You are on page 1of 6

PHẪU THUẬT TÁI TẠO QUẦNG VÚ

Trần Thiết Sơn, Nguyễn Hữu Trọng

1. ĐẠI CƯƠNG
Ung thư vú là ung thư phổ biến nhất của phụ nữ, với tỉ lệ xấp xỉ 10% phụ
nữ1. Phẫu thuật thường được thực hiện trong điều trị ung thư vú với 2 quá trình
cắt u và tạo hình. Phẫu thuật tạo hình vú thường được thực hiện dưới nhiều giai
đoạn để đạt được hình dáng tự nhiên của vú và cân đối 2 bên. Trong các trường
hợp như những ca cắt vú không bảo tồn quầng núm vú, ung thư liên quan đến
phức hợp quầng núm vú, hoặc hoại tử quầng núm vú sau tạo hình thì đầu, nếu
bệnh nhân có mong muốn, tạo hình quầng núm vú thường là giai đoạn cuối
cùng trong quá trình tạo hình vú và có thể được thực hiện dưới nhiều phương
pháp 2,3. Nhiều nghiên cứu chứng minh mối liên quan giữa sự hài lòng của bệnh
nhân trong tạo hình vú giữa việc có hay không có phức hợp quầng núm vú. Do
vậy, tạo hình quầng núm vú đóng vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện kết
quả tạo hình vú của bệnh nhân4. Bên cạnh ung thư vú, tại tạo quầng núm vú với
những kĩ thuật tương tự cũng được sử dụng cho các trường hợp khác như các
bệnh nhân dị tật không có phức hợp quầng núm vú, biến dạng quầng núm vú di
chứng bỏng, hoại tử quầng núm vú biến chứng từ các phẫu thuật vú…
Nhìn chung, tạo hình phức hợp quầng núm vú lí tưởng khi cả hai quầng núm
vú 2 bên đạt được sự cân đối về vị trí, kích thước, hình dạng, màu sắc và độ
nhô.
Cấp máu cho quầng núm vú đã được mô tả kĩ từ nhiều nghiên cứu giải phẫu
đã chỉ ra rằng quầng núm vú được cấp máu bởi mạng mạch dưới trung bì cũng
như các mạch máu từ nhu mô vú đi ra, với các mạch xuyên lớn chạy dọc theo
vách Wurringer’s 5. Thần kinh chi phối cho phức hợp quầng núm vú là các
nhanh TK bì trước và bên tách ra từ thần kinh liên sườn số 3 đến 5, trong đó
nhánh thứ TK bì bên thứ 4 là nhánh hằng định nhất.5
Kích thước, màu sắc, hướng và hình dạng phức hợp quầng núm vú thay đổi
giữa các người bệnh. Dó đó, tạo hình quầng núm vú cho phép phẫu thuật viên
tạo ra một phức hợp quầng núm vú mới hài hòa với sở thích thẩm mỹ của bệnh
nhân, một phức hợp quầng núm vú lí tưởng đã được mô tả trong y văn. Kinh
điển, phức hợp quầng núm vú lí tưởng được mô tả ở vị trí nhô xa nhất của mô
vú. Một nghiên cứu gần đây chứng tỏ rằng phức hợp quầng núm vúm lí tưởng
khi tỉ lệ tự nhiên giữa quầng vú và vú là 1/3.4 và tỉ lệ giữa núm vú và quầng vú
là 1/3. 6
Nhược điểm của các phương pháp tạo hình hiện nay đó là phức hợp quầng
núm vú tạo hình mới không phục hồi được khả năng tiết sữa của vú. Tương tự
như vậy, nhiều phương pháp tạo hình quầng núm vú không phục hồi được cảm
giác phức hợp quầng núm vú.
2. ĐẶC ĐIỂM KHUYẾT QUẦNG VÚ
Chỉ định : Tạo hình quầng vú thường được thực hiện cho các bệnh nhân
khuyết phức hợp quầng núm vú sau ung thư, bên cạnh đó, các kĩ thuật tương tự
cũng được áp dụng cho các bệnh nhân có bất thường phức hợp quầng núm vú
trong các bất thường bẩm sinh không có quầng núm vú hay trong các dị dạng
quầng núm vú sau bỏng…
Thời gian: Thời điểm tạo hình phức hợp quầng núm vú để đạt được kết quả
tối ưu thương dựa vào phương pháp tạo hình áp dụng cũng như các phương
pháp điều trị bổ trợ kèo theo trong điều trị ung thư vú. Vì những lí do đó, tạo
hình quầng núm vú nên được trì hoãn đến khi quá trình điều trị bổ trợ hóa xạ trị
kết thúc Thông thường, việc tạo hình phức hợp quầng núm vú được thực hiện
khi bầu vú đã ổn định, thường 3 tháng sau khi tạo hình vú bằng mô tự thân hoặc
3 tháng sau khi đặt túi ngực 7. Khi tạo hình phức hợp quầng núm vú quá sớm có
thể dẫn tới biến đổi vị trí và hình dạng quầng núm vú do tính chưa ổn định của
bầu vú.
Lựa chọn bệnh nhân : Những bệnh nhân có khuyết hoặc bất thường quầng
núm vú như những bệnh nhân sau ung thư, các bệnh nhân bất thường bẩm sinh,
hay dị dạng sau bỏng có nhu cầu và mong muốn được tạo hình lại phức hợp
quầng núm vú.
3. PHẪU THUẬT
3.1.Nguyên tắc phẫu thuật
Tạo hình phức hợp quầng núm vú lí tưởng khi cả hai quầng núm vú 2 bên đạt
được sự cân đối về vị trí, kích thước, hình dạng, màu sắc và độ nhô.
3.2.Các kỹ thuật tạo hình quầng vú
Xăm : Được sử dụng phổ biến như một phương pháp thay thế cho ghép da
trong tạo hình quầng vú hoắc tạo hình phức hợp quầng núm vú sau khi tạo hình
núm bằng vạt tại chỗ. Phương pháp này thường được thực hiện 3-4 tháng sau
khi tạo hình núm vú lúc mà núm vú tạo hình đã co lại ổn định 8. Màu sắc ngay
sau khi xăm nên đậm hơn so với mong muốn của bệnh nhân bởi vì nó sẽ mờ
dần đi trong vài tuần đầu tiên. Thông thường, phương pháp này thường được sử
dụng nếu thiếu da cho việc phẫu thuật tạo hình, hoặc xuất hiện sẹo sau khi xa
trị. Xăm trong tạo hình quầng núm vú được thực hiện sau khi tạo hình núm vú
bằng vạt tại chỗ. Xăm hình quầng núm vú rất phổ biến ở các bệnh nhân tạo hình
sau cắt bỏ vú ung thư bởi nhanh gọn, đơn giản và an toàn. Phức hợp quầng núm
vú mới được thiết kế dựa trên màu sắc, kích thước của quầng vú đối bên. Bằng
kĩ thuật xăm hình 3 chiều, xăm trong da có thể là phương pháp duy nhất vừa tạo
hình quầng vú và núm vú mà không sử dụng các vạt tại chỗ. Năm 2014,
Halvorson lần đầu tiên mô tả việc tạo hình quầng núm vú bằng cách xăm hình 3
chiều bằng cách kết hợp khéo léo giữa mực sáng và tối màu 9. Mực xăm có thể
nhạt màu theo thời gian dẫn đến việc phải xăm hình lại, màu không đều giữa
hai bên cũng là vấn đề hay gặp. Ngày nay, việc mài da có thể được thực hiện
trước khi xăm hình. Mài da cho phép màu mực có thể xâm nhập vào trung bì tốt
hơn mang tới hai ưu điểm: kết quả được duy trì lâu hơn và giảm thời gian xăm
hình.

