You are on page 1of 15

Chuyên đề

Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

(Trích “Chinh phụ ngâm”)


- Tác giả: đặng Trần Côn
- Dịch giả: đoàn thị điểm
I. Tìm hiểu chung dẹp, nhiều trai tráng phải ra
1. Tác giả và dịch giả mặt trân, nhiều người vợ lính
phải mòn mỏi chờ trông. Đặng
- Đặng Trần Côn: sống vào thế Trần Côn “căm thời thế mà”,
kỉ XVIII là tác gủa của tác thương cho nỗi lòng của người
phẩn “CPN” (bản chữ Hán) chinh phụ viết nên tác phẩm
- Đoàn Thị Điểm sống vào thế c. Thể loại: ngâm khúc
kỉ XVIII, là dịch giả diễn Nôm
thành công nhất là tác phẩm - Là thể thơ trữ tình dài hơi
“CPN” dùng để ngâm nga, than vãn,
nhằm bộc lộ tâm trạng buồn
2. Tác phẩm “Chinh phụ ngâm” phiền, đau xót, triền miên,
a. Vị trí: là 1 trong những day dứt
tuyệt tác hàng đầu của VH cổ - Đây là thể loại phát triển
điển VN mạnh trong giai đoạn từ giữa
b. HCST: thế kỉ 18 đến giữa thế kỉ 19
như; Cung oán ngân khúc
- 1740, đầu đời Lê Hiển Tông
(Nguyễn Gia Thiều), Tự tình
(1740 – 1786). Lúc này chiến
khúc (Cao Bá Nhạ)
tranh giữa các tập đoàn
phong kiến diễn ra liên miên, d. Nội dung và nghệ thuật:
có nhiều cuộc khởi nghĩa của - Nội dung: tác phẩm là hồi ức
nông dân nổ ra quanh kinh về những ngày chinh phu lên
thành Thăng Long, triều đinh đường, mong lập đc chiến
cất quân đánh công trở về vẻ vang để rồi khi
người chồng ra trận, chinh
phụ vò võ 1 mình trong nỗi nhớ
nhung triền miên, trong tình
cảnh đơn chiếc. Tác phẩm đòi quyền hưởng hạnh phúc
dằng dặc nỗi niềm oán thán lứa đôi cho người phụ nữ trong
tình cảnh chia ly, là niềm hối XH xưa. Đây là giá trị sâu sắc,
tiếc về tuổi xuân, về hạnh mới mẻ của đoạn trích
phúc, là ước nguyện, khao
- Nghệ thuật: Đoạn trích thể
khát tình yêu lứa đôi
hiện bút lực của tác giả và
- Nghệ thuật: trường đoạn cú dịch giả trong NT miêu tả thế
(nguyên tác chứ Hán), song giới nội tâm nhân vật với bút
thất lục bát (bản dịch Nôm) pháp tả cảnh ngụ tình, sử
dụng hiệu quả nhiều BPTT như:
+ Hình ảnh mang tính ước lệ,
điệp ngữ, so sánh, câu hỏi tu
tượng trưng
từ, âm điệu trầm buồn da
+ NT tả cảnh ngụ tình diết, khắc khoải, ngôn ngữ
+ Bản dịch đã đưa ngôn ngữ chọn lọc, giàu giá trị biểu
dân tộc lên 1 tầm cao mới, cảm, uyển chuyển, tinh tế
phong phú, uyển chuyển c. Bố cục (2 phần)
3. Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi - Phần 1 (16 câu đầu): nỗi cô
của người chinh phụ” đơn của người chinh phụ
a. Vị trí: Đoạn trích từ câu - Phần 2 (còn lại): nỗi thương
193 đến câu 216 của tác phẩm nhớ chồng nơi xa
b. Nôi dung và nghệ thuật II. Tim hiểu tác phẩm
- Nội dung:
+ Đoạn trích tái hiện nỗi cô
đơn buồn khổ, bế tác, niềm
nhớ nhung dằn vặt và niềm
mong mỏi, khát khao hạnh
phúc lứa đôi của người chinh
phụ, khi sống trong cảnh
phòng khuê lẻ bóng
+ Qua đó Đặng Trần Côn cất
tiếng lên án chiến tranh
phong kiến phu nghĩa, tiến nói
Đề 1: Phân tích/ cảm nhận 16 câu đầu của đoạn trích + rút ra
nhận xét về tấm lòng nhân đạo cao cả của Đặng Trần Côn
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
….
