You are on page 1of 15

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.

HCM
KHOA …………………………………….


MÔN HỌC: PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG

TIỂU LUẬN

CHẾ ĐỊNH SỞ HỮU TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ


VIỆT NAM - LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

GVHD: Võ Thị Mỹ Hương


SVTH: 1. Trần Nam Long - MSSV: 22142160
2……………………………………….
Mã lớp học:

Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 7 năm 2023


MỤC LỤC

Trang 1
ĐẶT VẤN ĐỀ

Bộ Luật dân sự năm 2015 là một bộ luật bao gồm các quy phạm quy định
cụ thể do Nhà nước ban hành; quy định địa vị, chuẩn mực pháp lý về cách ứng
xử của cá nhân, pháp nhân; quyền và nghĩa vụ về sở hữu tài sản cá nhân, pháp
nhân trong các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, độc lập về tài
sản…các quy định của pháp luật dân sự Việt Nam là hành lang pháp lý điều
chỉnh các quan hệ dân sự đảm bảo cho sự phát triển bền vững và ổn định xã hội.
Hệ thống pháp luật dân sự của các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt
Nam nói riêng đều có cách tiếp cận khác nhau về chế định sở hữu tài sản theo
pháp luật dân sự. Vì chế định sở hữu tài sản theo pháp luật dân sự Việt Nam có
tầm ảnh hưởng rất lớn đến các chế định khác, nên trong Bộ luật Dân sự năm 2015
các chế định như: chế định về thừa kế, chế định về hợp đồng, chế định sở hữu tài
sản luôn giữ vị trí trọng tâm của Bộ luật. Đó là lý do chúng em lựa chọn đề tài:
“Chế định sở hữu tài sản theo pháp luật dân sự Việt Nam – Lý luận và thực
tiễn”.
Việc tìm hiểu chế định sở hữu tài sản trong xã hội ngày càng phát triển,
các quan hệ dân sự và giao lưu dân sự ngày càng được mở rộng thì chế định sở
hữu tài sản là chế định cơ bản, quan trọng nhất trong Bộ luật Dân sự nhằm bảo vệ
các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu tài sản, bảo đảm trật tự trong
giao dịch dân sự, bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân trong các
lĩnh vực của đời sống dân sự, cũng như các tư tưởng, nguyên tắc cơ bản của nền
kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa về quyền sở hữu trong đó có
quyền sở hữu về tài sản.
Nghiên cứu vấn đề này, chúng em đã có nhiều cố gắng, dành nhiều thời
gian, suy nghĩ, tìm tòi học hỏi. Tuy nhiên, quy định pháp luật về chế định sở hữu
tài sản theo pháp luật dân sự Việt Nam là một vấn đề tương đối phức tạp, nên với
thời gian và kiến thức của bản thân chúng em còn hạn chế, tiểu luận không tránh
khỏi những khiếm khuyết. Rất mong cô Võ Thị Mỹ Hương Trường Đại học Sư

Trang 2
phạm Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh góp ý để bài tiểu luận được hoàn chỉnh và mang
tính thiết thực hơn./.
NỘI DUNG

I. TÌM HIỂU CHUNG VỀ CHẾ ĐỊNH SỞ HỮU TÀI SẢN THEO PHÁP
LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
1. Định nghĩa về tài sản.
Bộ luật Dân sự 2015 đã đưa ra định nghĩa về tài sản tại Điều 105 như sau:
“Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản; Tài sản bao gồm bất
động sản và động sản, bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài
sản hình thành trong tương lai”.
Tài sản là những đối tượng mà con người có thể sở hữu được và phải mang
lại những lợi ích nhất định cho con người, có giá trị và trị giá được thành tiền. Tài
sản còn phải thỏa mãn một đặc điểm là có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự
hay phải là đối tượng của các giao dịch dân sự. Cụ thể: Điều 115 Bộ luật Dân sự
2015 định nghĩa: "Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền
tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài
sản khác”.
2. Lý luận và thực tiễn của chế định về quyền sở hữu tài tài sản
Quyền sở hữu tài sản là một trong các quyền cơ bản của công dân, vừa
thuộc phạm trù kinh tế, vừa thuộc phạm trù pháp lý. Theo phạm trù pháp lý,
quyền sở hữu là tổng thể một hệ thống quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành
để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong việc chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt các tư liệu sản xuất và tiêu dùng.
Căn cứ vào định nghĩa tại Điều 158 Bộ luật Dân sự 2015 thì “Quyền sở
hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của
chủ sở hữu theo quy định của luật”.
2.1. Quyền chiếm hữu.
Theo Điều 179 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định quyền chiếm
hữu: “Chiếm hữu là việc chủ thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp

