You are on page 1of 37

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT Y – DƯỢC ĐÀ NẴNG

TÀI NGUYÊN CÂY THUỐC


& PHƯƠNG PHÁP
CHIẾT XUẤT DƯỢC LIỆU

CHỦ BIÊN: TS. NGUYỄN THANH QUANG


BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT Y – DƯỢC ĐÀ NẴNG

TÀI NGUYÊN CÂY THUỐC


& PHƯƠNG PHÁP
CHIẾT XUẤT DƯỢC LIỆU

DÙNG CHO ĐÀO TẠO DƯỢC SỸ ĐẠI HỌC


(LƯU HÀNH NỘI BỘ

TS. NGUYỄN THANH QUANG (CHỦ BIÊN)


THS. TRỊNH THỊ QUỲNH
THS. HUỲNH MINH ĐẠO
LỜI NÓI ĐẦU

Giáo trình “Tài nguyên cây thuốc & phương pháp chiết xuất dược liệu” được biên
soạn để đào tạo ngành Dược trên cơ sở Chuẩn đầu ra của ngành học và Đề cương chi tiết của
học phần đã được Nhà trường ban hành.
Nội dung giáo trình gồm 2 phần:
Phần I: Tài nguyên cây thuốc: Các bộ phận cấu thành nên tài nguyên cây thuốc; đặc
điểm và giá trị của nguồn tài nguyên cây thuốc bao gồm da dạng sinh học và tri thức sử dụng;
tình trạng khai thác, tình hình phát triển tài nguyên cây thuốc. Các phương pháp bảo tồn tài
nguyên cây thuốc, bao gồm bảo tồn nguyên vị (in situ), chuyển vị (ex situ), và bảo tồn trên
đồng ruộng (onfarm)
Phần II: Chiết xuất dược liệu: Các phương pháp chiết xuất dược liệu ở qui mô phòng
thí nghiệm, trong công nghiệp, những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu suất quá trình chiết xuất.
Trong quá trình biên soạn không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong các bạn
đồng nghiệp và các sinh viên cho những nhận xét xây dựng.

BAN BIÊN SOẠN


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU

MỤC LỤC

Chương 1: ĐẠI CƯƠNG VỀ TÀI NGUYÊN CÂY THUỐC .................................. 1

1.1. Các khái niệm về tài nguyên cây thuốc .............................................................. 1

1.2. Giá trị của tài nguyên cây thuốc ......................................................................... 4

1.3. Tài nguyên cây thuốc trên thế giới và ở việt nam ............................................... 5

1.4. Bảo tồn và phát triển tài nguyên cây thuốc ....................................................... 12

Chương 2: PHƯƠNG PHÁP CHIẾT XUẤT DƯỢC LIỆU .................................. 19

2.1. Ðại cương .......................................................................................................... 19

2.2. Các quá trình xảy ra trong chiết xuất ................................................................ 19

2.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới quá trình chiết xuất .................................................. 22

2.4. Kỹ thuật tiến hành ............................................................................................. 25


Chương 1: ĐẠI CƯƠNG VỀ TÀI NGUYÊN CÂY THUỐC

Mục tiêu học tập


Sau khi học xong phần này, người học cần phải:
1. Trình bày được khái niệm tài nguyên cây thuốc bao gồm hai bộ phận cấu thành
2. Phân tích được đặc điểm của tài nguyên cây thuốc dựa trên khái niệm tài nguyên
cây thuốc
3. Trình bày được giá trị của tài nguyên cây thuốc.
4. Trình bày được tài nguyên cây thuốc trên thế giới
5. Phân tích được điều kiện tự nhiên và xã hội dẫn đến sự phong phú về tài
nguyêncây thuốc ở Việt Nam
6. Trình bày được tài nguyên cây thuốc ở Việt Nam, bao gồm da dạng sinh học và
tri thức sử dụng; tình trạng khai thác, tình hình phát triển tài nguyên cây thuốc hiện nay ở
Việt Nam.
7. Trình bày được các lý do cần bảo tồn tài nguyên cây thuốc
8. Phân tích được các mối đe doạ đối với tài nguyên cây thuốc
9. Phân tích được sự tham gia trong công tác bảo tồn tài nguyên cây thuốc
10. Trình bày được các phương pháp bảo tồn tài nguyên cây thuốc, bao gồm bảo
tồn nguyên vị (in situ), chuyển vị (ex situ), và bảo tồn trên đồng ruộng (onfarm).

1.1. CÁC KHÁI NIỆM VỀ TÀI NGUYÊN CÂY THUỐC


1.1.1. Khái niệm tài nguyên cây thuốc
Sự hình thành: Trong các xã hội tối cổ (và thậm chí đến tận ngày nay), bệnh tật
được cho rằng là do sự trừng phạt của trời, hoặc do các thế lực siêu tự nhiên gây ra, do đó
các thầy lang đã chữa bệnh bằng các lời cầu nguyện và nghi lễ, trong đó có sử dụng cây cỏ.
Cây cỏ làm thuốc được lựa chọn bởi màu sắc, mùi, hình dạng hay sự hiếm có của chúng.
Việc sử dụng cây cỏ làm thuốc là quá trình mò mẫm học tập trải qua nhiều thế hệ.
Các nghiên cứu khảo cổ cho thấy người Neanderthal cổ ở Iraq từ 60.000 năm trước
đã biết sử dụng một số cây cỏ mà ngày nay vẫn thấy sử dụng trong y học cổtruyền như Cỏ
thi, Cúc bạc, vv.Người dân bản xứ Mehico từ nhiều nghìn năm trước đã biết sử dụng
Xương rồng Mexico mà ngày nay được biết là chứa chất gây ảo giác, khángsinh. Các tài
liệu cổ xưa nhất về sử dụng cây thuốc đã được người Ai Cập cổ đại ghi chép trong khoảng
thời gian 3.600 năm trước đây với 800 bài thuốc và trên 700 thuốc trong đó có Lô hội, Kỳ

1
nham, Gai dầu, vv. ; người Trung Quốc cổ đại ghi chép trong bộ Thần nông Bản thảo trong
khoảng thời gian 5.000 năm trước đây với 365 vị thuốc; người Ân Độ cổ đại đã ghi chép
nền y học của người Hindu khoảng 2.000 năm trước, trong đó có các loài cây gây ngủ, ảo
giác, chữa rắn cắn, vv.
Khái niệm tài nguyên cây thuốc: Tài nguyên cây thuốc là một dạng đặc biệt của tài
nguyên sinh vật, thuộc tài nguyên có thể tái sinh (hồi phục), bao gồm hai yếu tố cấu thành
là cây cỏ và tri thức sử dụng chúng để làm thuốc và chăm sóc sức khoẻ.
Cây thuốc khác với một cây cỏ bình thường ở chỗ nó được dùng làm thuốc. Suy
rộng ra đối với cây rau, cây để nhuộm, cây gia vị, vv. cũng như vậy. Tính từ đứng sau danh
từ “cây” chỉ công dụng của cây đó. Với định nghĩa này, một cây thuốc cần có haiyếu tố cấu
thành, đó là (i) bản thân Cây cỏ, là nguồn gien hay yếu tố vật thể, và (ii) Trithức sử dụng
cây cỏ đó để chữa bệnh, là yếu tố phi vật thể.
Hai yếu tố này luôn đi kèm với nhau. Các sinh vật quanh ta rất nhiều, nếu không
biết sử dụng chúng để làm thuốc (cũng như các ứng dụng khác trong đời sống) thì chúng
chỉ là những sinh vật hoang dại trong tự nhiên. Ngược lại, khi một cây đã biết dùng làm
thuốc nhưng sau đó lại để mất tri thức sử dụng (hoặc đưa đến một nơi mà không có ai biết
dùng) thì nó cũng chỉ là cây cỏ hoang dại trong tự nhiên.
Bộ phận cấu thành thứ nhất (cây cỏ) là kết quả của quá trình tiến hoá lâu dài dưới
tác động của các yếu tố tự nhiên, do đó liên quan đến các môn khoa học tự nhiên như sinh
học, nông học, lâm học, dược học, vv.
Bộ phận cấu thành thứ hai (tri thức) là kết quả của quá trình đấu tranh sinh tồn của
loài người, có từ khi loài người xuất hiện trên trái đất, được đúc rút, tích luỹ và lưu truyền
trải qua nhiều thế hệ, chịu tác động củacác qui luật kinh tế - xã hội, quản lý, do đó liên
quan đến các môn học xã hội như dân tộc học, xã hội học, kinh tế học, vv.
1.1.2. Đặc điểm của tài nguyên cây thuốc
1.1.2.1. Các đặc điểm liên quan đến cây cỏ
- Một loài có nhiều tên gọi khác nhau, tuỳ theo dân tộc và địa phương, nhưng chỉ có
một tên khoa học hợp pháp duy nhất, được coi là từ khoá (keyword) trong các hệ thống
thông tin.
- Phần có giá trị sử dụng của cây thuốc là các chất hoá học, được gọi là hoạt chất.
Hàm lượng hoạt chất chứa trong cây thường chiếm một tỷ lệ rất thấp. Thành phần
và hàm lượng hoạt chất có thể thay đổi theo điều kiện sinh sống, do đó làm thay đổi, giảm
hoặc mất tác dụng chữa bệnh. Các bậc phân loại (taxon) giống nhau thường chứa các nhóm
hoạt chất như nhau.

2
- Bộ phận sử dụng đa dạng, có thể là cả cây, toàn bộ phần trên mặt đất, phần dưới
mặt đất (như rễ, củ, thân rễ), lá, vỏ (thân, rễ), hoa, quả, hạt. Trong một loài, các bộ phận
khác nhau có thể có tác dụng khác nhau.
1.1.2.2. Các đặc điểm liên quan đến tri thức sử dụng
- Tri thức sử dụng cây thuốc có được từ 2 nguồn:
(i) Tri thức bản địa và (ii) tri thức khoa học. Tri thức khoa học thường được lưu lại
trong các ấn phẩm (sách, báo, tạp chí, công trình nghiên cứu khoa học, cơ sở dữ liệu, vv.);
Tri thức bản địa thường đượctruyền miệng, giới hạn ở mức độ hẹp, do cá nhân, gia đình,
dòng họ hay cộng đồng nắm giữ do đó có thể bị mất. Phần lớn tri thức khoa học là bắt
nguồn từ tri thức bản địa.
- Tri thức sử dụng rất đa dạng, cùng một loài có nhiều cách sử dụng khác nhau
tuỳtheo dân tộc và địa phương.
- Tri thức sử dụng có sự tiến hoá, thông quan kinh nghi ệm thực tiễn, bài học thất
bại trong quá trình sử dụng cây cỏ làm thuốc.
- Tri thức sử dụng gắn liền với văn hoá và tập tục của từng địa phương.
- Tri thức sử dụng gắn liền với thu nhập kinh tế của người nắm giữ nó.
- Có sự khác biệt về số lượng và chất lượng tri thức sử dụng giữa các thành
viênkhác nhau trong cộng đồng, dân tộc, nền văn hoá. Sự khác nhau này phụ thuộc vào
tuổi tác, học vấn, giới tính, tình trạng kinh tế, kinh nghiệm, tác động ngoại lai, vai trò và
trách nhiệm trong gia đình và cộng đồng, quĩ thời gian, năng khiếu, khả năng đi lại và mức
độ tự lập, kiểm soát nguồn tài nguyên.
1.1.3. Sự khác nhau giữa cây thuốc và cây trồng nông nghiệp
- Cây nông nghiệp thường là cây ngắn ngày trong khi đó cây thuốc rất đa dạng và
có nhiều cây dài ngày.
- Các loài cây trồng nông nghiệp thường đã được nghiên cứu khá kỹ, thậm chí đến
mức dưới loài (thứ, dạng); cây thuốc có số loài rất lớn, chưa được nghiên cứu đầy đủ, có
khi còn dùng ở mức trên loài (chi).
- Cây nông nghiệp hầu hết đã được thuần hoá, gây trồng từ lâu và quen thuộc với
con người trong khi đó hầu hết các loài cây thuốc sống trong điều kiện hoang dại.
- Các sản phẩm của cây trồng nông nghiệp là hàng hoá thông dụng, có thể sử dụng
cho nhiều mục đích do đó thị trường của chúng rộng và linh hoạt hơn. Các sản phẩm của
cây thuốc là hàng hoá đặc biệt, chỉ có thể sử dụng cho một mục đích, do đó thị trường của
chúng hẹp hơn.