Duây uyên kinh dát, phim loạn ngại chùng”
I. Mở bài

“Chinh phụ ngâm” (tác giả Đằng Trần Côn, dịch giả Đoàn Thị
Điểm) đc đánh giá là 1 trong những tuyệt tác hàng đầu của văn
học cổ điển VN. Trải qua bao thăng trầm biến đổi của tgian. Trải
qua bao thăng trầm biến đổi của tgian, tác phẩm vẫn luôn giữ đc
giá trị của 1 viên ngọc thi ca sáng ngời, 1 thi phâm làm nên vẻ vag
cho “xứ sở vốn nổi tiếng thi thư” (Nguyễn Trãi). “Tình cảnh lẻ loi
của người chinh phụ” là 1 trong những đoạn trích đặc sắc của tác
phẩm, tập trung khắc họa nỗi cô đơn sầu muộn, nỗi nhớ nhung da
diết của người xhinh phụ với người chồng đg biền biệt cách xa. 16
câu đầu đoạn trích miêu tả nỗi cô đơn của người chinh phụ và
thể hiện được tấm lòng nhân đạo cao cả của ĐTC
II. Thân bài
1. Khái quát chung
- Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm: nửa đầu thế kỉ 18 là thời kì vô
cùng rối ren của XHPK VN. Chiến tranh xảy ra liên miên hết Lê –
Mạc đánh nhau đến Trịnh – Nguyễn phân tranh, đất nước chia
làm 2 nửa. Khởi nghĩa nông dân nổ ra, triều đình phải cất quân đi
đánh dẹp. Dân chúng sống trong cảnh loạn li nồi da nấu thịt, cha
mẹ xa con, xa vợ chồng…. Trước hiện thực XH thối nát, văn học
thời kì này đã tập trung phản ánh bản chất của giai cấp thống thị
và nỗi đau khổ của nhân dân. Trong đó, tác giả Đặng Trần Côn
đồng cảm với nỗi niềm của người phụ nữ có chồng ra trận để nói
lên nỗi lòng của họ. “Chinh phụ ngâm” ra đời đã nhận đc sự đồng
cảm rộng rãi của tầng lớp Nho sĩ. Có nhiều người dịch tác phẩm
này sang chữ Nôm, trong đó bản dịch của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm đc
đánh giá là hoàn hảo hơn cả
- Vị trí đoạn trích: trích đoạn “Tình cảnh lẻ loi của người chinh
phụ” là từ 193 đến câu 216 của tác phẩm, diễn tả tâm trạng của
người chinh phụ khi phải xa chồng. Trước khi diễn ra đoạn trích
này, người chinh phụ đã sống trong những giờ phút nhớ mong chờ
đợi hy vọng rồi thất vọng. Nàng nhớ lại lời hẹn ngày về của chồng.
Nàng hy vọng vào lời hẹn ước, “hết sớm đã trông chiều lại tìm”.
Nhưng rồi con sóng mong nhớ ấy cứ dồn đuôi nhau để rồi tan vỡ
phũ phàng nơi chân trời vô vọng “tin thường lại người không thấy
lại”, “thư thường tới người không thấy tới”. Bởi thế ở khúc đoạn
trường 16 câu thơ này nỗi nhớ da diết hơn và nỗi sầu cũng sâu sắc
hơn
2. Cảm nhận đoạn trích
- Yếu tố: ngoại cảnh, ngoại hiện, ngôn ngữ -> nội tâm nhân vật trữ
tình
a. Tám câu đầu
- Đi dạo ngoài hiên vắng, thầm đếm từng bước chân của mình
- Ngồi trước rèm thưa, buồn xuống, cuốn lên nhiều lần
- Ngoài rèm, con chim khách chẳng mách tin có người về
- Trong rèm, có ngọn đèn may ra thấu hiểu, biết đc lòng chinh
phụ
- Ngọn đèn kia có biết những cũng không thể hiểu đc, không đồng
cảm đc với nàng
- Nàng chỉ còn 1 mình mình biết, 1 mình mình đâu
- Buồn rầu chẳng nói nên lời
- Thương cho cái bóng cô đơn của mình giống ngọn đèn đg lụi tàn
đi
* Bối cảnh: Mở đầu đoạn trích tác giả đã đặt nhân vật và 1
kgian, tgian cụ thể: “hiên vắng, phòng khuê, đêm khuya lẻ bóng”.