Trang 3
hoặc gián tiếp như chủ thể có quyền đối với tài sản; Chiếm hữu bao gồm chiếm
hữu của chủ sở hữu và chiếm hữu không phải là chủ sở hữu. Việc chiếm hữu của
người không phải là chủ sở hữu không thể là căn cứ xác lập quyền sở hữu, trừ
trường hợp quy định tại các điều 228, 229, 230, 231, 232, 233 và 236 của Bộ luật
này”.  Dù chiếm hữu là một trong các quyền của người sở hữu nhưng chế định
chiếm hữu được xem là một chế định độc lập so với chế định sở hữu. Việc chủ
thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như chủ thể có
quyền đối với tài sản là sự chiếm hữu tài sản thực tế kết hợp với ý chí của người
chiếm hữu.
Tính ngay tình của việc chiếm hữu: Bộ luật Dân sự năm 2015 đã đưa ra
khái niệm chiếm hữu ngay tình và chiếm hữu không ngay tình.
Chiếm hữu ngay tình: là việc chiếm hữu mà người chiếm hữu có căn cứ để
tin rằng mình có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu, bao gồm hai loại: chiếm
hữu có căn cứ pháp luật và chiếm hữu không có căn cứ pháp luật và chiếm hữu
không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình.
Tại Điều 165 Bộ luật Dân sự 2015 việc chiếm hữu có căn cứ pháp luật bao
gồm: “Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản; người được chủ sở hữu uỷ quyền quản lý
tài sản; người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự
phù hợp với quy định của pháp luật; người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài
sản không xác định được ai là chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị
chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật
này, quy định khác của pháp luật có liên quan; người phát hiện và giữ gia súc,
gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp với điều kiện theo quy định của
Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan; các trường hợp khác do
pháp luật quy định. Việc chiếm hữu không phù hợp với những nội dung trên được
coi là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật”. Người chiếm hữu không có căn cứ
pháp luật ngay tình thì không biết và không thể biết việc chiếm hữu tài sản là
không có căn cứ pháp luật, yếu tố khách quan tức là không buộc chủ thể nhận
thức được việc chiếm hữu của mình là không có căn cứ pháp luật, trong trường
hợp này, dù không đòi hỏi điều kiện phải biết về tình trạng chiếm hữu của tài sản

Trang 4
nhưng người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật ngay tình này có thể có sự
nghi ngờ, chưa thực sự chắc chắn vào việc chiếm hữu của mình là hợp pháp hay
không hợp pháp.
Chiếm hữu không ngay tình: là trường hợp đòi hỏi người chiếm hữu phải
nhận thức được mình không có quyền đối với tài sản, và việc chiếm hữu này
không có căn cứ pháp luật. Biết và buộc phải biết mình không có quyền đối với
tài sản đang chiếm hữu của người chiếm hữu là có căn cứ pháp lý để pháp luật
buộc họ phải chấm dứt việc chiếm hữu thực tế bất hợp pháp đối với tài sản, hoàn
trả lại tài sản cho chủ thể có quyền sở hữu đối với tài sản, đồng thời phải bồi
thường thiệt hại (nếu có) do hành vi chiếm hữu bất hợp pháp của mình gây ra.
Với những trường hợp đòi hỏi người chiếm hữu biết hoặc phải biết việc
chiếm hữu của mình là không ngay tình thì thường liên quan đến các loại tài sản
có đăng ký quyền sở hữu như bất động sản, động sản đăng ký quyền sở hữu.