Hình 1: Kĩ thuật xăm hình 3D tạo hình phức hợp quầng núm vú bằng việc kết
hợp mực xăm tối và sáng màu.
Phẫu thuật ghép da : Da ghép sử dụng trong tạo hình quầng hoặc cả phức
hợp quầng núm vú. Kĩ thuật ghép da dày toàn bộ với mảnh da lấy từ vùng da
sắc tố của cơ thể như nách hoặc phần trên trong của đùi, da vùng môi bé. Kĩ
thuật ghép da tạo hình quầng vú lần đầu tiên được mô tả vào năm 1949. Trong
case lâm sàng báo cáo, phần da từ môi bé được sử dụng cho tạo hình quầng
núm vú. Phần trung tâm của mảnh ghép được khâu chùng hơn để tạo hình giống
núm vú. Millard vào năm 1971 đã mô tả việc sử dụng mảnh ghép từ núm vú đối
bên, phương pháp này vẫn còn được sử dụng phổ biến cho đến ngày nay với
các bệnh nhân có quá sản độ nhô núm vú bên đối diện 10. Kết hợp các phương
pháp ghép trên có thể để tái tạo phức hợp quầng núm vú . Ngày nay, sử dụng
các vạt da tại chỗ phổ biến cho tạo hình núm vú, sau đó ghép da được sử dụng
cho tạo hình quầng vú. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của Dini, quầng vú cũng có
thể được ghép trước khi tạo hình núm vú. Trong những ca được ông báo cáo,
ghép da chủ yếu được thực hiện trước khi chuyển vạt tại chỗ tạo hình quầng
núm vú.