3
1.2. GIÁ TRỊ CỦA TÀI NGUYÊN CÂY THUỐC
1.2.1. Giá trị sử dụng
Tài nguyên cây thuốc đóng vai trò quan trọng trong chăm sóc sức khoẻ, chữa bệnh,
đặc biệt ở các nước nghèo, đang phát triển và có truyền thống sử dụng cây cỏ làm thuốc.
Theo báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), ngày nay có khoảng 80% dân số ở các
nước đang phát triển với dân số khoảng 3,5 đến 4 tỉ người trên thế giới có nhu cầu chăm
sóc sức khoẻ ban đầu phụ thuộc vào nền y học cổ truyền. Phần lớn trong số đó phụ thuộc
vào nguồn dược liệu hoặc các chất chiết suất từ dược liệu.
Ở Trung Quốc, nhu cầu thuốc cây cỏ là 1.600.000 tấn/năm và tăng khoảng
9%/năm. Châu Âu và Bắc Mỹ tăng trưởng 10% mỗi năm.
1.2.2. Giá trị kinh tế
Mặc dù chiếm tỷ lệ nhỏ hơn thuốc có nguồn gốc từ hoá học, công nghệ sinh học,vv.
cây cỏ làm thuốc vẫn được buôn bán khắp nơi trên thế giới. Trên qui mô toàn cầu,doanh số
mua bán cây thuốc ước tính khoảng 16 tỉ Euro.
Có 119 chất tinh khiết được chiết tách từ khoảng 90 loài thực vật bậc cao được sử
dụng làm thuốc trên toàn thế giới, trong đó có tới 74% chất có mối quan hệ hay cùng được
sử dụng như các cộng đồng đã sử dụng ví dụ như Theophyllin từ cây Chè,Reserpin từ cây
Ba gạc, Rotundin từ cây Bình vôi, vv.. Riêng Trung Quốc, trong giai đoạn từ 1979 -1990
đã có 42 chế phẩm thuốc mới từ cây thuốc đưa ra thị trường, trong đó có 11 chế phẩm chữa
các bệnh tim mạch, 5 chế phẩm chữa ung thư và 6 chế phẩm chữa các bệnh đường tiêu
hoá. Dự đoán nếu phát triển tối đa các thuốc cây cỏ từ các nước nhiệt đới, có thể làm ra
khoảng 900 tỉ USD mỗi năm cho nền kinh tế các nước thế giới thứ ba.
Tên hoạt chất Loại thuốc Nguồn gốc thực vật Sử dụng trong YHCT Quan hệ với
YHCT (Dừa cạn) dùng Tại Trung Quốc, có khoảng 1.000 loài cây thuốc thường xuyên
được sử dụng, chiếm 80% thuốc bán trên thị trường trong nước, với tổng giá trị (1992) là
11 tỉ Nhân dân tệ.
Hồng Kông là nơi có thị trường thuốc cây cỏ lớn nhất thế giới, hàng năm nhập
lượng dược liệu trị giá 190 triệu USD, trong đó có 70% được sử dụng tại địa phương vàchỉ
có 30% được tái xuất và trong khi đó chỉ có 80 triệu USD thuốc tây được nhập trongcùng
thời gian. Tiền sử dụng thuốc cây cỏ của người dân Hồng Kông là 25 USD/năm.
Tại Nhật Bản, có đến 42,7% dân sử dụng thuốc cổ truyền trong các hoạt độngchữa
bệnh với tổng chi tiêu cho y học cổ truyền là 150 triệu USD (1983).
Tại Ấn Độ, có 400 loài trong số 7.500 loài cây thuốc thường xuyên được sử
dụngvới lượng lớn ở các xưởng sản xuất thuốc nhỏ.

4
Doanh số bán thuốc cây cỏ ở các nước Tây Âu năm 1989 là 2,2 t ỉ USD so với tổng
doanh số buôn bán dược phẩm là 65 tỉ USD.
1.2.3. Giá trị tiềm năng
Tài nguyên cây cỏ là đối tượng sàng lọc để tìm các thuốc mới. Viện Ung thư Quốc
gia Mỹ đã đầu tư nhiều tiền bạc để sàng lọc đến 35.000 trong số trên 250.000 loài cây cỏ
tìm thuốc chữa ung thư trên khắp thế giới. Theo bộ dữ liệu NAPRALERT, đến năm 1985
đã có khoảng 3.500 cấu trúc hoá học mới có nguồn gốc từ thiên nhiên được phát hiện,
2.618 trong số đó từ thực vật bậc cao, 512 từ thực vật bậc thấp và 372 từ các nguồn khác.
Rõ ràng là nguồn tài nguyên cây cỏ và tri thức sử dụng chúng làm thuốc còn là một kho
tàng khổng lồ, trong đó phần khám phá còn quá ít ỏi.
Các vùng nhiệt đới trên thế giới, bao gồm lưu vực sông Amazon của châu Mỹ,
Đông Nam Á, Ấn Độ - Mã Lai, Tây Phi chứa đựng kho tàng cây cỏ khổng lồ cũng như
giàu có về tri thức sử dụng, có tiềm năng lớn trong nghiên cứu và phát triển dược phẩm
mới từ cây cỏ.
Ở Trung Quốc, ngoài nền y học cổ truyền chính thống của người Hán (Trung y),
các cộng đồng không phải người Hán, với dân số khoảng 100 triệu người, cũng có các nền
y học riêng của mình, sử dụng khoảng 8,000 loài cây cỏ làm thuốc, trong đó có 5 nền y học
chính là nền y học của người Tây Tạng (sử dụng 3,294 loài), Mông Cổ (sử dụng 1,430
loài), Ugur, Thái (sử dụng 800 loài) và Triều Tiên. Như vậy, cũng có thể tồn tại các nền y
học dân tộc riêng, ở mức độ phát triển nhất định ở Việt Nam, đặc biệt làcủa các cộng đồng
dân tộc sinh sống lâu đời hoặc có hệ thống chữ viết sớm phát triển như người Thái,
Mường, Chăm, vv.
1.2.4. Giá trị văn hoá
Sử dụng cây cỏ làm thuốc là một trong những bộ phận cấu thành các nền văn hoá,
tạo nên đặc trưng văn hoá của các dân tộc khác nhau.
1.3. TÀI NGUYÊN CÂY THUỐC TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM
1.3.1. Tài nguyên cây thuốc trên thế giới
Ngày nay, ước lượng có khoảng 35.000 -70.000 loài trong số 250.000 - 300.000
loài cây cỏ được sử dụng vào mục đích chữa bệnh ở khắp nơi trên thế giới. Trong đó Trung
Quốc có trên 10.000 loài, Ân Độ có khoảng 7.500 loài, Indonesia có khoảng 7.500 loài,
Malaysia có khoảng 2.000 loài, Nepal có hơn 700 loài, Sri Lanka có khoảng 550-700 loài.
Theo Jukovski (1971), có 12 trung tâm đa dạng sinh học cây trồng trên thế giớilà
Trung Quốc - Nhật Bản, Đông Dương - Indonesia, Châu úc, Ân Độ, Tr ung á, CậnĐông,
Địa Trung hải, Châu Phi, Châu Âu - Siberi, Nam Mehico, Nam Mỹ và Bắc Mỹ.

5
Nhiều loài cây thuốc đã được thuần dưỡng và trồng trọt từ lâu đời tại các trung tâm
đónhư Gai dầu, Thuốc phiện, Nhân sâm, Đinh hương, Nhục đậu khấu, Quế Xây Lan, Bạc
hà, Đan sâm, Canh kina, vv.
1.3.2. Tài nguyên cây thuốc ở việt nam
1.3.2.1. Điều kiện tự nhiên và xã hội
a. Điều kiện tự nhiên
Việt Nam có diện tích phần lục địa rộng 35 triệu ha, một phần gắn liền với lục địa
và một phần thông với đại dương, kéo dài từ bắc xuống nam hơn 1.800 km, phân bố từ vĩ
độ 8o30' đến 33o2' bắc và từ kinh độ 102o10' đến 109o Lãnh thổ Việt Nam chịu sự chi
phối về hoạt động địa chất của hai địa khối Indonesia (từ Mường Tè, Điện Biên Phủ ở cực
Tây bắc đến Trung bộ và Nam bộ) và Hoa Nam (vùng Bắc bộ). Địa hình đa dạng và phức
tạp với hai vùng đồng bằng lớn là châu thổ Sông Hồng ở phía bắc và Sông Cửu long ở phía
nam, có hai dãy núi lớn là Hoàng liên sơn và Trường sơn với nhiều vùng có độ cao trên
2.000m và các cao nguyên nhỏ như Đồng Văn, Mộc Châu, Sơn La, Gia Lai-Kon Ton, Đắc
Lắc, Di Linh, vv. Ở phía Bắc, hầu hết các dãy núi đều thấp dần từ Bắc xuống Nam và có
hướng chung với các dãy núi ở phía Nam Trung Quốc. Điều này tạo điều kiện cho sự xâm
nhập của các yếu tố hệ thực vật á nhiệt đới và ôn đới vào miền Bắc Việt Nam như các loài
của ngành Thông, họ Dẻ (Fagaceae), họ Cáng lò (Betulaceae), họ Đỗ quyên (Ericaceae),
vv. Về phía Nam, địa hình thấp, phẳng và gắn liền với miền đất của Malaysia, do đó tạo
điều kiện cho sự xâm nhập của nhiều loài cây thuộc hệ thực vật Malaysia như các cây
thuộc họ Dầu (Dipterocarpaceae), họ Nắp ấm (Nepenthaceae), chi Dừa ( Cocos), chi
Muồng(Cassia) loài Tếch (Tectona grandis L.f.).
Việt Nam nằm ở vành đai khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa với tổng lượng bức xạ đạt
110-120 calo/cm2/năm, nhiệt độ trung bình năm khác nhau giữa miền Bắc (23,4oC -Hà
Nội) và miền Nam (27oC-Hồ Chí Minh) lượng mưa trung bình hàng năm nói chung vượt
1.500 mm nhưng phân bố không đều trong năm, lượng mưa thường lớn hơn2 lần lượng
bốc hơi. Khí hậu nhiệt đới gió mùa có mùa Đông lạnh ở miền Bắc (từ vĩtuyến 18 Bắc trở
ra) và khí hậu nhiệt đới gió mùa ở phía Nam.
Các yếu tố địa chất, địa hình và khí hậu đa dạng như vậy dẫn đến Việt Nam có
thảm thực vật phong phú, từ rừng rậm nhiệt đới ẩm xanh quanh năm, rừng rậm nhiệt
đớimưa mùa nửa rụng lá đến rừng á nhiệt đới ẩm xanh quanh năm, á nhiệt đới hơi khô,
savan nhiệt đới khô, truông nhiệt đới khô, rừng ngập mặn, rừng lá kim, rừng lùn núicao,
vv. Điều này dẫn đến sự đa dạng của cây cỏ.

6
b. Điều kiện xã hội
Việt Nam là nơi giao lưu của các dân tộc và các nền văn hoá trong đó quan
trọngnhất là hai luồng văn hoá Trung Hoa và Ấn Độ, là ngôi nhà chung của 54 dân tộc,
thuộc 3 họ ngôn ngữ và 8 nhóm khác nhau là Việt-Mường, Môn-Khme, Tày-Thái, H'Mông
Dao, Khađai, Malayo-Polynesian, Hán, Tạng -Miến. Trong đó cộng đồng người Việt
(Kinh) có dân số lớn nhất, chủ yếu phân bố ở các vùng châu thổ.
Các dân tộc còn lại chủ yếu phân bố ở các khu vực đồi núi, nơi chiếm đến ¾ diện
tích cả nước, có thành phần đa dạng, bao gồm các nhóm dân tộc Tày-Thái, Hmông Dao,
Tạng Miến, vv. ở miền núi phía Bắc hiện còn bà con đang sinh sống ở nam Trung Quốc,
Lào, Thái Lan, Miến Điện; các nhóm dân tộc sinh sống ở miền Trung và miền Nam thuộc
nhánh ngôn ngữ Môn-Khmer có bà con sinh sống ở Lào, Campuchia, Thái Lan, vv. nhóm
các dân tộc sinh sốn g dọc ven biển miền Trung và Tây Nguyên có quan hệ họ hàng với
những dân cư đang sinh sống ở Malaysia, Indonesia. Các dân tộc sinh sống ở Việt Nam tạo
nên một hình ảnh thu nhỏ của khu vực Đông Nam Á.
Mỗi dân tộc có tập quán, niềm tin, tri thức và kinh nghiệm sử dụng cây cỏ làm
thuốc khác nhau. Điều này dẫn đến sự đa dạng về tri thức sử dụng cây thuốc ở Việt Nam.
1.3.2.2. Tài nguyên cây thuốc
a. Đa dạng hệ thực vật và cây thuốc ở việt nam
Hệ thực vật: Hệ thực vật Việt Nam có khoảng 1.000 loài Tảo (trong số 25.000 loài
trên thế giới), 11.080 loài thực vật bậc cao (bảng 9.3), trong đó có 733 loài cây trồng được
nhập nội, thuộc 2.046 chi, 395 họ, chiếm khoảng 4% tổng số loài, 15% tổng số chi và
57%tổng số họ thực vật của toàn thế giới. Theo dự đoán của các nhà thực vật học thì số
loài thực vật bậc cao có mạch ở Việt Nam có thể đến 12.000 –15.000 loài.
Các họ có số loài nhiều nhất bao gồm: Lan (Orchidaceae), Đậu (Fabaceae), Thầu
dầu (Euphorbiaceae), Lúa (Poaceae), Cà phê (Rubiaceae), Cúc (Asteraceae), Cói
(Cyperaceae), Long não (Lauraceae), Ô rô (Acanthaceae), Na (Annonaceae), Trúc đào
(Apocynaceae), Bạc hà ( Lamiaceae), Đơn nem (Myrsinaceae), Cỏ roi ngựa
(Verbenaceae), Hoa mõm chó (Scrophulariaceae), Cau (Arecaceae), vv.
Các họ cây cỏ phổ biến bao gồm: Cần ( Apiaceae), Cúc (Asteraceae), Ráy
(Araceae), Ô rô (Acanthaceae), Hoàng tinh (Convallariaceae), Cói (Cyperaceae), Thầu dầu
(Euphorbiaceae), Bạc hà (Lamiaceae), Lan (Orchidaceae), Lúa (Poaceae).
Nhóm cây dây leo gồm hai loại: Dây leo cỏ, thường là những loài ưa sáng thường
gặp ở rừng thứ sinh, thuộc họ Đậu (Fabaceae), Khoai lang (Convolvulaceae), Khúc khắc
(Smilacaceae), vv.; Dây leo gỗ, thường là những cây ưa ẩm, chịu bóng,thường gặp trong

