụ án.
Trong khi đó, theo pháp luật Việt Nam, cụ thể là Thông tin liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-
BCA-BTP-BLĐTBXH tại khoản 2 Điều 2 các đối tượng áp dụng bao gồm người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người
bị buộc tội, người bị hại, người làm chứng dưới 18 tuổi. Tương tự như vậy, ta có thể hiểu các đối tượng được hưởng
quyền giữ bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi theo pháp luật Việt Nam gồm: người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp,
người bị buộc tội, người bị hại, người làm chứng dưới 18 tuổi.
3. Chủ thể thực hiện nguyên tắc
Về mặt lý luận, bất kỳ ai cũng đều có nghĩa vụ giữ bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi, điển hình là cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, các cơ quan báo chí, nhà
báo,... và công dân nói chung. Tuy nhiên, để đảm bảo tính nghiêm ngặt, các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành
tố tụng là những chủ thể quan trọng nhất trong việc tuân thủ thực hiện nguyên tắc vì có thể xem đây là những chủ thể đầu
tiên nắm giữ thông tin của người dưới 18 tuổi thông qua các giai đoạn như tiếp nhận tố giác, tin báo tội phạm, điều tra,...
4. Cách thức thực hiện nguyên tắc giữ bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi
4.1 Trong quy định của các văn bản pháp luật quốc tế
Trong các văn bản pháp luật quốc tế, cụ thể tại quy tắc số 8 Quy tắc Bắc Kinh quy định: “…”. Quy tắc này được
diễn giải như sau: “…””.
Quy tắc số 8 Quy tắc Bắc Kinh nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ người chưa thành niên khỏi những tác
động bất lợi có thể có do các phương tiện thông tin đại chúng đưa tin về vụ việc (ví dụ như tên của những người chưa
thành niên phạm tội, bị cáo buộc hay bị tuyên án). Ngoài ra còn có quy tắc số 21 Quy tắc Bắc Kinh quy định: “Hồ sơ vụ
án liên quan đến người chưa thành niên phạm tội phải được giữ kín và bí mật đối với người thứ ba.”
Bên cạnh đó, Điều 40 UNCRC 1989 yêu cầu các quốc gia thành viên phải đặc biệt đảm bảo rằng “Mọi điều riêng
tư của trẻ em được hoàn toàn tôn trọng đầy đủ trong suốt tất cả các giai đoạn tố tụng”.
Có thể thấy, cả hai văn bản trên đều nhấn mạnh vấn đề đảm bảo sự riêng tư của người chưa thành niên, và đặc biệt
là người bị buộc tội “trong suốt tất cả các giai đoạn tố tụng hình sự”.
- Phương pháp thực hiện:
+ Tất cả thông tin liên quan đến người dưới 18 tuổi (bao gồm cả hồ sơ vụ án, thông tin mang tính chất định danh,...) đều
phải được giữ kín nghiêm ngặt và bí mật, ngay cả đối với người thứ ba.
+ Bảo đảm giữ bí mật đối với tất cả các loại phương tiện truyền thông, bao gồm cả phương tiện truyền thông xã hội.
+ Các phiên tòa xét xử về tư pháp trẻ em phải được tiến hành kín. Các trường hợp ngoại lệ nên cực kỳ hạn chế và quy
định rõ ràng trong luật. Nếu bản án được tuyên công khai tại phiên tòa, danh tính của trẻ em không được tiết lộ.
- Thời điểm thực hiện: Nguyên tắc phải được thực hiện trong suốt quá trình tố tụng (kể từ khi bắt đầu tiếp cận giải quyết
vụ án (tin báo tố giác tội phạm,…), khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án) và tiếp tục áp dụng ngay sau khi người
đó đủ 18 tuổi (bảo vệ trọn đời).
4.2 Trong quy định của pháp luật Việt Nam
Đối chiếu với quy định của BLTTHS năm 2015, có thể thấy, BLTTHS năm 2015 tuy có quy định về phương thức
thực hiện quyền bảo đảm bí mật cá nhân của người chưa thành niên nhưng còn rất sơ sài. Khoản 2 Điều 414 quy định
nguyên tắc “Bảo đảm giữ bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi”. Về hoạt động xét xử, khoản 2 Điều 423 quy định:
“Trường hợp đặc biệt cần bảo vệ bị cáo, bị hại là người dưới 18 tuổi thì Tòa án có thể quyết định xét xử kín”. Khi so
sánh với các quy định của văn bản pháp luật quốc tế đã phân tích phía trên, có thể nhận thấy sự khác biệt của pháp luật
Việt Nam so với các văn bản này. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam chỉ đề cập đến nguyên tắc chứ không ban hành các
văn bản hướng dẫn cụ thể về việc thực thi quyền giữ bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi. Cụ thể, Bình luận chung số
24 (2019) quy định Các phiên tòa xét xử có sự tham gia của trẻ em (đối với pháp luật Việt Nam là người dưới 18 tuổi) bắt
buộc các quốc gia thành viên phải xét xử kín đối với các vụ án có liên quan đến người dưới 18 tuổi và cực kỳ hạn chế
trường hợp ngoại lệ, nếu có ngoại lệ thì phải được quy định rõ ràng trong luật, tránh sự tùy nghi của các thẩm phán khi
giải quyết vụ việc; nếu bản án được tuyên công khai tại phiên tòa, danh tính của trẻ em không được tiết lộ. 
Trong khi đó, theo Điều 423 BLTTHS năm 2015 thì việc xét xử những vụ án có bị cáo, bị hại là người dưới 18 tuổi
có thể được tiến hành một cách công khai trong những trường hợp thông thường và chỉ được xét xử kín nếu Tòa án nhận
thấy đó là trường hợp “đặc biệt”. Theo như hướng dẫn tại điểm d khoản 1 Điều 7 Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC, ta
có thể hiểu trường hợp đặc biệt ở đây là những vụ án có người bị hại là người dưới 18 tuổi bị xâm hại tình dục, bị bạo
hành hoặc bị mua bán . Thậm chí điều khoản này quy định những vụ án có yêu cầu của người dưới 18 tuổi, người đại diện
của họ hoặc để giữ bí mật đời tư, bảo vệ người dưới 18 tuổi thì Tòa án cũng có thể xét xử kín nhưng phải tuyên án công
khai. Có thể nói, cách thức quy định của Điều 423 và văn bản hướng dẫn là chưa phù hợp với tinh thần của pháp luật quốc
26
tế. Bởi lẽ, theo những quy định trên, ngoại trừ trường hợp chứng minh tính “đặc biệt” của vụ án thì điều kiện để được xét
xử kín là còn phụ thuộc vào tinh thần của thẩm phán chủ động muốn bảo vệ quyền lợi cho người dưới 18 tuổi. Điểm này
thể hiện rằng quan điểm của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam chỉ mang tính khuyến khích xét xử kín chứ không thể
hiện tính bắt buộc chặt chẽ, quyết liệt trong việc thực hiện nguyên tắc giữ bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi theo quy
định của pháp luật quốc tế
Ngoài ra, BLTTHS năm 2015 cũng thiếu những quy định về quyền được giữ bí mật cá nhân của người bị buộc tội
dưới 18 tuổi trong các giai đoạn khác của quá trình tố tụng như giai đoạn điều tra, truy tố, thi hành án. Thông qua quy
định tại Điều 7 “Xét xử vụ án hình sự có bị cáo, người bị hại là người dưới 18 tuổi” tại Thông tư số 02/2018/TT-
TANDTC, chỉ mới đề cập đến việc thực hiện nguyên tắc trong giai đoạn xét xử. Trong khi những giai đoạn khác trong
quá trình tố tụng thì chưa được nhắc đến trong BLTTHS cũng như các văn bản hướng dẫn. Đây là một sự thiếu sót cần
thiết phải bổ sung của BLTTHS năm 2015 cũng như các văn bản hướng dẫn khác.
5. Ý nghĩa của việc thực hiện nguyên tắc giữ bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi trong tố tụng hình sự
Đối với người bị buộc tội: Khi áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội vào trường hợp này, người dưới 18 tuổi bị buộc
tội vẫn là người vô tội. Nếu như những thông tin cá nhân liên quan đến vấn đề định danh bị lan truyền trên các phương
tiện truyền thông sẽ gây bất lợi đến danh dự của họ. Bởi lẽ, không phải tất cả người dân đều sẽ áp dụng nguyên tắc suy
đoán vô tội để đứng dưới góc nhìn của người bị buộc tội. Nếu như trong trường hợp khi họ tái hòa nhập cộng đồng (dù
cho đã bị kết tội hay chưa), với độ tuổi mà các đặc điểm về tâm lý vẫn chưa hoàn thiện cộng thêm những định kiến xã hội
thì người dưới 18 tuổi sẽ rất dễ bị áp lực tâm lý. Bên cạnh đó, lý do căn bản của quy tắc không công khai và tiếp tục áp
dụng quy tắc này sau khi trẻ đủ 18 tuổi, là vì sự công khai gây ra sự kỳ thị liên tục, điều này có thể tác động tiêu cực đến
khả năng tiếp cận giáo dục, công việc, nhà ở hoặc sự an toàn. Do đó cản trở việc trẻ em tái hòa nhập và đảm nhận vai trò
xây dựng trong xã hội.
Đối với người bị hại và những người tham gia tố tụng khác: quyền được giữ bí mật cá nhân đối với nhóm đối tượng
này càng phải được đảm bảo chặt chẽ hơn nữa, đặc biệt là các nạn nhân trong vụ án về tình dục, tính mạng và sức khỏe.
Việc giữ bí mật đời tư không chỉ bảo vệ họ khỏi sự trả thù của người bị kết tội mà còn cả dư luận xã hội. Đặc biệt khi tư
tưởng “Victim blaming” (hành vi quy trách nhiệm về nạn nhân thay vì thủ phạm khi một tội ác diễn ra -   điển hình trong
các vụ án hiếp dâm) luôn âm thầm lan rộng trong xã hội bấy giờ. Ngoài ra, không chỉ người bị hại mà các chủ thể tham
gia tố tụng khác như người làm chứng, người có quyền và nghĩa vụ liên quan,... là người dưới 18 tuổi, họ luôn có nỗi bất
an trước tâm lý lo sợ sự trả thù của thủ phạm nên sẽ im lặng và không thể mạnh mẽ chống trả. Tương tự như người bị
buộc tội, nếu như người bị hại và người tham gia tố tụng khác bị công khai thông tin cá nhân sẽ gây cản trở cơ hội tái hòa
nhập cộng đồng, cụ thể là các động tiêu cực đến khả năng tiếp cận giáo dục, công việc, nhà ở hoặc sự an toàn của họ, cũng
như dẫn đến việc xâm phạm đến các quyền cơ bản của trẻ em đã được quy định trong UNCRC 1989. 
Từ đó, có thể nhận thấy rằng việc bảo đảm quyền được giữ bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi trong tố tụng
hình sự là vô cùng quan trọng, điều này không chỉ bảo vệ an toàn và sự riêng tư cho họ mà còn tạo điều kiện để người
dưới 18 tuổi có thể tiếp tục học tập, sinh hoạt, vui chơi và cơ hội làm việc như người bình thường khi họ đã trưởng thành.
II. Nguyên tắc giữ bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi trong Tố tụng hình sự Việt Nam và pháp luật quốc tế 
2.1 Quyền được giữ bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi  (Việt Nam – Nước ngoài)
Nước ngoài
Tại Bình luận chung số 10, trẻ em có quyền được tôn trọng đầy đủ quyền riêng tư của mình trong tất cả các giai
đoạn của thủ tục tố tụng đã được quy định tại Điều 16 CRC, “tất cả các giai đoạn của quá trình tố tụng” bao gồm từ lần
tiếp xúc đầu tiên với cơ quan tư pháp (ví dụ: yêu cầu cung cấp thông tin và căn cước công dân) cho đến khi có quyết định
cuối cùng của cơ quan có thẩm quyền hoặc được thả khỏi sự giám sát, giam giữ hoặc tước quyền tự do. Không có bất cứ
thông tin nào được công bố có thể dẫn đến việc ảnh hưởng tới người phạm tội là trẻ em do sự kỳ thị, hay ảnh hưởng đến
khả năng tiếp cận giáo dục, công việc, nơi ở hoặc sự an toàn của trẻ. Điều này có nghĩa là cơ quan tư pháp nên hạn chế tiết
lộ các thông tin của hành vi phạm tội do trẻ em thực hiện với báo chí và chỉ giới hạn chúng trong những trường hợp rất
đặc biệt.8
Đối với phiên tòa xét xử người dưới 18 tuổi, các quốc gia thành viên nên tôn trọng quy tắc phiên tòa xét xử đối
với trẻ em được tiến hành không công khai. Những ngoại lệ phải rất hạn chế và được quy định rõ. Nếu bản án được tuyên
công khai thì phải theo cách không làm tiết lộ danh tính của đứa trẻ. Hồ sơ vụ án và án tích của trẻ em phải được giữ bí
mật nghiêm ngặt đối với bên thứ ba, ngoại trừ những người trực tiếp liên quan đến việc điều tra và xét xử vụ án. Các bản
án có liên quan đến trẻ em phải được ẩn danh (bao gồm cả bản án công bố trực tuyến). 9
Quyền riêng tư rất quan trọng đối với quyền tự quyết, phẩm giá và sự an toàn của trẻ em cũng như đối với việc
thực hiện các quyền của trẻ. Dữ liệu cá nhân của trẻ em được xử lý để cung cấp các lợi ích về giáo dục, sức khoẻ và các
lợi ích khác cho trẻ. Các mối đe dọa đối với quyền riêng tư của trẻ em có thể phát sinh từ việc thu thập và xử lý dữ liệu

8
Đoạn 64 Bình luận chung số 10 CRC
9
Đoạn 67, 68 Bình luận chung số 24 CRC
27
của các tổ chức công, doanh nghiệp và các tổ chức khác, cũng như từ các hoạt động phạm tội như trộm cắp thông tin cá
nhân. Các mối đe dọa cũng có thể phát sinh từ các hoạt động của chính trẻ em và từ các hoạt động của các thành viên
trong gia đình, bạn bè hoặc những người khác, chẳng hạn như cha mẹ chia sẻ ảnh trực tuyến hoặc một người lạ chia sẻ
thông tin về trẻ.10 Khi cần có sự đồng ý để thông tin của trẻ, các quốc gia thành viên phải đảm bảo rằng sự đồng ý đó do
chính trẻ đưa ra một cách tự nguyện, hoặc tùy thuộc vào độ tuổi và khả năng phát triển của trẻ thì dựa vào cha mẹ hoặc
người chăm sóc trẻ, sự đồng ý này phải có trước khi xử lý thông tin đó. Trong trường hợp sự đồng ý của trẻ em được coi
là không đủ và cần có thêm sự đồng ý của cha mẹ để xử lý thông tin cá nhân của trẻ, các quốc gia thành viên nên yêu cầu
các tổ chức xử lý thông tin đó xác minh rằng sự đồng ý đó đã được cha mẹ hoặc người chăm sóc của trẻ thông báo, có ý
nghĩa và đưa ra.11
Bên cạnh đó, Quy tắc Bắc Kinh cũng đưa ra một số quy tắc về bảo vệ quyền riêng tư cá nhân của người dưới 18
tuổi. Tại Quy tắc 8, quyền riêng tư của người chưa thành niên phải được tôn trọng trong tất cả các giai đoạn tố tụng, nhằm
tránh những tổn hại gây ra do sự công khai hoá quá mức hay do sự quy chụp; về nguyên tắc, không được công bố những
thông tin có thể dẫn đến việc nhận dạng người phạm tội chưa thành niên. Quy tắc số 21 về hồ sơ vụ án cũng có quy định
tương đồng so với Đoạn 67 Bình luận chung số 24 khi chỉ ra rằng hồ sơ vụ án liên quan đến người chưa thành niên phạm
tội phải được giữ kín và bí mật đối với người thứ ba và chỉ những người có liên quan trực tiếp tới việc xét xử vụ án hoặc
người có thẩm quyền mới được tiếp xúc hồ sơ vụ án.