Ví dụ: Một người mua một mảnh đất từ một chủ thể khác không có giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất lúc này buộc người mua phải biết việc chiếm hữu
của mình là không ngay tình vì pháp luật buộc người mua, người bán phải biết
bất động sản là tài sản phải đăng ký.
Chiếm hữu liên tục: được quy định tại Điều 182 Bộ luật Dân sự năm
2015 được hiểu là việc chiếm hữu về mặt thực tế và mặt pháp lý của một chủ sở
hữu đối với tài sản. Chiếm hữu về mặt thực tế là việc chủ sở hữu, hoặc người có
quyền chiếm hữu tự mình giữ tài sản. Khi chủ sở hữu trao quyền chiếm hữu tài
sản cho một chủ thể khác thì chủ sở hữu chỉ có quyền chiếm hữu về mặt pháp lý
đối với tài sản, còn chủ thể được chủ sở hữu trao quyền chiếm hữu chỉ có quyền
chiếm hữu thực tế đối với tài sản. Đây là trường hợp sở hữu trao quyền chiếm
hữu thực tế một cách tự nguyện.
Ví dụ: Bà A đi sao y giấy tờ tại phòng công chứng nên gửi xe máy của
mình cho người đàn ông trông xe tên H ở bãi giữ xe Phòng công chứng, thì
trường hợp này, Bà A là người chiếm hữu về mặt pháp lý đối với tài sản là chiếc
xe máy, còn ông H là người chiếm hữu về mặt thực tế đối với tài sản là chiếc xe
máy đó.

Trang 5
Tính liên tục của chiếm hữu được bao gồm hai điều kiện: Việc chiếm hữu
diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định; Không có tranh chấp về quyền đối
với tài sản hoặc có tranh chấp nhưng chưa được giải quyết bằng một bản án,
quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm
quyền khác. Việc chiếm hữu của chủ thể không bị gián đoạn trong quá trình
chiếm hữu, đồng thời không xảy ra các tranh chấp về quyền sở hữu, quyền chiếm
hữu, quyền sử dụng…đối với tài sản, hoặc nếu có loại tranh chấp này thì chưa
được giải quyết tại Toà án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền bằng một bản
án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật. Việc chiếm hữu được thực hiện trong
một khoảng thời gian mà có tranh chấp nhưng chưa được giải quyết hay không có
tranh chấp về quyền đối với tài sản thì vẫn được coi là chiếm hữu liên tục.
 Chiếm hữu công khai: được thể hiện chính là ở việc người chiếm hữu
thực hiện các tác động vật chất đối với tài sản một cách minh bạch, không giấu
giếm. Người chiếm hữu có thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách rõ ràng, không
che giấu vì một ý đồ gì. Cần phân biệt việc chiếm hữu giấu giếm với trường hợp
chiếm hữu với loại tài sản đặc thù không thể hiện ra bên ngoài.
Ví dụ: Ông D mua Đô la Mỹ để cất giữ trong nhà, dù không thể hiện ra bên
ngoài cho các chủ thể khác biết về việc để dành tài sản là ngoại tệ này nhưng người
chiếm hữu này không hướng đến việc giấu giếm nhằm một ý đồ gì. Ngoài ra, chiếm
hữu công khai còn thể hiện qua việc chủ thể chiếm hữu có đầy đủ căn cứ chứng
minh tình trạng chiếm hữu của mình đối với tài sản, thể hiện tính minh bạch
trong việc chiếm hữu tài sản.
Việc chiếm hữu liên tục, công khai vừa có ý nghĩa trong xác định và bảo
vệ quyền sở hữu của chủ sở hữu, vừa là căn cứ quan trọng để xác định quyền sở
hữu theo thời hiệu theo quy định tại Điều 236 Bộ luật Dân sự năm  2015: “Người
chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình,
liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất
động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu,
trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan có quy định khác”.
Căn cứ Điều 184 Bộ luật Dân sự năm 2015 suy đoán về tình trạng và
quyền của người chiếm hữu: Chủ thể chiếm hữu tài sản được suy đoán là ngay