7
rừng nguyên sinh như các loài trong chi Bauhinia, Entada, Strychnos,Acacia, Ficus,
Coccinium, vv.. Chúng thường có thân dẹt, vươn lên đỉnh cây gỗ để lấyánh sáng.
Nhóm thực vật thuỷ sinh thuộc các họ Súng ( Nymphaeaceae), Long đởm
(Gentianaceae), Cói (Cyperaceae), Trạch tả (Alismataceae), Rau răm (Polygonaceae),Bèo
tây (Ponteriaceae), Lúa (Poaceae), vv. và thuộc hai nhóm: Sống bám vào đất và sống trôi
nổi.
Các loài bán ký sinh thuộc các họ Tầm gửi ( Loranthaceae, Viscaceae); Các loài ký
sinh thuộc các họ Gió đất (Balanophoraceae), Tơ hồng (Cuscutaceae).
Các loài bì sinh (phụ sinh) tập trung trong các họ Lan ( Orchidaceae), Dương xỉ
(Polypodiaceae), một số loài thuộc họ Dâu tằm ( Moraceae), Nhân sâm (Araliaceae),Ráy
(Araceae), vv.
Các cây có củ hay thân rễ tập trung ở các họ Ráy (Araceae), Khoai lang
(Convolvulaceae), Củ nâu ( Dioscoreaceae), Dong (Marantaceae), Tiết dê
(Menispermaceae), Khúc khắc (Smilacaceae), Râu hùm (Tacaceae), Gừng (Zingiberaceae),
Hoàng tinh (Convallariaceae), vv.
Số loài cây thuốc ở Việt Nam: Số loài cây thuốc chính thức được thống kê hiện nay
là 3.850 loài.
Số loài cây thuốc được phát hiện ở Việt Nam tăng liên tục theo thời gian. Theo tài
liệu của Pháp, trước năm 1952, toàn Đông Dương có 1.350 loài cây làm thuốc, trong 160
họ thực vật. Bộ sách “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” của GS. Đỗ Tất Lợi, in lần
thứ 8 (1999) giới thiệu 800 cây, con và vị thuốc. Bộ sách “ Cây thuốc Việt Nam” của
lương y Lê Trần Đức (1997) có ghi 830 loài cây thuốc. TS. Võ Văn Chi, tác giảcuốn “Từ
điển cây thuốc Việt Nam” (1997) đã thống kê khoảng 3.200 loài làm thuốc(kể cả Nấm).
Theo số liệu điều tra của Viện dược liệu (2003) Việt Nam có 3.850 loài cây thuốc. Dự
đoán, nếu được khảo sát đầy đủ, số loài cây thuốc ở Việt Nam có thể là 6.000.
Phân bố tài nguyên cây thuốc ở Việt NamTrong số 1.863 loài cây thuốc phát hiện
trong các đợt điều tra sưu tầm trong giaiđoạn từ 1961 đến 1985, có đến 3/4 là các loài cây
mọc hoang dại, phân bố chủ yếu ở cácvùng rừng núi (khoảng 700 loài), vùng đồi và trung
du (400 loài).
Các loài cây thuốc phân bố ở 8 vùng sinh thái trong nước là Đông Bắc - Bắc
bộ,Việt Bắc – Hoàng liên Sơn, Tây Bắc, đồng bằng sông Hồng , Bắc Trung bộ,
ĐôngTrường Sơn và Nam Trung bộ, Tây Nguyên, Đông Nam bộ và đồng bằng sông
Cửulong; tập trung chủ yếu ở 5 trung tâm đa dạng sinh vật là Hoàng Liên Sơn, Cúc
Phương,Bạch Mã, Yok Đôn, Lâm Viên và Cát Tiên.

8
b. Tri thức sử dụng cây thuốc ở Việt Nam
Tri thức sử dụng cây cỏ làm thuốc ở Việt Nam có thể được chia thành 2 loạichính:
(i) trong n ền y học chính thống, có nguồn gốc từ Trung y, với các hệ thống lýluận và thực
hành được tư liệu hoá trong sách vở như các học thuyết âm-dương, ngũhành, tạng tượng,
vv.; (ii) trong các nền y học nhân dân, ít được tư liệu hoá hay chưađược nghiên cứu đầy đủ.
Trong nền y học chính thống, cả nước có hơn 40 bệnh viện y học cổ truyền vàcác
khoa y học cổ truyền trong các bệnh viện đa khoa. Có 5.000 người hành nghề thuốcy học
cổ truyền với gần 4.000 cơ sở chẩn trị đông y. Có khoảng 700 loài thường đượcnhắc đến
trong các sách đông y, sách về cây thuốc, 150-180 vị thuốc thường được sửdụng ở các
bệnh viện y học cổ truyền, lương y. Nhu cầu dược liệu cho y học cổ truyềnchính thống
khoảng 30.000 tấn/năm.
Hiện đã tập hợp được 39.381 bài thuốc kinh nghiệm dân gian gia truyền của12.531
lương y. Nhiều dược phẩm được phát triển gần đây dựa trên tri thức sử dụng của cộng
đồng như Ampelop, dựa trên tri thức sử dụng cây Chè dây (Ampelopsis cantoniensis
(Hook. Et Arn.) để chữa bệnh của người Tày ở Cao Bằng; cây Tật lê (Tribulus terrestris
L.), dựa trên tri thức sử dụng của người Chăm, vv.
Trong các nền y học nhân dân, mỗi cộng đồng miền núi (cấp xã) thường biết
sửdụng từ 300-500 loài cây c ỏ sẵn có trong khu vực để làm thuốc. Mỗi gia đình biết sử
dụng từ vài đến vài chục cây để chữa các chứng bệnh thông thường ở cộng đồng đó.
Mỗi cộng đồng thường có 2-5 thầy lang (hay hơn) có kinh nghiệm sử dụng và sử
dụngsố loài nhiều hơn. Ước lượng số loài sử dụng tại các cộng đồng ở Việt Nam là 6.000.
Để bảo đảm công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu tại tuyến y tế cơ sở, bộ Y tế đã
ban hành “Danh mục thuốc thiết yếu”. Trong Danh mục thuốc thiết yếu lần thứ IV, có qui
định 188 vị thuốc YHCT thiết yếu và 60 loài cây cỏ làm thuốc cần trồng tại tuyến xã, gọi
là thuốc Nam thiết yếu.
c. Khai thác và phát triển tài nguyên cây thuốc ở Việt Nam
Khai thác cây thuốcCây thuốc đang được khai thác để bán với lượng lớn cho các
công ty dược trongnước và xuất khẩu, đặc biệt là theo đường tiểu ngạch sang Trung Quốc.
Trong khối công nghiệp dược, các nước có 286 cơ sở sản xuất dược phẩm (bao
gồm các doanh nghiệp nhà nước, công ty, tổ hợp sản xuất, tư nhân) đang sản xuất 1.294
loại dược phẩm được sản xuất từ nguyên liệu thực vật hoặc chất chiết xuất từ thực vật,
chiếm 23 % số loại dược phẩm được phép sản xuất và lưu hành từ năm 1995-2000, sử
dụng 435 loài cây cỏ. Nhu cầu dược liệu cho khối công nghiệp dược khoảng 20.000 tấn, và
cho xuất khẩu là 10.000 tấn hàng năm. Năm 1998, tổng công ty dược liệu Việt Namxuất

9
khẩu được 13 triệu USD, trong đó dược liệu, tinh dầu và các hoạt chất từ cây thuốcchiếm
74%. Tiềm năng cung cấp dược liệu có thể đạt 500 - 800 tỷ đồng.
Các công ty dược sử dụng nhiều dược liệu như Xí nghiệp dược phẩm TW 26, Xí
nghiệpdược phẩm TW 3, Công ty dược liệu TW 1, Công ty cổ phần TRAPHACO, Công ty
TNHH BảoLong, Xí nghiệp chế biến Đông dược quận 5 (TP Hồ Chí Minh), vv. Riêng
Công ty Cổ phầnTRAPHACO hằng năm sử dụng lượng dược liệu là 500 tấn của hơn 100
loài cây thuốc khác nhau.
Trước năm 1990, nhiều loại dược liệu vẫn còn trữ lượng lớn như Ngũ gia bì các
loại, Thiên niên kiện, Cẩu tích, Vàng đắng , vv. nhưng do tiếp tục bị khai thác bừa bãi,
không có kế hoạch, thu hái theo kiểu tận thu, làm mất khả năng tái sinh tự nhiên của
chúng, nên đã bị cạn kiệt nhanh chóng. Một số loài như Vàng đắng ( Coscinium
fenestratum (Gaetn). Colebr.), Hoàng đằng ( Fibraurea spp.), Ba kích (Morindaofficinalis
How.), Kim tuy ến ( Anoectochilus roxburghii (Wall.) Lindl.), Hoàng liên chân gà (Coptis
quinquesecta W.T.Wang), Một lá (Nervilia fordii (Hance) Schlechter),Sâm vũ diệp (
Panax bipinnatifidus Seem.), Bẩy lá một hoa (Paris spp.), Hoàng tinh vòng (Polygonatum
kingianum Coll. Et Hemsl.), Bình vôi (Stephania spp.), vv. đã trởnên rất hiếm hoặc không
còn tìm thấy nữa.
Do khai thác từ hoang dại, nhiều cây thuốc được sử dụng lẫn lộn. Trong thực
tế,Bình vôi hiện đang sử dụng trong công nghiệp dược trong nước là từ nhiều loài trong chi
Stephania, có thành phần và hàm lượng hoạt chất khác nhau.
Phát triển tài nguyên cây thuốc Trồng và phát triển cây thuốc có nguồn gốc bản địa:
Có khoảng 40 loài cây thuốc bản địa đã được trồng trọt ở Việt Nam. Nhiều loài được trồng
trên quy mô lớn ở các tỉnh miền núi, hằng năm cung cấp cho thị trường trong nước và xuất
khẩu từ vài trăm cho đến hằng nghìn tấn sản phẩm như: Quế (Cinnamomum cassia Pesl.)
ở Yên Bái, Thanh Hoá, Lào Cai, vv. ; Hồi (Illicium verum Hook.f.) ở Lạng Sơn, Cao Bằng,
Quảng Ninh; Thảo quả (Amomum aromaticum Roxb.) ở Lào Cai, Lai Châu, vv., Ý dĩ (Coix
lacryma-jobi L.) ở Sơn La, Hoà Bình, vv.
Nhiều loài được trồng cả ở các vùng trung du và đồng bằng như: Hoa hoè
(Styphnolobium japonicum (L.f.) Schott.), Địa liền (Kaempferia galanga L.), Hươngnhu
(Ocimum gratissimum L.), Cúc hoa (Chrysanthemum indicum L.), Ích mẫu (Leonurus
artemisia Houtt), Trạch tả (Alisma plantago-aquatica L.), Mã đề ( Plantago major L.),
Hoắc hương (Pogostemon cablin (Blanco) Benth.), Ngải cứu (Artemisia vulgaris L.), Sả
(Cymbopogon spp.), vv.
Hoạt động trồng cây thuốc đã được phát động và triển khai ở nhiều cộng đồng miền
núi khác nhau ở Việt Nam như Hà Giang (Quản Bạ, Đồng Văn, Mèo Vạc, Hoàng Su Phì,
10
Phó Bảng), Lạng Sơn (Mẫu Sơn), Yên Bái (Văn Chấn, Lục Yên), Lai Châu (Sìn Hồ), Lào
Cai (Sa Pa, Bát Xát, Bắc Hà), Quảng Nam (Trà My), Lâm Đồng (Đà Lạt), vv.
Có những vùng chuyên trồng cây thuốc như làng Nghĩa Trai (Văn Lâm, Hưng Yên)
trồng đại trà hơn 10 loài cây thuốc, vùng Mễ Sở, Đa Ngưu (Khoái Châu).
Nhiều cây thuốc đã được các trường đại học, viện, công ty dược nghiên cứu phát
triển thành công thành các dạng bào chế bán rộng rãi trên thị trường như Bình vôi, Chè dây
(Ampelopsis cantoniensis (Hook. Et Arn.), Chó đẻ răng cưa (Phyllanthus urinaria L.), Ích
mẫu (Leonurus artemisia Houtt), Kim tiền thảo (Desmodium styracifolium(Osb.) Merr.),
Mướp đắng (Momordica chrantia L.), Ngưu tất (Achyranthes bidentata Blume), Thanh cao
hoa vàng (Artemisia annua L.), vv.
Trồng và phát triển cây thuốc có nguồn gốc Nhập nội: Có khoảng 300 loài thuộc
hơn 40 họ thực vật đã được nhập vào Việt Nam từ nhiều vừng khác nhau trên thế giới.
Trong số đó có khoảng 70 loài có thể sinh trưởng và phát triển tạo ra giá trị và trên 20 loài
đã trở thành cây thuốc ở Việt Nam như Actisô (Cynara scolymus L.), Đương qui (Angelica
sinensis (Oliv.) Diels), Địa hoàng (Rehmannia glutinosa (Gaertn.) Libosch.), Bạch chỉ
(Angelica dahurica Benth. EtHook.f.), Bạch truật (Atractylodes macrocephala Koidz.),
Vân mộc hương (Sausurea lappa Clack.), Bạc hà (Mentha spp.), vv. Nhiều loài cây thuốc
của nước ngoài đã được đưa vào trồng ở Việt Nam từ rất lâu. Có thể tạm chia ra hai giai
đoạn : Trước năm 1954 : Người Pháp đã đưa vào trồng ở Việt Nam các loài cây thuốc mà
cho đến naychúng vẫn đang được phát triển như Actisô: Có nguồn gốc ở Địa Trung Hải,
được trồng trên 100 năm nayở các vùng núi cao và mát như Đà Lạt, Sa Pa, Tam Đảo; Canh
ki na(Cinchona spp.): Có nguồn gốc Nam Mỹ, được trồng thử ở Việt Nam từ năm 1872.
Trong thời gian 1927-1936 đã được trồng trên qui mô lớn ở vùng Di Linh, Đơn
Dương (Lâm Đồng), Gia Lai và Thủ Pháp (Ba Vì, Hà Tây).
Sau năm 1954 : Chủ yếu trong giai đoạn 1960-1970 và còn tiếp tục trong những
năm sau đó, đãnhập khoảng 100 loài cây thuốc từ Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật và Liên
Xô cũ. Trong đó, có 20 loài đ ã được thuần hoá và trồng thành công như Ba gạc Ấn Độ
(Rauvolfias erpentina Benth.), B ạc hà (Mentha spp.), Bạch chỉ (Angelica dahurica Benth.
Et Hook.f.), Bạch truật (Atractylodes macrocephala Koidz.), Cát cánh (Platycodon
grandiflorum (Jacq.) A.DC.), Địa hoàng (Rehmannia glutinosa (Gaertn.) Libosch.), Đỗ
trọng (Eucommia ulmoides Oliv.), Độc hoạt (Angelica pubescens Maxim.), Đương qui
(Angelica sinensis (Oliv.) Diels), Hoàng bá (Phellodendron chinense Schneid), Huyền sâm
(Scrophularia buergeriana Miq.), Ngưu tất (Achyranthes bidentata Blume), vv.

