Professional Documents
Culture Documents
ĐAU NỮA ĐẦU
ĐAU NỮA ĐẦU
dân số nước
Mỹ hàng năm. Về dịch tễ, đau nửa đầu thường gặp ở phụ nữ hơn nam giới và phổ biến
ở người bệnh trong độ tuổi lao động, từ 25 đến 55 tuổi. Chứng đau nửa đầu chiếm
phần lớn trong số năm triệu trường hợp đau đầu đến các cơ sở y tế của Mỹ mỗi năm.
Nó ảnh hưởng lớn tới chất lượng cuộc sống; hơn 90% người bị đau nửa đầu gặp khó
khăn trong công việc khi xuất hiện các cơn đau, nó là lí do của hơn 150 triệu ngày
nghỉ việc, gây thiệt hại hơn 14 tỷ USD mỗi năm cho các công ty.
Dược sỹ có vai trò quan trọng trong việc chăm sóc những bệnh nhân đau nửa đầu. Họ
thường là những người đầu tiên mà người bệnh tìm đến, và khoảng 57% số bệnh nhân
tự điều trị bằng các thuốc OTC. Người dược sỹ cần phải hiểu rõ lúc nào nên dùng và
cách sử dụng các thuốc OTC để phòng ngừa và điều trị chứng đau nửa đầu cũng như
khi nào bệnh nhân cần được giới thiệu đến những cơ sở y tế khác.
Sinh lý bệnh
Đến nay sinh lý bệnh của đau nửa đầu vẫn chưa rõ ràng. Trong thế kỷ trước đã xuất
hiện hai giả thuyết. Các cơn đau nửa đầu gây ra do sự giãn mạch máu nội sọ, trong khi
giai đoạn tiền triệu trong đau nửa đầu chủ yếu là do sự co mạch máu. Mặc dù vậy,
những nghiên cứu hình ảnh học tại một số vùng của mạch máu đã không ủng hộ hoàn
toàn thuyết này. Một thuyết khác được chấp nhận hiện nay cho rằng đau nửa đầu là do
sự rối loạn thần kinh đặc trưng bởi những cơn đau kịch phát; cơn đau nửa đầu cấp là
do sự kích thích quá mức các tế bào vỏ não mới.
Người ta cho rằng chứng đau nửa đầu phụ thuộc vào khả năng kích hoạt và mức độ
nhạy cảm của hệ thống dây thần kinh sinh ba trung tâm. Nó bắt đầu bằng sự kích hoạt
sợi thần kinh sinh ba ở quanh mạch máu. Sự kích hoạt này giải phóng các
neuropeptide hoạt hóa mạch và tiền viêm, gây tăng lưu lượng máu và sự thoát mạch
của huyết tương, cuối cùng dẫn tới viêm quanh mạch. Tình trạng viêm này sẽ khiến
các tế bào thần kinh sinh ba nhạy cảm với các kích thích không rõ ràng, làm tăng cảm
giác đau. Sự kích thích quá mức thần kinh sinh ba này, còn được gọi làmẫn cảm trung
tâm, dẫn tới loạn cảm đau và sự kéo dài các cơn đau nửa đầu.
Giai đoạn tiền triệu trong đau nửa đầu được cho là do kết quả của sự kích thích và ức
chế thần kinh, lan rộng qua chất xám của não, còn được gọi là ức chế vỏ não lan
rộng (cortical spreading depression – CSD). Hiện tượng này có thể hoạt hóa các thụ
cảm sinh ba và kích hoạt cơ chế gây đau đầu. Ý tưởng về CSD hiện nay được chấp
nhận như là cơ sở sinh học của hầu hết các kiểu đau nửa đầu. Đau nửa đầu không có
tiền triệu là do xảy ra CSD ở các vùng của não nơi sự phân cực màng không được đáp
ứng.
Yếu tố kích thích
Có một số yếu tố kích thích được xác định có thể làm tăng nguy cơ mắc chứng đau
nửa đầu. Sự kích thích là khác nhau ở mỗi người, vì vậy bệnh nhân cần hiểu rõ điều gì
dẫn tới cơn đau. Sự kích thích chứng đau nửa đầu có thể liên quan tới thức ăn, kích
thích từ môi trường hoặc các yếu tố hành vi-tâm lý (BẢNG 1). Đau nửa đầu có thể do
yếu tố di truyền. Nếu bố hoặc mẹ mắc chứng đau nửa đầu thì khả năng di truyền sang
con là 40%. Nếu cả bố và mẹ đều mắc, con số này lên tới 90%.
Bảng 1. Các kích thích có thể gây chứng đau nửa đầu
Loại Ví dụ
Thức ăn Rượu, caffeine hoặc hội chứng cai caffeine, sô-cô-la, thực phẩm lên men,
natri glutamate, thịt đã qua xử lý, thức ăn và đồ uống ăn kiêng, thực phẩm
chứa tyramine
Môi Ánh sáng chói và nhấp nháy, độ cao, tiếng ồn, mùi nặng và khói, khói
trường thuốc lá, thay đổi thời tiết
Hành Ngủ quá ít hoặc quá nhiều, mệt mỏi, thay đổi hormone (ví dụ: chu kỳ kinh
vi/Tâm lý nguyệt thay đổi), hoạt động tình dục, bỏ bữa, hoạt động thể lực mạnh,
stress
Thuốc Cimetidine, liệu pháp hormone thay thế, indomethacin, nifedipine, nitrate,
thuốc tránh thai, theophylline, hội chứng cai do lạm dụng thuốc giảm
đau, benzodiazepine, thuốc thông mũi, hoặc ergotamine