You are on page 1of 3

Người lái đò sông Đà – Nguyễn Tuân

*** Mở bài chung:

Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn Tuốc Ghê Nhép cho rằng: “Cái quan trọng trong tài năng văn học
là tiếng nói của mình, là cái giọng riêng biệt của chính mình không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kì
một người nào khác.” Thật vậy, không một nhà văn, nhà thơ nào mà không muốn khắc chạm dấu ấn
riêng của mình vào tấm bia của thời gian, của nền văn học để từ đó có chỗ đứng nhất định trong lòng
người đọc. Và Nguyễn Tuân cũng vậy, cái riêng ấy của ông được thể hiện rõ nét qua những trang văn
chứa đựng những giá trị nội dung nghệ thuật trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” .

*** Kết bài chung:

Khép lại những trang văn của Nguyễn Tuân, dường như vùng đất Tây Bắc đã để lại trong chúng ta thật
nhiều những thương nhớ. Đó là nỗi nhớ về một vùng đất mang trong mình thứ vàng mười của thiên
nhiên và trong tâm hồn con người, một thứ vàng mười như Nguyễn Tuân đã khẳng định “đã qua thử
lửa”. Nguyễn Tuân cũng đã đem đến cho ta một thế giới mới mà mỗi lần đặt chân vào ta như bước vào
một chân trời riêng biệt, độc đáo, hấp dẫn. Đó là chân trời của cái đẹp, của tài hoa và sự uyên bác.

*** Tiền đề nghị luận:

Tác phẩm “Người lái đò sông Đà” được in trong tập tùy bút “Sông Đà” (1960) được viết trong
thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến
Tây Bắc năm 1958. Tùy bút mở đầu với lời đề từ:

“ Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông” – Uwladyslaw Broniewski

“ Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”

Mượn lời của Uw.Broniewski và Nguyễn Quang Bích, tác giả đã tái hiện một sông Đà có tính cách
độc đáo riêng biệt và vẻ đẹp tâm hồn của những người lao động bình dị trên sông nước. Từ đó qua lời
đề từ, ta thấy được cảm hứng chủ đạo của cả bài: ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước, con người lao
động và đồng thời cũng là tình yêu nước thầm kín của tác giả.

*** Phân tích:

Vẻ đẹp hùng vĩ, hung bạo, dữ dội của sông Đà

Ngay từ những trang văn đầu tiên, sông Đà hiện lên là một con sông hung bạo, lắm thác nhiều
ghềnh, tính cách ấy trước hết được miêu tả ở những khối đá dựng thành vách“đá chẹt lòng sông như
một cái yết hầu” làm cho “mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”. Lòng sông ấy còn hẹp tới
mức đứng bên này bờ chỉ cần “nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách” hay “con nai con hổ đã có lần vọt
từ bờ này sang bờ bên kia.” Khiến cho người ngồi trong khoang đò đi trên quãng sông ấy như thấy mình
“ đang mùa hè mà cũng thấy lạnh”. Bằng những quan sát thực tế của mình kết hợp, Nguyễn Tuân đã
làm cho người đọc cảm nhận rõ nét sự hiểm trở, hoang dại, bí ẩn của dòng sông. Một nơi lòng sông
càng nhỏ hẹp thì lưu tốc dòng chảy lại càng lớn với những vách đá cao vút giờ đây lại càng nguy hiểm
hơn. Nhưng cũng chính những câu văn miêu tả, hình ảnh so sánh, liên tưởng độc đáo ấy đã làm cho
sông Đà trở nên hùng vĩ hơn bao giờ hết.

Chưa dừng lại ở đó, nhà văn còn khiến người đọc bất ngờ khi miêu tả dòng sông ở mặt ghềnh
Hát Loóng ở khía cạnh “nước-đá-sóng và gió”: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng
gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua
đấy.” Động từ “xô” được ngăn cách bởi nhiều dấu phẩy liên tiếp kết hợp với thủ pháp điệp từ, điệp cú
pháp tạo nên sự trùng điệp, làm cho dòng sông đã hung bạo lại càng dữ dội, dồn dập, mạnh mẽ hơn.
Thủ pháp điệp âm “cuồn cuộn, gùn ghè” cùng với hình ảnh so sánh, nhân hóa khiến dòng sông trở nên
hiểm độc, như 1 kẻ bất chấp tất cả để lấy đi tính mạng của những ai đi qua bởi “ quãng này mà khinh
suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra.”