11
Một số loài cây thuốc đã được phát triển thành hàng hoá và cung cấp nguyên
liệucho công nghiệp dược như Actisô (Cynara scolymus L.), Bụp dấm (Hibiscus
sabdariffa).
Việc nhập nội cây thuốc đang gặp những khó khăn chính là thoái hoá giống, sự
cạnh tranh của dược liệu cùng loại được nhập từ nơi nguyên sản và chuyển đổi cơ cấu cây
trồng mới.
Qui hoạch vùng: Hiện chưa có qui hoạch vùng phát triển tài nguyên cây thuốc được
chấp nhận rộng rãi ở Việt Nam. Một số nhà khoa học đề xuất 6 vùng qui hoạch phát triển
bao gồm: (i) Vùng núi cao phía Bắc, (ii) Trung du phía bắc, (iii) Đồng bằng châu thổ sông
Hồng, (iv) Ven biển miền Trung, (v) Tây Nguyên, (vi) Đồng bằng sông Cửu Long.
1.4. BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN TÀI NGUYÊN CÂY THUỐC
1.4.1. Bảo tồn tài nguyên cây thuốc
1.4.1.1. Các lý do cần bảo tồn tài nguyên cây thuốc
Với nhiều lý do khách quan và chủ quan, như chiến tranh, trình độ nhận thức của
con người còn bị hạn chế, kể cả trong công tác quản lý, nên sự phát triển kinh tế ở nước ta
còn chậm, đặc biệt ở vùng rừng núi, nơi có nguồn tài nguyên sinh vật phong phú cần bảo
tồn, thu nhập quốc dân tính theo đầu người thấp, dân số lại tăng. Chúng ta phải chọn cách
khai thác tài nguyên mặc dù nguồn tài nguyên thiên nhiên còn lại chỉ có hạn,rừng đang bị
thu hẹp và bị phá hoại nghiêm trọng. Trước yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội và đời sống,
chúng ta đang phải đối mặt với một mâu thuẫn gay gắt giữa cung vàcầu, giữa việc bảo tồn
và khai thác sử dụng nguồn tài nguyên quí giá này.
Vào đầu thế kỷ 20, nước ta có khoảng 60 % diện tích được rừng che phủ. Trong
khoảngthời gian từ năm 1943 đến năm 1983 độ che phủ của rừng tự nhiên đã giảm từ 43%
xuống 33%.
Đến năm 1995 độ che phủ là 27,5% (trong 12 năm diện tích rừng bị suy giảm 1,6
triệu ha, chiếm 15% diện tích rừng tự nhiên). Tỷ lệ bị mất rừng cao chủ yếu tập trung ở
vùng đông dâncư, vùng đất thấp ở miền Bắc và miền Nam. Tỷ lệ này ở miền Trung thấp
hơn. Hiện nay chỉ cònkhoảng 3% (hoặc ít hơn) rừng nhiệt đới chưa bị xâm phạm.
Vậy tại sao phải phải bảo tồn tài nguyên cây thuốc?. Các lý do chính phải bảo tồn
tài nguyên cây thuốc bao gồm: Cân bằng sinh thái: Các sinh vật trên trái đất sống bình
thường nhờ cân bằng sinh thái luôn được duy trì. Hiện nay, cân bằng này đang bị phá huỷ
và đa gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng và không thể lường hết được. Ví dụ như nạn lũ
lụt, hạn hán, xói mòn, vv.

12
Kinh tế: Tài nguyên cây thuốc là nguồn mưu sinh của nhiều cộng đồng, nhóm
người, kể các các cộng đồng phát triển lẫn các cộng đồng nghèo.
Bảo vệ tiềm năng: Cho đến nay chỉ có chưa đầy 5% số loài cây thuốc đượcnghiên
cứu. Số còn lại chắc chắn chứa một tiềm năng lớn mà hiện tại chưa có điều kiện khám phá.
Đạo đức: Mọi sinh vật sống trên trái đất có quyền bình đẳng ngang nhau. Loài
người không có quyền bắt các sinh vật phải phục vụ mình và quyết định sinh vật nào được
tồn tại. Các sinh vật phải nương tựa vào nhau để sống.
Văn hoá: Cây thuốc và tri thức và thực hành sử dụng cây cỏ làm thuốc là một bộ
phận cấu thành các nền văn hoá khác nhau. Bảo tồn tài nguyên cây thuốc là góp phần bảo
tồn các nền văn hoá và bản sắc các dân tộc.
1.4.1.2. Các mối đe doạ đối với tài nguyên cây thuốc
Nguồn tài nguyên cây thuốc bị đe doạ bởi các nguyên nhân chính sau:
a. Các mối đe doạ đối với cây thuốc
- Tàn phá thảm thực vật: Thảm thực vật bị tàn phá do áp lực của dân số, sinh kế và
các hoạt động pháttriển như mở rộng đất canh tác, khai thác gỗ, làm đường, xây dựng các
công trình thuỷ điện, vv. Thảm thực vật bị tàn phá dẫn đến tàn phá cây thuốc cũng như làm
mất nơi sống của chúng.
- Khai thác quá mức: Là lượng khai thác lớn hơn lượng tái sinh tự nhiên của cây
thuốc. Việc khai thác quá mức tài nguyên cây thuốc gây ra bởi áp lực tăng dân số và nhu
cầu cuộc sống ngày càng tăng, không những cho nhu cầu trong nước mà còn để xuất khẩu.
Điều này dẫn đến lượng tài nguyên tái sinh không bù đắp được lượng bị mất đi.
- Lãng phí tài nguyên cây thuốc: Là dược liệu khai thác không được sử dụng hết
hoặc sử dụng không hiệu quả. Sựlãng phí tài nguyên cây thuốc gây ra bởi hoạt động thu
hái mang tính chất huỷ diệt, điềukiện bảo quản kém, cách sử dụng lãng phí, thiếu các
phương tiện vận chuyển và thịtrường thích hợp.
- Nhu cầu sử dụng cây thuốc tăng lên: Trong thời kỳ thực dân kiểu cũ, các nền y
học truyền thống bị coi rẻ và chèn ép.
Khi giành được độc lập nhiều nước có chính sách khuyến khích, khôi phục nền y
họctruyền thống. Điều này dẫn đến nhu cầu sử dụng cây cỏ tăng lên ở nhiều nơi trên thế
giới. Một lý do khác là con người ngày càng nhận thấy tính an toàn và dễ sử dụng củacây
cỏ làm thuốc, đặc biệt từ những năm cuối của thế kỷ 20. Do đó có xu hướng quaytrở lại sử
dụng thuốc và các sản phẩm có nguồn gốc từ cây cỏ.
- Thay đổi cơ cấu cây trồng: Nhiều vườn hộ gia đình đất đai xung quanh cộng đồng
đang bị phá đi để trồngcác loại cây trồng cao sản phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế.

13
b. Các mối đe doạ đối với tri thức sử dụng
- Tri thức sử dụng cây cỏ làm thuốc không được tư liệu hoá: Hầu hết tri thức sử
dụng cây cỏ làm thuốc của các cộng đồng truyền thống đượctruyền miệng từ đời này sang
đời khác hay từ người dạy nghề sang người học nghề,không được chi chép đễ có thể lưu
giữ lâu dài.
- Sự phá vỡ các nguồn thông tin truyền khẩu truyền thống: Những điều thế hệ trẻ
học được ngày nay qua sách vở, đài, ti vi, vv. trong đó chủyếu nhấn mạnh các tri thức khoa
học. Trong khi đó các phương pháp truyền nghề truyền thống ngày càng bị mai một. Một
bộ phận thế hệ trẻ không quan tâm đến thừa kế trithức sử dụng cây cỏ làm thuốc từ thế hệ
trước. Điều này dẫn đến tri thức sử dụng bị mai một.
- Sự phát triển của các chế phẩm hiện đại và tâm lý coi thường tri thứctruyền thống:
Điều này có từ thời kỳ thực dân và tiếp tục được duy trì một cách vô ý thông quacác
phương tiện thông tin đại chúng.
- Xói mòn đa dạng các nền văn hoá.
1.4.1.3. Sự tham gia trong bảo tồn tài nguyên cây thuốc
Bảo tồn tài nguyên cây thuốc không thể thành công nếu nó chỉ là công việc củacác
nhà khoa học tự nhiên. Công tác bảo tồn tài nguyên cây thuốc cần phải có sự thamgia của
các ngành khác nhau, không những của các nhà khoa học, nhà quản lý, nhà kinh tế mà còn
cần có sự tham gia của người dân. Sự tham gia của người dân phải là sử tham gia tích cực,
mà không phải là "đối tượng nghiên cứu".
Xác định các động cơ kinh tế và xã hội thúc đẩy sự duy trì các nơi sống tự nhiên và
các loài hoang dại.
Bảo đảm việc bảo tồn và khai thác cây thuốc được kết hợp chặt chẽ trong kế hoạch
quản lý.
Trồng lại các loài cây thuốc bị thu hái quá mức vào các khu vực nguyên sản của
chúng.
Bảo tồn in situ có điểm mạnh là duy trì được sự tiến hoá của các loài, nguồn gien
cũng như sự tiến hoá của tri thức sử dụng.
a. Bảo tồn chuyển vị (ex situ)
Bảo tồn chuyển vị là di chuyển cây ra khỏi nơi sống tự nhiên để chuyển đến chỗ có
điều kiện tập trung quản lý. Bảo tồn chuyển vị có thể được thực hiện ở các vườn thực vật,
vườn sưu tầm, ngân hàng hạt, nhà kính và kho bảo quản mô trong điều kiện lạnh. Bảo tồn
chuyển vị có thể bao hàm cả việc trồng trọt không chính thức các loài cây hoang dại ở các
vườn ươm, vườn gia đình hay vườn thực vật của cộng đồng.