Việt Nam
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, quyền được giữ bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi khi tham gia vào quá
trình tố tụng được bảo đảm thông qua nguyên tắc “bảo đảm giữ bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi” quy định tại khoản
2 Điều 414 BLTTHS 2015. Nguyên tắc này được áp dụng chủ yếu vào quá trình xét xử, trong các vụ án có người bị hại là
người dưới 18 tuổi bị xâm hại tình dục, bị bạo hành hoặc bị mua bán thì Toà án phải xét xử kín; còn đối với những vụ án
khác có sự tham gia của người 18 tuổi, người này hoặc người đại diện của họ có thể yêu cầu Toà án xét xử kín, tuy nhiên
phải tuyên án công khai phần quyết định trong bản án. 12 Quy định bắt buộc xét xử kín đối với những vụ án mang tính chất
nhạy cảm đối với bị hại là người dưới 18 tuổi như trên đã giúp bảo mật những thông tin cá nhân của họ như tên, tuổi, đặc
điểm cá nhân, thông tin đời tư, việc này đặc biệt quan trọng đối với bị hại khi nó ảnh hưởng nặng nề đến danh dự, nhân
phẩm, đời sống riêng tư của họ, giúp họ tái hòa nhập lại với việc học tập, cộng đồng xung quanh.
So sánh
So với những quy định của CRC về bảo đảm bí mật cá nhân người dưới 18 tuổi qua việc xét xử, có thể thấy Việt
Nam chưa nội luật hoá hoàn toàn khi vẫn cho phép tiết lộ danh tính của người dưới 18 tuổi tại thông qua việc tuyên án
công khai trong khi đó tại Đoạn 67 Bình luận chung số 24 có quy định nếu bản án được tuyên công khai thì phải theo cách
không làm tiết lộ danh tính của đứa trẻ.
Bên cạnh việc công khai trực tiếp bản án sau khi xét xử, việc công khai bản án trực tuyến chưa có văn bản hướng
dẫn nào quy định về phạm vi, đối tượng hay cách thức bản án được công bố. Theo Bình luận chung số 24, khi một bản án
có sự tham gia của người dưới 18 tuổi thì khi công bố trực tuyến, danh tính, thông tin cá nhân của họ phải được ẩn danh.
Có thể thấy, các nhà làm luật nên xem xét đưa quy định này vào hệ thống pháp luật ở Việt Nam để đảm bảo quyền được
giữ bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi không bị xâm hại, nhất là khi hiện nay tình trạng đánh cắp, lợi dụng dữ liệu cá
nhân trên mạng diễn biến rất phức tạp.
Tuy nhiên những quy định như trên chưa thể bao hàm hết cả một quá trình tố tụng của một vụ án. Bắt đầu từ khi
cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận được tin tố giác, tin báo tội phạm hay kiến nghị khởi tố cho đến những giai đoạn tiếp
theo của vụ án thì quyền giữ bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi luôn phải được đảm bảo. Mặc dù vậy nhưng những
quy định của trong hệ thống tố tụng hình sự vẫn chưa hướng dẫn một cách rõ ràng mà chỉ đưa ra rằng bí mật cá nhân của
người dưới 18 tuổi cần được bảo đảm. 13 Về hồ sơ vụ án có sự tham gia của người dưới 18 tuổi, hiện nay mới chỉ có  Quyết
định số 193/QĐ-TANDTC ngày 28/7/2022 quy định về chế độ quản lý hồ sơ vụ án và công tác lưu trữ trong hệ thống tòa
án nhân dân là văn bản quy phạm hướng dẫn về cách thức bảo đảm về bí mật hồ sơ vụ án, tuy nhiên những quy định này
chưa được cụ thể hoá, đặc biệt là hồ sơ của người dưới 18 tuổi. Điều này dẫn đến tình trạng hồ sơ vụ án có sự tham gia
của người dưới 18 tuổi có thể bị tiết lộ do thiếu quy định về những người có thẩm quyền tiếp xúc hồ sơ, làm cho thông tin
cá nhân của người dưới 18 tuổi bị lộ; hoặc qua việc điều tra vụ án, việc lấy lời khai đối với nhóm chủ thể này có thể trực
tiếp hay gián tiếp xâm phạm đến quyền giữ bí mật cá nhân của họ khi người lấy lời khai đưa ra những câu hỏi không cần
thiết hoặc vượt quá giới hạn vụ án.
10
Đoạn 67 Bình luận chung số 25 CRC
11
Đoạn 71 Bình luận chung số 25 CRC
12
Khoản 2 Điều 423 BLTTHS; điểm b khoản 1 Điều 7 Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC ngày 21/09/2018
13
Tại Thông tư số 43/2021/TT-BCA quy định về trách nhiệm của lực lượng Công an nhân dân trong việc thực hiện trình tự, thủ tục tố
tụng hình sự đề cập đến việc phải bảo vệ bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi (khoản 2 Điều 3; khoản 2 Điều 18; khoản 5 Điều 20)
mà không có hướng dẫn cụ thể
28
Về thời hạn bảo vệ bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi trong hồ sơ vụ án, tại Đoạn 70 Bình luận chung số
24, theo quan điểm của Ủy ban ban hành, cần có sự bảo hộ suốt đời đối với thông tin về tội phạm do người dưới 18 tuổi
gây ra. Dựa vào cơ sở lý luận cho quy tắc không công bố, cho đến khi đứa trẻ lớn lên sẽ dẫn đến sự kỳ thị, nỗi ám ảnh tiêu
cực về hành vi sai lầm trong quá khứ, ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng tiếp cận giáo dục, việc làm, nơi cư trú và sự an
toàn. Điều này làm cản trở sự tái hòa nhập cộng đồng của trẻ. Do đó các quốc gia thành viên phải đảm bảo rằng nguyên
tắc chung là quyền riêng tư suốt đời để bảo vệ các thông tin của hồ sơ vụ án tránh các phương tiện truyền thông. Tuy
nhiên, trong hệ thống pháp luật của Việt Nam chưa có bất cứ quy định cụ thể nào về thời hạn bảo vệ mà chỉ nêu ra nguyên
tắc phải bảo đảm bí mật hồ sơ tại Quyết định số 193/QĐ-TANDTC ngày 28/7/2022.
Về xóa án tích đối với tội phạm dưới 18 tuổi, Bình luận chung số 24 khuyến khích các Quốc gia thành viên đưa ra
các quy tắc cho phép xoá án tích đầu tiên của trẻ em khi trẻ đủ 18 tuổi một cách tự động, hoặc trong các trường hợp ngoại
lệ sau khi được xem xét độc lập. Tại Việt Nam, Điều 107 BLHS 2015 đã quy định về việc xoá án tích: 
“...”
Cũng tại Điều 425 BLTTHS 2015 có quy định về xóa án tích như sau: “Việc xóa án tích đối với người dưới 18
tuổi phạm tội khi có đủ điều kiện quy định tại Điều 107 của Bộ luật Hình sự được thực hiện theo thủ tục chung quy định
tại Bộ luật này”. Từ đó cho thấy việc xóa án tích đối với tội phạm là người dưới 18 tuổi được quy định cụ thể, rõ ràng
trong Bộ luật hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự. Đồng thời, đã tạo điều kiện cho các cá nhân phạm tội có điều kiện phát
triển tốt hơn, tái hòa nhập cộng đồng dễ dàng hơn, một lần nữa trở lại cuộc sống, trở thành công dân có ích cho xã hội.

Ngoài những thông tin cá nhân, đặc điểm nhận dạng của người dưới 18 tuổi cũng là một yếu tố nhạy cảm liên
quan đến bí mật cá nhân của họ trong khi tham gia quá trình tố tụng. Thông qua những hình ảnh được chụp lại trong quá
trình bắt giữ, điều tra, xét xử có sự góp mặt của người dưới 18 tuổi mà chưa được làm mờ cũng ảnh hưởng nghiệm trọng
đến quyền giữ bí mật cá nhân của họ khi mà những hình ảnh này sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống đời thường của nhóm chủ
thể này. Tại Đoạn 69 Bình luận chung số 24 đã có khuyến nghị các Quốc gia thành viên không liệt kê thông tin chi tiết về
bất kỳ đứa trẻ nào, hoặc người từng là đứa trẻ vào thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, trong bất kỳ danh sách công khai
nào về người phạm tội. Nên tránh đưa các chi tiết như vậy vào các danh sách không công khai nhưng cản trở việc tiếp cận
các cơ hội tái hoà nhập của trẻ. “Thông tin chi tiết” trong đoạn này bao gồm cả những hình ảnh của người dưới 18 tuổi.
Tuy chưa có sự hướng dẫn nào về việc bảo vệ hình ảnh cá nhân của người dưới 18 tuổi trong hệ thống pháp luật về tư
pháp tại Việt Nam nhưng trên thực tế, những bài báo, bài phóng vấn, phóng sự… có chứa hình ảnh của nhóm chủ thể này
một phần đã được làm mờ.
2.2 Nghĩa vụ bảo đảm giữ bí mật cá nhân cho người dưới 18 tuổi 
Theo Điều 40 Công ước quốc tế về Quyền trẻ em yêu cầu các quốc gia thành viên phải đặc biệt đảm bảo rằng “Mọi
điều riêng tư của trẻ em được hoàn toàn tôn trọng đầy đủ trong suốt tất cả các giai đoạn tố tụng”. Chính vì thế, cho thấy
được nghĩa vụ bảo đảm bí mật cho người dưới 18 tuổi là vô cùng quan trọng và cần thiết.
Đối với người tiến hành tố tụng là người có đầy đủ các phẩm chất, năng lực, giữ công tâm và mực thước trong vai
trò cầm cân nảy mực là một đòi hỏi thể hiện sự “khắt khe" trong việc lựa chọn người tiến hành tố tụng. Theo Điều 415 Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định “Người tiến hành tố tụng đối với vụ án có người dưới 18 tuổi phải là người đã
được đào tạo hoặc có kinh nghiệm điều tra, truy tố, xét xử vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi, có hiểu biết cần thiết
về tâm lý học, khoa học giáo dục đối với người dưới 18 tuổi”. Họ có nghĩa vụ bảo đảm bí mật thông tin cá nhân của người
bị buộc tội, người bị hại, người làm chứng và cả những thông tin về gia đình bởi lẽ sự đặc thù của đối tượng, đặc biệt hơn
là các nạn nhân trong vụ án về tình dục, tính mạng và sức khỏe. Ví như theo Điều 21 Quy tắc Bắc Kinh quy định về hồ sơ
vụ án người chưa thành niên phạm tội “21.1. Hồ sơ vụ án liên quan đến người chưa thành niên phạm tội phải được giữ
kín và bí mật đối với người thứ ba. Quyền xem xét các hồ sơ này chỉ giới hạn trong những người có liên quan trực tiếp tới
việc xét xử vụ án hay những nhà chức trách liên quan.” Điều này góp phần cân bằng giữa những lợi ích, mâu thuẫn liên
quan đến các hồ sơ, tài liệu: lợi ích của cảnh sát, của thẩm phán và các cơ quan hữu trách khác trong việc nâng cao quyền
kiểm soát, với những lợi ích của người chưa thành niên phạm tội trong việc giữ bí mật cá nhân. 
Trong quá trình tố tụng và sau khi có bản án cần phải lưu ý mã hóa thông tin để bảo vệ cho người làm chứng, người
bị hại, người bị buộc tội và những người có liên quan khác. Cũng như trong việc đưa tin tại các cơ quan báo chí truyền
thông, phải đảm bảo bí mật thông tin, dùng những câu chữ phù hợp và có sự giám sát, kiểm tra kỹ lưỡng. Việc quản lý các
hồ sơ vụ án và công tác lưu trữ trong hệ thống tòa án nhân dân bảo đảm về bí mật hồ sơ vụ án.
Đối với các cá nhân, người có quyền lợi ích liên quan phải đảm bảo các thông tin mật, bắt buộc không công khai
những thông tin liên quan đến một cá nhân, một chủ thể mà cá nhân, chủ thể đó không muốn để cho ai biết. Cũng như có
nghĩa vụ bảo đảm các bí mật trong quá trình xét xử mà các cá nhân là người làm chứng như theo Quy tắc Bắc Kinh Điều
21: “21.2. Hồ sơ của người chưa thành niên phạm tội không được sử dụng trong những thủ tục tố tụng với người lớn
trong những vụ án sau này có liên quan đến cùng một đối tượng phạm tội.” 

29
Đối với gia đình - là những người gần gũi mật thiết, có nghĩa vụ bảo đảm thông tin mật cho những cá nhân liên
quan. Tham gia trong quá trình tố tụng và góp phần ổn định ý chí, tinh thần, sức khỏe cho các cá nhân liên quan đến vụ
án. Hợp tác với người tiến hành tố tụng trong vụ án, bảo đảm sự riêng tư và bí mật nhất định đối với các cá nhân.

30
BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
2. Khái quát về biện pháp ngăn chặn theo PLTTHS VN
 Qua những quan điểm trên về biện pháp ngăn chặn thì ta có thể hiểu biện pháp ngăn chặn là các biện pháp mang tính
cưỡng chế về mặt tố tụng áp dụng khi có đủ chứng cứ đối với người chưa bị buộc tội, bị can, bị cáo nhằm ngăn chặn
những hành vi nguy hiểm cho xã hội. Tại chương VII của Bộ luật Tố tụng hình sự có quy định rõ về các biện pháp ngăn
chặn được áp dụng, theo khoản 1 Điều 109 của Bộ luật này quy định về các biện pháp ngăn chặn như giữ người trong
trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh. 
 Các biện pháp này có thể được chia làm 2 nhóm chính: các biện pháp tước tự do và các biện pháp không tước tự do.
Các biện pháp tước tự do bao gồm: giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang và tạm giữ, bắt bị
can, bị cáo để tạm giam, tạm giam, bắt người đang bị truy nã. Các biện pháp còn lại là những biện pháp không tước tự do
(vẫn cho đối tượng áp dụng được tại ngoại), bao gồm: bảo lĩnh, đặt tiền để đảm bảo, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất
cảnh.
Từ những phân tích trên, có thể thấy BLTTHS quy định về biện pháp ngăn chặn để áp dụng và khi đã được áp dụng
dù là biện pháp mang tính tước đoạt tự do hoặc không tước tự do thì nó cũng ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản
của con người như quyền tự do về thân thể, quyền tự do đi lại, quyền về tài sản, ... Vì vậy, khi các cơ quan có thẩm quyền
áp dụng các biện pháp ngăn chặn thì phải cân nhắc thận trọng tránh việc gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của công
dân. 
3. Khung pháp lý quốc tế liên quan đến biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên
Quá trình tố tụng hình sự đối với người dưới 18 tuổi, đặc biệt là những người dưới 18 tuổi bị buộc tội đòi hỏi phải có
những điểm đặc biệt nhất định phù hợp với lứa tuổi, trình độ nhận thức và sự phát triển về mặt tâm sinh lý của các em.
Dựa vào những điểm đặc biệt đó để giải quyết vụ án hình sự sao cho hiệu quả nhưng đồng thời cũng phải bảo vệ được các
em trước những khó khăn của quá trình tư pháp, hướng dẫn để các em chịu trách nhiệm đối với hành vi của mình và hơn
thế nữa, được tạo một cơ hội nhằm tránh mắc phải những sai phạm như vậy trong tương lai để lớn lên thành những người
có trách nhiệm. Đã có nhiều văn bản pháp luật quốc tế được ban hành nhằm bảo vệ người dưới 18 tuổi trong quá trình
tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng hình sự, trong đó phải kể đến những văn bản như Công ước của Liên hợp Quốc về
quyền trẻ em năm 1989; Quy tắc Tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hiệp quốc về việc áp dụng pháp luật đối với người chưa
thành niên (còn gọi là Quy tắc Bắc Kinh) và Quy tắc Havana năm 1990 về bảo vệ người dưới 18 tuổi bị tước tự do của
Liên Hiệp Quốc…
Công ước Liên hiệp quốc về Quyền trẻ em và các hướng dẫn của Liên hiệp quốc đã có những quy định cụ thể để bảo
vệ và thúc đẩy đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho trẻ em bị bắt giữ và trong giai đoạn điều tra.
Theo quy định tại Điều 37 Công ước về quyền trẻ em, “…”. Hay theo Điều 13.1 Quy tắc Bắc Kinh, “…”. Như vậy,
các quy định này nhấn mạnh rằng việc đưa các em vào cơ sở quản lý, giáo dục tập trung chỉ được coi là biện pháp cuối
cùng, chỉ nên áp dụng trong một thời gian tối thiểu, cần thiết.
Về các trường hợp áp dụng, các biện pháp này chỉ có thể được áp dụng sau khi các cơ quan có thẩm quyền đã xem
xét, cân nhắc hết tất cả các biện pháp khác và xác định rằng không có biện pháp nào là hiệu quả trong trường hợp này mà
không phân biệt tội phạm bị cáo buộc là ít nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng.
Về thời hạn áp dụng, các biện pháp này chỉ được áp dụng trong “thời gian ngắn nhất có thể”, có nghĩa là biện pháp
giam giữ người dưới 18 tuổi cần được hủy bỏ hoặc thay thế ngay lập tức bằng những biện pháp khác thích hợp hơn nếu
xét thấy việc áp dụng biện pháp giam giữ là không còn cần thiết. Đồng thời, các cơ quan có thẩm quyền phải thúc đẩy quá
trình giải quyết vụ án hình sự để từ đó đảm bảo rằng thời hạn giam giữ với người dưới 18 tuổi là ngắn nhất có thể.
Tương tự, mục 2 phần I quy tắc Havana 1990 về bảo vệ người dưới 18 tuổi bị tước tự do của Liên Hiệp Quốc cũng có
quy định: “...”
Theo quy tắc Havana 1990 quy định như sau: “…”. Trường hợp áp dụng vũ lực để kiểm soát được người dưới 18
tuổi phạm tội cũng chỉ nên được áp dụng ở một mức độ nhẹ không nặng nề như những biện pháp áp dụng đối với người
thành niên. Trong thời gian tạm giữ tạm giam các cán bộ cơ quan điều tra cũng đã có những biện pháp cần thiết khi thấy
đối tượng phạm tội có dấu hiệu hoang mang, tâm lý rối loạn tránh hậu quả xấu có thể xảy ra. Theo tinh thần của văn bản
này thì việc quy định về định mức và chế độ ăn, ở và quản lý đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người dưới
18 tuổi cũng là một trong những điểm phải lưu ý. Tùy vào nơi hay địa phương mà  người bị tạm giữ, người bị tạm giam là
người dưới 18 tuổi đang bị giam giữ thì mức hưởng các chế độ ăn, ở có thể sẽ khác nhau.
Một trong những cách thức để hạn chế áp dụng biện pháp giam giữ đối với người dưới 18 tuổi là quy định những
biện pháp thay thế giam giữ. Theo Điều 13.2 Quy tắc Bắc Kinh, “Bất cứ khi nào có thể, hình thức tạm giam chờ xét xử
cần được thay thế bằng những phương pháp khác như giám sát chặt chẽ, chăm sóc đặc biệt hoặc đưa về sống với gia
đình hay tại một trung tâm giáo dục hoặc tại nhà”. Theo văn bản này, các quốc gia không được đánh giá thấp mối nguy
hiểm “tiêm nhiễm tội phạm” đối với người chưa thành niên trong khi bị giam chờ xét xử. Vì vậy, cần phải nhấn mạnh sự