Trang 6
tình. Sự suy đoán này dựa trên cơ sở sự chiếm hữu thực tế đối với tài sản của chủ
thể chiếm hữu, bao gồm: Người chiếm hữu tài sản dựa trên cơ sở sự thỏa thuận
với chủ sở hữu. Họ là người kiểm soát thực tế đối với tài sản đồng thời thừa nhận
mình không có quyền sở hữu đối với tài sản đó. Họ chiếm hữu tài sản dựa trên ý
chí của người khác. Người chiếm hữu tài sản không dựa trên sự thỏa thuận với
chủ sở hữu. Đó là những trường hợp chiếm hữu dựa trên quy định của pháp luật
hoặc thông qua hành vi bất hợp pháp. Trong trường hợp này, ngoài việc chiếm
giữ tài sản, họ còn mong muốn chiếm hữu tài sản theo ý chí của mình. Dù là
nguồn gốc việc chiếm hữu tài sản là từ đâu thì người chiếm hữu tài sản luôn được
suy đoán là ngay tình. Người cho rằng chủ thể chiếm hữu đó không ngay tình thì
phải chứng minh, sự chứng minh này hướng đến việc phủ nhận quyền chiếm hữu
thực tế của chủ thể đang nắm giữ tài sản. Đây là một quy định hướng đến việc
bảo vệ quyền hiện hữu của chủ thể chiếm hữu tài sản, đó là chủ sở hữu, người có
quyền chiếm hữu hay thậm chí là tình trạng chiếm hữu của chủ thể.
Khi xảy ra tranh chấp về quyền đối với tài sản thì người chiếm hữu được
ưu tiên suy đoán là người có quyền đó. Việc chứng minh người chiếm hữu không
có quyền thuộc về người có tranh chấp với người chiếm hữu. Trong trường hợp
chủ sở hữu của tài sản phủ nhận quyền của người chiếm hữu thì cũng không có
ngoại lệ, đòi hỏi chủ sở hữu phải đưa ra các căn cứ chứng minh quyền sở hữu tài
sản của mình cũng như chứng minh người chiếm hữu không có quyền đối với tài
sản.
Ví dụ: Ông A là chủ sở hữu một chiếc xe ôtô Camry, Ông A cho Ông B mượn,
sau đóÔng B bán chiếc xe ôtô này cho Bà C. Nay nếu Ông A muốn phủ nhận việc
chiếm hữu xe ôtô của Bà C thì Ông A phải chứng minh quyền sở hữu của mình. Việc
chứng minhna2y của A có thể thực hiện thông qua việc đưa ra các dấu hiệu đặc trưng
của chiếc ôtô như ô tô này như giấy đăng ký quyền sở hữu xe, từng sửa chữa gì? Va
chạm và sơn sửa chỗ nào…
Việc chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai được coi là căn cứ để áp
dụng thời hiệu hưởng quyền và hưởng hoa lợi, lợi tức mà tài sản mang lại. Bộ
luật Dân sự 2015 hướng đến việc bảo vệ việc chiếm hữu có căn cứ pháp luật của

Trang 7
chủ thể. Chủ thể chiếm hữu tài sản này bao gồm: Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản;
Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản; Người được chuyển giao quyền
chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp với quy định của pháp luật;
Người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là chủ sở
hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm phù hợp
với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên
quan; Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù
hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có
liên quan và trường hợp khác do pháp luật quy định.
Trong trường hợp việc chiếm hữu bị người khác xâm phạm thì người
chiếm hữu hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Trên thực tế, người chiếm hữu hợp
pháp có quyền tự bảo vệ việc chiếm hữu của mình bằng rất nhiều cách thức khác
nhau như tự bảo quản, giữ gìn tài sản.