14
Khó khăn của bảo tồn chuyển vị là các mẫu cây được bảo tồn có thể chỉ là đại diện
của một số dòng gen hẹp trong số rất nhiều dòng gen khác nhau của loài đó mọchoang
trong tự nhiên. Các loài cây được bảo tồn chuyển vị có thể có nguy cơ bị xói mòngen và
phụ thuộc vào sự chăm sóc và duy trì của con người. Do đó, bảo tồn chuyển vịkhông thể
thay thế bảo tồn nguyên vị mà chỉ là phần bổ sung cho bảo tồn nguyên vị.
Cần ưu tiên bảo tồn chuyển vị đối với các loài cây thuốc có nơi sống đã bị pháhuỷ
hay không bảo đảm an toàn. Cần được sử dụng để nâng số lượng các quần thể cácloài cây
thuốc đã bị suy kiệt hay các giống bị tuyệt chủng ở mức độ địa phương để trồnglại vào
thiên nhiên.
Các hoạt động cần thực hiện trong bảo tồn chuyền vị bao gồm xây dựng vườn thực
vật (Botanic garden) và ngân hàng hạt (Seed bank), trong đó có hoạt động thu thập, tư liệu
hoá, đánh giá và duy trì nguồn gien cây thuốc.
b. Bảo tồn trên trang trại (on farm)
Bảo tồn trên trang trại (hay bảo tồn trên đồng ruộng) là trồng trọt và quản lý liên
tục sự đa dạng của các bộ quần thể cây thuốc, được người nông dân thực hiện trong các hệ
sinh thái nông nghiệp, nơi cây trồng đã tiến hoá. Bảo tồn trên đồng ruộng quan tâm đến
toàn bộ hệ sinh thái nông nghiệp, kể cả các loài có ích ngay trước mắt (như các loại cây
thuốc, trồng nông nghiệp, lâm nghiệp, vv.) cũng như các loài liên quan như các loài hoang
dại, cỏ dại có ở trong hay xung quanh khu vực.
‒ Muốn thực hiện tốt bảo tồn trên đồng ruộng, cần trả lời tốt các câu hỏi sau đây:
‒ Số lượng và phân bố của đa dạng nguồn gien được nông dân duy trì theo thờigian
và không gian
‒ Các quá trình được sử dụng để duy trì đa dạng nguồn gien trên đồng ruộng
‒ Các yếu tố ảnh hưởng đến việc ra quyết định để duy trì đa dạng nguồn gien của
nông dân
‒ Người duy trì nguồn gen trên đồng ruộng (nam/nữ giới, già/trẻ, giàu/nghèo, dân
tộc, vv.?).
c. Các phương pháp khác
Ngân hàng gen đồng ruộng (Field Genebank): Đối với các loài cây có đời sống dài
như các loài cây gỗ, cây bụi, vv. cách bảo tồn chuyển vị tốt nhất là bảo tồn ở ngân hàng
gen đồng ruộng tại các công viên, vườn thực vật, tập đoàn cây trồng trên đồng ruộng.
Ngân hàng gen in vitro: Tập đoàn các vật liệu di truyền được bảo quản trong môi
trường dinh dưỡngnhân tạo, điều kiện vô trùng. Đối tượng bảo tồn in vitro là những vật
liệu sinh sản vô tính, hạt phấn, DNA, các vật liệu dùng để nhân nhanh phục vụ các chương
trình chọn tạo và nhân giống.
15
1.4.2. Sử dụng và phát triển bền vững tài nguyên cây thuốc
1.4.2.1. Sử dụng bền vững tài nguyên cây thuốc
Sử dụng bền vững (sustainable use) có nghĩa là việc khai thác và sử dụng các hợp
phần của ĐDSH theo cách thức và ở một mức độ để không dẫn tới sự suy giảm lâu dài về
ĐDSH. Qua đó, có thể duy trì tiềm năng của ĐDSH để đáp ứng những nhu cầuvà nguyện
vọng của các thế hệ hiện tại và tương lai. Sử dụng bền vững được xem là nền tảng định
hướng cho sự phát triển bền vững.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), tài nguyên cây thu ốc phải được sử dụngmột
cách bền vững và an toàn thông qua các hoạt động:
Cơ chế luật pháp, bao gồm: (i) nhà nước điều hoà hoạt động thu hái/khai tháccây
thuốc từ hoang dại, (ii) nghiêm cấm thu hái các loài cây thu ốc hoang dạiđang bị đe doạ
(trừ việc thu thập vật liệu nhân giống với lượng nhỏ, theo cáchkhông làm nguy hại đến loài
cây thuốc đó), (iii) kiểm soát hoạt động buôn bán cây thuốc và các sản phẩm của chúng.
Nghiên cứu và phát triển trồng cây thuốc, bao gồm: (i) thiết lập các vườn ươmcây
thuốc, (ii) cải thiện mặt nông học các loài cây thuốc được trồng và trồng cácloài cây thuốc
có nhu cầu nhưng chưa được trồng trước đây, (iii) chọn tạo cácgiống cây thuốc thuần
chủng, có năng suất và chất lượng cao, (iv) hạn chế sử dụng thuốc hoá học trong trồng cây
thuốc, (v) đào tạo và cung cấp thông tin vềkỹ thuật trồng trọt cây thuốc, đặc biệt là cho
cộng đồng.
Cải tiến kỹ thuật thu hái, bảo quản và sản xuất thuốc.
1.4.2.2. Phát triển tài nguyên cây thuốc
Trồng trọt cây thuốc
Mặc dù nhu cầu sử dụng nguyên liệu làm thuốc rất lớn, nhưng chủ yếu đượckhai
thác từ cây hoang dại, chỉ có khoảng 20% được khai thác từ cây thuốc trồng. Cho đến nay,
việc trồng cây thuốc chủ yếu dựa theo cách canh tác cũ, vì vậy mà chất lượng dược liệu
không ổn định và nhiều khi không đạt tiêu chuẩn. Để khắc phục yếu điểm này, cần trồng
cây thuốc theo quy trình GAP để tiêu chuẩn hóa dược liệu cho sản xuất thuốc và sử dụng.
GAP là chữ viết tắt của cụm từ tiếng Anh “Good Agricultural Practice”, nghĩa là
“Thực hành Trồng trọt Tốt”. Với nội dung đó, GAP không chỉ áp dụng cho cây thuốc mà
còn cho cây trồng nói chung, bao gồm cây lương thực, cây rau, cây ăn qủa, vv.
GAP gồm hai phần: Phần mềm, là bộ tiêu chuẩn và quy trình trồng trọt; và phần
cứng, để bảo đảm điều kiện thực hiện phần mềm, bao gồm cơ sở vật chất như nhà làm
việc, kho chứa, công cụ sản xuất, mặt bằng làm nơi sơ chế, thực nghiệm và các thiết bị đo

16
đạc và kiểm tra chất lượng. Kể cả con người tham gia các công đoạn nói trên cũng phải
được đào tạo để có trình độ thực hiện đúng các yêu cầu kỹ thuật của GAP.
Đối với cây làm thuốc, xuất phát từ yêu cầu bảo đảm tiêu chuẩn chất lượng và tính
ổn định của dược liệu, GAP là sự tiêu chuẩn hóa quy trình trồng trọt cây thuốc .
Quy trình này có nhiều công đoạn, mỗi công đoạn lại có tiêu chuẩn riêng cho từng
loài cây cụ thể, bao gồm các tiêu chuẩn về môi trường tự nhiên, điều kiện sinh thái,
giống,quy trình canh tác, chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh, thu hái, xử lý sau thu hoạch đến
cách đóng gói và bảo quản dược liệu.
Nội dung cơ bản của GAP bao gồm:
- Điều kiện môi trường tự nhiên: Cây thuốc cũng như các loại cây trồng khác đều
sinh trưởng và phát triển trong những điều kiện môi trường thích hợp (khí hậu, ánhsáng,
địa hình, chất đất và nước, độ ẩm, vv). Đặc biệt, một số loài cây thuốc còn có tính địa
phương và khu vực rất cao.
- Giống cây thuốc: Ngoài việc xác định đúng chủng loại và nguồn gốc cây thuốc,
còn cần tuyển chọn loại giống tốt nhất để đưa vào trồng trọt. Đây là một trong những khâu
quan trọng để có dược liệu chất lượng cao, kể cả những loài đã được thuần hóa và trồng
lâu đời.
- Trồng trọt và chăm sóc: Ngoài việc xác định đúng thời vụ trồng, còn bao gồm
nhiều công đoạn từ chuẩn bị cây giống (gieo hạt, giâm hom, vv.), chuẩn bị đất, phân bón
và cách bón phân, tưới tiêu nước, chăm sóc và quản lý đồng ruộng, phòng trừ sâu bệnh, vv.
Mỗi công đoạn lại có các tiêu chuẩn riêng.
- Thu hái và sơ chế: Cần thu hái vào giai đoạn cây có hàm lượng hoạt chất cao
nhất; Cách thu hái và dụng cụ thu hái như thế nào để không làm gẫy, làm giập nát dược
liệu. Cách làm khô như phơi nắng, sấy, hay phơi trong bóng râm, vv. để bảo đảm chất
lượng dược liệu.
- Cách bao gói, v ận chuyển và bảo quản: Kho chứa dược liệu nói chung phải
thoáng, mát, chống mốc, mọt và không làm thay đổi màu sắc, mùi vị của dược liệu.
- Hồ sơ của dược liệu: Cần lập hồ sơ cho biết rõ tên dược liệu, hàm lượng hoạt
chất có trong đó, độ ẩm, tạp chất và các tiêu chuẩn liên quan như hình dạng, màu sắc,mùi
vị
1.4.2.3. Phát triển cây thuốc dựa trên tri thức truyền thống
Trong vài chục năm trở lại đây, khoa học kỹ thuật hiện đại phát triển rất nhanh
chóng đã thúc đẩy sự tiến bộ của nhiều ngành khoa học. Qua đó, Tây y cũng có sự tiến bộ
vượt bậc và hầu như đã chiếm lĩnh toàn thế giới. Nhiều quốc gia, chủ yếu ở những nước
phát triển, hệ thống Tây y đã lấn át và thay thế Y Dược học truyền thống. Đặc biệt, Y học
17
truyền thống của các quốc gia đang phát triển phải đối mặt với nguy cơ bị mai một, trong
đó tri thức y học gia truyền đang đứng trước tình trạng bị đe doạ lớn nhất.
Vậy phải làm gì?:
- Điều tra và tư liệu hóa tri thức Y học gia truyền bản địa.
- Giáo dục thế hệ trẻ có ý thức học hỏi, tiếp thu kinh nghiệm từ các thế hệ
trước,biết coi trọng những điều mà chúng học được không chỉ ở nhà trường mà cả gia đình
và cộng đồng.
- Từng bước hiện đại hóa thuốc gia truyền của các dân tộc thiểu số cho phù hợp với
xu thế của thời đại. Thu hẹp khoảng cách giữa Tây y và Đông y nói chung,làm sao để
thuốc gia truyền tiện sử dụng, có hiệu quả, dễ tìm kiếm khi cần, nhưng vẫn giữ được bản
sắc dân tộc, phù hợp với truyền thống và khả năng kinh tế của cộng đồng.
- Chia sẻ lợi ích có được từ khai thác và phát triển dược phẩm từ cây cỏ dựa trên tri
thức truyền thống một cách hợp lý và công bằng.
Hiện nay, nguồn tài nguyên di truyền và tri thức truyền thống (đặc biệt đối với cây
thuốc) đang bị người ngoài cộng đồng khai thác để sinh lợi, nhưng nguồn lợi này lại không
được chia sẻ một cách công bằng và hợp lý, thậm chí bên cung cấp tài nguyên (chủ yếu là
người dân) còn bị đứng ngoài cuộc. Mặc dù các bộ luật về quyền sở hữu trí tuệ đã được
xây dựng và thực hiện nghiêm ngặt ở nhiều lĩnh vực, nhiều quốc gia, hiện chưa có khung
pháp lý trong sở hữu tri thức truyền thống về cây cỏ làm thuốc. Vấn đề vẫn đang được
tranh luận không những trong nước mà còn ở trong khu vực và quốc tế, giữa các nước
công nghiệp phát triển và các nước đang phát triển, ngay như quyền sởhữu đó thuộc cá
nhân, gia đình, cộng đồng, quốc gia hay toàn thế giới ?.
Mặc dù vậy, trong thực tế tại cộng đồng, hầu hết những người nắm giữ tri thức sử
dụng cây cỏ làm thuốc có cuộc sống, niềm tin và một phần hay tất cả nguồn thu nhập kinh
tế phụ thuộc vào tri thức và kinh nghiệm của họ. Vì vậy, cần phải giữ bí mật về tri thức và
kinh nghiệm của cá nhân hay của cộng đồng và quan tâm đến chia sẻ lợi ích một cách hợp
lý và công bằng. Trong khi vẫn còn tranh cãi và chờ đợi hệ thống luật pháp, cần lưu ý đến
vấn đề dựa trên nền tảng đạo đức.