31
cần thiết phải có các biện pháp thay thế khác. Từ đó, khuyến khích tìm ra những biện pháp mới, có tính đổi mới để tránh
hình phạt giam giữ, vì phúc lợi của người dưới thành niên.
4. Quy định về biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi theo PLTTHS
4.1 Mục đích, vai trò và nguyên tắc áp dụng các BPNC đối với người dưới 18 tuổi
Mục đích
Theo khoản 1 Điều 109 BLTTHS, BPNC được áp dụng nhằm các mục đích sau: …
“Tuy nhiên, những mục đích này không thể được lạm dụng hay biện minh cho việc giam giữ người chưa thành niên
một cách tùy tiện” Bởi có một số BPNC mang tính nghiêm khắc và rất bất lợi cho các chủ thể là người dưới 18 tuổi bị
nghi ngờ là đã thực hiện tội phạm, ví dụ như biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam. Bởi khi áp dụng các biện pháp kể trên các
chủ thể nói trên sẽ bị cách ly khỏi gia đình, đặt các em trước nguy cơ bị lạm dụng về thể chất hay bị ảnh hưởng những thói
hư, tật xấu từ những người cùng bị giam giữ khác, đồng thời các quyền của các em cũng sẽ bị hạn chế như quyền học tập
hay quyền được chăm sóc y tế… 
Vai trò
Với các mục đích kể trên, BPNC được tạo ra với vai trò nhằm tăng cường pháp chế và củng cố trật tự pháp luật từ đó
giáo dục công dân nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật và tôn trọng những nguyên tắc của cuộc sống XHCN. Đồng thời
những biện pháp ngăn chặn bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng được thuận lợi; góp
phần quan trọng nâng cao hiệu quả của công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Riêng đối với các chủ thể dưới 18 tuổi, thì việc áp dụng BPNC sẽ giúp họ được giáo dục, sửa chữa những sai lầm để
phát triển lành mạnh, ngày càng hoàn thiện và trong tương lai sẽ giúp cho họ trở thành người có ích cho xã hội.
Nguyên tắc áp dụng.
Điều 8 BLTTHS năm 2015 quy định: “…”. Khoản 1 Điều 414 BLTTHS …;theo khoản 1 Điều 419…
Như vậy, các nguyên tắc chung khi áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi gồm:
– Biện pháp tạm giam là biện pháp cần thiết cuối cùng khi việc áp dụng biện pháp giám sát và các biện pháp ngăn
chặn khác không hiệu quả.
– Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của biện
pháp tạm giam, phải kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi biện pháp khác nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần
thiết.
– Việc tạm giam phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi, nơi tạm giam phải phù hợp với tâm lý, lứa
tuổi, mức độ trưởng thành và khả năng nhận thức của người dưới 18 tuổi.
4.2 Quy định PLTTHS về việc áp dụng BPNC đối với người dưới 18 tuổi.
Đầu tiên, khoản 1 Điều 419 có quy định như sau:
Việc quy định chỉ áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi trong trường hợp thật cần thiết, quy
định này được hiểu là việc áp dụng các biện pháp này là cuối cùng, khi có căn cứ cho rằng việc áp dụng biện pháp giám
sát và các biện pháp ngăn chặn khác không hiệu quả. Nếu có, thì ưu tiên áp dụng các biện pháp khác hoặc các biện pháp
ngăn chặn không tước tự do, ví dụ như biện pháp giám sát, cấm đi khỏi nơi cư trú hoặc tạm hoãn xuất cảnh theo hướng
dẫn tại khoản 1 Điều 12 của Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLDTBXH. Cơ quan
có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có nghĩa vụ phải xem xét, cân nhắc áp dụng biện
pháp thay thế nói trên. Đối với biện pháp tạm giữ, tạm giam thì khi người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi đã được áp
dụng các biện pháp trên nhưng bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã, có dấu hiệu bỏ trốn, tiếp tục phạm tội, có dấu
hiệu tiếp tục phạm tội hoặc có các hành vi khác quy định tại khoản 2 Điều 418 Bộ luật Tố tụng hình sự thì lúc này chủ thể
có thẩm quyền sẽ được áp dụng hai BPNC này.
Việc quy định áp dụng BPNC mang tính tước quyền tự do người dưới 18 tuổi phải là biện pháp cuối cùng như trên là
phù hợp với các yêu cầu tại Điều 37 Công ước về quyền trẻ em, Điều 13.1 của Quy tắc Bắc Kinh hay mục 2 phần I quy
tắc Havana 1990 về bảo vệ người dưới 18 tuổi bị tước tự do của Liên Hiệp Quốc khi khuyến khích xem xét áp dụng các
biện pháp khác trước khi áp dụng các biện pháp mang tính tước quyền tự do của người dưới 18 tuổi, và chỉ xem các biện
pháp tước quyền tự do người dưới 18 tuổi như BPNC cuối cùng. Cụ thể hơn việc áp dụng các BPNC thay thế các biện
pháp như tạm giữ tạm giam thì khoản 1 Điều 12 của Thông tư liên tịch số 06/2018 có quy định rằng: “…”. Như vậy, quy
định trên của thông tư cũng đưa ra các biện pháp thay thế cụ thể cho biện pháp tạm giữ, tạm giam người dưới 18 tuổi.
“Tuy nhiên, có thể nhận thấy những biện pháp này khó phát huy được hiệu quả cao, nhất là đối với trường hợp người bị
buộc tội là những trẻ lang thang, trẻ không có gia đình hoặc gia đình không có điều kiện về kinh tế (một trong những điều
kiện để cá nhân đứng ra nhận bảo lĩnh là phải có “thu nhập ổn định”, còn biện pháp đặt tiền để đảm bảo thì có xét đến tình
trạng tài sản của bị can, bị cáo)”.
Việc tạm giam, tạm giữ người dưới 18 tuổi là biện pháp cuối cùng và khi đã áp dụng thì cũng cần có những hạn chế
cần thiết cho nên quy định như trên là phù hợp với thực tiễn và phù hợp với pháp luật quốc tế khi hạn chế được thời hạn
tạm giam đối với người dưới 18 tuổi. Và cụ thể thời gian tạm giam đối với người 18 tuổi trở lên theo BLTTHS như sau: 

32
…, thời gian tạm giam tối đa đối với người dưới 18 tuổi sẽ bằng hai phần ba thời gian tương ứng với từng giai đoạn
được nêu trên. Tuy nhiên không như thời hạn tạm giam, thời hạn tạm giữ tối đa có thể áp dụng cho người dưới 18 tuổi lại
không được các nhà lập pháp quy định cụ thể trong BLTTHS hiện hành. Khi này ta sẽ hiểu thời gian tạm giữ tối đa người
dưới 18 tuổi sẽ là tương tự với thời gian tạm giữ tối đa người 18 tuổi trở lên. 
*Đối với nhóm chủ thể có độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi thì phải có đủ hai điều kiện sau:
Thứ nhất, phạm tội thuộc trường hợp tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một
trong các điều sau đây của BLHS hiện hành
Thứ hai, khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 110, 111 và 112, các
điểm a, b, c, d và đ khoản 2 Điều 119 BLTTHS, cụ thể là: (đối với các biện pháp cụ thể)…
*Đối với nhóm chủ thể có độ tuổi từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi thì phải có đủ hai điều kiện sau:
Thứ nhất, bị can, bị cáo bị điều tra, truy tố, xét xử về tội nghiêm trọng do cố ý, tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt
nghiêm trọng.
Thứ hai, khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 110, 111 và 112, các
điểm a, b, c, d và đ khoản 2 Điều 119 BLTTHS như đã trình bày ở phần trên.
Ngoài ra, bị can, bị cáo từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi có thể bị áp dụng biện pháp tạm giam đối với tội nghiêm trọng do
vô ý, tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù đến 02 năm nếu trong thời gian điều tra, truy tố, xét xử (có thể
đang bị áp dụng hoặc không bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác) họ tiếp tục phạm tội mới, bỏ trốn và bị bắt theo quyết
định truy nã.
“Đối với bị can, bị cáo từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội nghiêm trọng do vô ý,
tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt tù đến 02 năm thì có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu họ tiếp
tục phạm tội, bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã” (Khoản 4 Điều 419 BLTTHS), quy định này tạo cơ sở pháp lý cho
việc xử lý những người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nhưng thường có những đặc điểm như: là đối tượng lang thang,
không nơi cư trú rõ ràng, có tiền án, tiền sự, phạm tội mang tính chất lưu manh, côn đồ hoặc băng nhóm chuyên nghiệp,
nếu không tạm giam thì nguy cơ tiếp tục phạm tội là rất cao. Như vậy, người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị áp
dụng các BPNC đối với mọi loại tội phạm mà mình thực hiện.
Bên cạnh đó, khi đã quy định về việc áp dụng các BPNC thì hệ thống PLTTHS cũng quy định rõ về việc khi nào các
BPNC đó phải được hủy bỏ hoặc thay thế. Cụ thể, theo quy định tại khoản 1 Điều 125 BLTTHS 2015, việc áp dụng biện
pháp tạm giam nói riêng hay các BPNC nói chung phải được hủy bỏ khi vụ án thuộc một trong các trường hợp như: Đình
chỉ điều tra, đình chỉ vụ án; đình chỉ điều tra đối với bị can, đình chỉ vụ án đối với bị can; bị cáo được Tòa án tuyên không
có tội, miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt, hình phạt tù nhưng được hưởng án treo hoặc hình phạt cảnh cáo,
phạt tiền, cải tạo không giam giữ. Ngoài ra, khi thấy không còn cần thiết hoặc có thể thay thế bằng biện pháp ngăn chặn
khác thì các BPNC được áp dụng phải được hủy bỏ hoặc thay thế ngay bằng BPNC khác. Như vậy, việc xem xét hủy bỏ
và thay thế BPNC không có sự khác nhau giữa người dưới 18 tuổi và người trên 18 tuổi. Đồng thời tại khoản 3 Điều 12
của Thông tư liên tịch số 06/2018 cũng quy định thêm, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng có nghĩa vụ phải thường xuyên theo dõi, rà soát phải thường xuyên theo dõi, rà soát, kiểm tra việc tạm
giữ, tạm giam đối với người dưới 18 tuổi bị tạm giữ, tạm giam để kịp thời hủy bỏ, thay thế bằng BPNC khác nếu phát hiện
không còn căn cứ hoặc không cần thiết áp dụng biện pháp tạm giữ tạm giam. Trong thực tiễn nếu như bị can, bị cáo là
người 18 tuổi đã có quyết định bị tạm giam thì các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng vẫn có thể thay thế biện pháp
tạm giam này bằng các biện pháp khác như bảo lĩnh hoặc đặt tiền để bảo đảm nếu có đủ căn cứ để áp dụng hai biện pháp
này.
Tiếp theo, tại khoản 5 Điều 419 BLTTHS quy định về nghĩa vụ thông báo của người đã ra lệnh giữ, lệnh hoặc quyết
định bắt, tạm giữ, tạm giam người dưới 18 tuổi, cụ thể:
“Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, người ra lệnh giữ,
lệnh hoặc quyết định bắt, tạm giữ, tạm giam người dưới 18 tuổi phải thông báo cho người đại diện của họ biết”. 
Quy định này tạo điều kiện để người đại diện cho người dưới 18 tuổi chủ động tham gia tố tụng, tham gia các hoạt
động điều tra theo quy định tại Điều 420 của BLTTHS năm 2015.
Tóm lại, PLTTHS Việt Nam đã đáp ứng khá tốt các yêu cầu của Công ước quốc tế về quyền trẻ cũng như Quy tắc
Bắc Kinh trong việc quy định về các biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với người bị buộc tội chưa thành niên . Theo Điều
419 BLTTHS năm 2015, các biện pháp ngăn chặn chỉ được áp dụng với người chưa thành niên trong trường hợp “thật cần
thiết” và việc áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam đối với nhóm đối tượng này chỉ được thực hiện “khi có căn cứ cho
rằng việc áp dụng biện pháp giám sát và các biện pháp ngăn chặn khác không hiệu quả”. Điều 419 cũng quy định các căn
cứ cụ thể để áp dụng biện pháp tạm giam đối với người chưa thành niên. Theo đó, điều kiện để áp dụng biện pháp tạm
giam với hai nhóm là người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi và người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi là khác nhau. Đồng thời, về mặt
thời hạn, Điều luật này cũng quy định một thời hạn tạm giam đối với người chưa thành niên ngắn hơn so với người đã
thành niên. Nhìn chung, quy định về nguyên tắc, điều kiện và thời hạn để áp dụng biện pháp tạm giam đối với người dưới
18 tuổi trong BLTTHS 2015 đã khá tiến bộ. Tuy nhiên, các chế định pháp lý liên quan đến việc áp dụng BPNC đối với
33
người dưới 18 tuổi vẫn có những bất cập tồn đọng. Điều đó đã gây nên sự khó khăn trong việc áp dụng cũng như giải
quyết tình trạng phạm tội của người dưới 18 tuổi, nhất là trong thực trạng đáng báo động của tình hình tội phạm do người
dưới 18 tuổi thực hiện ở những năm qua.