Đêm khuya thanh vắng đã khơi dậy trong lòng người chinh phụ
phải đối mặt và trải qua suốt những tháng ngày xa cách chồng.
Cái xót xa và trớ trêu là người phụ nữ trẻ trung đầy khao khát ấy
phải ở ngày trong chính căn phòng hạnh phúc, ngay trong kgian in
dấy bao kỉ niệm lữa đôi nên càng cảm nhận thấm thía nỗi cô độc,
lẻ loi
* Tâm trạng
- Nỗi cô đơn của người chinh phụ trước hết đc diễn tả qua cử chỉ,
hành động:
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèn thưa rủ thác đòi phen
Ngoài rèm thước chẳng mách tin
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng”
+ Những câu thơ song thất lục bát với âm điệu trầm buồn tái hiện
những hành động lặp đi lặp lại vừa gợi cuộc sống bế tắc vừa gợi
tả nỗi bồn chồn, lo lắng, mòn mỏi chờ trông “trăm mối tơ vò” của
người chinh phụ. Ngoài hiên vắng, 1 mình nàng “âm thầm gieo từng
bước”, đi lại quẩn quanh, mỗi bước chân chất chứa đầy tâm
trạng. Trong phòng khuê, nàng lại buôn rèm xuống, cuốn rèm lên
nhiều lần. Thời gian cứ chậm chạp trôi qua, nàng cứ chìm đắm
miên man với muôn vàn nghĩ suy. Mỗi bước cân là 1 niềm nhớ, mỗi
động tác kéo rèm là 1 niềm lo. Những hành động vô thức ấy gợi tả
đc những dòng cảm xúc, tâm trạng sâu kín trong lòng người.
+ Người chinh phụ ngồi rèm thưa mà ngóng đợi. Nàng sốt ruột
mong ngóng 1 tiếng chim thước báo tin vui, hi vọng mong manh
người chồng sẽ quay về, bóng dáng thân thương hiện ra sau bức
rèm kia. Nhưng mong hoài mà “thước chẳng mách tin”, nỗi thất
vọng, mong chờ cứ thế tiếp tục gặm nhấm cõi lòng nàng
+ Cuộc sống trong rèm bó buộc tù túng, kgian chật hẹp của căn
phòng giam hãm người xhinh phụ trong nỗi sầu đau không cách
nào giải tỏa:
“Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng
Đèn có biết dường bằng chẳng biết”
Sự xuất hiện của hình ảnh ngọn đèn diễn tả bước đi của tgian từ
ngày sang đêm. “Ngày thì ngóng trông, đêm thì buồn tủi”, Người
chinh phụ chỉ biết tâm sự cùng ngọn đèn khuya. Dưới hình thức
câu hỏi tu từ, dịch giả đã tô đậm nỗi niềm sầu héo của người
chinh phụ. Lời thơ thực chất là lời tự than, đầy ngâm ngùi, xót xa.
Trong văn học xưa, hình ảnh ngọn đèn thường là biểu tượng cho sự
thao thức đợi chờ. Ta nhớ đên những câu ca dao quen thuộc:
“Đèn thương nhớ ai
Mà đèn không tắt”
Chỉ có điều trong 2 câu ca dao, hình ảnh “đèn” ẩn dụ cho con
người còn trong đoạn trích trên, “đèn” và “người” tách biệt.
