Professional Documents
Culture Documents
PHT BÀI VỢ NHẶT
PHT BÀI VỢ NHẶT
Nạn đói năm Ất Dậu là một nạn đói lớn xảy ra tại miền Bắc Việt Nam trong khoảng từ tháng
10 năm 1944 đến tháng 5 năm 1945, làm khoảng từ 400.000 đến 2 triệu người dân chết đói.
- Có phải lúc nào nghịch cảnh trong đời sống (như nạn đói, thiên tai, chiến tranh, dịch
bệnh,…) cũng đẩy con người vào tình thế bi quan, tuyệt vọng không?
Không phải lúc nào nghịch cảnh trong đời sống (như nạn đói, thiên tai, chiến tranh, dịch bệnh,
…) cũng chỉ đẩy con người vào tình thế bi quan, tuyệt vọng. Bởi vì chính trong những nghịch
cảnh đời sống ấy giúp con người có động lực để vượt qua khó khăn, hướng tới những điều tốt
đẹp trong cuộc sống.
Một tác phẩm thơ, văn mà em biết có liên Chuyện cũ Hà Nội
quan?
Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam- những chứng
tích lịch sử
Một mẩu chuyện được nghe kể có liên quan? An thit nguoi kinh di : Nạn đói năm Ất Dậu
1945 ở Thái Bình, rất nhiều người chết, người
sống tranh nhau từng miếng ăn, thậm chí phải
ăn thịt người để tồn tại
Một cảm nhận của cá nhân em khi xem Nạn đói 1945 thật kinh khủng và tàn
video? nhẫn ,khi đã cố gắng hết sức để có một bữa ăn
thì đã chết trước khi được ăn hay qua việc cố
gắng lấy chút thức cho cháu ăn,cố mướn việc
để có miếng ăn ..
Một tưởng tượng khi xem? Nếu mình trải qua nạn đói 1945 thì sẽ là nỗi
ám ảnh kinh hoàng .
Tác phẩm
Xuất xứ Truyện "Vợ nhặt" có tiền thân từ tiểu thuyết "Xóm ngụ cư" Tác
dở và mất bản thảo. Sau hòa bình lập lại (1954) Kim Lân dựa vào
phần cốt truyện cũ và viết lại thành truyện "Vợ nhặt" .Truyện “Vợ
nhặt” được lấy bối cảnh từ nạn đói khủng khiếp năm 1945 với hai
triệu người chết đói. Nhân dân Việt Nam cùng lúc bị áp bức, bóc lột
bởi phát xít Nhật và thực dân Pháp. Ở miền Bắc, Nhật bắt dân ta nhổ
lúa trồng đay, trong khi đó thực dân Pháp ra sức vơ vét thóc gạo.
Hậu quả là cuối năm 1945 dân ta rơi vào thảm cảnh bi cùng
Tóm tắt truyện Tràng là chàng trai xấu xí sống với mẹ ở xóm ngụ cư. Giữa nạn đói
khủng khiếp, anh phải làm nghề kéo xe thóc thuê lên tỉnh để lấy tiền
trang trải qua ngày. Ở đây, qua vài câu nói bông đùa và bốn bát bánh
đúc, anh với cô thị đanh đá chỏng lỏn đã trở thành vợ chồng với
nhau mà không cưới hỏi hay yêu đương gì. Cô thị theo không anh về
làm vợ, trên đường về khác với vẻ đanh đá thường thấy, khi bị trêu,
vì có người gọi mình là mẹ; vừa đau buồn, tủi hổ, xót thương vì con
mình lấy vợ đúng lúc khó khăn nhất không biết có qua nổi giai đoạn
này không và người ta lấy con mình vì cái đói, cái khổ. Gạt đi những
giọt nước mắt đau buồn, bà động viên các con yêu thương nhau và
lạc quan hơn trong cuộc sống. Cuộc sống từ khi có nàng dâu thay đổi
hoàn toàn, sự bừa bộn của căn nhà được dọn dẹp sạch sẽ, ngăn nắp,
tươm tất. Bữa ăn đầu tiên khi về nhà chồng của cô thị chỉ vỏn vẹn là
rau chuối và cám lợn, mọi người ăn trong nghẹn ngào, không ai nói
với ai câu nào. Cô thị kể những mẫu chuyện người đi phá kho thóc
Nhật cho anh Tràng và bà cụ Tứ, tưởng chừng chỉ là những câu
chuyện vô thưởng vô phạt nhưng nó lại là chìa khóa, mở ra trong đầu
anh Tràng lá cờ của Đảng và một cuộc sống mới trong tương lai hứa
Ý nghĩa nhan đề Nhan đề Vợ nhặt thâu tóm giá trị nội dung tư tưởng tác phẩm.