34
CHẾ ĐỘ QUẢN LÝ GIAM GIỮ
II. PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CHẾ ĐỘ QUẢN LÝ
GIAM GIỮ PHẠM NHÂN LÀ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI.
2.1.Quy định của pháp luật quốc tế về quản lý, giam giữ phạm nhân là người dưới 18 tuổi.
- Công ước của Liên hợp quốc về Quyền trẻ em (1989) (CRC)
Trong lĩnh vực tư pháp hình sự, Điều 37 Công ước đặt ra yêu cầu đối với các quốc gia thành viên, theo đó các
quốc gia thành viên phải đảm bảo “không trẻ em nào bị tra tấn hay bị đối xử hoặc trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo
hay hạ thấp nhân phẩm. Những người dưới 18 tuổi nếu gây ra những hành động phạm pháp sẽ không bị áp dụng
hình phạt tử hình hoặc tù chung thân mà không có khả năng được phóng thích” 4. Cùng với đó Công ước này tiếp
tục khẳng định việc không trẻ em nào bị tước quyền tự do một cách bất hợp pháp hoặc tùy tiện. Việc bắt, giam giữ
hoặc bỏ tù trẻ em phải được tiến hành phù hợp với pháp luật và chỉ được coi là biện pháp cuối cùng và áp dụng
trong thời hạn thích hợp ngắn nhất5.Mặt khác, đây là thời kỳ trẻ em cần được bảo vệ, được chăm sóc để lớn lên,
được học tập, được vui chơi để phát triển tối đa tiềm năng của một con người.
CRC đã đưa ra hướng dẫn rằng mọi trẻ em bị tước quyền tự do phải được đối xử nhân đạo với sự tôn trọng
phẩm giá vốn có của con người, theo cách thức có tính đến các nhu cầu của những người ở lứa tuổi các em. Đặc
biệt, Điều 37 còn khẳng định “mọi trẻ em bị tước quyền tự do phải được cách ly với người lớn, trừ trường hợp vì
lợi ích tốt nhất của trẻ mà không nên làm như vậy, và các em phải có quyền duy trì sự tiếp xúc với gia đình qua
thư từ và các cuộc viếng thăm, trừ những trường hợp ngoại lệ”. Như vậy, dù là một văn bản pháp lý điều chỉnh tất
cả các vấn đề liên quan đến trẻ em nhưng CRC vẫn đưa ra nhiều định hướng trong lĩnh vực thi hành án hình sự đối
với người dưới 18 tuổi và đặc biệt là đặt ra yêu cầu giam giữ tách biệt giữa phạm nhân là người dưới 18 tuổi và
phạm nhân trưởng thành.
- Các quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về hoạt động tư pháp đối với người chưa thành
niên năm 1985 (Quy tắc Bắc Kinh)
Thứ nhất, về các vấn đề liên quan đến giam giữ.
Quy tắc Bắc Kinh khẳng định mục tiêu của xử lý giam giữ đối với người chưa thành niên là “đào tạo và xử lý
người chưa thành niên trong các cơ sở giam giữ là chăm sóc, bảo vệ, giáo dục, dạy nghề nhằm giúp đỡ người chưa
thành niên tiếp tục vai trò hữu ích và xây dựng xã hội của mình trong xã hội”. Người chưa thành niên trong các cơ
sở giam giữ phải nhận được sự chăm sóc, bảo vệ và tất cả những giúp đỡ về mặt xã hội, giáo dục, dạy nghề, tâm lý,
y tế và thể chất – những sự trợ giúp các em có thể tùy theo lứa tuổi, giới tính và cá tính của các em, vì sự phát triển
lành mạnh của các em. Quy tác số 26, theo đó người chưa thành niên bị giam giữ phải được tách khỏi người lớn và
được giam giữ ở một nơi có cơ sở riêng hay một khu riêng trong một cơ sở giam giữ có cả người lớn 6. Không dừng
lại ở đây, cùng xu hướng, quan tâm và bảo vệ trẻ em gái, bởi lẽ họ thường là đối tượng phải đối mặt với nhiều khó
khăn, nguy cơ hơn so với trẻ em trai, thế giới luôn cố gắng tiến đến từng bước đem lại công bằng, bình đẳng giới
cho trẻ em gái. Trong lĩnh vực thi hành án hình sự nói chung và thi hành án phạt tù nói riêng thì việc đảm bảo công
bằng cũng là điều hết sức cần thiết.
quy tắc số 26 Quy tắc Bắc Kinh đã trực tiếp nhấn mạnh “nữ phạm nhân trẻ tuổi bị giam cầm cần được quan tâm
đặc biệt đến những nhu cầu và vấn đề cá nhân của các em. Không vì lý do gì mà các em ít được chăm sóc, bảo vệ,
giúp đỡ, điều trị và đào tạo hơn so với nam phạm nhân. Quyền được đối xử công bằng của các em phải được đảm
bảo” . Tính đến thời điểm hiện nay, chúng ta có thể thấy rằng Quy tắc Bắc Kinh là một văn bản mang tính pháp lý
quốc tế đã được xây dựng từ rất lâu nhưng là một hướng dẫn rất tiến bộ mà nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam
cần tiếp thu, nội luật hóa vào pháp luật quốc gia.
Thứ hai, về yêu cầu áp dụng Các Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu về đối xử với tù nhân do Liên Hợp Quốc thông
qua.
Quy tắc số 27 Quy tắc Bắc Kinh
Thứ ba, Quy tắc Bắc Kinh hướng dẫn việc thực hiện chế độ bán giam giữ đối với phạm nhân là người dưới
18 tuổi.
Cụ thể tại quy tắc số 29 Công ước này đặt ra yêu cầu rằng các quốc gia cần cố gắng cung cấp các phương tiện
bán giam giữ như “nhà mở”, cơ sở giáo dục, những trung tâm đào tạo ban ngày và các cơ sở phù hợp khác có thể
giúp đỡ người chưa thành niên trong quá trình hòa nhập thích hợp vào xã hội. Chúng ta cần khẳng định rằng việc
trừng phạt khắc nghiệt đối với trẻ em vi phạm pháp luật không ngăn chặn được tình hình tội phạm. Đồng thời,
nhiều nghiên cứu quốc tế chỉ ra rằng do trẻ em còn đang trong giai đoạn phát triển, việc gán cho trẻ em và đối xử
với trẻ em như những tội phạm ở độ tuổi nhỏ có thể tác động tiêu cực nghiêm trọng đến sự phát triển và khả năng
cải tạo, phục hồi thành công của trẻ. Chính vì vậy, Quy tắc Bắc Kinh đã định hướng các quốc gia quan tâm đến
việc xây dựng những nhà giam mở, nhằm giảm bớt gánh nặng chịu “trừng trị” cho trẻ em. Bởi lẽ, nhiều bằng
chứng chỉ ra rằng việc giam giữ trẻ em tại trại giam là không hiệu quả trong việc giáo dục, phục hồi và phòng
ngừa tái phạm, do đó luật pháp không cần phải hà khắc hơn nữa. Đồng thời, tuổi chưa thành niên là thời gian trẻ
35
em có thể bị ảnh hưởng tốt hơn hoặc xấu đi, phục hồi và tái hòa nhập mới chính là mục tiêu của áp dụng hình phạt
tù đối với họ và thi hành án hình sự phải hoàn thành được mục tiêu này.
- Các Quy tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước tự do, 1990 (Quy tắc
Havana)
Trước hết, Quy tắc Havana đặt ra yêu cầu việc quan tâm đến tình trạng của phạm nhân là người dưới 18 tuổi khi
được đưa vào các cơ sở giam giữ.
Theo đó, quy tắc số 27
Báo cáo này cùng với báo cáo của nhân viên y tế đã khám sức khỏe cho người chia thành niên khi tiếp nhận vào
cơ sở giam giữ phải được gửi cho người phụ trách cơ sở giam giữ để quyết định nơi giam giữ thích hợp nhất cho
người chưa thành niên trong phạm vi của cơ sở giam giữ, cũng như loại hình và mức độ chăm sóc và chương trình
cần thiết sẽ được thực hiện. Nếu cần phải có sự điều trị phục hồi đặc biệt và nếu thời gian lưu lại cơ sở giam giữ
cho phép, những nhân viên được huấn luyện của cơ sở giam giữ cần chuẩn bị bằng văn bản một kế hoạch điều trị
cho từng cá nhân, nêu rõ mục đích của việc điều trị, thời gian, phương tiện, các giai đoạn và những tri hoán để thực
hiện các mục tiêu đó. Như vậy, có thể thấy trên nền tảng CRC thì công ước này đã cụ thể hóa các hướng dẫn để có
thể đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho phạm nhân là người dưới 18 tuổi ngay từ thời điểm họ tiếp xúc với cơ quan thi
hành án hình sự. Ấn tượng tiếp xúc ban đầu luôn rất quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến tâm lý của phạm nhân
nói chung và phạm nhân là người dưới 18 tuổi nói riêng. Vậy nên, quy tắc này sẽ giúp tạo ấn tượng tốt với phạm
nhân là người dưới 18 tuổi, từ đó giúp họ có tâm lý thoải mái, hợp tác, tích cực trong quá trình cải tạo và sau khi
mãn hạn tù sẽ trở thành công dân tốt cho xã hội.
Thứ hai, Quy tắc Havana đưa ra hướng dẫn về điều kiện tiến hành giam giữ phạm nhân là người dưới 18
tuổi.
Thứ ba, hướng dẫn trong việc thực hiện giam giữ phạm nhân là người dưới 18 tuổi tại các cơ sở giam giữ
mở.
Thứ tư, về điều kiện cơ sở vật chất của nơi giam giữ phạm nhân là người dưới 18 tuổi.
Quy tắc số 31 Công ước này. Bởi lẽ, dù họ là người phạm tội, có lỗi và đang phải chịu hình phạt thích đáng
với hành vi của mình nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc họ mất đi những quyền con người cơ bản nhất của
bản thân. Chính vì vậy, công ước này tiếp tục đặt ra yêu cầu về việc thiết kế các cơ sở giam giữ người chưa thành
niên và cơ sở vật chất phải phù hợp với mục đích phục hồi của việc điều trị nội trú, có quan tâm thích đáng tới nhu
cầu của người chưa thành niên về sự riêng tư, kích thích giác quan, cơ hội kết giao với những người cùng lứa tuổi
và tham gia các hoạt động thể thao, thể dục và những hoạt động giải trí.
Thứ năm, về hạn chế sự cường chế về thân thể và sử dụng vũ lực.
Quy tắc số 63 Công ước này nghiêm cấm sử dụng vũ lực hay các phương tiện cưỡng chế vì bất kỳ mục đích
nào, trừ những biện pháp nêu ra ở Quy tắc 64. Theo đó, các biện pháp cưỡng chế và sử dụng vũ lực chỉ được sử
dụng trong những trường hợp ngoại lệ, khi các biện pháp kiểm soát khác đã được sử dụng hết nhưng không hiệu
quả, và chỉ trong điều kiện được công khai cho phép và được pháp luật quy định. Những biện pháp này không
được gây ra sự nhục mạ hay hạ thấp nhận phẩm, và chỉ được sử dụng hạn chế trong thời gian ngắn nhất có thể.
Theo lệnh của người phụ trách cơ sở giam giữ, những biện pháp đó có thể sử dụng để ngăn ngừa việc người chưa
thành niên tự gây thương tích cho mình hay cho người khác, hoặc phá hủy nghiêm trọng tài sản. Trong các trường
hợp đó, người phụ trách phải tham khảo ngay nhân viên y tế và những nhân viên liên quan khác và báo cáo ngay
lên cơ quan có thẩm quyền quản lý cấp trên. Đồng thời, nghiêm cấm nhân viên mang và sử dụng vũ khí tại bất kỳ
cơ sở nào nơi người chưa thành niên bị giam giữ 11. Cho dù bạo lực xảy ra ở đâu, dưới hình thức nào hay ai bị ảnh
hưởng đều phải được ngăn chặn. Chúng ta cùng phối hợp để xây dựng một thế giới mà ở đó nam giới và phụ nữ,
trẻ em trai và trẻ em gái đều được hưởng cuộc sống bình đẳng, an toàn, không có bạo lực. Vậy nên, đây là một
hướng dẫn quốc tế tiến bộ, phù hợp mà chúng ta cần tiếp thu, trên cơ sở tiếp thu tiến hành nội luật hóa.
Thứ sáu, về quy định đối với đội ngũ cán bộ, nhân viên.
Quy tắc số 81 Quy tắc Havana khẳng định việc cần có đội ngũ cán bộ, nhân viên có trình độ, bao gồm một số
các chuyên gia như nhà giáo dục,hướng dẫn viên dạy nghề, luật sư tư vấn, nhân viên công tác xã hội, chuyên gia
tâm thần và tâm lý. Những người này và các chuyên gia khác thông thường phải được tuyển dụng lâu dài. Điều
này không loại trừ sự tham gia của những người làm việc bán thời gian hoặc tình nguyện viên nếu như mức độ hỗ
trợ và đào tạo mà họ có thể cung cấp phù hợp và có lợi. Các cơ sở giam giữ cần sử dụng mọi nguồn lực khắc phục,
giáo dục, đạo đức, tinh thần và các nguồn lực khác cũng như hình thức giúp đỡ phù hợp và sẵn có trong cộng
đông, tùy theo các nhu cầu cá nhân và vấn đề của người chưa thành niên bị giam giữ.
- Bình luận chung số 24 (2019) về quyền trẻ em trong hệ thống tư pháp trẻ em
Điều 85 rằng không được giam giữ chung trẻ em và người lớn, trừ trường hợp có lợi cho chúng. Quy định này
tương đồng với các hướng dẫn của quốc tế về giam giữ phạm nhân là người chưa thành niên tại các công ước trước
đó tôi đã thực hiện phân tích, điều này khẳng định sự quan tâm của quốc tế trong việc tách biệt giam giữ phạm
36
nhân là cần thiết, quan trọng. Bên cạnh việc tách biệt trong giam giữ Bình luận chung số 24 (2019) cũng nhấn
mạnh yêu cầu đảm bảo môi trường giam giữ trong quá trình chấp hành án phạt tù. Theo đó, trẻ em cần được cung
cấp một môi trường vật chất và chỗ ở có lợi cho mục tiêu tái hòa nhập cộng đồng, cần quan tâm đến mức nhu cầu
của họ về quyền riêng tư, đối với các kích thích giác quan và cơ hội kết giao với bạn bè, cũng như việc tham gia
vào các hoạt động thể thao, giải trí15.
Về các biện pháp kỷ luật phạm nhân là người dưới 18 tuổi. Nhằm điểu chỉnh bao quát các vấn đề liên quan
đến tư pháp người chưa thành niên, Bình luận chung số 24 (2019) tiếp tục xây dựng những hướng dẫn liên quan
đến các vấn đề về kỷ luật người chưa thành niên trong quá trình thi hành án hình sự. Tương tự những công ước mà
tôi đã thực hiện phân tích ở phần trên, công ước này tiếp tục khẳng định việc nghiêm cấm sử dụng vũ lực đối với
phạm nhân là người dưới 18 tuổi, theo đó việc sử dụng vũ lực là biện pháp cuối cùng và chỉ được sử dụng nhằm
bảo vệ phạm nhân khi họ có nguy cơ gây thương tích cho bản thân. Đồng thời, việc kỷ luật phải đảm bảo tôn trọng
nhân phẩm, danh dự của trẻ em, nghiêm cấm các biện pháp kỷ luật: trừng phạt thân thể, đưa vào phòng giam tối,
biệt giam, bất kỳ hình thức nào khác có thể tổn hại đến sức khỏe, tinh thần của người chưa thành niên 16. Các biện
pháp kỷ luật bị nghiêm cấm, bao gồm trừng phạt thân thể, đưa vào giam tối, biệt giam hoặc bất kỳ hình phạt nào
khác có thể tổn hại đến sức khỏe, thể chất hoặc tinh thần của trẻ em. Đặc biệt, công ước này nêu rõ việc biệt giam
không được áp dụng đối với trẻ em, hơn thế sự tách biệt với người khác chỉ trong thời gian ngắn nhất và chỉ có thể
Đây là lựa chọn cuối cùng, biện pháp cuối cùng để bảo vệ đứa trẻ. Trong trường hợp phải thực hiện giam giữ riêng
thì điều này phải thực hiện với sự có mặt của nhân viên được đào tạo phù hợp và ghi lại lý do, thời hạn cụ thể.
Các quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu về đối xử với tù nhân, 1955
Đầu tiên, quy tắc số 8 đặt ra yêu cầu về cách ly các loại tù nhân, theo đó “tù nhân thanh thiếu nên phải được
giam tách riêng với tù nhân là người trưởng thành”. Không dừng lại ở đây, Quy tắc số 85 tiếp tục nhấn mạnh tầm
trọng của việc giam giữ riêng biệt giữa phạm nhân là người dưới 18 tuổi, cụ thể “tù nhân thanh thiếu niên chưa
thành án phải được giam giữ riêng với những người lớn và về nguyên tắc phải được giam giữ trong những nhà tù
riêng.".Ngoài các quy định riêng biệt ở hai quy tắc kể trên thì phạm nhân là người dưới 18 tuổi phải được đảm bảo
các điều kiện tối thiểu đối với tù nhân nói chung.
Như vậy, có thể thấy sự quan tâm của quốc tế đối với người chưa thành niên nói chung và phạm nhân là người
chưa thành niên nói riêng trong việc xây dựng nhiều văn bản hướng dẫn về các vấn đề bảo vệ quyền lợi của đối
tượng này. Tuy nhiên, những quy tắc và tiêu chuẩn chỉ mang tính hướng dẫn chứ không có tính ràng buộc đối với
các quốc gia, , vì vậy việc có nội luật hóa hay không là lựa chọn của các quốc gia thành viên, điều này ít nhiều đã
ảnh hưởng đến việc đảm bảo tốt nhất quyền lợi đối với các quốc gia của người chưa dưới 18 tuổi.
2.2. Quy định của pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam về quản lý, giam giữ phạm nhân là người dưới 18
tuổi
2.2.1. Quy định của pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam về quản lý phạm nhân là người dưới 18 tuổi
- Chế độ quản lý, giáo dục, học văn hóa, học nghề, lao động:
+ Về chế độ quản lý:. (khoản 1 Điều 74 Luật THAHS 2019).
-Nhận xét: Đây là một quy định phù hợp giúp cho phạm nhân là người dưới 18 tuổi không bị ảnh hưởng bởi
những yếu tố tiêu cực có thể sẽ ảnh hưởng xấu đến quá trình chấp hành án phạt tù của phạm nhân,
+ Về chế độ giáo dục, học văn hóa, học nghề : (khoản 2 Điều 74 Luật THAHS 2019).
• Trong chế độ giáo dục phạm nhân:
• Trong chế độ dạy văn hóa cho phạm nhân: Các cơ sở giam giữ phạm nhân tổ chức dạy chương trình xóa
mù chữ cho phạm nhân chưa biết chữ hoặc tái mù chữ. Đối với phạm nhân là người dưới 18 tuổi chưa biết chữ
hoặc chưa học xong chương trình tiểu học thì thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học là bắt buộc; chưa học xong trung
học cơ sở thì căn cứ hồ sơ phạm nhân, học bạ để tổ chức dạy chương trình giáo dục thường xuyên cấp trung học cơ
sở phù hợp với điều kiện của đơn vị mình. Khuyến khích phạm nhân tự học văn hóa, phạm nhân là người nước
ngoài, người dân tộc thiểu số chưa biết tiếng Việt tự nghiên cứu, học tập tiếng Việt. Phạm nhân đang học văn hóa
mà hết thời hạn chấp hành án phạt tù, thì được bảo lưu kết quả học tập để có thể tiếp tục học tại các cơ sở giáo dục
trong hệ thống giáo dục quốc dân.
• Trong chế độ học nghề của phạm nhân: được quy định tại khoản 2 Điều 15 NĐ 133/2020/NĐ-CP. Phạm
nhân là người dưới 18 tuổi được ưu tiên bố trí học nghề, nâng cao tay nghề. Mỗi phạm nhân chỉ được học 01 nghề.
Nhận xét:
- Thứ nhất, hoạt động dạy văn hóa xóa mù chữ trong các trại giam, trại tạm giam tuy đã có nhiều cố gắng nhưng số
được học xong một thời gian tái mù vẫn còn đáng kể, nội dung và yêu cầu về xóa mù chữ chưa phù hợp thực sự
với thực tiễn đối tượng là phạm nhân. Thời gian dạy pháp luật cho phạm nhân còn hạn hẹp, chủ yếu tập trung giáo
Gục về Luật thi hành án hình sự, Nội quy trại giam, 04 tiêu chuẩn thị đua chấp hành án phạt tù chưa chú trọng đến
việc giáo dục kiến thức pháp luật để phục vụ cho công tác tái hòa nhập cộng đồng sau này.
- Thứ hai, một số phạm nhân không có thái độ tích cực cải tạo, không có tính kiên trì, không thay đổi được những
37
hành vi thói quen tự do ngoài xã hội trước đây, tư tưởng chưa chịu tiếp thu sự giáo dục của cán bộ trại giam, do đó
nên hiệu quả hoạt động giáo dục chưa cao.
-Thứ ba, thực hiện chế độ giáo dục học tập phạm nhân ở trại tạm giam, nhà tạm giữ chưa được thực hiện đầy đủ để
phổ biến kiến thức pháp luật, thông tin thời sự, chính sách, học tập văn hóa, giáo dục pháp luật, đạo đức, tái hòa
nhập cộng đồng... -Thứ tư, do trình độ văn hoá, mức độ nhận thức của các phạm nhân nữ ở mỗi trại giam là khác
nhau, do đó việc thực hiện các chương trình học văn hoá, dạy nghề cho phạm nhân nữ cũng gặp nhiều khó khăn
trong việc phân chia các lớp học. Việc học nghề đối với phạm nhân nữ cũng gặp không ít khó khăn tại các trại
giam trên cả nước. Các ngành nghề được học không phù hợp với đòi hỏi của xã hội và địa phương. Nhiều phạm
nhân sau khi chấp hành xong hình phạt tù về cư trú ở thành phố, đô thị không có điều kiện sử dụng ngành nghề đã
được trang bị để tự lao động, sinh sống trong các trại giam. Công tác hướng nghiệp, dạy nghề cho phạm nhân tại
các trại giam chưa được quan tâm, đầu tư đúng mức, chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội.
+ Về chế độ lao động: Phạm nhân là người dưới 18 tuổi được lao động ở khu vực riêng và phù hợp với độ
tuổi; không phải làm công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại (khoản 3 Điều 74 Luật
THAHS 2019; điểm b khoản 1 Điều 16 NĐ 133/2020/NĐ-CP).
Nhận xét:
Thứ nhất, nghề lao động còn ít, chưa phong phú, điều kiện trang thiết bị lao động còn hạn chế, thô sơ dẫn đến
phạm nhân chưa phát huy tối đa trình độ chuyên môn, tay nghề họ đã được đào tạo trước khi phạm tội. Đa số các
nghề là lao động chân tay, giản đơn, dẫn đến lãng phí nguồn lực lao động, nhất là số phạm nhân có trình độ chuyên
môn, tay nghề cao.
Thứ hai, việc đề ra các chỉ tiêu lao động tuy có phù hợp với độ tuổi, sức khỏe nhưng nhìn chung chỉ tiêu giao
cho phạm nhân còn cao. Vì vậy phạm nhân phải làm việc cật lực mới hoàn thành được chi tiêu trong ngày, điều
này làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm làm ra và chưa phù hợp giữa năng suất lao động với mục đích thông
qua lao động để giáo dục, cải tạo phạm nhân là chính.
Thứ ba, một số ít cán bộ trại giam chưa thật sự thể hiện tốt văn hóa ứng xử đối với phạm nhân trong quá trình
quản lý, giám sát, đôn đốc, hướng dẫn phạm nhân lao động sản xuất, còn bộc lộ thái độ bề trên, vô cảm, xa lánh,
kỳ thị. Một số phạm nhân chưa thật sự ăn năn, hối cải, tỏ thái độ chống đối, chây lỳ, thậm chí vi phạm pháp luật,
kỷ luật trong lao động.
- Chế độ ăn, mặc, chăm sóc y tế, sinh hoạt văn hóa, văn nghệ và vui chơi giải trí:
+ Về chế độ ăn đối với phạm nhân: (khoản 1 Điều 75 Luật THAHS 2019; khoản 1 Điều 11 NĐ
133/2020/NĐ-CP)
NHẬN XÉT: Vì phạm nhân là người dưới cho nên chưa phát triển toàn diện về mặt thể chất, do đó việc tăng
khẩu phần ăn như trên là một quy định hợp lý..
- Chế độ mặc và tư trang đối với phạm nhân:
NHẬN XÉT: Tuy phạm nhân đang chấp hành án phạt tù nhưng việc đảm bảo về tư trang tối thiểu là một quy
định cần thiết. Quy định này hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc nhân đạo và xu thế chung của nhân loại.
- Chế độ chăm sóc y tế đối với phạm nhân: phạm nhân là người dưới 18 tuổi đảm bảo được chăm sóc y tế như
phạm nhân là người từ đủ 18 tuổi trở lên (khoản 1 Điều 75 Luật THAHS 2019). Cụ thể được quy định tại Điều 55
Luật THAHS 2019 như sau:
Nhận xét: Viêc quy định chặt chẽ về chế độ chăm sóc y tế cũng như nhiệm vụ của các chủ thể trên giúp đảm
bảo quyền lợi của phạm nhân là người dưới 18 tuổi và nâng cao tinh thần trách nhiệm của các chủ thể liên quan.
+ Về chế độ sinh hoạt văn hóa, văn nghệ và vui chơi giải trí: Thời gian và hình thức tổ chức các hoạt động
thể dục, thể thao, sinh hoạt văn hoá, văn nghệ, nghe đài, đọc sách, báo, xem truyền hình và các hình thức vui chơi
giải trí khác phù hợp với đặc điểm của người dưới 18 tuổi. (khoản 3 Điều 75 Luật THAHS 2019; khoản 6 Điều 12
NĐ 133/2020/NĐ-CP).
Nhận xét: Việc quy định chế độ sinh hoạt văn hoá, văn nghệ và vui chơi giải trí giúp phạm nhân không bị cô
đơn, lạc lõng và sợ hãi trong khi đang chấp hành án phạt tù, từ đó giúp cho phạm nhân có động lực cải tạo tốt và
sớm tái hoà nhập cộng đồng.
- Chế độ gặp, liên lạc điện thoại với thân nhân: Điều 76 Luật thi hành án hình sự 2019 như sau:
Nhận xét: Quy định trên xuất phát từ đặc điểm về lứa tuổi, tâm lý và yêu cầu giáo dục cải tạo phạm nhân là
người dưới 18 tuổi. Trong đó, gia đình hoặc thân nhân của phạm nhân là người dưới 18 tuổi có vai trò rất quan
trọng trong việc giáo dục cải tạo đối tượng này. Thời gian thăm gặp, động viên của gia đình hoặc thân nhân đốỉ vối
phạm nhân là người dưới 18 tuổi có ý nghĩa tích cực, cần được quy định thời gian thăm gặp nhiều hơn so với
phạm nhân là người trên 18 tuổi. Đồng thời, ngoài việc thăm gặp, Nhà nước cũng khuyến khích thân nhân của
phạm nhân là người dưới 18 tuổi quan tâm gửi sách vở, đồ dùng học tập, dụng cụ học tập, thể dục thể thao, vui
chơi, giải trí lành mạnh, bổ sung cho phạm nhân để giúp họ phát triển và cải tạo tiến bộ.
- Chế độ gửi, nhận thư, nhận quà: Điều 52 Luật thi hành án hình sự 2019 và Điều 9, Điều 10, Điều 11 Thông tư
38
14/2020/TT-BCA,
Nhận xét:Quy định về chế độ gửi, nhận thư, nhận quà phần nào giúp nguôi ngoai phần nào sự mặc cảm, tự ti,
lạc lõng, cô đơn, tù đó tạo động lực giúp họ cố gắng hoàn thiện bản thân, sửa chữa lỗi làm do mình gây ra. Đây là
mộ quy định mang tính nhân văn và phù hợp với pháp luật quốc tế.
- Tiêu chuẩn, trách nhiệm của cán bộ quản giáo trong quá trình thăm gặp: Điều 7 Thông tư 14/2020/TT-BCA
đã quy định về tiêu chuẩn và trách nhiệm của cán bộ làm nhiệm vụ tổ chức cho phạm nhân gặp thân nhân, đại diện
cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khác. Theo đó, cán bộ làm nhiệm vụ tổ chức cho phạm nhân gặp thân nhân, đại
diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khác (gọi chung là cán bộ làm nhiệm vụ tổ chức cho phạm nhân gặp thân nhân)
phải là sỹ quan nghiệp vụ, có trình độ, năng lực, có kinh nghiệm công tác, khả năng quản lý, giám sát phạm nhân,
phải có quyết định phân công công tác của Giám thị trại giam, Giám thị trại tạm giam và làm theo chế độ chuyên
trách, mỗi người làm công tác này không quá 03 năm. Đối với nhà tạm giữ và khu lao động, dạy nghề cách xa phân
trại trực thuộc trại giam thì cán bộ làm nhiệm vụ tổ chức cho phạm nhân gặp thân nhân làm việc theo chế độ kiêm
nhiệm. Cán bộ quản lý luôn có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc quản lý phạm nhân là người dưới 18 tuổi, vì
vậy quy định này của pháp luật THAHS là hoàn toàn phù hợp.
Tuy nhiên, cũng tại Điều 7 Thông tư 14/2020/TT-BCA quy định về nhiệm vụ của cán bộ trong tổ chức, quản
lý phạm nhân trong quá trình gặp gỡ nhân thân lại quá cứng nhắc với thủ tục rườm rà, khi phạm nhân được kéo dài
thời gian gặp thân nhân hoặc gặp ở phòng riêng hoặc gặp thân nhân thêm 01 lần trong 01 tháng phải xem xét thận
trọng, chặt chẽ, không làm ảnh hưởng đến an ninh, an toàn cơ sở giam giữ phạm nhân. Đồng thời, cán bộ làm
nhiệm vụ tổ chức cho phạm nhân gặp thân nhân đề xuất bằng văn bản có ý kiến của cán bộ quản giáo phụ trách đội
phạm nhân, cán bộ trinh sát, cán bộ giáo dục, cán bộ y tế trình Thủ trưởng cơ sở giam giữ phạm nhân hoặc lãnh
đạo, chỉ huy được Thủ trưởng cơ sở giam giữ phạm nhân ủy quyền duyệt, ký.
Nhận xét: Không thể phủ nhận tính nguy hiểm của phạm nhân và việc thiết lập các quy định một cách chặt
chẽ để đảm bảo yêu cầu an ninh tại cơ sở giam giữ là phù hợp, tuy nhiên điều này sẽ dẫn đến tâm lý ngại khó của
cán bộ trại giam trong quá trình thực hiện các thủ tục, dẫn đến quyền và lợi ích hợp pháp của phạm nhân là người
dưới 18 tuổi không dược đảm bảo.
- Trách nhiệm của phạm nhân là người dưới 18 tuổi, người gặp phạm nhân quá trình gặp gỡ : khoản 1
Điều 27 Luật THAHS 2019.
Nhận xét: Dù gặp thân nhân, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân là một trong những quyền của phạm nhân
là người dưới 18 tuổi, tuy nhiên với đặc thù của hoạt động thi hành án hình sự nên phải được tiến hành theo trật tự
do pháp luật quy định, với trình tự, thủ tục chặt chẽ. Hơn thế, phạm nhân thường có tính nguy hiểm cao nên việc
thiết lập các quy định quản lý trong quá trình thăm gặp nhằm bảo đảm an ninh cơ sở giam giữ, an toàn cho chính
phạm nhân, người thăm gặp, cán bộ quản lý là hoàn toàn cần thiết.
2.2.2. Quy định của pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam về giam giữ phạm nhân là người dưới 18 tuổi
Điều 73 Luật Thi hành án hình sự năm 2019 quy định: “…”.
Khoản 1 Điều 74 Luật Thi hành án hình sự năm 2019 quy định: “….” Quy định này tương thích với quy định
tại điểm b khoản 2 Điều 30 Luật Thi hành án hình sự năm 2019 về giam giữ phạm nhân nói chung. Theo quy định,
trừ trường hợp bị giam tại buồng kỷ luật, phạm nhân được giam giữ tại một trong hai khu sau:
a) Khu giam giữ đối với phạm nhân có mức án phạt tù trên 15 năm, tù chung thân, phạm nhân thuộc trường
hợp tái phạm nguy hiểm;
b) Khu giam giữ đối với phạm nhân có mức án phạt tù từ 15 năm trở xuống; phạm nhân có mức án phạt tù
trên 15 năm đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù và thời hạn chấp hành án còn lại dưới 15 năm; phạm
nhân thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, đã chấp hành một phần hai thời hạn chấp hành án phạt tù và đã được
giảm thời hạn chấp hành án.
Theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 43 Luật Thi hành án hình sự năm 2015 thì phạm nhân nói chung vi phạm
nội quy cơ sở giam giữ hoặc có hành vi vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị kỷ luật
bằng một trong các hình thức bao gồm: (a) Khiển trách; (b) Cảnh cáo; (c) Giam tại buồng kỷ luật đến 10 ngày.
Trong thời gian bị giam tại buồng kỷ luật, phạm nhân không được gặp thân nhân và có thể bị cùm chân . Tuy
nhiên, không áp dụng cùm chân đối với phạm nhân nữ, phạm nhân là người dưới 18 tuổi, phạm nhân là người già
yếu. Vấn đề xử lý kỷ luật phạm nhân hiện nay cũng đã được quy định chi tiết hơn bởi Nghị định số 133/2020/NĐ-
CP (Điều 20-23).
2.3. So sánh một số quy định của pháp luật Việt Nam với các quy tắc, tiêu chuẩn quốc tế về thi hành án hình
sự đối với phạm nhân là người dưới 18 tuổi
Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở châu Á và thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước về quyền trẻ em vào năm
199017. Đánh giá khách quan cho thấy Việt Nam có nhiều nỗ lực trong việc nội luật hoá một quy định của Điều
ước quốc tế này.
Thứ nhất, về chế độ gặp, liên lạc điện thoại với thân nhân.
39
Đây là một trong những chế độ rất quan trọng đối với phạm nhân là NCTN. Do sự phát triển chưa toàn diện
về thể chất và đặc biệt là tâm lý, kinh nghiệm sống nên họ rất cần sự quan tâm, gặp gỡ động viên từ thân nhân trong
quá trình chấp hành án. Điều 76 Luật Thi hành án hình sự năm 2019 …
...
So sánh quy định trên với quy định tại khoản 1 Điều 52 19và khoản 2 Điều 54 20Luật Thi hành án hình sự năm
2019 cho thấy phạm nhân là NCTN được ưu đãi hơn phạm nhân đã thành niên về chế độ gặp, liên lạc điện thoại
với thân nhân trên phương diện số lần và thời gian gặp, liên lạc. Tuy nhiên, phạm nhân chưa thành niên theo quy
định của pháp luật Việt Nam không được phép gặp bạn bè cũng không được rời khỏi trại giam để về thăm nhà và
gia đình vì bất kỳ lý do nào, ngay cả khi có tang lễ hoặc thăm viếng người thân bị bệnh nặng như quy định tại Quy
tắc 58, 59 của Quy tắc Havana. Quy định về số lần và thời gian gặp thân nhân của pháp luật Việt Nam cũng có sự
khác biệt và hạn chế hơn so với tiêu chuẩn quốc tế. Quy tắc Havana (Quy tắc 60) quy định NCTN bị tước tự do
nên được thăm viếng đều đặn và thường xuyên, một lần một tuần và không dưới một lần trong một tháng, trong
điều kiện tôn trọng nhu cầu riêng tư, không giới hạn việc liên hệ với gia đình và người bào chữa. 21 Như vậy pháp
luật Việt Nam quy định mức tối đa trong khi đó Quy tắc Havana quy định mức tối thiểu về số lần phạm nhân chưa
thành niên được gặp thân nhân. Quy tắc Havana đề cập đến việc bảo đảm tính riêng tư của việc thăm gặp, ngược
lại pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam quy định phải giám sát nghiêm ngặt.
Bên cạnh Điều 76 Luật Thi hành án hình sự năm 2019, Thông tư số 14/2020/TT BCA đã có những quy định
chi tiết về chế độ gặp, nhận quà và liên lạc của phạm nhân nói chung, trong đó có những quy định riêng cho phạm
nhân là NCTN. Về chế độ gặp thân nhân, khoản 2 và khoản 7 Điều 3 Thông tư này quy định:
“2... Phạm nhân là người dưới 18 tuổi có ít nhất hai quý liền kề với thời điểm gặp thân nhân được xếp loại
tốt và... Giám thị trại giam có thể xem xét, giải quyết việc kéo dài thời gian gặp ông, bà nội; ông, bà ngoại; bố, mẹ
đẻ ở phòng riêng nhưng không quá 24 giờ.
7. Khi ... phạm nhân là người dưới 18 tuổi gặp thân nhân ở phòng riêng không quá 24 giờ thì trong thời gian
phạm nhân gặp thân nhân, Thủ trưởng cơ sở giam giữ phạm nhân căn cứ điều kiện cụ thể có thể xem xét cho phạm
nhân ăn cơm cùng thân nhân tại căng tin Nhà gặp phạm nhân, thời gian ăn cơm không quá 01 giờ. Ngoài ra, khi
tổ chức