Nàng những mong đèn kia có thể thấu hiểu, sẻ chia nỗi lòng nhưng
đèn chỉ là vật vô tri vô giác, không thể thấu hiểu, khổ thể sẻ
chia. Điệp ngữ bắc cầu “đèn biết chăng – đèn có biết” diễn ta
nỗi uồn da diết, miên man của người chinh phụ
- Nỗi niềm cô đơn của người chinh phụ tiếp tục đc miêu tả trực
tiếp trong vần thơ trĩu nặng xúc cảm:
“Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi
Buồn rầu nói chẳng nên lời
Hoa đèn kia với bóng người khá thương”
+ Nàng tự đối diện với nỗi lòng đầy “bi thiết”, “buồn rầu’ của
mình. Từ bi thiết đã cực tả đc tâm trạng cô đơn, sầu muộn của
người chinh phụ. “Bi thiết” là bi thương, thảm thiết, đau đớn
không nói thành lời, nỗi đau thương ấy chỉ còn biết kìm nén, chôn
chặt vào cõi lòng. Nàng 1 mình “ngậm sầu, nuổi tủi”, một minh đối
diện với chiếc bóng mình in hình trên tấm rèn, bất động như hóa
đá trong khi đêm đã rất khuya, dầu đã sắp cạn, đầu ngọn bấc
đã cháy thành than, thành hoa lửa. Đọc những dòng thơ này, nhà
phê bình Nguyễn Hữu Sơn từng có cảm nhận “con người đã bị vật
hóa tựa như tàn đèn cháy đỏ kết lại đầu sợi bấc, con người bây
giờ chỉ còn là bóng người trống trải, vừa đối xứng vừa đồng dạng
và là hiện thân của chính hoa đèn tàn lụi”. Quả là như vậy, ngọn
đèn vừa chứng kiến vừa soi tỏ nỗi cô đơn của người phụ nữ xa
chồng. Và khi người phụ nữ đáng thương ấy đối diện với ngọn đèn
thì lại nhận ra chính mình, tự phơi trải nỗi đau của mình mà thốt
lên lời tự thương mình xót xa. Nàng tự thấy mình chỉ như kiếp hoa
đèn mong manh và lụi tnaf. Hoa đèn và bóng người phải chiếu vào
nhau diễn tả nỗi cô đơn đến héo úa, hao mòn, tàn phai của người
chinh phụ
-> Có thể nói, tron 8 câu thơ đầu, tác giả đặc tả cảm giác cô
đơn của người chinh phụ. Đó là cảm giác lúc nào và ở đâu cũng
thấy lẻ loi, ban ngày hay ban đêm, ngoài hiên vắng hay trong căn
phòng… Nỗi cô đơn, khắc khoải ấy tưởng chừng ngập tràn kgian
và kéo dài vô tân theo tgian
b. 8 câu sau
- Để khơi sâu dòng chảy tâm trạng, 2 câu thơ tiếp, tác giả sử
dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình, dùng ngoại cảnh để khơi sâu vào
thế giới nội tâm:
“Gà eo óc gáy sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên”
Âm thanh tiếng gà gáy sang canh đc miêu tả qua từ láy tượng
thanh “eo éc”. Tiếng gà gáy báo sáng làm tăng thêm tĩnh mịch,
vắng lặng qua NT lấy động tả tĩnh. Hình ảnh cây hòe phất phơ rủ
bóng giữa 4 bề qua từ láy tượng hình “phất phơ” gợi lên sự hoang
vu, ớn lạnh. Đó cũng là cảm giác ớn lạnh, u sầu trong cô quạnh
của lòng người. Con người bị bủa vây trong nỗi cô đơn, buồn sầu.
Người chinh phụ lẻ loi, cô độc đến tội nghiệp giữa đêm khuya lạnh
lẽo
- Trong đêm khuya vò võ, mỗi thời khắc trôi qua thật chậm, nặng
nề và vô vị:
“Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mỗi sầu dằng dặc tựa miền biển xa”
+ Hai câu thơ đc coi là tuyệt bút. Tác giả đã sử dụng thủ pháp so
sánh, NT cường điệu cùng các từ láy gợi hình, gợi cảm diễn tả tận
cùng chiều sâu tâm trạng của nhân vật trữ tình. Từ láy “đằng
đẵng” gợi tả bước đi chậm chạp, triền miên của thời gian. Mỗi
khắc như cả năm trường. Nguyễn Du đã từng viết:
“Sầu đong càng lắc càng đầy
Ba thu dồn lại một ngày dài ghê”
Quả thật qua cách miêu tả của những cây bút bậc thầy, thời gian
vật lí đc tâm lí hóa trong sự chờ đợi mà kéo dài lê thê, triền miên
ko dứt
+ Còn mối sầu của người chinh phụ lại đc so sánh với hình ảnh cụ
thể “tựa miền biển xa”. Đó là 1 kgian rộng lớn, khó có thể đo đếm.
