You are on page 1of 7

Câu 15:

*Bối cảnh:

-Việt Nam đang đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức lớn. Hệ thống kinh tếlà hệ
thống tập trung, bao cấp dẫn đến việc khan hiếm nguồn cung, không đủ đáp ứng cho
nhu cầu của thị trường, ngoài ra còn dẫn đến việc khủng hoảng trầm trọng về tài chính,
văn hóa – giáo dục kém phát triển, chế độ chính trị chưa hoàn thiện. Điều này đã khiến
Việt Nam khó có thể cạnh tranh với các quốc gia khác và tiếp tục phát triển.

-Điều này đã đặt ra nhiệm vụ vô cùng lớn cho Đảng và nhân dân Việt Nam; cần có
đường lối, chính sách đổi mới đầy đủ, chi tiết cùng với hành động dứt khoát, kịp thời.
Có thể nói, công cuộc đổi mới 1986 là tất yếu của bối cảnh lịch sử nước ta và thế giới
lúc bấy giờ.

*Đường lối của đảng trong đại hội:

-Đường lối kinh tế:

+)Nhà nước chấp nhận sự tồn tại bình đẳng và hợp pháp của nhiều thành phần kinh tế
thành phần kinh tế: kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư
bản tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài), nhiều hình
thức sở hữu (sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp) và kinh
tế Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo).

+)Cơ chế kinh tế là kinh tế thị trường xã hội, nền kinh tế thị trường nhưng có sự quản
lý của Nhà nước, nền kinh tế được vận hành bởi hai bàn tay: thị trường và Nhà nước,
phát huy tính tối ưu trong phân bổ nguồn lực xã hội để tối đa hóa lợi nhuận thông qua
cạnh tranh, mặt khác, sự quản lý của Nhà nước giúp tránh được những thất bại của thị
trường như lạm phát, phân hóa giàu nghèo, khủng hoảng kinh tế...

+)Định hướng xã hội chủ nghĩa: Theo quan điểm trước Đổi mới, Nhà nước Việt Nam
cho rằng kinh tế thị trường là nền kinh tế của chủ nghĩa tư bản và hoạt động không tốt.
Sau Đổi mới, quan điểm của Nhà nước Việt Nam là kinh tế thị trường là thành tựu của
loài người, không mâu thuẫn với chủ nghĩa xã hội.

- Về đổi mới chính trị:

+ Về chính trị – xã hội, Đảng ta đã đẩy mạnh vai trò của cả 03 nhánh quyền lực: lập
pháp, tư pháp và hành pháp. Trong đó, vai trò của cơ quan lập pháp được chú trọng,
hoạt động hành chính nhà nước được đơn giản hóa, cụ thể hóa và đáp ứng được yêu
cầu của nhân dân.
+ Đảng ta cũng lấy nhân dân làm gốc, xây dựng nhà nước “của dân, do dân, vì dân”.
Điều này đã giúp cải thiện sự tin tưởng và sự ủng hộ của nhân dân đối với chính phủ
và Đảng.

+ Trong quá trình Đổi mới Việt Nam luôn đưa mục tiêu giữ vững độc lập, tự chủ và ổn
định chính trị lên hàng đầu để bảo đảm sự thành công của Đổi mới

+)Trên lĩnh vực đối ngoại, Việt Nam chuyển từ chú trọng quan hệ hợp tác với các
nước xã hội chủ nghĩa sang chú trọng quan hệ hợp tác đa phương, làm bạn với tất cả
các nước, trên quan điểm bình đẳng, cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ
của nhau.

*Nhận xét

-Về nhìn chung, chính sách đổi mới của Đảng đã giúp đất nước thoát khỏi tình trạng trì
trệ, có những bước phát triển vượt bậc, phù hợp với tiến trình lịch sử và nhu cầu cần
thiết vào thời điểm đó.

-Thế nhưng, cũng do là một chính sách hoàn toàn mới mẻ thế nên điều này khiến công
việc thực hiện trở nên vất vả, gặp nhiều khó khăn cũng như đề ra phương thức đổi
mới, theo kiểu "dò đá qua sông".

-Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: đây là mô hình tự xây dựng, không có khuôn
mẫu cụ thể do đó, trong quá trình xây dựng không tránh khỏi khiếm khuyết, phải nhận
rõ những khiếm khuyết này và đã từng điều chỉnh trong từng giai đoạn.

Câu 18:

Toàn cầu hóa là xu thế tất yếu khách quan, đang lôi cuốn tất cả các quốc gia trên thế
giới tham gia và tác động sâu rộng tới các lĩnh vực của đời sống xã hội, đến sự vận
động, phát triển của mọi quốc gia, dân tộc, có tác động hai chiều, cả tích cực lẫn tiêu
cực, đem lại cả thời cơ, vận hội phát triển lẫn thách thức, nguy cơ hiểm họa khó lường
đối với các quốc gia, dân tộc. Toàn cầu hóa liên quan chặt chẽ và tác động qua lại biện
chứng đối với quá trình hội nhập quốc tế của các nước nói chung và đối với Việt Nam
nói riêng.