18
Chương 2: PHƯƠNG PHÁP CHIẾT XUẤT DƯỢC LIỆU

Mục tiêu
1. Hiểu được cơ chế và các yếu tố ảnh hưởng lên quá trình chiết xuất.
2. Trình bày được các kỹ thuật chiết xuất sử dụng trong chiết xuất dược liệu.
3. Trình bày được các phương pháp chung trong tinh chế và phân lập các chất.
4. Trình bày được các phương pháp chiết xuất, tinh chế và phân lập các nhóm hợp
chất thường gặp.

2.1. ÐẠI CƯƠNG


Chiết là phương pháp sử dụng dung môi để tách các chất tan ra khỏi một hỗn hợp
các chất. Tùy theo cơ chế và đặc điểm của quá trình chiết mà người ta phân ra:
- Chiết lỏng-lỏng (Phân bố lỏng-lỏng) với cơ chế chính là quá trình phân bố của
chất tan trong hai chất lỏng không đồng tan với nhau theo định luật phân bố.
- Chiết rắn-lỏng với cơ sở chính là sự hoà tan của chất tan vào dung môi.
Trong chiết rắn-lỏng, chất tan có thể đi vào dịch chiết bằng sự hoà tan đơn giản,
nhưng cũng có thể chịu sự tác động bởi nhiều các quá trình khác như khi chiết các chất tan
từ một dược liệu.
Trong quá trình chiết thông thường, các tiểu phân chất rắn chịu tác động của dung
môi trong điều kiện như nhau. Các chất tan hoà tan trong dung môi thành dung dịch và tạo
nên dịch chiết, sự hoà tan này ít bị ảnh hưởng bởi các chất không tan. Trong quá trình chiết
các chất từ các tổ chức sống (các mô tế bào động, thực vật và vi sinh vật), các chất tan nằm
ở bên trong các tế bào, cách biệt với bên ngoài bởi vách tế bào, vì thế các chất tan sau khi
hoà tan thành dung dịch còn phải vượt qua vách tế bào ra khỏi các mô để đi vào dịch chiết.
Quá trình chiết các chất tan từ các tổ chức sinh học vì thế thường được gọi là quá trình
“chiết xuất”.
2.2. CÁC QUÁ TRÌNH XẢY RA TRONG CHIẾT XUẤT
Trong chiết xuất, nguyên liệu thực vật thường được chia nhỏ thành các tiểu phân có
đường kính thích hợp, thường từ 0,1 - 2mm, các tế bào ngoài cùng thường bị “vỡ” có thể
tiếp xúc trực tiếp với dung môi, trong khi các tế bào phía bên trong vẫn còn nguyên vẹn
dung môi và chất tan phải đi qua vách tế bào. Vì thế, trong chiết xuất có 3 quá trình quan
trọng đồng thời xảy ra là (Hình 1):
- Sự hoà tan
- Sự khuyếch tán
19
- Sự thẩm thấu qua vách tế bào

Dòch chieát
Quaù trình hoaø tan
Quaù trình khuyeách taùn
Quaù trình thaåm thaáu + khuyeách taùn

Hình 1 . Caùc quaù trình xaûy ra trong chieát xuaát döôïc lieäu.

2.2.1. Sự hòa tan.


Khi cho dược liệu tiếp xúc với dung môi, dung môi sẽ thấm vào tế bào dược liệu.
Các chất tan sẽ hoà tan vào dung môi xung quanh nó tạo thành dung dịch.
Quá trình hoà tan xảy ra nhanh hay chậm phụ thuộc vào khả năng hoà tan của chất
tan trong dung môi, diện tích bề mặt tiếp xúc của chất tan với dung môi, nhiệt độ và sự
khuyếch tán của chất tan trong dung môi. Nồng độ dung dịch phụ thuộc vào bản chất của
dung môi và chất tan và số lượng của dung môi và của chất tan.
Sự hoà tan chủ yếu là một quá trình vật lý trong đó chất tan được solvat hóa và kéo
vào dung môi. Tuy nhiên quá trình hóa học đôi khi cũng xảy ra như khi hoà tan các chất
kiềm trong dung môi có tính acid hay ngược lại.
Sự hòa tan chất tan từ các tế bào vỡ sẽ đưa chất tan vào thẳng dịch chiết. Quá trình
tạo thành dịch chiết xảy ra nhanh vì dung môi không mất thời gian đi tới chỗ chất tan và
dung dịch ngay khi được tạo thành đã là một bộ phận của dịch chiết. Tuy nhiên, sự hoà tan
này không có tính chọn lọc, tất cả những chất tan được trong dung môi đều có mặt trong
dịch chiết. Sự hoà tan xảy ra trong các tế bào nguyên vẹn chỉ tạo nên dung dịch chất tan
bên trong tế bào. Sự hoà tan đơn thuần không đưa chất tan trong tế bào vào dịch chiết.
2.2.2. Sự khuyếch tán
Khi cho dung môi tiếp xúc với các tiểu phân dược liệu, ở những nơi dung môi tiếp
xúc với chất tan (các tế bào, còn nguyên hay bị vỡ) dung dịch có nồng độ cao hơn với
những nơi không hoặc ít tiếp xúc với chất tan tạo nên sự chênh lệch nồng độ. Quá trình
khuyếch tán xảy ra nhằm làm triệt tiêu sự chênh lệch nồng độ này. Các phân tử chất tan sẽ
di chuyển từ nơi có nồng độ cao tới nơi có nồng độ thấp hơn làm cho chất tan có mặt đồng
đều trong dung dịch.
Sự khuyếch tán trong dung dịch xảy ra được là do chuyển động nhiệt của phân tử
(chuyển động Brown) của chất tan cũng như của dung môi.

20
Các yếu tố chính ảnh hưởng đến quá trình khuyếch tán gồm:
1. Sự chênh nồng độ,
2. Nhiệt độ,
3. Ðộ nhớt của dung môi.
Sự khuyếch giúp tán thúc đẩy quá trình hoà tan và kéo chất tan từ các tế bào vỡ ra
khỏi tế bào đi vào dịch chiết.
2.3. Quá trình thẩm tích
Vách tế bào thực vật cấu tạo bằng cellulose và hemicellulose với những kênh bào
tương (plasmodesmata, còn được gọi đơn giản là các ống trao đổi) thông thương giữa các
tế bào (Hình 2).

Khoang tế bào

Hình 2. Cấu tạo của vách tế bào thực vật

Các phân tử nhỏ như dung môi, các chất có phân tử lượng nhỏ có thể qua lại vách
tế bào dễ dàng thông qua các kênh bào tương, các phân tử lớn hơn đi qua khó khăn hơn và
đôi khi cần những cơ chế vận chuyển chủ động. Việc di chuyển chất tan phân tử nhỏ qua
các kênh bào tương trong quá trình chiết xuất được thực hiện bởi sự khuyếch tán thụ động
theo gradient nồng độ.
Trong khuyếch tán qua các kênh bào tương, đường kính của các kênh bào tương sẽ
quyết định kích thước và vận tốc của những chất có thể qua màng. Các chất có kích thước
nhỏ hơn các kênh bào tương (đa số các chất chuyển hóa bậc 2) sẽ đi qua dễ dàng trong khi
các phân tử lượng lớn (protein, polysaccharid v.v..) sẽ khó qua hơn và sẽ nằm lại trong tế
bào. Như thế, sự thẩm tích làm cho quá trình hoà tan chiết xuất có tính chọn lọc hơn.
Quá trình hoà tan chiết xuất giúp kéo các chất tan ra khỏi các tế bào còn nguyên
vẹn đi vào dịch chiết. So với sự hoà tan đơn giản, sự hòa tan chiết xuất xảy ra chậm hơn và
chọn lọc hơn.
Các yếu tố chính ảnh hưởng tới quá trình thẩm tích gồm:
1. Sự chênh lệch nồng độ giữa bên trong và bên ngoài tế bào,
2. Cấu trúc của vách tế bào và kích thước tiểu phân dược liệu,
3. Kích thước chất tan,
21
4. Nhiệt độ,
5. Ðộ nhớt của dung môi.
2.3. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI QUÁ TRÌNH CHIẾT XUẤT
2.3.1. Nguyên liệu
2.3.1.1. Bản chất của nguyên liệu
Bản chất của nguyên liệu đóng một vai trò rất lớn trong qúa trình chiết xuất. Bề dày
của vách tế bào, đường kính của ống trao đổi là hai yếu tố quan trọng nhất.
Ðộ dày của vách tế bào hay chiều dài của các kênh bào tương càng lớn càng lớn thì
quá trình hoà tan chiết xuất xảy ra càng chậm. Các nguyên liệu là gỗ quá trình chiết sẽ
chậm hơn các nguyên liệu là lá hay cánh hoa.
Ðường kính các kênh bào tương càng lớn, các chất qua lại vách tế bào càng dễ
dàng. Quá trình chiết xuất càng xảy ra nhanh.
2.3.1.2. Mức độ chia nhỏ của nguyên liệu
Nguyên liệu càng được chia nhỏ, tỉ lệ của số tế bào nguyên vẹn so với số tế bào bị
“vỡ” giảm, quá trình hoà tan đơn giản tăng và thời gian khuyếch tán chất tan vào dịch chiết
giảm, thời gian thẩm thấu qua vách giảm làm cho quá trình chiết nhanh hơn.
Tuy nhiên càng chia nhỏ nguyên liệu, tính chọn lọc của qúa trình càng giảm, dịch
chiết càng có nhiều “tạp chất” làm cho lượng cao chiết nhiều lên, thành phần phức tạp và
khó tách các chất hơn.
2.3.1.3. Chất tan
Ðộ tan trong dung môi của chất tan càng lớn, quá trình chiết xảy ra càng nhanh.
Kích thước phân tử chất tan càng lớn, tốc độ khuyếch tán và khả năng qua vách tế bào
càng giảm.
Quá trình hoà tan một chất vào dung môi là quá trình solvat hóa chất đó, tạo nên
một lớp vỏ solvat bên ngoài phân tử chất tan và giúp cho chất tan “phân tán” vào dung
dịch. Năng lượng solvat hoá có ảnh hưởng nhiều đến khả năng và tốc độ hoà tan.
Năng lượng solvat hóa là năng lượng cần thiết để phá vỡ các liên kết giữa các phân
tử chất tan trong pha rắn và tạo nên lớp vỏ dung môi. Cấu tạo của dung môi, sự gia nhiệt là
những yếu tố ảnh hưởng tới quá trình này.
Dạng thù hình của chất tan có ảnh hưởng nhiều đến tốc độ hoà tan. Các chất tồn tại
dưới dạng vô định hình sẽ hoà tan nhanh hơn do bề mặt tiếp xúc với dung môi lớn, lực liên
kết giữa các phân tử trong pha rắn nhỏ, dễ bị phá vỡ. Ðối với các dạng tinh thể, tốc độ hoà
tan phụ thuộc nhiều vào cấu trúc tinh thể. Các chất có nhiều nhóm có thể tạo các liên kết
hydro liên phân tử như hydroxyl, carbonyl, carboxyl, amin, amid v.v… sẽ khó tan trở lại

22
trong dung dịch khi được kết tinh. Ðặc biệt có những chất, liên kết hydro tạo nên giữa các
phân tử quá lớn sẽ rất khó tan. Ví dụ như các flavonoid có nhiều nhóm hydroxy. Dưới
dạng tinh thể, các chất này tạo nên các “polymer” rắn khá bền vững nên rất khó tan. Muốn
hoà tan cần có sự gia nhiệt trong một thời gian dài.
Ða số các chất tan trong tế bào dược liệu đã phơi khô tồn tại dưới dạng vô định
hình trong một hỗn hợp gồm nhiều chất nên sự hoà tan xảy ra nhanh hơn so với dạng tinh
thể hay đơn chất. Tuy nhiên cũng có trường hợp các chất khác làm cản trở sự hoà tan này
do tạo các phức hợp khó tan với chất tan (ví dụ các tannat alkaloid) hay ngăn cản sự tiếp
xúc của dung môi với chất tan (chất béo khi chiết dược liệu nhiều chất béo với dung môi
phân cực, chất nhầy, protein khi chiết dược liệu với dung môi không phân cực).
2.3.2. Dung môi
2.3.2.1. Khả năng hoà tan của dung môi
Khả năng hoà tan của dung môi với chất tan càng lớn, quá trình hoà tan càng nhanh
làm cho quá trình chiết xảy ra nhanh hơn.
Khả năng hoà tan các chất trong các dung môi khác nhau thì khác nhau và phụ
thuộc nhiều vào bản chất của chất tan và của dung môi. Có những chất hoà tan tốt trong
dung môi này nhưng lại hoà tan kém trong dung môi khác có đặc tính tương tự. Có những
chất hoà tan vừa phải trong 2 dung môi khác nhau nhưng lại tan rất tốt trong hỗn hợp của
hai dung môi này v.v…
Khả năng hoà tan chất tan của dung môi có thể dự đoán dựa vào độ phân cực của
dung môi theo nguyên tắc “similia similibus solvuntur” dung môi phân cực hoà tan các
chất phân cực, dung môi kém phân cực hoà tan các chất kém phân cực. Ðộ phân cực của
dung môi thường được đánh giá bằng hằng số điện môi. Hằng số điện môi càng lớn, dung
môi càng phân cực.
2.3.2.2. Ðộ nhớt của dung môi
Ðộ nhớt của dung môi càng thấp, khả năng thấm vào tế bào, sự khuyếch tán của
chất tan và dung môi xảy ra càng dễ dàng, quá trình chiết xảy ra càng nhanh.
2.3.2.3. Sự thấm dung môi qua vách tế bào
Vách tế bào thực vật là một màng thân nước. Ở trạng thái tươi, nước trên vách cũng
như trong tế bào ngăn cản không cho dung môi kém phân cực, ít tan trong nước thấm vào
tế bào hay tiếp xúc với chất tan làm quá trình chiết với các dung môi này khó khăn hơn. Ở
các tế bào khô, lớp nước ngăn cách này đã mất đi nên quá trình chiết sẽ dễ dàng hơn.