Người chiếm hữu có thể tự mình thực hiện quyền yêu cầu người có hành vi
xâm phạm phải chấm dứt hành vi, khôi phục tình trạng ban đầu, trả lại tài sản và
bồi thường thiệt hại bằng những biện pháp không trái quy định của pháp luật.
Hoặc người chiếm hữu có thể yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền
khác buộc người có hành vi xâm phạm việc chiếm hữu thực hiện các trách nhiệm
này khi họ theo quy định của Điều 185 Bộ luật Dân sự năm 2015.
2.2. Quyền sử dụng.
Điều 189 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Quyền sử dụng là quyền
khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản. Quyền sử dụng có thể
được chuyển giao cho người khác theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp
luật”.
Đối với quyền sử dụng tài sản là một trong những quyền quan trọng và có ý
nghĩa thực tế của chủ sở hữu. Chủ sở hữu có toàn quyền khai thác công dụng,
hưởng hoa lợi, lợi tức, được sử dụng tài sản theo ý chí của mình nhưng không
được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công
cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác; Thường chủ sở hữu trực tiếp sử

Trang 8
dụng tài sản của mình nhưng có thể chuyển giao cho người khác trên cơ sở các
văn bản thỏa thuận hợp pháp của chủ sở hữu hoặc theo quy định của pháp luật.
Quyền sử dụng là một quyền năng mà pháp luật quy định cho chủ sở hữu
hoặc người chiếm hữu hợp pháp được phép sử dụng các tài sản của mình nhằm
đáp ứng các nhu cầu sản xuất kinh doanh nhưng không làm thiệt hại đến lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác và trái với đạo đức
chung của xã hội.
Ví dụ: Bà A có căn nhà mặt phố cho ông M thuê thì ông M là người sử dụng căn
nhà đó hợp pháp trong thời gian thuê nhà mặc dù ông M không là chủ sở hữu tài sản.
Quy định này giúp cho người sở hữu tài sản có thể khai thác hết những lợi ích có được
của tài sản.
2.3. Quyền định đoạt
Điều 192 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Quyền định đoạt là quyền
chuyển giao quyền sở hữu tài sản, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng hoặc tiêu huỷ
tài sản”. Quyền định đoạt tài sản là một trong ba quyền quan trọng của quyền sở
hữu, nó liên quan đến việc quyết định số phận pháp lý của tài sản khi chuyển
quyền sở hữu từ chủ thể này sang chủ thể khá. Pháp luật quy định cho cá nhân là
chủ sở hữu hoặc không phải là chủ sở hữu có quyền định đoạt về tài sản, tuy
nhiên để có quyền định đoạt thì phải đáp ứng những điều kiện nhất định về năng
lực hành vi và các trình tự, thủ tục do pháp luật quy định: về năng lực hành vi,
việc định đoạt tài sản phải do người có năng lực hành vi dân sự thực hiện theo
quy định của pháp luật; về trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật về định
đoạt tài sản: trong trường hợp pháp luật có quy định về trình tự, thủ tục định đoạt
thì cần phải tuân thủ theo trình tự, thủ tục đó.
Về chủ thể có quyền định đoạt: Bộ luật Dân sự năm 2015 có quy định chủ
thể có quyền định đoạt là chủ sở hữu và người không phải chủ sở hữu.
Tại Điều 194 có quy định về quyền định đoạt đối với chủ sở hữu như sau: “Chủ
sở hữu có quyền bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, để thừa kế, từ bỏ quyền sở hữu,
tiêu dùng, tiêu huỷ hoặc thực hiện các hình thức định đoạt khác phù hợp với quy
định của pháp luật đối với tài sản”.