Hội nghị gia đình phạm nhân, do yêu cầu giáo dục cải tạo, cần có sự phối hợp, tác động của gia đình để giáo dục
phạm nhân thì Thủ trưởng cơ sở giam giữ phạm nhân có thể xem xét, giải quyết cho phạm nhân gặp và ăn cơm
cùng thân nhân.”
Như vậy, nếu như trước đây việc gặp riêng vợ hoặc chồng chỉ được áp dụng cho phạm nhân đã thành niên thì nay
phạm nhân chưa thành niên cũng được gặp một số người thân như ông, bà nội; ông, bà ngoại; bố, mẹ đẻ ở phòng
riêng. Bên cạnh đó, họ còn được cho phép ăn cơm chung với thân nhân. Tuy nhiên cần phải lưu ý quy định này
không mang tính bắt buộc đối với trại giam và chỉ khi có đủ điều kiện thì phạm nhân chưa thành niên mới được gặp
riêng và ăn cơm chung với thân nhân trên cơ sở quyết định của Thủ trưởng cơ sở giam giữ . Thủ tục giải quyết cho
phạm nhân chưa thành niên gặp thân nhân ở phòng riêng cũng được quy định cụ thể tại khoản 7 Điều 7 Thông tư số
14/2020/TT-BCA. Với những quy định mới này cho thấy Việt Nam đang từng bước mở rộng và bảo đảm thực hiện
tốt hơn nữa nội dung chế độ gặp thân nhân của phạm nhân là NCTN.
Về chế độ liên lạc với thân nhân bằng điện thoại, khoản 2 Điều 12 Thông tư số 14/2020/TT-BCA hướng dẫn
cụ thể trường hợp phạm nhân được khen thưởng bằng hình thức “tăng số lần được liên lạc bằng điện thoại” quy
định tại điểm c khoản 1 Điều 41 Luật Thi hành án hình sự năm 2019. Theo đó, phạm nhân sẽ được liên lạc với thân
nhân bằng điện thoại thêm 01 lần trong tháng và không quá 10 phút; trường hợp cấp bách, Thủ trưởng cơ sở giam
giữ xem xét, giải quyết cho phạm nhân được liên lạc bằng điện thoại với thân nhân nhưng không quá 10 phút.
Phạm nhân chỉ được liên lạc bằng điện thoại trong nước với thân nhân theo số điện thoại và nội dung liên lạc đã
được đăng ký. Cán bộ trại giam giám sát chặt chẽ nội dung trao đổi của phạm nhân với thân nhân; nếu phát hiện
nội dung trao đổi không đúng với đăng ký thì phải dừng cuộc gọi; lập biên bản và đề xuất xử lý kỷ luật nếu xét
thấy cần thiết22. Ngoài hình thức liên lạc qua điện thoại, phạm nhân nói chung còn được phép liên lạc với thân
nhân qua thư từ. Mỗi tháng phạm nhân được gửi 02 lá thư dưới sự kiểm tra, kiểm duyệt của người có thẩm
quyền23.
So sánh các quy định về chế độ liên lạc với thân nhân của phạm nhân là NCTN với quy tắc, tiêu chuẩn quốc
tế chúng ta có thể nhận thấy còn có những điểm chưa tương đồng. Cụ thể, Quy tắc Havana (Quy tắc 61) quy định
NCTN bị tước tự do nên có quyền liên lạc bằng thư từ hoặc điện thoại ít nhất hai lần trong một tuần với những
người theo sự lựa chọn của họ, trừ khi bị hạn chế bởi pháp luật, và được hỗ trợ để thực hiện có hiệu quả quyền này.
Như vậy, pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam có sự hạn chế hơn về số lần liên lạc với thân nhân trong một
tháng của phạm nhân là NCTN.
Trong khi đó, theo quy định tại khoản 4 Điều 3 Thông tư số 14/2020/TT-BCA, phạm nhân vi phạm nội quy
cơ sở giam giữ “bị xử lý kỷ luận thì 02 tháng được gặp thân nhân 01 lần, mỗi lần không quả 01 giờ..”. Ngoài ra,
40
khoản 4 Điều 12 Thông tư này còn quy định phạm nhân thường xuyên vi phạm nội quy cơ sở giam giữ được bố trí
giam giữ riêng hoặc đang bị thi hành kỷ luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, Thủ trưởng cơ sở giam giữ
phạm nhân có thể hạn chế việc liên lạc bằng điện thoại với thân nhân nhưng không quả 03 tháng. Như vậy, khi bị
xử lý kỷ luật dưới hình thức khiển trách hoặc cảnh cáo, cả phạm nhân là NCTN và phạm nhân là người đã thành
niên đều có thể đồng thời bị giảm số lần và thời gian mỗi lần gặp thân nhân; hạn chế liên lạc bằng điện thoại trong
thời gian khá dài; còn khi bị giam tại buồng kỷ luật thì tuyệt đối không được gặp thân nhân.
Những quy định trên của Thông tư số 14/2020/TT-BCA vừa vượt quá quy định của Luật Thi hành án hình sự
năm 2019, gây bất lợi cho phạm nhân; vừa không có sự phân biệt trong mức độ xử lý kỷ luật giữa phạm nhân chưa
thành niên và phạm nhân đã thành niên (ngoại trừ việc phạm nhân chưa thành niên không bị cùm chân trong thời
gian bị giam tại buồng kỷ luật); và không tương thích với các quy tắc, tiêu chuẩn quốc tế có liên quan. Cụ thể, Quy
tắc Havana (Quy tắc 60) đã hướng dẫn rất rõ các quy định hạn chế hoặc cấm việc tiếp xúc, liên lạc với thân nhân
vì bất kỳ lý do nào cũng như việc kết hợp nhiều biện pháp trừng phạt, nên được loại bỏ. Bên cạnh đó, Điều 39(i)
của Chiến lược mẫu của Liên hợp quốc yêu cầu các quốc gia thành viên phải đảm bảo những hình thức xử lý kỷ
luật đối với trẻ em đang bị giam giữ không bao gồm việc cấm liên lạc với các thành viên trong gia đình. Nghiên
cứu cho thấy không chỉ ở Việt Nam mà ở một số nước trên thế giới, trẻ em bị tước tự do thường không được phép
liên lạc thường xuyên với gia đình và bạn bè.
Thứ hai, về trách nhiệm của Ban giám thị trại giam trong quản lý phạm nhân là người dưới 18 tuổi.
Điều 74 Luật THAHS 2019 quy định: “...” Tuy điều luật này mang tên chế độ quản lý, giáo dục, học văn hóa,
học nghề, lao động nhưng lại chưa quy định cụ thể về quản lý phạm nhân là người dưới 18 tuổi mà chỉ quy định
chung chung, việc quản lý không được quy định cụ thể, rõ ràng. Đồng thời, điều luật cũng không xác định rõ trách
nhiệm của cơ sở giam giữ trong việc quản lý phạm nhân, không đặt ra bất cứ điều kiện nào đối với cán bộ trực tiếp
quản lý phạm nhân là người dưới 18 tuổi. Việc pháp luật THAHS thiếu quy định về điều kiện đối với cán bộ quản
lý cơ sở giam giữ có phạm nhân là người dưới 18 tuổi cũng chưa phù hợp với hướng dẫn của quốc tế tại Các Quy
tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước tự do, 1900 (Quy tắc Havana). Như đã phân tích ở
phân trên Quy tắc Havana đã chỉ ra tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ, nhân viên trong việc thực hiện quản lý
phạm nhân là người chưa thành niên, trên cơ sở đó công ước khẳng định cần lựa chọn, tuyển dụng thận trọng, cấp
bậc dựa trên những tiêu chí nhất định: tính chính trực, sự nhân đạo, khả năng, trình độ chuyên môn và khả năng
thích ứng của họ đối với việc quản lý phạm nhân là ngưới dưới 18 tuổi. Như vậy, Luật THAHS 2019 không đặt ra
các tiêu chí và điều kiện đối với cán bộ quản lý cơ sở giam giữ là một hạn chế, chưa phù hợp với hướng dẫn của
quốc tế và cần khắc phục.
Thứ ba, phạm nhân là người dưới 18 tuổi được bố trí giam giữ riêng.
Nhận thấy rằng phạm nhân là người dưới 18 tuổi chưa phát triển đầy đủ về thể chất, tỉnh thần, chưa hoàn
thiện khả năng nhận thức, kiểm soát được suy nghĩ, hành vi của mình. Do đó, họ dễ bị chi phối bởi tác động bên
ngoài và dẫn đến việc thực hiện các hành vi thiếu suy nghĩ chín chắn. Vì vậy, việc giam giữ riêng phạm nhân là
người dưới 18 tuổi với phạm nhân trưởng thành sẽ hạn chế được sự ảnh hưởng tiêu cực của phạm nhân trưởng
thành, đảm bảo môi trường cải tạo tốt nhất cho đội tượng này. Chế độ giam giữ phạm nhân là người dưới 18 tuổi
được quy định tại khoản 1 Điều 74 Luật THAHS 2019, theo đó phạm nhân là người dưới 18 tuổi được giam giữ
theo chế độ riêng phù hợp với sức khỏe, giới tính và đặc điểm nhân thân của họ. Tuy nhiên, việc thực hiện giam
giữ đối tượng này vẫn được thực hiện trên cơ sở những quy định, về giam giữ phạm nhân tại Điều 30 của Luật
này. Theo đó, khoản 2 Điều 30 Luật THAHS 2019 quy định bố trí giam giữ riêng đối với phạm nhân là người dưới
18 tuổi trong các cơ sở giam giữ. Vậy, phạm nhân là người dưới 18 tuổi sẽ được bố trí giam giữ riêng tại một trong
hai khu sau: một, khu giam giữ đối với phạm nhân có mức án phạt tù trên 15 năm, tù chung thân, phạm nhân
thuộc trường hợp tái phạm hiểm. Hai, khu giam giữ đối với phạm nhân có mức án phạt tù từ 15 năm trở xuống;
phạm nhân có mức án phạt tù trên 15 năm đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù và thời hạn chấp hành án
còn lại dưới 15 năm; phạm nhân thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, đã chấp hành một phần hai thời hạn chấp
hành án phạt tù và đã được giảm thời hạn chấp hành án.
Quy định giam giữ riêng phạm nhân là người dưới 18 tuổi cũng phù hợp với các hướng dẫn của quốc tế trong
lĩnh vực tư pháp hình sự đối với người chưa thành niên nói chung. Theo đó, Điều 37 Công ước quốc tế về quyền trẻ
em nhấn mạnh rằng “mọi trẻ em bị tước quyền tự do phải được cách ly với người lớn”.Quy tắc Havana tại quy
tắc số 26 cũng khẳng định “người chưa thành niên bị giam giữ phải được tách khỏi người lớn và được giam giữ ở
một cơ sở riêng hay một khu riêng trong một cơ sở giam giữ có cả người lớn”. Việc tổ chức giam giữ riêng sẽ “hạn
chế phần nào sự tiếp xúc với phạm nhân đã thành niên, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc thăm gặp nhân
thân”.
Thứ tư, khi đủ 18 tuổi thì chuyển sang thực hiện chế độ quản lý giam giữ đối với phạm nhân từ đủ 18 tuổi trở
lên.
Đây là một trong các quy định mà Luật THAHS 2019 thực hiện kế thừa của Luật THAHS 2010, điều này
41
không trái với các hướng dẫn của quốc tế. Tuy nhiên, quy định này của Luật THAHS 2019 có phần cứng nhắc, bởi
lẽ
không phải phạm nhân là người dưới 18 tuổi nào cũng đạt được khả năng trưởng thành về tâm lý khi vừa đủ mười
tám tuổi. Vì vậy, pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam cần quan tâm hơn đến sự trưởng thành thật sự trong tâm
lý của phạm nhân là người dưới 18 tuổi, trên cơ sở đó đưa ra quyết định về việc chuyển phạm nhân là người dưới
18 tuổi sang chế độ giam giữ đối với phạm nhân từ đủ 18 tuổi trở lên. Xuất phát từ việc nếu chuyển phạm nhân là
người dưới 18 tuổi sang khu giam giữ dành cho phạm nhân là người trưởng thành ngay khi họ vừa đủ 18 tuổi
không tránh khỏi những tác động tiêu cực của sự chuyển giao, khi đó họ phải một lần nữa làm quen với môi trường
mới, đồng nghĩa với đó là họ cũng không còn được hưởng các chế độ riêng biệt nữa. Trong khi đó, không một cơ
sở nào có thể khẳng định, đảm bảo rằng ngay từ thời điểm bước sang tuổi 18 thì họ sẽ đủ khả năng nhận thức cũng
như tâm lý vững vàng để không chịu ảnh hưởng tiêu cực từ tội phạm là người trưởng thành. Chính vì vậy, trong
công cuộc cải cách tư pháp nói chung cũng như hoàn thiện các quy định về thì hành án hình sự, Việt Nam cần sửa
đổi, bổ sung quy định về các trường hợp đặc biệt khi phạm nhân là người dưới 18 tuổi đã đến tuổi nhưng không
cần thiết phải ngay lập tức chuyển sang cơ sở giam giữ phạm nhân là người trưởng thành. Điều này sẽ góp phần
không nhỏ vào việc được mục đích tốt nhất khi thi hành án phạt tù và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phạm
nhân là người dưới 18 tuổi trong hoạt động này.
Hiện nay, pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam quy định khi vừa đủ 18 tuổi thì phạm nhân sẽ được thực
hiện chuyển sang nơi giam giữ dành cho phạm nhân trưởng thành, có thể thấy quy định này không trải với các
hướng dẫn của quốc tế nói chung về giam giữ phạm nhân là người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, các hướng dẫn của
quốc tế đặt ra một số ngoại lệ nhất định nhằm đảm bảo lợi ích tối đa của chủ thể này. Tiêu biểu là Bình luận chung
số 24 (2019) nhấn mạnh việc không có nghĩa là trẻ em phải chuyển đến cơ sở dành cho người lớn ngay khi trẻ đủ
18 tuổi. Bởi lẽ, sự phát triển về sinh lý, đặc biệt là tâm lý ở mỗi cá nhân và chưa có một nghiên cứu cụ thể nào
khẳng định việc đủ 18 tuổi thì con người hoàn toàn trưởng thành, dễ thích ứng với môi trường..Đặc biệt, trong lĩnh
vực thi hành án hình sự phạm nhân vừa đủ 18 tuổi sẽ thực hiện chuyển đến nơi giam giữ dành cho phạm nhân
trưởng thành không có một căn cứ nào có thể khẳng định họ đủ khả năng để thích ứng với môi trường mới, không
bị ảnh hưởng tiêu cực bởi những phạm nhân trưởng thành. Nếu không đảm bảo được vấn đề này đồng nghĩa với
nhiều nỗ lực của chúng ta trong giai đoạn trước sẽ trở về con số “0”, Điều đó, có thể thấy quy định của pháp luật
THAHS Việt Nam về việc chuyển nơi giam giữ cho phạm nhân khi vừa đủ 18 tuổi là quá cứng nhắc, cần thiết kế
thêm những trường hợp đặc biệt nhằm đảm bảo tối đa quyền lợi họ.
Song song với các vấn đề đạt được thì pháp luật THAHS Việt Nam hiện nay chưa có các quy định về bán
giam giữ như “nhà mở” trong khi điều này được đề cập tại quy tắc số 29 của Quy tắc Bắc Kinh và quy tắc số 30
của Quy tắc Havana. Theo đó, các cơ sở giam giữ mở hạn chế tối thiểu thậm chí không áp dụng các biện pháp an
ninh, số
lượng phạm nhân trong các cơ sở nên càng ít, càng tốt nhằm đảm bảo khả năng điều trị cho từng cá nhân. Điều trị ở
đây được hiểu là cải tạo tâm lý, giúp họ xóa bỏ những suy nghĩ lệch lạc, để sau thời gian chấp hành án có thể trở
thành những công dân tốt cho xã hội. Có thể thấy đây là một quy tắc mang tính nhân đạo quốc tế, nhằm đảm bảo
lợi ích của phạm nhân là người dưới 18 tuổi một cách tốt nhất, tuy nhiên pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam
hiện nay vẫn chưa thực hiện thiết lập các quy định liên quan đến vấn đề này. Đồng nghĩa với đó là phạm nhân là
người dưới 18 tuổi 100% vẫn được thực hiện giam giữ theo cách thức “truyền thống” tại các cơ sở giam giữ như
trại giam, trại tạm giam và nhà tạm giữ. Tuy nhiên, cơ sở giam giữ phạm nhân ở Việt Nam nói chung không hoàn
toàn là các nhà tù “kín”, tách biệt hoàn toàn phạm nhân với môi trường xã hội.
Thứ năm, giam giữ phạm nhân là người dưới 18 tuổi trong buồng kỷ luật.
Trong quá trình chấp hành án phạt tù phạm nhân thực hiện các hành vi vi phạm nội quy cơ sở giam giữ hoặc
hành vi vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị kỷ luật bằng một trong các hình thức: khiển
trách, cảnh cáo, giam tại buồng kỷ luật đến 10 ngày. Có thể thấy giam tại buồng kỷ luật là một trong các biện pháp
kỷ luật cao nhất được áp dụng với phạm nhân nói chung, bao gồm cả phạm nhân là người dưới 18 tuổi
Việc pháp luật Việt Nam cho phép giam giữ phạm nhân tại buồng kỷ luật là không phù hợp, thậm chỉ đi
ngược lại với các quy tắc, tiêu chuẩn quốc tế. Cụ thể, tại Công ước về quyền trẻ em đã nhấn mạnh việc đối xử nhân
đạo với trẻ em trong quá trình giam giữ “mọi trẻ em bị tước quyền tự do phải được đối xử nhân đạo với sự tôn
trọng phẩm giả vốn có của con người". Cùng với đó, Quy tắc Havana nêu rõ việc áp dụng biện pháp kỷ luật đổi
phải được thực hiện trên cơ sở đảm bảo lợi ích của người dưới 18 tuổi với mục tiêu cơ bản là chăm sóc, thiết lập ý
thức về công lý, lòng tự trọng và tôn trọng các quyền cơ bản của con người. Đồng thời, công ước cũng nghiêm
cấm các biện pháp kỷ luật cấu thành việc tàn ác, đối xử vô nhân đạo, trong đó có giam vào ngục tối. Từ đó, có thể
thấy biện pháp kỷ luật giam vào buồng kỷ luật trong Luật THAHS 2019 hiện nay là chưa phù hợp với các quy
định của pháp luật quốc tế. Mặt khác, điều này cũng không phù hợp với quy tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa trong
THAHS Việt Nam, làm mất đi ý nghĩa của việc thi hành án hình sự trong việc thể chế hóa quy định của Hiến pháp
42
năm 2013 về bảo vệ các quyền con người của người dưới 18 tuổi.