“Nhặt” đi với những thứ không ra gì. Thân phận con người bị rẻ rúng
như cái rơm, cái rác, có thể “nhặt” ở bất kì đâu, bất kì lúc nào. Người
ta hỏi vợ, cưới vợ, còn ở đây Tràng “nhặt” vợ. Đó thực chất là sự
Nhưng “vợ” lại là sự trân trọng. Người vợ có vị trí trung tâm xây
dựng tổ ấm. Trong tác phẩm, gia đình Tràng từ khi có người vợ nhặt,
mọi người trở nên gắn bó, quây quần, chăm lo, thu vén cho tổ ấm
của mình. Như vậy, nhan đề Vợ nhặt vừa thể hiện thảm cảnh của
người dân trong nạn đói 1945 vừa bộc lộ sự cưu mang, đùm bọc và
khát vọng, sức mạnh hướng tới cuộc sống, tổ ấm, niềm tin của con
Không có
việc làm cụ
thể, cuộc
sống bấp
bênh, cái
đói đã
hành hạ và
đẩy chị đến
bờ vực của
cái chết.
Chỉ vài ba
câu nói
bâng quơ
của Tràng
mà Thị
theo Tràng
về làm vợ.
Trên đường đưa Vẻ mặt “có -> Niềm Chị về nhà
vợ về nhà cái gì phơn vui, tự chồng
phởn khác đắc, hạnh trong tình
thường” phúc, cảnh thật
hãnh diện. thảm hại,
“tủm tỉm theo không
cười một Tràng vì
mình”, Tràng cho
“cảm thấy ăn đó là
vênh vênh hành động
tự đắc”, ... thật liều
lĩnh. Cái
Mua dầu
đói quay
về thắp để
quắt đã
khi thị về
dồn đẩy
nhà mình
chị, làm
căn nhà trở
cho chị
nên sáng
đánh mất
sủa
cả sĩ diện
và lòng tự
trọng.
Trên con
đường trở
về nhà
chồng,
người phụ
nữ này
không tự
tin vì thân
phận của
mình, đồng
thời có cả
sự tủi
phận, ngại
ngùng, lo
âu. Thị
cảm thấy
khó chịu
trước lời
chêu chọc
của những
người dân
xóm ngụ
cư: “người
đàn bà có
vẻ khó chịu
lắm, chị
nhíu đôi
lông mày
lại, sắp lại
tà áo, chân
nọ bước
díu vào
chân kia”,
tâm trạng
ấy thể hiện
người con
gái này suy
tư về con
đường ở
trước mắt,
đồng thời
không dấu
được niềm
khao khát
hạnh phúc.
Thị thay
đổi hẳn, vẻ
đanh đá,
cong cớn
đã biến
mất (đó chỉ
là vẻ bề
ngoài để
chống chọi
với đời)
con người
thật của
Thị hoàn
toàn khác.