23
2.3.3. Kỹ thuật chiết
2.3.3.1. Sự chênh lệch nồng độ
Chênh lệch nồng độ càng lớn thì tốc độ khuyếch tán càng cao. Việc tăng lượng
dung môi hay sử dụng phương pháp chiết ngấm kiệt làm tăng sự chênh lệch nồng độ này
nên quá trình chiết xuất xảy ra nhanh hơn.
2.3.3.2. Sự khuấy trộn
Sự khuấy trộn làm tăng quá trình cân bằng nồng độ của dung dịch bên ngoài các
tiểu phân dược liệu bằng phương pháp cơ học. Sự chênh lệch nồng độ giữa trong và ngoài
tế bào tăng lên nên quá trình thẩm tích xảy ra nhanh hơn.
Trong chiết xuất bằng phương pháp ngâm, các chất tan từ trong tế bào khuyếch tán
ra làm cho nồng độ lớp dịch chiết ở ngay sát tiểu phân dược liệu là cao nhất, càng xa tiểu
phân dược liệu nồng độ càng giảm dần. Việc “giải toả” nồng độ của lớp dịch chiết ngay sát
tiểu phân dược liệu chỉ do sự khuyếch tán nên sẽ rất chậm. Sự khuấy trộn sẽ làm cân bằng
nồng độ của dịch chiết bên ngoài các tiểu phân trở nên nhanh chóng hơn, giảm nồng độ
của lớp dịch chiết ngay sát tiểu phân dược liệu làm cho quá trình chiết xuất xảy ra nhanh
hơn.
2.3.3.3. Nhiệt độ
Tăng nhiệt độ làm tăng khả năng hoà tan của chất tan vào dung môi và đẩy nhanh
quá trình chiết xuất do làm tăng chuyển động nhiệt của phân tử và giảm độ nhớt của dung
môi dẫn tới tăng khả năng và tốc độ hoà tan, tăng quá trình khuếch tán làm cân bằng nồng
độ.
2.3.3.4. Áp suất
Tăng áp suất làm tăng tốc độ thấm dung môi vào nguyên liệu. Thông thường sự
tăng áp suất này thường đi kèm với việc tăng nồng độ dung dịch.
2.3.3.5. Các yếu tố khác
Chất trợ tan: Các chất diện hoạt, một khi được sử dụng trong chiết xuất có tác dụng
làm tăng tính thấm của chất tan, làm quá trình phân tán chất tan vào dung môi dễ dàng hơn
do đó làm đẩy nhanh quá trình chiết xuất.
Siêu âm và vi sóng: Siêu âm và vi sóng có tác dụng làm tăng chuyển động nhiệt của
các phân tử chất tan và dung môi, làm tăng nhiệt độ, tăng sự hoà tan và đẩy nhanh quá
trình khuếch tán.

24
2.4. KỸ THUẬT TIẾN HÀNH
2.4.1. Các bước tiến hành
2.4.1.1. Xác định các thông số chiết xuất
Một quy trình chiết xuất tối ưu là một quy trình mà trong đó tất cả các thông số
chiết xuất được tối ưu hóa để đảm bảo:
- Chất lượng cao chiết tốt nhất: nhiều hoạt chất, ít các tạp chất, đặc biệt là những
tạp chất có ảnh hưởng nhiều tới chất lượng của cao như làm hạn chế tác dụng, gây khó
khăn cho dạng bào chế, bảo quản hay ảnh hưởng tới cảm quan.
- Kinh tế nhất: lượng cao thu được lớn nhất trên một lượng dược liệu.
Các thông số cần được chú ý trong chiết xuất là:
+ Ðộ mịn của dược liệu.
+ Loại dung môi.
+ Tỉ lệ dung môi/dược liệu.
+ Phương pháp chiết: phương pháp chiết (ngâm hay ngấm kiệt, chiết riêng lẻ)
Chuẩn bị nguyên vật liệu
a. Dược liệu
Dược liệu phải được xử lý thích hợp theo yêu cầu của phương pháp chiết:
Chiết nguyên liệu tươi hay chiết từ nguyên liệu khô.
Thuỷ phần thích hợp (nếu sử dụng các dung môi kém phân cực không tan trong
nước).
Kích thước nguyên liệu thích hợp. Tuỳ theo loại dược liệu (lá, hoa, vỏ thân, gỗ
v.v…) dung môi sử dụng và các chất tan cần lấy.
Các cách xử lý nguyên liệu hỗ trợ (ủ men, ổn định, kiềm hóa, acid hóa v.v…).
b. Dung môi, hóa chất
Cần quan tâm tới mức độ tinh khiết của dung môi (tạp chất mang vào trong sản
phẩm, nếu cần có thể xử lý dung môi trước khi sử dụng) và giá thành của dung môi hóa
chất sử dụng.
2.4.1.2. Chiết xuất
a. Nạp nguyên liệu
Xử lý nguyên liệu, làm ẩm, nạp nguyên liệu v.v…
b. Rút dịch chiết
Tốc độ rút dịch chiết, thể tích cần rút, các phương pháp xử lý khác (lắng, lọc, ép bã
v.v…).

25
2.4.1.3. Thu hồi dung môi
Việc loại dung môi ra khỏi dịch chiết có thể được tiến hành bằng các phương pháp
như bay hơi ở nhiệt độ thường trên các khay rộng, bay hơi trên bếp cách thủy, chưng cất
loại dung môi ở áp suất thường hay áp suất giảm.
Tùy thuộc vào loại, bản chất của hoạt chất, điều kiện trang thiết bị mà chọn phương
pháp thích hợp. Cần chú ý tới những hoạt chất kém bền dễ bị phân huỷ bởi nhiệt độ, oxy
không khí, ánh sáng v.v… hay những yếu tố khác có trong dịch chiết (acid, base v.v…).
Dịch chiết được loại dung môi đến thể chất nhất định. Cao chiết thu được có thể
đưa vào sử dụng ngay hoặc có thể cần xử lý thêm ở giai đoạn tinh chế, phân lập.
2.4.2. Các phương pháp chiết
Phân loại
Có nhiều cách phân loại, dựa vào những yếu tố khác nhau.
• Dựa vào nhiệt độ, có các phương pháp chiết sau:
- Chiết nóng.
- Chiết nguội (ở nhiệt độ thường).
• Dựa vào chế độ làm việc có các phương pháp chiết sau:
- Gián đoạn.
- Bán liên tục.
- Liên tục.
• Dựa vào chiều chuyển động tương hỗ giữa hai pha, có các phương pháp:
- Ngược dòng.
- Xuôi dòng.
- Chéo dòng.
• Dựa vào áp suất làm việc, có các phương pháp chiết ở:
- Áp suất thường (áp suất khí quyển).
- Áp suất giảm (áp suất chân không).
- Áp suất cao (làm việc có áp lực).
• Dựa vào trạng thái làm việc của hai pha, có các phương pháp chiết sau:
- Ngâm.
- Ngấm kiệt.
• Dựa vào những biện pháp kỹ thuật đặc biệt
Có thể làm rút ngắn được thời gian chiết bằng các phương pháp chiết sau:
- Phương pháp siêu âm.
- Phương pháp tạo dòng xoáy.
- Phương pháp mạch nhịp...
26
2.4.2.1. Chiết các nguyên liệu tươi
Với các mô sống của động vật hay các dược liệu mỏng manh như lá, hoa người ta
có thể chiết nhanh các chất trong tế bào với các dung môi nước hoặc thân nước bằng cách
xay nhỏ mô động thực vật trong dung môi.
Nguyên liệu được cắt nhỏ, ngâm ngập trong dung môi và được xay nhỏ bằng một
cánh khuấy quay với tốc độ rất cao (khoảng 10.000 vòng/phút) trong một thời gian ngắn
khoảng 5-10 phút. Với tốc độ này, các mô được phân tán rất nhỏ, tế bào bị vỡ và các chất
tan đi thẳng từ dịch tế bào vào dịch chiết chủ yếu bằng quá trình hoà tan. Sự thẩm thấu,
nếu có cũng chỉ đóng vai trò thứ yếu.
Với cách chiết này, toàn bộ các chất trong tế bào gồm cả các chất chuyển hóa bậc II
lẫn các chất đại phân tử đều có mặt trong dịch chiết. Cách chiết này có lợi khi nghiên cứu
các protein, các chất mà hoạt tính sinh học phụ thuộc vào cấu trúc lập thể thứ cấp của phân
tử. Trong nghiên cứu dược liệu, để hạn chế hoạt động của các enzym có thể làm thay đổi
cấu trúc các chất và hạn chế các tạp chất như protein, polysaccharid, dung môi sử dụng có
thể là cồn hay aceton.
Quá trình chiết này do được thực hiện bằng máy khuấy có tốc độ cao nên được
cũng được gọi là turbo-extraction.
Các phương pháp chiết xuất gián đoạn
2.4.2.2. Phương pháp ngâm
Ngâm là một phương pháp chiết gián đoạn trong đó toàn bộ lượng dung môi được
tiếp xúc đồng thời với toàn bộ lượng dược liệu trong những dụng cụ thích hợp. Quá trình
chiết xuất xảy ra ở mọi điểm trong thiết bị chiết là như nhau và dịch chiết được rút ra khỏi
thiết bị cùng một lúc. Quá trình ngâm này có thể được lập lại thêm 1 hay vài lần để chiết
kiệt hoạt chất trong dược liệu.
Sự khuấy trộn, các yếu tố phụ trợ như nhiệt độ, siêu âm, vi sóng, chất diện hoạt
v.v… có thể được sử dụng để gia tăng quá trình chiết.
a. Phương pháp ngâm lạnh
Trong phương pháp ngâm lạnh, dược liệu được ngâm với dung môi ở nhiệt độ
phòng. Thời gian ngâm bình thường không dưới 12 giờ với các dược liệu mỏng manh hay
dược liệu đã xay nhỏ để đảm bảo quá trình chiết được căn bản hoàn tất. Trong thời gian
này, cân bằng về nồng độ hoạt chất giữa bên trong và bên ngoài thành tế bào được thiết lập
và quá trình thẩm thấu sẽ kết thúc. Thời gian ngâm có thể kéo dài hơn, từ một đến nhiều
ngày, tùy theo dược liệu, loại dung môi và yêu cầu chiết xuất.