43
GẶP GỠ NGƯỜI THÂN

I.TẠI SAO CẦN CÓ CHẾ ĐỘ GẶP GỠ, LIÊN LẠC VỚI THÂN NHÂN DÀNH CHO PHẠM NHÂN NÓI
CHUNG VÀ PHẠM NHÂN DƯỚI 18 TUỔI NÓI RIÊNG:
Ý nghĩa nhân đạo của chế độ thăm khám: Người dưới 18 tuổi vẫn chưa trưởng thành hoàn toàn trong nhận thức, trong
quá trình chấp hành án phải xa gia đình dễ phát sinh tâm lý sợ hãi, nhớ gia đình, người thân. Việc xây dựng chế độ gặp
gỡ, liên lạc với thân nhân dành cho phạm nhân dưới 18 tuổi sẽ giúp các phạm nhân giải quyết được nhu cầu về mặt tinh
thần này.
Việc được gặp gỡ, liên lạc với thân nhân sẽ giúp ổn định tâm lý của phạm nhân, giúp họ cảm nhận được sự quan tâm
của xã hội, từ đó tác động tích cực đến việc cải tạo của bản thân. Gặp gỡ thân nhân cũng sẽ trở thành động lực để phạm
nhân cải tạo tốt, chấp hành nghiêm túc mọi quy định để sớm được đoàn tụ cùng gia đình
II. CHẾ ĐỘ GẶP GỠ, LIÊN LẠC VỚI THÂN NHÂN CỦA PHẠM NHÂN LÀ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI:
 Chế độ riêng:
Riêng về chế độ thăm gặp. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 3 Thông tư 14/2020/TT-BCA quy định chi tiết chế độ
gặp, nhận quà và liên lạc của phạm nhân (sau đây gọi là Thông tư số 14/2020), chế độ gặp thân nhân đối với phạm nhân là
người dưới 18 tuổi được thực hiện theo chế độ đặc biệt hơn bình thường. Khoản 1 Điều 76 Luật THAHS 2019 quy định
về chế độ gặp thân nhân như sau: “...”
Khoản 2 Điều 3 Thông tư số 14/2020 cũng có sự bổ sung chi tiết hơn về chế độ thăm gặp thân nhân với phạm
nhân được khen thưởng so với Thông tư 07/2018/TT-BCA và Điều 53 Luật THAHS 2019 khi có thêm quy định Giám thị
Trại giam có thể xem xét, giải quyết cho phạm nhân là người dưới 18 tuổi được kéo dài thời gian gặp ông bà nội ngoại và
bố mẹ đẻ ở phòng riêng nhưng không quá 24 giờ trong trường hợp phạm nhân đã đáp ứng đủ điều kiện có ít nhất hai quý
liền kề với thời điểm gặp thân nhân được xếp loại tốt và thời gian từ khi xếp loại quý liền kề gần nhất đến thời điểm gặp
thân nhân được nhận xét, đánh giá, xếp loại chấp hành án phạt tù tốt và được khen thưởng do có thành tích lao động, học
tập theo quy định tại Khoản 1 Điều 41 Luật THAHS 2019 và thực hiện đúng thủ tục theo Khoản 5 Điều 5 Thông tư số
14/2020. Ngoài ra, theo Khoản 3 Điều 3 Thông tư số 14/2020 dẫn chiếu đến Điểm c Khoản 1 Điều 41 Luật THAHS 2019
thì mỗi lần phạm nhân lập công hoặc được khen thưởng bằng hình thức “tăng số lần gặp thân nhân” thì sẽ được gặp thân
nhân thêm 01 lần trong 01 tháng.
Cùng với đó, trong trường hợp áp dụng Khoản 2, theo Khoản 7 Điều 3 Thông tư số 14/2020, Thủ trưởng Trại
giam của phạm nhân căn cứ vào điều kiện cụ thể có thể xem xét cho phạm nhân ăn cơm cùng thân nhân tại căng tin Nhà
gặp phạm nhân, thời gian ăn cơm không quá 01 giờ. Việc tổ chức cho phạm nhân gặp và ăn cơm cùng thân nhân phải
kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ, bảo đảm tuyệt đối an toàn Trại giam phạm nhân, quản lý chặt chẽ phạm nhân, bảo đảm vệ
sinh an toàn thực phẩm và an toàn cho thân nhân phạm nhân. Thủ trưởng Trại giam phạm nhân phải tổ chức cho phạm
nhân gặp thân nhân, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khác vào tất cả các ngày trong tuần, kể cả ngày nghỉ, ngày lễ,
tết theo giờ làm việc của đơn vị.
Đối với phạm nhân là người nước ngoài dưới 18 tuổi, bên cạnh việc được hưởng các chế độ thăm gặp thân nhân
như phạm nhân là người Việt Nam theo Điều 27 Nghị định 133/2020/NĐ-CP thì còn được thăm gặp, tiếp xúc lãnh sự.
Nếu thân nhân của phạm nhân cũng là người nước ngoài thì cần thực hiện đúng thủ tục theo Khoản 5 Điều 52 Luật
THAHS 2019. Các trường hợp không giải quyết cho phạm nhân là người nước ngoài thăm gặp, tiếp xúc lãnh sự được quy
định tại Điều 11 Thông tư 03/2012/TTLT-BCA-BQP-BNG hướng dẫn việc thăm gặp, tiếp xúc lãnh sự đối với phạm nhân
như sau: “Phạm nhân có văn bản từ chối việc thăm gặp, tiếp xúc lãnh sự; vì lý do bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn trại
giam, trại tạm giam hoặc phòng, chống dịch bệnh, thiên tại.”.
Ngược lại, nếu phạm nhân vi phạm nội quy Trại giam phạm nhân hoặc có hành vi vi phạm pháp luật thì tùy theo
tính chất, mức độ theo Điều 43 Luật THAHS 2019 có thể bị cảnh cáo, khiển trách hoặc giam tại buồng kỷ luật 10 ngày.
Nếu chỉ bị cảnh cáo hoặc khiển trách, phạm nhân sẽ được gặp thân nhân 02 tháng 01 lần, mỗi lần không quá 01 giờ cho
đến khi được Thủ trưởng Trại giam công nhận đã tiến bộ theo quy định.
Trường hợp phạm nhân bị kỷ luật không phải chịu thời gian thử thách để công nhận đã tiến bộ hoặc thời gian thử
thách để công nhận đã tiến bộ ngắn hơn 02 tháng thì trong 02 tháng kể từ ngày quyết định kỷ luật có hiệu lực phạm nhân
được gặp thân nhân 01 lần không quá 01 giờ. Nếu bị giam tại buồng kỷ luật, phạm nhân không được gặp thân nhân và có
thể bị cùm chân, tuy nhiên không áp dụng cùm chân với phạm nhân là người dưới 18 tuổi. Phạm nhân cũng sẽ được xem
xét giảm nhẹ hình thức kỷ luật nếu vi phạm lần đầu và là người dưới 18 tuổi theo Điều 21 Nghị định 133/2020/NĐ-CP
quy định chi tiết thi hành một số Điều của Luật THAHS. Trại giam phạm nhân có trách nhiệm thông báo thời gian hạn
chế gặp thân nhân cho phạm nhân và thân nhân phạm nhân biết để thực hiện.
+ Về chế độ liên lạc điện thoại: Theo Khoản 2 Điều 76 Luật THAHS 2019, phạm nhân là người dưới 18 tuổi được liên lạc
bằng điện thoại trong nước với thân nhân không quá 04 lần trong 01 tháng, mỗi lần không quá 10 phút, có sự giám sát của
cán bộ Trại giam và tự chịu chi phí. Theo khoản 2 Điều 76 Luật THAHS 2019:

44
“…2. Phạm nhân là người dưới 18 tuổi được liên lạc bằng điện thoại trong nước với thân nhân không quá 04 lần trong 01
tháng, mỗi lần không quá 10 phút, có sự giám sát của cán bộ Trại giam và tự chịu chi phí….”
Việc này được quy định chi tiết hơn trong Điều 12 Thông tư số 14/2020. Trong trường hợp phạm nhân được khen
thưởng theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 41 Luật THAHS 2019 bằng hình thức “tăng số lần được liên lạc bằng điện
thoại” thì được liên lạc với thân nhân bằng điện thoại thêm 01 lần trong tháng và không quá 10 phút. Khoản 2 Điều 12
cũng bổ sung thêm trường hợp cấp bách là Thủ trưởng Trại giam xem xét, giải quyết phạm nhân được liên lạc bằng điện
thoại với thân nhân nhưng không quá 10 phút căn cứ nội dung đơn trình bày của phạm nhân và đề xuất của quản giáo phụ
trách. Khi liên lạc bằng điện thoại với thân nhân, phạm nhân phải liên lạc đúng số điện thoại và nội dung đã đăng ký tại sổ
theo dõi phạm nhân liên lạc với thân nhân bằng điện thoại; phải sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt, trừ phạm nhân là người dân
tộc thiểu số hoặc phạm nhân là người nước ngoài không biết tiếng Việt.
Về chế độ xử phạt, phạm nhân thường xuyên vi phạm nội quy Trại giam thì được bố trí giam giữ riêng hoặc đang bị
thi hành kỷ luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, Thủ trưởng Trại giam có thể hạn chế việc liên lạc bằng điện thoại
với thân nhân nhưng không quá 03 tháng. Cơ sở giam giữ phạm nhân có trách nhiệm thông báo việc hạn chế liên lạc điện
thoại cho phạm nhân và thân nhân phạm nhân biết để thực hiện. Nếu phạm nhân đang bị điều tra, truy tố, xét xử về hành
vi phạm tội khác thì không được liên lạc với thân nhân bằng điện thoại. Cơ sở giam giữ phạm nhân có trách nhiệm thông
báo việc phạm nhân không được liên lạc với thân nhân bằng điện thoại cho phạm nhân và thân nhân phạm nhân biết để
thực hiện.
 Kết luận: Như vậy phạm nhân dưới 18 tuổi sẽ được quản lý, giáo dục đặc biệt, giam giữ theo chế độ riêng phù
hợp với sức khỏe, giới tính và đặc điểm nhân thân, sẽ được học văn hóa, pháp luật và được dạy nghề phù hợp.
Bên cạnh đó còn có những đãi ngộ riêng về các chế độ thăm, gặp gỡ liên lạc với thân nhân nhằm đảm bảo sức
khoẻ về tâm lý, bảo đảm sự phát triển tinh thần của những phạm nhân dưới 18 tuổi không bị ảnh hưởng quá nhiều
hoặc gián đoạn nặng nề trong suốt khoảng thời gian thi hành án. Luật THAHS 2019 và các văn bản dưới luật đã
cho ta thấy chính sách khoan hồng, nhân đạo của Nhà nước trong việc giáo dục, cải tạo người phạm tội với phạm
nhân là người dưới 18 tuổi.