Về đến nhà Xăm xăm -> Hồi hộp Chỉ qua Thị là Bà cụ Đó là
bước vào nhưng vẫn một đêm nhân vật ngạc nhiên nỗi lo,
dọn dẹp sơ lấy lại về làm đã thể vì con nỗi
qua, thanh được sự dâu, ở hiện mình thươn
minh về sự bình tĩnh người con được giá nghèo, xấu g của
bừa bộn vì cần thiết, gái này đã trị hiện xí, dân người
thiếu bàn nghi hoặc. có sự thay thực và ngụ cư lại mẹ
tay của đàn đổi rất nhân đạo đang thời từng
bà -> Hành nhanh, Thị trong tác buổi đói trải,
động đã trở phẩm khát, nuôi hiểu
ngượng thành thân đời có
nghịu người đàn chẳng tấm
nhưng bà nhanh xong. lòng
chân thật, nhẹn, tự sâu
mộc mạc. tin, Thị thẳm
chủ động đối với
Khi bà cụ dọn dẹp - Khi bà mình.
Tứ chưa quét tước cụ đi làm Trong
về, Tràng nhà cử. về muộn, sự lo
có cảm giác Hơn thế thấy người lắng
“sờ sợ” vì nữa, sự có đàn bà tủi
lo rằng mặt của ngồi ở đầu hờn
người vợ sẽ người đàn giường vẫn
bỏ đi vì gia bà trong con mình nhen
cảnh quá ngôi nhà rất ngạc nhóm
khó khăn, này chính nhiên, một
sợ hạnh là mối gắn càng ngạc niềm
phúc sẽ kết tình nhiên hơn tin.
tuột khỏi cảm trong khi được
tay. gia đình. người đàn
- Bà cụ xót
xa thương
dâu,
thương
con, tủi
phận
mình: “bà
cụ nghẹn
lời không
nói được
nữa, nước
mắt cứ
chảy
xuống
ròng
ròng”.
Bao nhiêu
lo lắng
ngổn
ngang
trong
lòng. Bà
cụ Tứ lo
lắng thực
sự cho con
trai, con
dâu, lo cho
cái gia
đình
nghèo
túng của
bà giữa
lúc đói
kém này
liệu có
nuôi nổi
nhau?
Tương lai
rồi sẽ ra
sao…
- Ngẫm cái
phận
nghèo bà
tự nhủ:
“Có gặp
bước khó
khăn, đói
khổ này
người ta
mới lấy
đến con
mình. Mà
con mình
mới có vợ
được...”.
Bà chỉ biết
khuyên
con,
khuyên
dâu
thương
yêu nhau,
ăn ở hoà
thuận với
nhau để
cùng vượt
qua cơn
khốn khó.
Buổi sáng hôm Vui trong
sau bữa cơm
sáng, bữa
cơm đầu
tiên có con
dâu đó là
một bữa
“tiệc" với
món cháo
loãng và
món “chè
khoán”
đắng chát
– một bữa
ăn ngày
đói rất
thảm hại
nhưng bà
cụ cố tạo
ra niềm
vui để
động viên
an ủi con
trai, con
dâu.
- Mặc dù
cuộc sống
khắc
nghiệt,
ngặt
nghèo đến
tàn bạo đã
đầy đọa
mẹ con bà.
Bà vẫn cố
tạo không
khí hoà
thuận ấm
cúng trong
gia đình
và kể
chuyện
làm ăn,
nuôi gà…
tươi cười
đon đả
múc cho
con dâu
những bát
cháo cám.
Bữa cơm ngày Tiếng
đói khóc, mùi
đốt đống
rơm ở
những nhà
có người
chết đói.
Bà cụ nghĩ
đến ông
lão, đến
đứa con
út, đến
cuộc đời
cực khổ
dài dằng
dặc của
mình, đến
cái “đói
to” trước
mắt. Bà cụ
phấp
phỏng
nghĩ về
con trai,
về con
dâu.
Sự chuyển biến Từ khi nhặt được vợ,
của nhân vật nhân vật Tràng đã có sự
biến đổi theo chiều
hướng tốt đẹp. Hành
động nhanh, mạnh,
quyết định, thể hiện sự
chủ động của Tràng