Professional Documents
Culture Documents
Cập Nhật Chiến Lược Sử Dụng Thuốc An Thần Nâng Cao Cho Bệnh Nhân Thở Máy Tại ICU
Cập Nhật Chiến Lược Sử Dụng Thuốc An Thần Nâng Cao Cho Bệnh Nhân Thở Máy Tại ICU
I. Giới thiệu
Các chiến lược dùng thuốc an thần cho bệnh nhân nặng phải thở máy đã
phát triển triệt để trong 20 năm qua. Hướng dẫn Thực hành Lâm sàng của Hiệp
hội Y học Chăm sóc Tích cực năm 2002, 2013 và 2018 đã chứng kiến một sự
chuyển đổi lớn từ mô hình thuốc an thần kéo dài sang mô hình dùng giảm đau
trước và an thần nhẹ; đồng thời các khuyến cáo tránh dùng benzodiazepine để
ủng hộ propofol và dexmedetomidine [1–3]. Trong 2 năm qua, đại dịch bệnh
virus corona 2019 (COVID-19) đã tạo ra một loạt thực tế và thách thức mới
trong việc cung cấp thuốc an thần cho hàng trăm nghìn bệnh nhân thở máy bị
viêm phổi nặng và thiếu oxy [4,5]. Đối với những người thực hành lâm sàng,
thời gian dường như nhanh chóng quay trở lại với việc duy trì thuốc an thần sâu
bằng thuốc benzodiazepine và thuốc phiện liều cao đã trở thành thông lệ [5].
Trong một nhóm bệnh nhân thở máy ở 64 đơn vị chăm sóc đặc biệt (ICU), 64%
được truyền benzodiazepine trong thời gian trung bình 7 ngày, với RASS-
Thang đo kích động-an thần Richmond trung bình [6] là −4 điểm (chỉ phản ứng
với kích thích đau) khi được thở máy, 80% bệnh nhân hôn mê trong hơn 10
ngày và 55% bị mê sảng trong hơn 3 ngày [7].
Các quan sát trên, mặc dù kích thích tư duy, nhưng phải gây nên sự thất
vọng mà thay vào đó mời gọi suy nghĩ lại về các chiến lược được khuyến nghị
hiện tại và bằng chứng đằng sau các khuyến nghị hướng dẫn thực hành về an
thần cho bệnh nhân nặng phải điều trị bằng thở máy.
Hướng dẫn thực hành lâm sàng năm 2018 về phòng ngừa và kiểm soát cơn đau,
kích động/an thần, mê sảng, bất động và gián đoạn giấc ngủ (PADIS) ở bệnh
nhân người lớn trong ICU [3] đã phát hiện ra rất ít bằng chứng có sự tin cậy cao
để cung cấp thông tin cho các chiến lược an thần ở những bệnh nhân nặng. Họ
nhấn mạnh sự phụ thuộc đáng kể vào dữ liệu quan sát và các thử nghiệm có
nguy cơ sai lệch cao khi không có các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên chất
lượng cao. Nhiều nghiên cứu trong số này, bất chấp những sai sót, đã tạo ra một
sự thay đổi mô hình trong thực hành dùng thuốc an thần và định hình tư duy
đương đại về các chiến lược an thần và các ưu tiên nghiên cứu.
Hiểu được những hạn chế của những nghiên cứu này và sự phát triển
trong thực tế trong 20 năm qua là bắt buộc để thúc đẩy các chiến lược an thần
hiện đại nhằm cải thiện kết cục lấy bệnh nhân làm trung tâm trên lâm sàng.
Nhiều nghiên cứu trong số này là đoàn hệ quan sát, đơn trung tâm, thực hiện từ
nhiều năm trước, so sánh các thuốc an thần đang thực hành với các thuốc lỗi
thời trong các quần thể được chọn và không báo cáo kết cục lấy bệnh nhân làm
trung tâm lâu dài [8–14]. Thêm vào đó, những nghiên cứu này lại hình thành
nên nền tảng của các mô hình và khuôn khổ an thần khác nhau [15,16].