Chế độ gặp gỡ, liên lạc với thân nhân của phạm nhân là người dưới 18 tuổi theo pháp luật nước ngoài.
So với pháp luật Việt Nam, việc quy định về chế độ gặp gỡ, liên lạc với thân nhân của phạm nhân là người nước
ngoài có một số sự khác nhau, cụ thể:
Trong Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về áp dụng pháp luật với người chưa thành niên (gọi tắt là Quy
tắc Bắc Kinh), có quy đoạn quy định như sau:
“a. Người chưa thành niên là trẻ em hay thanh thiếu niên mà tùy theo từng hệ thống pháp luật có thể bị xử lý khi
phạm tội, theo một phương thức khác với người lớn.”14
“2.3. Trong mỗi hệ thống pháp luật quốc gia, cần phải cố gắng xây dựng một hệ thống các văn bản pháp luật, những quy
tắc, quy định áp dụng riêng đối với người chưa thành niên phạm tội, và phải hình thành các tổ chức, các cơ quan được
giao phó chức năng áp dụng tư pháp đối với người chưa thành niên để:
a. Đáp ứng các nhu cầu khác nhau của người chưa thành niên phạm tội, đồng thời bảo vệ những quyền lợi cơ bản của các
em;
b. Đáp ứng nhu cầu của xã hội;
c. Thi hành những quy tắc sau một cách triệt để và công bằng.”15
Qua các quy định này có thể hiểu rằng, quy tắc Bắc Kinh mong muốn các quốc gia tham dự phải xây dựng một trình
tự thủ tục, một phương thức thi hành án cho trẻ em, thanh thiếu niên mà trong đó có người dưới 18 tuổi phải khác biệt so
với trình tự thủ tục, phương thức thi hành án cho người lớn.
Và để có thể đáp ứng các nhu cầu khác nhau của người chưa thành niên phạm tội, đồng thời bảo vệ những quyền lợi
cơ bản của các em đúng theo tinh thần của quy tắc này thì có thể xây dựng sự khác biệt ở phương thức thi hành án đối với
trẻ em, thanh thiếu niên, phạm nhân dưới 18 tuổi, chế độ gặp gỡ, liên lạc với thân nhân của người dưới 18 tuổi.
“Vì lợi ích và hạnh phúc của người chưa thành niên bị giam giữ, cha mẹ và người giám hộ phải được quyền thăm
nom.”16
Quy tắc Bắc Kinh đã có một quy định riêng nhằm đảm bảo việc thăm nom của cha, mẹ và người giám hộ đối với
người phạm tội là người chưa thành niên trong đó có phạm nhân dưới 18 tuổi. Điều này thể hiện sự quan trọng của chế độ
thăm, gặp gỡ nhân thân đối là người chưa thành niên. Đồng thời cúng thể hiện sự quan tâm của pháp luật quốc tế đối với
tâm lý, sự phát triển của phạm nhân chưa thành niên, phạm nhân dưới 18 tuổi.
Tương tự như Quy tắc Bắc Kinh, Công ước Liên Hiệp Quốc về quyền trẻ em năm 1990 cũng có đoạn quy định về sự
khác nhay trong thi hành án đối với trẻ em, phạm nhân là người dưới 18 tuổi như sau: “4. Đưa ra nhiều biện pháp khác
14
điểm a, mục 2.2, phần I, Quy tắc Bắc Kinh.
15
mục 2.3, phần I , Quy tắc Bắc Kinh.
16
mục 26.5, phần V, Quy tắc Bắc Kinh.
45
nhau như ra lệnh chăm sóc, hướng dẫn và giám sát; tư vấn; thử thách; chăm nuôi; các chương trình giáo dục và dạy nghề
và những biện pháp thay thế khác cho việc quản lý tại cơ sở nhằm bảo đảm cho trẻ em được đối xử phù hợp với phúc lợi
của trẻ và tương xứng với hoàn cảnh cũng như hành vi phạm tội của trẻ.” 17 Quy định này cũng hướng đến việc mong
muốn các quốc gia có sự khác nhau trong đối xử ở giai đoạn thi hành án giữa người thành niên phạm tội và người chưa
thành niên phạm tội.
 Kết luận: Thông qua 2 văn bản pháp lý về quyền trẻ em phổ biến trên thế giới đó là Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu
của Liên hợp quốc về áp dụng pháp luật với người chưa thành niên (gọi tắt là Quy tắc Bắc Kinh) và Công ước
Liên Hiệp Quốc về quyền trẻ em năm 1990, có thể thấy được: Các văn bản pháp lý nước ngoài rất coi trọng việc
được đối xử khác nhau giữa người chưa thành niên, người dưới 18 tuổi phạm tội, phạm nhân dưới 18 tuổi và
phạm nhân là người lớn, phạm nhân là người đã thành niên. Do đó, đã có những quy định để chỉ dẫn điều này.
Tuy nhiên, những quy định của phần lớn các văn bản pháp lý nước không có tính cụ thể, không có sự hướng dẫn
chuẩn chỉnh nào về việc phải tạo ra những sự khác biệt này như thế nào mà phần lớn để các nước thành viên đã
phê chuẩn tự xây dựng trong hệ thống pháp luật nước mình sao cho phù hợp với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội
của từng quốc gia.

SO SÁNH CHẾ ĐỘ GẶP GỠ, LIÊN LẠC VỚI THÂN NHÂN CỦA PHẠM NHÂN VÀ PHẠM NHÂN DƯỚI 18
TUỔI
Chế độ gặp gỡ, liên lạc với thân nhân của phạm nhân dưới Chế độ gặp gỡ, liên lạc với thân nhân của phạm nhân.
18 tuổi

-Theo quy định tại Chương XII Bộ luật hình sự thì Tòa án -Thông tư số 07/2018/TT-BCA ngày 12/02/2018 của
chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 Bộ trưởng Bộ Công an.
tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo Thông tư này áp dụng đối với phạm nhân đang chấp
dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa. Khi xử hành án phạt tù tại các cơ sở giam giữ phạm nhân;
phạt tù có thời hạn. Tòa án cho người dưới 18 tuổi phạm người đã có quyết định thi hành án phạt tù của Tòa án
tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với đang ở trong trại giam, Cơ quan thi hành án hình sự
người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với thời Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh,
hạn thích hợp ngắn nhất. Mức phạt tù có thời hạn áp dụng thành phố trực thuộc trung ương (gọi tắt là Cơ quan thi
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định cụ thể hành án hình sự Công an cấp huyện) chờ chuyển đến
tại Điều 101 Bộ luật Hình sự. nơi chấp hành án phạt tù; các cơ quan, tổ chức, cá nhân
có liên quan. Thông tư này không áp dụng đối với các
trường hợp thăm gặp, tiếp xúc lãnh sự.

-Điều 76 Luật Thi hành án hình sự 2019 quy định về chế Theo quy định của Thông tư 07/2018/TT-BCA quy
độ gặp, liên lạc điện thoại với thân nhân của phạm nhân định việc phạm nhân gặp thân nhân; nhận, gửi thư;
dưới 18 tuổi  nhận tiền, đồ vật và liên lạc điện thoại với thân nhân có
quy định rõ về Chế độ gặp thân nhân của phạm nhân

- Đối với hình thức gặp mặt: Phạm nhân là người dưới 18 -Trong đó, phạm nhân được gặp thân nhân một lần
tuổi được gặp thân nhân không quá 03 lần trong 01 tháng, trong 01 tháng, mỗi lần gặp không quá 01 giờ, trường
mỗi lần gặp không quá 03 giờ. Căn cứ kết quả xếp loại hợp đặc biệt thì được kéo dài thời gian nhưng không
chấp hành án, yêu cầu giáo dục cải tạo, thành tích lao quá 03 giờ. Phạm nhân được khen thưởng thì được gặp
động, học tập của phạm nhân, Giám thị trại giam quyết thân nhân thêm một lần trong 01 tháng. Phạm nhân
định kéo dài thời gian gặp nhưng không quá 24 giờ. Phạm chấp hành nghiêm chỉnh nội quy, quy chế trại giam
nhân là người dưới 18 tuổi được khen thưởng thì được gặp hoặc lập công thì được gặp vợ hoặc chồng ở phòng
thân nhân thêm 01 lần trong 01 tháng. riêng không quá 24 giờ. Trường hợp đại diện cơ quan,
- Đối với hình thức liên lạc qua điện thoại: Phạm nhân là tổ chức hoặc cá nhân khác có đề nghị được gặp phạm
người dưới 18 tuổi được liên lạc bằng điện thoại trong nhân thì Giám thị trại giam, Giám thị trại tạm giam,
nước với thân nhân không quá 04 lần trong 01 tháng, mỗi Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp
lần không quá 10 phút, có sự giám sát của cán bộ trại huyện xem xét, giải quyết. Trừ trường hợp đang bị kỷ
giam và tự chịu chi phí. luật thì phạm nhân không được gặp thân nhân. Những
Theo đó, chế độ gặp đối với phạm nhân dưới 18 tuổi về cơ phạm nhân chấp hành tốt Nội quy của cơ sở giam giữ;
bản vẫn giữ nguyên số lần gặp trong một tháng và thời tích cực học tập, lao động hoặc để thực hiện quyền,

17
khoản 4, điều 40 phần I, Công ước của Liên Hiệp Quốc về quyền trẻ em năm 1990.
46
gian gặp như trong Luật Thi hành án hình sự 2010 nhưng nghĩa vụ theo quy định của pháp luật thì được kéo dài
được bổ sung thêm nội dung: “Căn cứ kết quả xếp loại thời gian thăm gặp nhưng không quá 3 (ba) giờ.
chấp hành án, yêu cầu giáo dục cải tạo, thành tích lao về chế độ liên lạc của phạm nhân
động, học tập của phạm nhân, Giám thị trại giam quyết Về nguyên tắc được quy định tại Điều 54 Luật thi hành
định kéo dài thời gian gặp nhưng không quá 24 giờ. Phạm án hình sự năm 2019, chế độ liên lạc của phạm nhân
nhân là người dưới 18 tuổi được khen thưởng thì được gặp được thực hiện như sau:
thân nhân thêm 01 lần trong 01 tháng.” – Phạm nhân được gửi mỗi tháng 02 lá thư. Giám thị
Điều này được quy định chi tiết hơn tại khoản 2 Điều 3 trại giam, Giám thị trại tạm giam, Thủ trưởng cơ quan
Thông tư số 14/2020/TT-BCA như sau: “Phạm nhân là thi hành án hình sự Công an cấp huyện phải kiểm tra,
người dưới 18 tuổi được gặp thân nhân theo quy định tại kiểm duyệt thư mà phạm nhân gửi và nhận.
khoản 1 Điều 76 Luật Thi hành án hình sự năm 2019. – Phạm nhân được liên lạc điện thoại trong nước với
Phạm nhân là người dưới 18 tuổi có ít nhất hai quý liền kề thân nhân mỗi tháng 01 lần, mỗi lần không quá 10
với thời điểm gặp thân nhân được xếp loại tốt và thời gian phút, trừ trường hợp cấp bách. Giám thị trại giam,
từ khi xếp loại quý liền kề gần nhất đến thời điểm gặp Giám thị trại tạm giam, Thủ trưởng cơ quan thi hành án
thân nhân được nhận xét, đánh giá, xếp loại chấp hành án hình sự Công an cấp huyện xem xét, quyết định việc
phạt tù tốt và được khen thưởng do có thành tích lao động, cho phạm nhân liên lạc bằng điện thoại và tổ chức
học tập theo quy định tại khoản 1 Điều 41 Luật Thi hành kiểm soát việc liên lạc này.
án hình sự năm 2019 thì Giám thị trại giam có thể xem Cụ thể quy định trên, tại Điều 11, điều 12 Thông tư
xét, giải quyết việc kéo dài thời gian gặp ông, bà nội; ông, 14/2020/TT-BCA quy định chi tiết chế độ gặp, nhận
bà ngoại; bố, mẹ đẻ ở phòng riêng nhưng không quá 24 quà và liên lạc của phạm nhân
giờ.” Mỗi lần đến gặp phạm nhân tối đa không quá 3 thân
Bên cạnh đó, Thông tư số 14/2020/TT-BCA cũng quy nhân. Trường hợp đặc biệt do yêu cầu giáo dục cải tạo,
định các hình thức gặp gỡ của phạm nhân và thân nhân. thủ trưởng cơ sở giam giữ phạm nhân có thể quyết định
Phạm nhân có thể gặp thân nhân ở phòng riêng hoặc ăn việc tăng số lượng thân nhân được gặp phạm nhân
cùng thân nhân tại căng tin nhà gặp phạm nhân, thời gian nhưng không quá 5 người và phải đảm bảo việc phạm
ăn cơm không quá 01 giờ. nhân gặp thân nhân không làm ảnh hưởng đến an ninh,
Sự bổ sung này xuất phát từ đặc điểm à nhu cầu của người an toàn cơ sở giam giữ phạm nhân
dưới 18 tuổi. Đối với phạm nhân là người dưới 18 tuổi,
lứa tuổi đang phát triển và tiến tới hoàn thiện về tâm sinh
lí, nhu cầu được gặp thân nhân chia sẻ, động viên là rất
chính đáng và cần thiết. Qua việc gặp gỡ phạm nhân dưới
18 tuổi những người thân trong gia đình có thể nhanh
chóng phát hiện những biểu hiện tiêu cực, bất thường của
họ để có thể xử lý kịp thời. Sự bổ sung này thể hiện chính
sách nhân đạo đối với phạm nhân dưới 18 tuổi, góp phần
khuyến khích họ học tập, lao động, cải tạo tốt để sớm
được trở về đoạn tụ với gia đình, trở thành công dân có
ích cho xã hội.
Khi liên lạc bằng điện thoại với thân nhân, phạm nhân
phải liên lạc đúng số điện thoại và nội dung đã đăng ký tại
sổ theo dõi phạm nhân.

 Kết luận: Như vậy, có thể thấy, Luật THAHS 2019 và các văn bản dưới luật đã cụ thể hóa chính sách khoan hồng,
nhân đạo của Nhà nước ta trong việc giáo dục, cải tạo người phạm tội và ngày càng tương thích với pháp luật
quốc tế về quyền con người, đặc biệt là với phạm nhân là người dưới 18 tuổi. Do vậy, chế độ gặp, liên lạc điện
thoại với thân nhân của phạm nhân là người dưới 18 tuổi trong công tác thi hành án phạt tù liên tục được cập nhật
bổ sung các trường hợp đặc biệt có thể phát sinh cũng như có cơ chế thưởng phạt rõ ràng, hướng tới việc bảo đảm
quyền cho người dưới 18 tuổi phạm tội.

PHẦN KẾT LUẬN:


Người dưới 18 tuổi là một trong các nhóm dễ bị tổn thương, do độ tuổi còn nhỏ, chưa phát triển đầy đủ về thể chất và
tâm sinh lí. Khi tham gia vào tố tụng hình sự (TTHS) nói chung và giai đoạn thi hành án nói riêng, họ dễ gặp khó khăn
trong việc thực hiện các quyền so với các đối tượng khác.

47
Chế độ thăm gặp phạm nhân dưới 18 tuổi về cơ bản vẫn giữ nguyên số lần gặp trong một tháng và thời gian gặp
nhưng được bổ sung thêm nội dung: “Căn cứ kết quả xếp loại chấp hành án, yêu cầu giáo dục cải tạo, thành tích lao động,
học tập của phạm nhân, Giám thị trại giam quyết định kéo dài thời gian gặp nhưng không quá 24 giờ. Phạm nhân là người
dưới 18 tuổi được khen thưởng thì được gặp thân nhân thêm 01 lần trong 01 tháng.
Điều này được quy định chi tiết hơn trong Thông tư số 14/2020/TT-BCA ngày 10/02/2020 của Bộ Công an quy định
chi tiết chế độ gặp, nhận quà và liên lạc của phạm nhân. Khoản 2 Điều 3 Thông tư này giải thích rõ hơn về điều kiện được
kéo dài thời gian gặp: “Phạm nhân là người dưới 18 tuổi có ít nhất hai quý liền kề với thời điểm gặp thân nhân được xếp
loại tốt và thời gian từ khi xếp loại quý liền kề gần nhất đến thời điểm gặp thân nhân được nhận xét, đánh giá, xếp loại
chấp hành án phạt tù tốt và được khen thưởng do có thành tích lao động, học tập theo quy định tại khoản 1 Điều 41 Luật
THAHS năm 2019 thì giám thị trại giam có thể xem xét, giải quyết việc kéo dài thời gian gặp ông, bà nội; ông, bà ngoại;
bố, mẹ đẻ ở phòng riêng nhưng không quá 24 giờ”. Bên cạnh đó, Thông tư số 14/2020/TT-BCA cũng quy định các hình
thức gặp gỡ của phạm nhân và thân nhân. Phạm nhân có thể gặp thân nhân ở phòng riêng hoặc ăn cơm cùng thân nhân tại
căng tin nhà gặp phạm nhân, thời gian ăn cơm không quá 01 giờ.
Sự bổ sung này xuất phát từ đặc điểm và nhu cầu của người dưới 18 tuổi. Đối với phạm nhân dưới 18 tuổi, lứa tuổi
đang phát triển và tiến tới hoàn thiện về tâm sinh lí, nhu cầu được gặp thân nhân chia sẻ, động viên, tâm sự là nhu cầu
chính đáng và cần thiết. Những người thân trong gia đình hoặc bạn bè của phạm nhân dưới 18 tuổi qua gặp gỡ, tiếp xúc có
thể phát hiện nhanh chóng những biểu hiện tiêu cực của họ để có tác động kịp thời, định hướng tốt cho sự phát triển của
phạm nhân dưới 18 tuổi. Do đó, khi phạm nhân dưới 18 tuổi cải tạo tốt, có thành tích trong lao động, học tập, việc được
kéo dài thời gian gặp thân nhân và được tăng thêm số lần gặp là nguồn động viên, khuyến khích mạnh mẽ cho những nỗ
lực của họ. Sự bổ sung này thể hiện chính sách nhân đạo đối với người dưới 18 tuổi, góp phần thúc đẩy họ tham gia học
tập, cải tạo tốt. Đây là điểm tiến bộ của Luật THAHS năm 2019.

48
49

You might also like