Trang 9
Quyền định đoạt đối với người không phải chủ sở hữu được quy định tại
Điều 195: “Người không phải là chủ sở hữu tài sản chỉ có quyền định đoạt tài
sản theo uỷ quyền của chủ sở hữu hoặc theo quy định của luật”.
Bên cạnh đó thì Bộ luật cũng quy định những hạn chế cơ bản của quyền
định đoạt, điều đó được thể hiện cụ thể tại Điều 196 Bộ luật Dân sự năm 2015:
“Quyền định đoạt chỉ bị hạn chế trong trường hợp do luật quy định; Khi tài sản
đem bán là tài sản thuộc di tích lịch sử - văn hoá theo quy định của Luật di sản
văn hoá thì Nhà nước có quyền ưu tiên mua; Trường hợp cá nhân, pháp nhân có
quyền ưu tiên mua đối với tài sản nhất định theo quy định của pháp luật thì khi
bán tài sản, chủ sở hữu phải dành quyền ưu tiên mua cho các chủ thể đó”.
Quyền định đoạt có vai trò rất quan trọng đối với chủ sở hữu, nên pháp luật
quy định như vậy là hợp lý để bảo vệ những quyền vốn có của chủ sở hữu.
Đối với những tài sản mà pháp luật quy định trình tự, thủ tục định đoạt tài
sản thì khi định đoạt tài sản người định đoạt tài sản phải tuân thủ các quy định.
Các loại tài sản mà pháp luật quy định trình tự, thủ tục định đoạt tài sản thường là
bất động sản hoặc các tài sản là động sản phải đăng ký quyền sở hữu.
Ví dụ: Gia đình ông A có một bất động sản là căn biệt thự tại thành phố
biển Vũng Tàu để nghỉ dưỡng, do không có nhu cầu nên gia đình ông A đã tìm
khách mua là gia đình ông B để chuyển nhượng lại căn biệt thự đó. Hai bên đã ra
phòng công chứng để làm hợp đồng chuyển nhượng và ra thuế để nộp thuế theo
quy định. Đó chính là việc gia đình ông A đã định đoạt về bất động sản căn biệt
thự, chuyển sở hữu sang cho người khác.
II. BẤT CẬP, HẠN CHẾ VÀ KIẾN NGHỊ TRONG CHẾ ĐỊNH SỞ HỮU
TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM.
Bên cạnh những thành công trên, chế định sở hữu tài sản theo pháp luật
dân sự cũng tồn tại những bất cập nhất định như sau:
Một là, chế định về sở hữu tài sản vẫn còn điểm bất cập khi quy định về
điều kiện áp dụng phương thức kiện đòi lại tài sản là động sản không phải đăng
ký quyền sở hữu thì Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định bị trùng lặp và chưa
đảm bào tính khoa học, logic. Điều 167 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
“Trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi
Trang 10
lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm
hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu” về phần nội dung. Về kỹ thuật lập quy, việc quy
định trên là chưa ổn bởi lẽ tài sản bị lấy cắp hay bị mất thì cũng có thể hiểu là nó
bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ thể rồi. Do vậy, quy định này nên lựa chọn và
cấu trúc lại cho logic và hay hơn như sau: “Trường hợp hợp đồng này là hợp
đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị
chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu”. Quy định này đã bao quát và khái quát
cho các trường hợp của nó.
Hai là, chế định về sở hữu tài sản còn có điểm bất cập trong quy định về
cơ chế bảo vệ việc chiếm hữu tài sản theo Bộ luật Dân sự năm 2015. Theo Bộ
luật Dân sự năm 2015 thì khi người sở hữu tài sản, chủ thể có quyền khác bị
người khác chiếm hữu tài sản thì pháp luật trao cho họ quyền kiện đòi những
người này để thiết lập quyền của mình trên tài sản một cách hợp pháp. Tuy nhiên,
Bộ luật Dân sự năm 2015 không thể hiện rõ ý tưởng là phá luật cho phép người
sở hữu tài sản, chủ thể có quyền khác có quyền tiến hành kiện chủ thể khác để
yêu cầu khôi phục tình trạng chiếm hữu. Khoản 1 Điều 166 Bộ luật Dân sự năm
2015 quy định về quyền đòi lại tài sản như sau “Chủ sở hữu, chủ thể có quyền
khác đối với tài sản có quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu, người sử dụng
tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật”. Như vậy, luật chỉ
cho phép người có quyền được đòi lại tài sản của mình mà thôi. Xét ví dụ: Ông B
ăn cắp xe ô tô của Ông A rồi đem bán cho Ông C. Trong mối quan hệ này thì C là
bên thứ ba ngay tình. Nhưng nếu sau đó xe ôtô này lại bị ăn cắp và bán cho D thì
liệu rằng C có quyền yêu cầu D trả xe lại cho mình không? Đây là vấn đề mà
Điều 166 Bộ luật Dân sự năm 2015 không nêu rõ. Trong khi đó, luật pháp các
nước trên thế giới cho phép Ông C kiện Ông D để đòi khôi phục tình trạng chiếm
hữu (không quan tâm đến việc C có phải là chủ sở hữu không).
Ngoài ra, hiện nay các quy định về chiếm hữu trong Bộ luật Dân sự năm
2015 vẫn còn chưa rõ ràng, chưa chi tiết, sẽ có thể dẫn đến một số hành vi vi
phạm pháp luật như cố tình chiếm hữu không có căn cứ. Điều này sẽ gây hạn chế
cho việc bảo vệ quyền sở hữu của người có quyền thực sự. Bởi vì thực tiễn cho
thấy việc chứng minh quyền sở hữu nói chung và quyền chiếm hữu nói riêng diễn
ra rất khó khăn, trong bối cảnh hệ thống đăng ký quyền sở hữu của Việt Nam mới
được xây dựng nên còn rất thiếu sót.