Mối sầu dằng dặc như biển xa ko bến bờ, trĩu nặng trong lòng.
Kgian vật lí đã hóa kgian tâm lí. Nỗi cô đơn, sầu muộn kéo dài
tgian, bao trùm kgian. Lời thơ với âm điệu buồn thương như tiếng
thở dài, buồn tủi
- Không muốn chìm đắm trong bi thương triền miên, người chinh
phụ đã cố gắng tìm mọi cách để vượt ra khỏi vòng vây của cảm
giác cô đơn đáng sợ bằng 1 loạt các hoạt động:
“Hương gượng đốt hồn đà mê mải
Gương gượng soi lệ lại châu chan
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng”
+ Điệp từ “gượng” lặp lại tới 3 lần trong lời thơ cho thấy sự gắng
gượng, hành động có phần gượng gạo của chinh phụ. Nàng “gượng
thắp hương” muốn xua tan lạnh lẽo, tìm sự thanh thản. Nhưng khói
trầm lan tỏa khiến “hồn đà mê mải”, tâm trí mê man, bấn loạn
+ Nàng gắp gượng soi gương, trang điểm lại dung nhan nhưng nhìn
vào gương mặt u sầu, can chứa nước mắt “lệ châu chan”. Vắng
chồng rồi điểm phấn, tô hồng với ai, soi gương, nàng lại nhận ra
nhan sắc tàn phải và tuổi thanh xuân đg trôi đi rất nhanh. Khuôn
mặt đầm đìa nước mắt, nỗi đau càng ngập đầy hơn
+ Nàng lại gượng gảy phím đàn nhưng khi chạm đến cây đàn nàng
lại thấy tủi thân trước những hình ảnh là biểu tượng của đôi lữa:
Đàn sắt, đàn cầm gảy hòa âm với nhau đc ví như cảnh vợ chồng
hòa thuận. Dây đàn uyên ương gảy khúc đàn loan phượng sum vầy
thì lại chạnh lòng vì tình cảnh vợ chồng đg chia xa đôi ngả. Nàng
lại lo sơ dây uyên đứt, phím loan chủng sẽ báo hiệu chúng điều
chẳng lạnh. Rốt cuộc, người chinh phụ vẫn phải ngẩn ngơ trở về
với nỗi bị thiết trong lòng. Mọi sự cố gắng đều trở nên vô ích, bởi
chạm đến đâu cũng là chạm vào nỗi đau, chạm vào tình cảnh lẻ
loi đơn chiếc
3. Đánh giá chung
- Nội dung: đoạn thơ đã diễn tả sâu sắc, tinh tế nỗi cô đơn, lẻ loi
của người chinh phụ khi có chồng đi chinh chiến nơi xa biền biệt.
Ẩn chứa sau câu chữ là khát vọng đc sống trong tình yêu và hạnh
phúc. Lời thơ cũng tiếng nói lên án, tố cáo chiến tranh phi nghĩa
- nghệ thuật: đoạn thơ đã miêu tả thành công thế giới nội tâm
nhân vật bằng bút pháp trữ tình đa dạng: nghệ thuật ngoại hiên
(tả nội tâm qua ngoại hình, cử chỉ, hành động,…), nghệ thuật tả
cảnh ngụ tình; sử dụng hiệu quả nhiều BPTT (điệp, so sánh, câu hỏi
tu từ,…); âm điệu trong từng lời thơ trầm buồn da diết, khắc
khoải; ngôn ngữ chọn lọc, giàu giá trị biêu cảm, uyển chuyển, tinh
tế… Quả không sai khi có ý kiến rằng “Chinh phụ ngâm” là cuốn
sách của nghìn tâm trạng” và ĐTC là bậc thầy trong khám phá
tâm lý con người
III. Kết bài
Thơ là giai điệu, là bản nhạc sâu lắng của tâm hồn, mỗi câu