Đến quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La, người đọc còn bị choáng ngợp trước sự hung bạo
của những cái hút nước và thác đá. Những cái hút nước giống như “cái giếng bê tông thả xuống sông
để chuẩn bị làm móng cầu” xoáy tít tận đáy, “nước thở và kêu như cửa cống bị sặc” có lúc lại nghe
“nước ặc ặc như vừa rót dầu sôi”. Hàng loạt các hình ảnh so sánh, liên tưởng độc đáo, táo bạo đã tô
đậm mức độ khủng khiếp của những cái hút nước trên sông Đà. Con sông lúc này không khác gì một
con thủy quái reo rắc nguy hiểm cho những ai qua đây. Cho nên “không một con thuyền nào dám men
gần” bởi nếu thuyền bị hút vào sẽ “trồng cây chuối ngược... bị dìm... rồi bị tan xác”. Nhà văn còn dùng
kiến thức của các ngành giao thông, xây dựng, vận dụng nghệ thuật đặc tả của điện ảnh khi ông mượn
hình ảnh “những ô tô sang số ấn ga vút nhanh” để nói ví von với cách chèo thuyền khi vượt qua những
hút nước hay cú lia ngoạn mục của chiếc máy quay phim để để đặc tả sự dữ dằn, tàn nhẫn ghê rợn của
những hút nước quái ác.

Không chỉ những hút nước mới dữ dằn mà sóng nước sông Đà “ như thể quân liều mạng vào sát
nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc lại đội cả thuyền lên....Sóng nước đã
đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất...” rồi âm thanh của những thác nước “nghe như là oán trách gì, rồi
lại như là van xin, lại như khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo.” Và nó “rống lên như tiếng một ngàn con
trâu mộng....rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng.” Cách “lấy nước tả lửa, lấy rừng
tả sông” này của tác giả đã góp phần nhấn mạnh sự hung bạo dữ dội của âm thanh thác nước. Hình ảnh
so sánh, liên tưởng, nhân hóa con sông như một sinh thể đang gào thét trong những âm thanh ghê sợ
ấy đã tạo cảm giác rất mạnh khiến chúng ta như được nghe, được tận mắt nhìn thấy cái hung dữ ấy của
thiên nhiên nơi đây.

Nếu chỉ dừng lại ở đó, sông Đà sẽ không có những câu ví “đắt” như “mang diện mạo và tâm địa
của một thứ kẻ thù số một”. Có thể nói, trùng vi thạch trận trên sông mới là cái hấp dẫn nhất của sông
Đà mà đá mai phục trong lòng sông “mặt hòn nào trông cũng ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó”
như những tên lính thủy hung tợn sẵn sàng giao chiến “nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”. Cả một trận địa
sẵn sàng dìm chết con thuyền.

Sông Đà rất kiên định với mục tiêu của mình. Nó thận trọng đặt 3 trùng vây thạch trận trên sông
với cách bố trí vô cùng nham hiểm. Ở trùng vây thứ nhất, nó xếp đá thành 3 tuyến, gồm 5 cửa trận, 4
cửa tử, 1 cửa sinh lệch về phía tả ngạn của dòng sông. Tuyến một “đá chia làm 3 hàng” như đòi ăn chết
con thuyền, một khi vào là không có đường lui. Tuyến hai có thêm hàng tiền vệ canh cửa để dụ con
thuyền vào sâu bên trong, rồi “nước sóng luồng mới đánh khuýt quật vu hồi”. Tuyến ba là cả “một pháo
đài” với nhiệm vụ “tiêu diệt tất cả thuyền trưởng thủy thủ ngay ở chân thác”. Sang trùng vây thứ hai,
dòng sông tăng thêm nhiều cửa tử để lừa con thuyền, cửa sinh lúc này lệch về phía bờ hữu ngạn. “
Dòng thác hùm beo đang hồng hộc lao mạnh trên sông đá” như muốn nhấn chìm con thuyền. Ở trùng
vây thứ ba, sự nguy hiểm lại tăng lên gấp bội khi “bên trái bên phải đều là cửa chết”, cửa sinh nằm ở
giữa nhưng lại bị bọn đá hậu vệ vây quanh thành 3 cửa “cửa ngoài, cửa trong, cửa trong cùng”; đá xếp
thành cổng, cánh mở cánh khép.

 Bằng tài năng vận dụng tri thức của nhiều lĩnh vực khác nhau: điện ảnh, võ thuật, âm nhạc,
điêu khắc... Nguyễn Tuân đã khắc họa sinh động sự hung bạo của sông Đà với nhiều cung bậc
cảm xúc, tâm trạng với nhiều vẻ khác nhau: hiểm trở, cuộn sôi, dữ dội, mạnh mẽ, hoang dã,
mưu mô, xảo quyệt. Từ đó cho thấy sự hùng vĩ của thiên nhiên vùng Tây Bắc và làm nổi bật
lên tình yêu bao la của nhà văn với dòng sông nơi đây. Đó không chỉ là cái tài của văn chương,
nội tâm của người nghệ sĩ mà còn là sự tinh tế của một bậc thầy ngôn ngữ.

Vẻ đẹp trữ tình, nên thơ của dòng sông Đà

Nếu như ở thượng nguồn, con sông Đà hung bạo, dữ dội bao nhiêu thì đến khúc hạ lưu, sông Đà lại trở
nên thơ mộng, dịu dàng bấy nhiêu. Nguyễn Tuân đã thay đổi góc nhìn

You might also like