Hình 2: Ghép da dày toàn bộ tạo hình quầng vú.


4. BIẾN CHỨNG
Trong những báo cáo gần đây, biến chứng của tạo hình quầng sau ghép da
khoảng 10,1% sau xăm hình khoảng 1.6% 11. Các biến chứng có thể gặp sau tạo
hình quầng vú bằng phương pháp ghép da như hoại tử một phần, hoại tử toàn
bộ phần da ghép, nhiễm trùng chậm liền, đau , kích thích hoặc mất cảm giác
quầng vú tạo hình. Đối với xăm quầng núm vú nhìn chung đây là thủ thuật an
toàn hiệu quả với các biến chứng ít gặp như sưng nề sau xăm, đau, kích thích
hoặc giảm cảm giác sau xăm tạo hình quầng . Việc giảm sắc tố quầng núm vú
theo thời gian là hiện tượng hay gặp phải
5. KẾT LUẬN
Tạo hình quầng núm vú phụ thuộc vào mong muốn bệnh nhân. Bên cạnh lợi ích
về yếu tố tâm lý được đề cập trước đấy, tạo hình quầng núm vú là một phẫu
thuật thẩm mỹ. Nhiều nghiên cứu chứng minh mối liên quan giữa sự hài lòng
của bệnh nhân trong tạo hình vú giữa việc có hay không có phức hợp quầng
núm vú. Do vậy, tạo hình quầng núm vú đóng vai trò quan trọng trong việc
hoàn thiện ngoại hình của bệnh nhân.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Sisti A, Huayllani MT, Boczar D, et al. Breast cancer in women: a descriptive analysis of
the national cancer database. Acta Bio Medica Atenei Parm. 2020;91(2):332-341.
doi:10.23750/abm.v91i2.8399

2. Weissler EH, Schnur JB, Lamelas AM, Cornejo M, Horesh E, Taub PJ. The Necessity of
the Nipple: Redefining Completeness in Breast Reconstruction. Ann Plast Surg.
2017;78(6):646-650. doi:10.1097/SAP.0000000000000943

3. Satteson ES, Brown BJ, Nahabedian MY. Nipple-areolar complex reconstruction and
patient satisfaction: a systematic review and meta-analysis. Gland Surg. 2017;6(1):4-13.
doi:10.21037/gs.2016.08.01

4. Wilkins EG, Cederna PS, Lowery JC, et al. Prospective Analysis of Psychosocial Outcomes
in Breast Reconstruction: One-Year Postoperative Results from the Michigan Breast
Reconstruction Outcome Study: Plast Reconstr Surg. 2000;106(5):1014-1025.
doi:10.1097/00006534-200010000-00010

5. Schlenz I, Kuzbari R, Gruber H, Holle J. The Sensitivity of the Nipple-Areola Complex: An


Anatomic Study: Plast Reconstr Surg. 2000;105(3):905-909. doi:10.1097/00006534-
200003000-00012

6. Hauben DJ, Adler N, Silfen R, Regev D. Breast–Areola–Nipple Proportion. :4.

7. Gougoutas AJ, Said HK, Um G, Chapin A, Mathes DW. Nipple-Areola Complex


Reconstruction: Plast Reconstr Surg. 2018;141(3):404e-416e.
doi:10.1097/PRS.0000000000004166
8. Joanna Arias SLS. Long-Term Experiene with Nipple Areola Tattooing. Plast Reconstr
Surg. 1995;4:232-236. doi:10.1097/00000637-199509000-00002

9. Halvorson EG, Cormican M, West ME, Myers V. Three-Dimensional Nipple-Areola


Tattooing: A New Technique with Superior Results. Plast Reconstr Surg.
2014;133(5):1073-1075. doi:10.1097/PRS.0000000000000144

10. Millard. Nipple and areola reconstruction by split-skin graft from the normal side.
Published online 1972.

11. Sisti A, Grimaldi L, Tassinari J, et al. Nipple-areola complex reconstruction techniques: A


literature review. Eur J Surg Oncol EJSO. 2016;42(4):441-465.
doi:10.1016/j.ejso.2016.01.003

You might also like