thơ, ý thơ là tiếng ngân rung của tâm trạng, cảm xúc. Bởi vật mới
có ý kiến cho rằng “Thơ ca bao giờ cũng là tấm gương của tâm
hồn, là tiếng nói của tình cảm con người”. Mỗi lời thơ trong
“TCLLNCP” là tiếng nói tình cảm và sự ý thức về quyền sống,
quyền hưởng hạnh phúc lứa đôi của người phụ nữ ngay giữa cuộc
đời trần thế này. Đoạn trích, nhất là 16 câu đầu đã khẳng định
những giá trị nhân đạo cao cả mà khúc ngâm đã đẹp lại, đánh
dấu bước trưởng thành vượt bậc của văn chương thế kỉ XVIII
trong quá trình phát triển của nền VHVN

Đề 2: Cảm nhận/ phân tích 8 câu thơ cuối của đoạn trích
“TCLLCNCP”. Từ đó rút ra nhận xét về nghệ thuật miêu tả nội tâm
nhân vật đặc sắc của tác giả
“Lòng này gửi gió đông có tiện

Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun”
I. Mở bài

“Chinh phụ ngâm” (tác giả Đằng Trần Côn, dịch giả Đoàn Thị
Điểm) đc đánh giá là 1 trong những tuyệt tác hàng đầu của văn
học cổ điển VN. Trải qua bao thăng trầm biến đổi của tgian. Trải
qua bao thăng trầm biến đổi của tgian, tác phẩm vẫn luôn giữ đc
giá trị của 1 viên ngọc thi ca sáng ngời, 1 thi phâm làm nên vẻ vag
cho “xứ sở vốn nổi tiếng thi thư” (Nguyễn Trãi). “Tình cảnh lẻ loi
của người chinh phụ” là 1 trong những đoạn trích đặc sắc của tác
phẩm, tập trung khắc họa nỗi cô đơn sầu muộn, nỗi nhớ nhung da
diết của người xhinh phụ với người chồng đg biền biệt cách xa.Ở
8 câu thơ cuối tác gủa tập trung miêu tả nỗi nhớ thương chồng da
diết và niềm khao khát đc sống trong hạnh phúc lứa đôi của nhân
vật
“Lòng này gửi gió đông có tiện

Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun”
II. Thân bài
1. Khái quát chung
Đất nước loạn lạc, nội chiễn liên miên, người chinh phu vâng
mệnh vua “Xếp bút nghiên theo nghiệp binh đao”, người chinh phụ
ở lại héo hon trong nỗi cô đơn, đợi chờ. Trong đoạn trích
“TCLLCNCP”, nếu 16 câu thơ đâu, tác giả và dịch giả đã khắc họa
tình cảnh lẻ loi đơn chiếc và nỗi sầu muộn, trống trải thì 8 câu
thơ cuối tập trung diễ tả sâu sắc, cảm động nỗi nhớ thương đến
khắc khoải và nỗi khao khát hạnh phúc lứa đôi trào dâng mãnh
liệt trong lòng người chinh phụ
2. Cảm nhận đoạn trích
* Trong đêm khuya lẻ bóng, “khắc giờ như niên”, mối sầu dằng
dặc” như biển xa cứ trĩu nặng trong lòng người vợ cách xa chồng,
người chinh phụ khắc khoải, thao thức trong nỗi nhớ nhung. Hai
câu thơ đầu thể hiện ước muốn, khao khát của người chinh phụ:
“Lòng này gửi gió đông có tiện
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên”
Cái nhìn nội tâm của nhân vật trữ tình đg hướng về miền biên ải.