27
b. Phương pháp ngâm nóng
Phương pháp ngâm nóng là phương pháp ngâm được thực hiện ở nhiệt độ cao hơn
nhiệt độ phòng nhưng dưới nhiệt độ sôi của dung môi.
Do có sự gia nhiệt nên quá trình chiết xảy ra nhanh hơn, dịch chiết thu được có
nồng độ cao hơn và ít tốn dung môi hơn.
Quá trình hãm trong y học cổ truyền và trong cuộc sống hàng ngày (hãm thuốc,
hãm trà) chính là quá trình ngâm nóng với dung môi là nước. Chưng cũng có thể coi là một
biến thể của phương pháp này. Các dụng cụ chiết đặc biệt cho phương pháp này ở quy mô
vừa và nhỏ là Soxhlet và Kumagawa.
c. Chiết bằng Soxhlet và Kumagawa
Là phương pháp ngâm nóng nhiều lần với một lượng nhỏ dung môi. Kumagawa
cho phép chiết ở nhiệt độ gần với nhiệt độ sôi của dung môi còn Soxhlet thực ra gần với
phương pháp ngâm lạnh hơn.
Ưu điểm:
Lượng dung môi sử dụng nhỏ mà vẫn có thể chiết kiệt được hoạt chất.
Nhược điểm:
Khó thực hiện cho một lượng lớn dược liệu. Thông thường, chỉ dùng để chiết trong
phòng thí nghiệm hoặc quy mô pilot.
Không khuấy trộn được trong quá trình chiết xuất.
d. Chiết bằng dung môi ở nhiệt độ sôi
Là phương pháp ngâm được thực hiện ở nhiệt độ sôi của dung môi.
Do được chiết ở nhiệt độ sôi của dung môi nên khả năng hoà tan của chất tan vào
dung môi thường là cao nhất và quá trình hoà tan xảy ra nhanh.
Nhược điểm của phương pháp là quá trình chiết phải được thực hiện trong các thiết
bị thích hợp, trong nhiều trường hợp phải có bộ phận ngưng tụ dung môi và phải gia nhiệt.
Các phương pháp sắc, hầm hay nấu cao trong y học cổ truyền là phương pháp chiết
với dung môi ở nhiệt độ sôi với dung môi là nước.
Với các dung môi khác, dụng cụ chiết cần có bộ phân ngưng tụ dung môi nên cũng
được gọi là phương pháp chiết hồi lưu.
Ưu điểm:
Đây là phương pháp đơn giản nhất, dễ thực hiện, thiết bị đơn giản, rẻ tiền.
Nhược điểm:
- Nhược điểm chung của phương pháp chiết xuất gián đoạn: năng suất thấp, thao
tác thủ công (giai đoạn tháo bã và nạp liệu).
- Nếu chỉ chiết một lần thì không chiết kiệt được hoạt chất trong dược liệu.
28
- Nếu chiết nhiều lần thì dịch chiết loãng, tốn dung môi, tốn thời gian chiết.
2.4.2.3. Chiết bằng phương pháp ngấm kiệt
Ngấm kiệt (Percolation) là một phương pháp chiết liên tục trong đó dung môi được
đi qua dược liệu theo một hướng nhất định, với một tốc độ nhất định. Quá trình hoà tan xảy
ra trong phương pháp ngấm kiết không giống nhau trong toàn bộ khối dược liệu mà theo
gradient nồng độ, dung môi/dịch chiết đi từ nơi dược liệu có lượng hoạt chất thấp tới nơi
có lượng hoạt chất cao hơn.
Do quá trình chiết xảy ra theo gradient nồng độ nên quá trình chiết xảy ra triệt để
hơn, lượng dung môi sử dụng ít hơn phương pháp ngâm và dược liệu được chiết kiệt hơn.
Các yếu tố phụ trợ như nhiệt độ, chất diện hoạt v.v… có thể được sử dụng để gia
tăng quá trình chiết.
Quá trình ngấm kiệt được thực hiện trong bình chiết được gọi là bình ngấm kiệt
(percolator). Hình dạng, cấu tạo và kích thước của bình ngấm kiệt có thể thay đổi tuỳ theo
mục đích sử dụng nhưng thông thường phần thân chính của bình ngấm kiệt có dạng hình
nón cụt có thể kín và có van điều chỉnh lưu lượng ở một đầu hay có nắp kín với van điều
chỉnh ở cả hai đầu.
Quá trình ngấm kiệt có thể được tiến hành dưới nhiệt độ thường hay ở nhiệt độ cao
hơn nhiệt độ phòng nhưng dưới nhiệt độ sôi của dung môi (ngấm kiệt nóng). Bình được
thiết kế với bộ phận gia nhiệt và bảo ôn, dung môi được đưa vào bình ở nhiệt độ cao.
Có thể thực hiện ngấm kiệt và rút kiệt địch chiết trên từng bình ngấm kiệt riêng lẻ
hay kết hợp nhiều bình ngấm kiệt nối tiếp với nhau (ngấm kiệt ngược dòng). Trong ngấm
kiệt ngược dòng, hệ thống được bố trí sao cho dịch chiết loãng của bình chiết trước sẽ là
dung môi đầu cho bình chiết sau và mỗi bình chỉ lấy ra một lượng dịch chiết đậm đặc nhất
định. Với ngấm kiệt ngược dòng, lượng dịch chiết thu được từ mỗi bình luôn nhỏ hơn
nhiều và có nồng độ cao nhất so với ngấm kiệt từng bình riêng lẻ mà vẫn đảm bảo chiết
kiệt dược liệu.
Ưu điểm:
- Dược liệu được chiết kiệt.
- Tiết kiệm được dung môi (tái ngấm kiệt).
Nhược điểm:
- Có nhược điểm chung của phương pháp chiết xuất gián đoạn: năng suất thấp, lao
động thủ công.
- Cách tiến hành phức tạp hơn so với phương pháp ngâm.
- Tốn dung môi (ngấm kiệt đơn giản).

29
2.4.2.4. Phương pháp chiết xuất bán liên tục
(Còn gọi là phương pháp chiết xuất nhiều bậc, phương pháp chiết ngược dòng
tương đối hay phương pháp chiết ngược dòng gián đoạn).
• Sơ đồ
Phương pháp này có sử dụng một hệ thống thiết bị gồm nhiều bình chiết khác nhau,
có thể mắc thành một dãy từ 4-16 bình chiết nối tiếp nhau. ở đây, quá trình coi như là
ngược chiều tương đối vì thực tế dược liệu không chuyển động.
• Tiến hành:
Lúc đầu, dược liệu và dung môi được nạp vào trong tất cả các thiết bị, dược liệu
được ngâm vào dung môi trong một khoảng thời gian xác định (tuỳ thuộc vào dược liệu và
dung môi). Lúc này dược liệu và dung môi đều không chuyển động. Sau đó dịch chiết
được chuyển tuần tự từ thiết bị này sang thiết bị khác. Hệ thống tổ hợp kín các bình chiết
này cho phép đóng ngắt một cách có chu kỳ một trong những thiết bị ra khỏi hệ thống tuần
hoàn, cho phép tháo bã dược liệu ở bình đã được chiết kiệt rồi nạp dược liệu mới. Sau đó,
thiết bị này lại được đưa vào hệ thống tuần hoàn và dịch chiết đậm đặc nhất được dẫn qua
nó mà dịch chiết này vừa đi qua tất cả các thiết bị còn lại. Tiếp theo, lại đóng ngắt một thiết
bị kế tiếp mà trước đó dung môi mới vừa được dẫn qua. Số thiết bị càng nhiều thì quá trình
xảy ra càng gần với quá trình liên tục. ở đây, bã dược liệu trước khi ra khỏi hệ thống thiết
bị sẽ được tiếp xúc với dung môi mới nên dược liệu sẽ được chiết kiệt. Dịch chiết trước khi
ra khỏi hệ thống sẽ được tiếp xúc với dược liệu mới nên dịch chiết thu được sẽ đậm đặc
nhất. Như vậy có thể nói quá trình xảy ra theo nguyên tắc: "dung môi mới tiếp xúc với
dược liệu cũ và dược liệu mới tiếp xúc với dung môi cũ". Trong phương pháp này, quá
trình xảy ra gần với quá trình ngược chiều, do đó phương pháp này còn được gọi là phương
pháp chiết ngược chiều tương đối.
• Ưu điểm (so với phương pháp chiết gián đoạn)
- Dịch chiết đậm đặc.
- Dược liệu được chiết kiệt.
• Nhược điểm:
- Hệ thống thiết bị cồng kềnh, chiếm nhiều diện tích lắp đặt.
- Vận hành phức tạp.
- Thao tác thủ công.
- Không tự động hoá quá trình được.
2.4.2.5. Phương pháp chiết xuất liên tục
• Tiến hành:

30
Phương pháp này được thực hiện trong những thiết bị làm việc liên tục. ở đây dược
liệuvà dung môi liên tục được đưa vào và chuyển động ngược chiều nhau trong thiết bị.
Dược liệu di chuyển được trong thiết bị là nhờ những cơ cấu vận chuyển chuyên dùng khác
nhau. Dịch chiết trước khi ra khỏi thiết bị được tiếp xúc với dược liệu mới nên dịch chiết
thu được đậm đặc. Bã dược liệu trước khi ra khỏi thiết bị được tiếp xúc với dung môi mới
nên bã dược liệu được chiết kiệt.
So với phương pháp chiết gián đoạn thì phương pháp chiết liên tục có những ưu
nhược điểm sau:
• Ưu điểm:
- Năng suất làm việc cao, tiết kiệm thời gian chiết.
- Không phải lao động thủ công (tháo bã, nạp liệu).
- Dịch chiết thu được đậm đặc.
- Dược liệu được chiết kiệt.
- Dung môi ít tốn kém.
- Có thể tự động hoá, cơ giới hoá được quá trình.
• Nhược điểm:
- Thiết bị có cấu tạo phức tạp, đắt tiền.
- Vận hành phức tạp.
2.4.2.6. Các phương pháp chiết khác
Ngoài các ký thuật chiết cổ điền như trên, trong thực tế người ta còn dùng các kỹ
thuật hỗ trợ khác để đẩy nhanh quá trình hòa tan như chiết xuất sử dụng siêu âm, chiết xuất
sử dụng vi sóng, chiết dưới áp suất hay sử dụng các dung môi đặc biệt để chiết như chiết
chất lỏng tới hạn.
2.4.3. Tinh chế và phân lập
Mục đích của các phương pháp tinh chế và phân lập là loại bớt các tạp chất trong
cao chiết ban đầu để thu được các cao chiết tinh chế, các phân đoạn giàu hoạt chất hay các
chất tinh khiết phù hợp với mục đích của việc chiết xuất.
Các nhóm phương pháp hay được sử dụng là: nhóm các phương pháp vật lý kinh
điển, nhóm các phương pháp hoá học và nhóm các phương pháp sắc ký.
2.4.3.1. Phương pháp vật lý
a. Hấp phụ
Sử dụng các chất hấp phụ như than hoạt, celite v.v… để loại các chất màu, các chất
keo trong dung dịch.

31
b. Chưng cất, thăng hoa
Tách riêng hoặc loại bỏ các chất bay hơi, thăng hoa, lôi cuốn được theo hơi nước.
Các phương pháp chưng cất phân đoạn được dùng để tách các cấu tử tinh dầu.
Thăng hoa có thể áp dụng cho một số chất như các coumarin, anthraquinon tự do, cafein
v.v…
c. Kết tủa và kết tinh phân đoạn
Là phương pháp hay được áp dụng để loại các tạp chất có hàm lượng nhỏ trong
dịch chiết, làm giàu thành phần chính.
Việc kết tủa, kết tinh phân đoạn nay có thể được thực hiện bằng các phương pháp
thay đổi nồng đo, nhiệt độ dung dịch hay độ phân cực của dung môi hoà tan.
2.4.3.2. Phương pháp hóa học
là phương pháp dùng các phản ứng hoá học tạo ra sự khác biệt giữa các hoạt chất
và các tạp chất và dựa vào sự khác nhau đó để tách riêng chúng.
Sự khác nhau có thể là độ tan, nhiệt độ nóng chảy hay bay hơi v.v…
a. Loại tạp bằng phản ứng hóa học
Có thể sử dụng các phản ứng chuyên biệt của các nhóm hoạt chất để loại chúng
khỏi dịch chiết bằng cách tạo tủa như:
- Kết tủa tannin bằng bột da hay dung dịch protein.
- Loại các hợp chất phenol bằng chì acetat kiềm.
- Loại các ortho-diphenol bằng chì acetat trung tính.
- Tách riêng các hợp chất phenol dưới dạng tan trong nước bằng dung dịch kiềm.
- Tách riêng các alkaloid bằng cách tủa với các thuốc thử chung của alkaloid.
- Tách riêng các alkaloid khỏi các chất tan trong dung môi hữu cơ bằng nước acid.
- Tách riêng các alkaloid ra khỏi các chất tan trong nước bằng dung môi hữu cơ
trong môi trường kiềm.
- Loại các polymer tự nhiên trong dịch chiết nước (chất nhầy, protein) bằng cách
kết tủa với cồn cao độ.
- Kết tủa saponin bằng ether, aceton v.v…
b. Tách các chất bằng cách tạo dẫn chất
Acetyl hoá các cấu tử của tinh dầu có nhóm OH và tách chúng ra khỏi hỗn hợp
bằng chưng cất phân đoạn.
2.4.3.3. Phương pháp sắc ký
Các phương pháp sắc ký là phương pháp thường được dùng nhất hiện nay trong
tinh chế và phân lập các chất từ dịch chiết dược liệu, đăc biệt là ở quy mô phòng thí
nghiệm và pilot.
32
Tất cả các phương pháp sắc ký điều chế đều được sử dụng. Trong đó thông dụng
nhất là các kỹ thật sắc ký cột (sắc ký cột kinh điển, các kỹ thuật sắc ký cột dưới áp xuất
thấp khác (như FC, VLC v.v…), MPLC và HPLC điều chế.
Tất cả các loại pha tĩnh với các cơ chế khác nhau đều có thể được sử dụng - riêng lẻ
hay phối hợp: hấp phụ, phân bố, rây phân tử, trao đổi ion, phân bố lỏng-lỏng v.v…

33

You might also like