Trang 11
Ví du: Đối với tài sản là bất động sản với những khó khăn trong công tác
quy hoạch, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà làm cho
xuất hiện tình trạng nhà không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà, nhà mua bán bằng vi bằng rất nhiều. Điều này càng gây nên nhiều khó
khăn để thực hiện các quyền bảo vệ người sở hữu tài sản, những người có quyền
khác với tài sản.
Với bất cập này, pháp luật cần xây dựng lại các quy định về chiếm hữu và
quyền chiếm hữu cho phù hợp hơn. Việc xây dựng lại các chế định này cần đặt
trong nguyên tắc thống nhất pháp luật, đảm bảo hệ thống lý luận về chiếm hữu
phải có tính logic, nhất quán. Theo đó, có thể tách riêng quyền chiếm hữu ra khỏi
quyền sở hữu để xây dựng duy nhất một chế định chiếm hữu nói chung trong Bộ
luật Dân sự năm 2015. Điều đó sẽ giúp cho các chủ thể bảo vệ hợp lý hơn quyền
chiếm hữu tài sản của mình.
Chế định sở hữu tài sản theo pháp luật dân sự Việt Nam là một trong
những chế định trọng tâm, quan trọng của Bộ luật Dân sự, nên việc bổ sung, hoàn
thiện chế định này là rất quan trọng, làm cơ sở tiền đề để xây dựng cũng như áp
dụng thống nhất các chế định khác có liên quan.

Trang 12
KẾT LUẬN

Chế định sở hữu tài sản được quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2015 với
ba quyền năng cơ bản: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt được
xây dựng trên nguyên tắc quyền của chủ sở hữu chiếm vị trí trung tâm. Ba quyền
năng trên tạo thành một thể thống nhất trong nội dung quyền sở hữu có mối lien
hệ mật thiết với nhau. Quyền chiếm hữu là quyền có vai trò quan trọng cho quyền
sử dụng và quyền định đoạt. Quyền sử dụng có ý nghĩa thiết thực với chủ sở hữu
vì có thể khai thác lợi ích từ quyền năng này. Quyền định đoạt xác định ý nghĩa
quan trọng nhất của chủ sở hữu trong việc quyết định số phận của tài sản. Bộ luật
Dân sự 2015 đã sửa đổi, bổ sung nhiều vấn đề quan trọng thể hiện sự phát triển
của chế định sở hữu tài sản trong lịch sử xây dựng pháp luật về dân sự nhằm
hoàn thiện các quy định của luật dân sự, trong đó chế định sở hữu tài sản làm cơ
sở tiền đề để xây dựng cũng như áp dụng thống nhất các chế định khác có liên
quan.
Vì vậy, thông qua bài tiểu luận này sẽ mang lại cho người đọc cách nhìn
toàn diện nhất về chế định sở hữu tài sản theo pháp luật dân sự Việt Nam./.

Trang 13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật Dân sự 2015;
2. Nghị quyết số 48/2005/NQ- TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010,
địnhhướng đến năm 2020
3. Bài giảng của giảng viên môn Pháp luật đại cương./.

Trang 14

You might also like