Kgian có sự thay đổi, chuyển từ buồng khuê chật hẹp, tù túng
sang thiên nhiên rống lớn. “Lòng này” là sự thương nhớ khôn nguôi,
vì trả qua nhiều đợi chờ. Nỗi nhớ ấy của người chinh phụ như bao
trùm cả kgian. Nỗi nhớ gửi vào “gió đông” (gió mùa xuân), với
niềm mong ước: gửi tấm lòng thương nhó của mình tới người chồng
nơi xa, mong ngọn gió xuân dịu nhẹ sẽ mang theo hơi ấm tình
thương để làm vơi nỗi vất vả, gian lao của người chinh phu đg
trong cảnh “lạnh lùng những chỗ sương phong”, “xông pha gió bão,
trăng ngàn”. Đó cũng là ước muốn, là khát khao đc biết tin tức về
chồng. Lời ướm hỏi nghe thật xót xa, tội nghiệp vừa ẩn chứ bao hi
vọng nhưng cũng thật vô vọng
Câu thơ thứ hai, xuất hiện NT ẩn dụ và hình ảnh ước lệ đã thể
hiện rõ hơn, cụ thể hơn mong mỏi của người chinh phụ. “Nghìn
vàng” là ẩn dụ để nói đến tấm lòng thương nhớ, sắt son, trân quý
như ngàn vàng của người vợ với chồng. Tấm lòng “nghìn vàng” ấy
xin gửi đến non Yên. Hình ảnh ước lệ “non Yên” chỉ nơi chiến trận
ngoài biên ải, nơi người chồng đg chinh chiến. Lời thơ gọi mở
kgian xa cách nghìn trùng, khoảng cách biệt li biền biệt giữa 2
người. Câu thơ cất lên da diết, khắc khoải, mong mỏi đến cháy
ruột gan (“xin gửi”) nhưng mong ước ấy vừa nhen lên đã vội vụt tắt
bởi khoảng cách giữa 2 đầu nỗi nhớ là khôn cùng
- 4 câu thơ tiếp, nỗi lòng của người chinh phụ đc diễn tả sâu sắc
và cảm động với nỗi nhớ thương vời vợi
“Non Yên dù chắng tới miền
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong”
Chẳng thể gửi “lòng này” tới đc miền non Yên, nơi người chồng đg
“nằm vùng cát trắng, nủ cồn rêu xanh” nên nỗi nhớ thương càng
đè nặng, chất chứa. Thần sắc của nỗi nhớ thể hiện qua 2 từ láy
“thăm thẳm” và “đau đáu”. Từ thăm thẳm giàu sức gợi, gợi chiều
cao ko cùng của đường lên trời, chiều dài hun hút của đường biên
ải, chiều sâu ko giới hạn của cõi lòng người chinh phụ. Nó là
trường độ của nỗi nhớ, là cường độ của niềm thương. Còn từ “đau
đáu” lại biểu hiện sự trăn trờ, thường trực ko thể nguôi ngoai của
nỗi nhớ. “Đau đáu” còn gợi ánh mắt ngóng trông, tập trung cao
độ về 1 hướng. Nó là mức độ sâu sắc của nỗi nhớ. Hai từ láy cộng
hưởng, đã diễn tả nỗi nhớ nhung, da diết, nỗi khắc khoải đến dày
vò, vướng vịt, đến trăn trở thao thức ko yên. Từ “tha thiết” đến
“đau đáu” đã đẩy nỗi nhớ thành nỗi đau, nỗi sầu, nỗi xót xa
Cả 1 trời thương nhó mênh mông và nỗi buồn đau triền miên, dằng
dặc đã đc diễn tả qua âm điệu triền miên của vần thơ song thất
lục bát và thủ pháp nghệ thuật điệp cuối – đầu liên hoàn “non
Yên/ Non Yên …”, “trời/ Trời….” và tần suất của điệp từ “nhớ”.
Diễn tả tinh tế đc như thế cho thấy ngòi bút tài năng và sự thấu
cảm cho tình cảnh nhân vật của tác giả và dịch giả
* Khép lại đoạn thơ, 2 câu cuối, tác giả lấy ngoại cảnh để thể
hiện tâm cảnh. Nỗi nhớ của người chinh phụ thể hiện gián tiếp qua
bút pháp tả cảnh ngụ tình
“Cảnh buồn người thiết tha lòng
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun”
Cõi lòn người chinh phụ không chỉ có nhớ. Nỗi nhớ nhói lên nỗi
đau. Bởi nỗi nhớ giày vò, chà đi, xát lại. Từ “thiết tha” trong
trường hợp này – “người thiết tha lòng” – mang giá trị biểu cảm
từ nghĩa gốc Hán Việt: như cắt, như mài vào xương thịt. Câu thơ
thể hiện sự tương hợp giữa cảnh và tình. Ý thơ có sự gặp gỡ với
câu thơ trong “Truyền Kiều” “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu –
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Câu thơ “ Chinh phụ ngâm”
và câu thơ Kiều đều đã thể hiện sâu sắc và tinh tế mỗi quan hệ
giữa ngoại cảnh và tâm cảnh, giữa cảnh vật thiên nhiên và tâm
trạng con người.