Trong bài viết này, chúng tôi xem xét bằng chứng đằng sau các chiến
lược an thần được khuyến cáo hiện nay, chẳng hạn như dùng ngắt quãng thuốc
an thần, an thần nhẹ, không an thần hoặc giảm đau trước khi dùng an thần
(analgo-sedation, analgesia-first sedation), và vận động sớm. Chúng tôi cũng
đánh giá bằng chứng đằng sau các chiến lược hiện tại để quản lý mê sảng.
Chúng tôi cung cấp các đề xuất, được hỗ trợ bởi bằng chứng tốt nhất hiện có,
cho các chiến lược theo mục tiêu trong các nhóm bệnh nhân bệnh nặng thở máy
khác nhau để cải thiện kết cục lâm sàng lấy bệnh nhân làm trung tâm, chẳng hạn
như tỷ lệ tử vong, thời gian thở máy và mê sảng.
2. An thần nhẹ
Với sự thừa nhận các tác dụng phụ có thể xảy ra liên quan đến dùng thuốc
an thần kéo dài, mặc dù chỉ có bằng chứng gián tiếp, thuốc an thần nhẹ đã trở
thành một chiến lược an thần được khuyến cáo trong nhiều hướng dẫn thực
hành lâm sàng [3,26,27].
Tuy nhiên, có một vài khía cạnh quan trọng của độ sâu an thần cần được
xem xét. Đầu tiên, hầu hết các thử nghiệm an thần không báo cáo về thực hành
an thần hoặc độ sâu trong giai đoạn nặng và cấp tính của bệnh, đặc biệt là trong
48–72 giờ đầu tiên sau khi bắt đầu thở máy. Còn các thử nghiệm báo cáo độ sâu
an thần sớm, ngay cả khi bắt buộc phải dùng thuốc an thần nhẹ và được phác đồ
hóa, cho thấy một tỷ lệ cao bệnh nhân được an thần sâu trong 2-4 ngày sau khi
bắt đầu thở máy [28–30] (Hình 17.1). Quan sát quan trọng này ngụ ý rằng các
bác sĩ lâm sàng tin rằng thuốc an thần sâu trong giai đoạn cấp tính của bệnh
hiểm nghèo là cần thiết. Thứ hai, dữ liệu quan sát báo cáo mối liên hệ độc lập
giữa an thần sâu sớm với tỷ lệ tử vong [12,31,32], do đó, đối tượng có thể bị lựa
chọn sai lệch. Như vậy, giải thích các dữ liệu quan sát phải được thực hiện một
cách thận trọng. Thứ ba, có rất ít [13,14] các thử nghiệm lâm sàng đối chứng
ngẫu nhiên so sánh thuốc an thần nhẹ và thuốc an thần sâu trên nhóm bệnh nhân
nặng. Những thử nghiệm này có những hạn chế đáng kể bao gồm cỡ mẫu nhỏ,
quần thể được chọn đồng nhất và kết cục ngắn hạn, do đó cung cấp bằng chứng
rất yếu để chứng thực thuốc an thần nhẹ. Cuối cùng, bất chấp tất cả những điều
trên, những người dẫn đầu quan điểm về thuốc an thần, những người viết hướng
dẫn, và ở mức độ thấp hơn, trào lưu các bác sĩ lâm sàng ICU vẫn tiếp tục thúc
đẩy chiến lược an thần nhẹ, bởi niềm tin rằng nó luôn có lợi cho hầu hết bệnh
nhân, bỏ qua những thực hành lâm sàng đã được chứng minh sự ngược lại trong
2–4 ngày đầu tiên của bệnh nặng.
Rất có khả năng thuốc an thần sâu sẽ gây ra tác hại đáng kể nếu kéo dài
và do đó nên tránh [33]. Tuy nhiên, điều hợp lý và có thể chấp nhận được là
dùng thuốc an thần sâu ngắn hạn, kịp thời và có thể đảo ngược để tạo điều kiện
cho các can thiệp điều trị cứu sống tính mạng, vừa an toàn vừa hợp lý trong giai
đoạn cấp tính của bệnh.