Professional Documents
Culture Documents
I. MỤC TIÊU
- Trình bày được định nghĩa và các vị trí của thai ngoài tử cung.
- Nắm được các yếu tố nguy cơ của thai ngoài tử cung.
- Biết cách tiếp cận một trường hợp thai không rõ vị trí.
- Trình bày được kế hoạch và lựa chọn điều trị tối ưu một trường hợp thai ngoài tử cung.
Hình 2 Thai trong lòng tử cung: Mũi tên: yolk-sac, dấu* vàng: màng rụng bao, dấu * trắng: màng rụng thành
Hình 3: túi thai giả trên siêu âm ngả âm đạo: mũi tên xanh: túi thai giả; mũi tên đỏ: nội mạc tử cung dạng 3 lá
- Siêu âm ngả âm đạo kết hợp ngả bụng giúp đánh giá dịch tự do quanh tử cung và trong ổ
bụng: các trường hợp có dịch ở khoảng gan-thận (khoang Morrison) tương đương thể tích
máu trong bụng 400-700 ml và thường liên quan đến vỡ TNTC.
e. Nạo buồng tử cung-sinh thiết
Có nhiều hình thái nội mạc tử cung trong TNTC, tuy nhiên nhìn chung điều quan trọng là không
có sự hiện diện của nguyên bào nuôi (trophoblast) trong mô nạo, các hình thái bao gồm:
- Phản ứng màng rụng (42%)
- Nội mạc tử cung giai đoạn chế tiết (22%)
- Nội mạc tử cung giai đoạn tăng sinh (12%)
Nạo buồng tử cung và sinh thiết chỉ nên được thực hiện sau khi đã tư vấn với bệnh nhân về các
nguy cơ cho thai nếu thai trong lòng tử cung.
Test nổi (Floating): cho mô nạo lòng tử cung vào nước muối sinh lý, lông nhau thường sẽ nổi lên
trên trong khi màng rụng chìm xuống dưới, mô lông nhau nổi sẽ được tách ra và xác định nhờ
vào hình ảnh lá dương xỉ trên kính hiển vi. Phương pháp này giúp chẩn đoán sớm sự hiện diện
của thai trong tử cung hơn so với chờ kết quả sinh thiết.
Một vài tác giả đề nghị phải có bằng chứng không có lông nhau hoặc mô nguyên bào nuôi trong
mô nong và nạo buồng tử cung trước khi thực hiện điều trị Methotrexate cho bệnh nhân TNTC
để tránh điều trị nhầm và giảm bớt các nguy cơ của Methotrexate không đáng có.
Sinh thiết lòng tử cung bằng Pipelle đã được đưa ra và nghiên cứu để thay thế cho nong và nạo,
tuy nhiên kết quả cho thấy không tốt bằng nong và nạo.
f. Chọc dò túi cùng sau
Chọc dò túi cùng sau (Culdocentesis) từng là một phương pháp chẩn đoán TNTC bằng cách xác
định sự hiện diện của máu không đông hoặc mảnh vỡ của máu cục cũ quanh tử cung. Tuy nhiên,
hiện nay với sự phát triển của siêu âm và động học -hCG, phương pháp này không còn được sử
dụng rộng rãi nữa.
Hình 5: phương pháp xác định chảy máu trong ổ bụng: A: siêu âm ngã âm đạo cho thấy có dịch ở cùng đồ; B: phương pháp chọc
dò cùng đồ sau