Cảnh lạnh lẽo, ảm đạm với kgian hoang vắng, hình ảnh, âm thanh
tê tái, não nùng. Cành cây khẳng khiu trong sương giá, tiếng côn
trùng kêu rả rích trong đêm mưa phùn như lột tả đến tận cùng sự
quạnh hiu, não nề và sự buồn thảm. Ngoại cảnh cũng chính là tâm
cảnh. Người buồn nên nỗi sầu ấy lan toản, thấm đượm vào cảnh
vật và cảnh vật như hòa cảm với nỗi buồn của con người. Sự giá
lạnh của tâm hồn làm tăng thêm sự giá lạnh của cảnh vật và
ngược lại sự héo mòn, thê lương của cảnh vật khiến long người
thêm tái tê, nhìn cành cây ướt đẫm trong sương đêm mà lòng
nàng u sầu, nghe tiếng trùng rả rích trong đêm mưa lòng nàng
nhoi nhói niềm đau, ý thơ đi từ dình đến cảnh rồi lại đi từ cảnh
trời về tình, cự lặp đi lặp lại như vật nhằm thể hiện rõ tình cảnh lẻ
loi và tâm trạng cô đơn của người chinh phụ. Dù ở đâu, lúc nào,
làm gì nàng cũng chỉ ầm lũi, vò võ một mình một bóng mà thôi!
3. Đánh giá chung
- Đây là đoạn thơ đặc sắc, 1 bức tranh tâm trạng đầy xúc động
đc diễn tả tinh tế với bao sắc thái, cung bậc. Đó là nỗi cô đon,
nhớ thương đến khắc khoải của người chinh phụ có chồng đi chinh
chiến nơi xa biền biệt. Ẩn sau câu chữ là khát vọng cháy bỏng đc
sống trong tình yêu và hạnh phúc lữa đôi. Cũng là tiếng nói lên án,
tố cáo chiến tranh phu nghĩa đẩy con người vào những đau
thương bất hạnh
4. Nhận xét nâng cao
- Đoạn thơ đã miêu tả thành công thế giới nội tâm nhân vật bằng
bút pháp trữ tình đa dạng: với thể thơ song thất lục bát giàu âm
điệu; NT ngoại hiện, NT tả cảnh ngụ tình kết hợp nhuần nhuyễn với
độc thoại nội tâm; sử dụng hiệu quả nhiều BPTT như: điệp, so
sánh, câu hỏi tu từ,….; âm điệu trong từng lời thơ trầm buồn da
diết, khắc khoải, ngôn ngữ chọn lọc, sử dụng nhiều từ láy gợi hình,
giàu giá trị biểu cảm, uyển chuyển, tinh tế. Ko quá khi cho rằng
“CPN” là “quyển sách của nghìn tâm trạng”
III. Kết bài

Lưu ý về nhận xét nâng cao của các đề


“Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”
1. Nhận xét nội dung: Giá trị nhân đạo của đoạn trích/ Tư tưởng
nhân đạo của tác giả + sâu sắc mới mẻ
- Đồng cảm, xót thương cho tình cảnh lẻ loi, cô đơn, buồn sầu của
người chinh phụ có chồng đi chinh chiến
- Đồng tình, ngợi ca với khát vọng tình yêu và hạnh phúc lứa đôi
của người vợ có chồng đi lính
- Lên án, tố cáo chiến tranh PK phi nghĩa đã gây ra bao mất mát,
đau thương cho con người
-> Tư tưởng nhân đạo sâu sắc, mới mẻ vì đã đề cao, trần trọng
khát vọng chân chính của con người: đc sống trong tình yêu, đc
hưởng hạnh phúc lứa đôi. Điều này là khám phá của ĐTC và cũng
là văn học TK XVIII mà văn học trung đại TK trước chưa dám đề
cập tới
2. Nhận xét về NT: NT miêu tả nội tâm nhân vật trữ tình thành
công nhờ bút pháp đa dạng
- NT ngoại hiện (qua hành động, cử chỉ, ngoại hình,…)
- NT tả cảnh ngụ tình
- Thể thơ song thất lục bát với âm điệu trầm buồn
- Các BPTT (điệp, đối, so sánh, câu hỏi tu từ,…)
- Ngôn ngữ chính xác, gợi cảm với nhiều từ láy
-> Tài năng bậc thầy của Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm. “Chinh
phụ ngâm” là “cuốn sách của nghìn tâm trạng”

You might also like