Những thời cơ, vận hội

- Thực tiễn vận động, phát triển của những xu thế lớn trên thế giới, đặc biệt là xu thế
hòa bình, hợp tác, phát triển, hội nhập quốc tế tạo cơ hội cho Việt Nam giữ vững ổn
định để phát triển đất nước
Xu thế hướng đến hòa bình và phát triển thúc đẩy các quốc gia xích lại gần nhau, cùng
nhau hợp tác nhằm tìm kiếm những cơ chế kiểm soát, kiềm chế xung đột, giảm thiểu
nguy cơ chiến tranh. Vì vậy, vấn đề quan trọng đặt ra hiện nay chính là việc nhận thức
sâu sắc và tận dụng có hiệu quả những thời cơ ấy trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam, giữ vững hòa bình và ổn định để phát triển, đồng thời tranh thủ sự
ủng hộ của các lực lượng tiến bộ vì hòa bình, dân chủ trong xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.

- Cơ hội hợp tác, giao lưu, nhất là trong tìm kiếm, tiếp thu những thành tựu khoa học -
công nghệ hiện đại, tạo nguồn lực phát triển kinh tế

Sự hội nhập quốc tế không chỉ tạo cho Việt Nam các thách thức mà còn tạo động lực
phát triển kinh tế - xã hội ở trong nước; tranh thủ được các nguồn vốn đầu tư, khoa học
công nghệ và quản lý từ các nước phát triển.

Việt Nam có cơ hội kế thừa, tiếp thu, sử dụng những thành tựu to lớn của cuộc cách
mạng khoa học - công nghệ hiện đại, nhất là những thành quả của cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư.

Chúng ta có điều kiện để học hỏi, tiếp thu, trao đổi, nâng cao trình độ, kinh nghiệm
quản lý, nguồn vốn của thế giới, đặc biệt là những tri thức để phát triển nền kinh tế số,
tham gia chuỗi cung ứng sản phẩm toàn cầu, mở rộng sản xuất, giải quyết việc làm, ổn
định và cải thiện đời sống nhân dân, tham gia quá trình hợp tác và phân công lao động
quốc tế.

- Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tạo cơ hội cho chúng ta tiếp thu những giá trị tinh
hoa của nhân loại, tiếp tục phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc trong xây
dựng con người xã hội chủ nghĩa

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, Giá trị truyền thống có vai trò là “bộ lọc”, “kháng thể”
chống lại tác động tiêu cực của toàn cầu hóa và kinh tế thị trường; góp phần xây dựng
nhân cách mới, gắn lý tưởng, ước mơ hoài bão với hành động của con người hiện nay,
nhất là thế hệ trẻ, trong khi việc hội nhập giúp chúng ta tiếp thu có chọn lọc những giá
trị tinh hoa của nhân loại trong xây dựng con người mới vì sự nghiệp đổi mới và phát
triển.

Những thách thức, nguy cơ

- Tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới vẫn là nguy
cơ thường trực và khó khắc phục
Toàn cầu hóa tạo ra những thách thức không nhỏ đối với những nước chủ nghĩa xã hội,
như Việt Nam, Trung Quốc, Cu-ba, Lào.Về bản chất, toàn cầu hóa do chủ nghĩa tư bản
độc quyền chi phối, diễn ra trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội hiện thực đang lâm vào
thoái trào, nên tác động tiêu cực của nó đến các nước phát triển theo con đường xã hội
chủ nghĩa lại càng rõ rệt, là cuộc cạnh tranh, đấu tranh hết sức cam go và phức tạp
giữa các nước trong bối cảnh các thế lực tư bản độc quyền gia tăng ảnh hưởng mạnh
mẽ, chi phối toàn cầu hóa. H

ưai thách thức lớn nhất về kinh tế là: Nguy cơ mất độc lập tự chủ về kinh tế và nguy
cơ tụt hậu trong cuộc cạnh tranh quốc tế

Nói cách khác, dù Việt Nam đã đi được nhiều bước, song đó chỉ là những bước ngắn,
nên vẫn tụt hâu so với nhiều quốc gia khác trên thế giới dù bước chậm, nhưng họ lại đi
được những bước dài.

- Nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn tiềm ẩn

Trong cơ chế thị trường, việc phân hóa xã hội ngày càng gia tăng là không thể tránh
khỏi, xa rời bản chất công bằng, dân chủ, nhân đạo, nhân văn tốt đẹp của chủ nghĩa xã
hội. Các bất công ấy cùng với những vấn đề xã hội, tiêu cực xã hội nhức nhối khác
tiềm ẩn nguy cơ làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa, như sự giảm sút vai trò lãnh đạo
của Đảng Cộng sản và hiệu lực quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, sự
gia tăng của tình trạng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân; sự yếu kém của doanh
nghiệp nhà nước và kinh tế tập thể; gia tăng sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức và
lối sống, sự băng hoại các giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc;...

- Âm mưu thực hiện “diễn biến hòa bình” của thế lực thù địch nhằm chống phá nước
ta với những biểu hiện mới, quyết liệt và tinh vi hơn trước

Thông thường, “diễn biến hòa bình” được coi là chiến lược của chủ nghĩa đế quốc và
các thế lực thù địch, phản động quốc tế thực hiện phương thức, thủ đoạn mới, phi quân
sự để chống phá, đẩy lùi và nhằm vào các nước có chế độ chính trị mà họ coi là không
phù hợp với lợi ích của họ, bằng tổng hợp các biện pháp chính trị, quân sự, kinh tế,
văn hóa, xã hội, ngoại giao, an ninh để chuyển hóa chế độ chính trị của các nước này
theo quỹ đạo có lợi cho họ.

Hiện nay, “diễn biến hòa bình” đã có những biểu hiện mới cả về chủ thể tiến hành,
phương thức, nội dung, mục tiêu… đã phát triển đến đỉnh cao, đến mức có thể coi là
một “công nghệ”, đó là “công nghệ lật đổ”, với rất nhiều kịch bản khác nhau. Đặc biệt
là sự phát triển của công nghệ số, các trang mạng, ứng dụng xã hội đã được các thế lực
thù địch ráo riết tận dụng triệt để trong thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”
nhằm xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

- Nguy cơ từ tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu
hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, trong đó có tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí ở
bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn chưa được ngăn chặn triệt để

Thực tế cho thấy còn một số cán bộ có bản lĩnh chính trị chưa thật sự vững vàng, có
biểu hiện dao động về lập trường, quan điểm; lười học tập, nâng cao nhận thức về chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Một số cán bộ, đảng viên đã thực sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, đòi “đa nguyên”,
“đa đảng”, sám hối, “chia tay ý thức hệ”, từ bỏ chủ nghĩa xã hội… Một số cán bộ uy
tín thấp, có biểu hiện sa sút về đạo đức, lối sống, thiếu gương mẫu, thiếu tinh thần
trách nhiệm, nói không đi đôi với làm, xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình
và phê bình; thậm chí chưa vì lợi ích quốc gia - dân tộc và nhân dân trong thực hiện
chức trách, nhiệm vụ, đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích tập thể; đặc quyền, đặc lợi,
quan liêu, xa dân; có quan hệ kinh tế với các doanh nghiệp “sân sau”, sa vào “lợi ích
nhóm”.

Tham nhũng là vấn nạn nhức nhối hiện nay, xuất hiện với nhiều hình thức mới, như
tham nhũng chính sách, tham nhũng đất đai, tham nhũng trong công tác cán bộ…

- Nguy cơ phai nhạt, đánh mất bản sắc văn hóa, xói mòn những giá trị truyền thống
của dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế

Toàn cầu hóa hiện nay có những bước phát triển mới, cùng với cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư đã thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin, nền kinh tế số;
đồng thời cũng đe dọa đến bản sắc văn hóa của các dân tộc trên thế giới, trong đó có
Việt Nam. Một số ít nước lớn đang lợi dụng quá trình toàn cầu hóa để tìm cách truyền
bá các giá trị văn hóa, ngôn ngữ, tập quán, lối sống của mình ra khắp thế giới, với sự
hỗ trợ đắc lực của các công cụ, phương tiện truyền thông đa nền tảng, thực hiện mưu
đồ “bá quyền văn hóa” của mình, làm phai nhạt các giá trị truyền thống dân tộc. Nhiều
phản giá trị, phản văn hóa, tư tưởng độc hại dễ dàng xâm nhập, làm biến dạng các giá
trị văn hóa, đạo đức truyền thống. Đây là một nguy cơ đang hiển hiện và ngày một gia
tăng đối với Việt Nam, nhất là những tác động tiêu cực của nó tới tầng lớp thanh niên
và sẽ gây ra hệ hụy hết sức nguy hiểm, khó
- Bối cảnh hiện nay đang đặt ra thách thức rất lớn đối với sự bảo đảm vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững hòa bình, ổn định
để phát triển

Đây thực sự là một thách thức rất lớn đối với Việt Nam, trong bối cảnh kinh tế - chính
trị thế giới phát triển nhanh chóng, khó lường như hiện nay. Nguyên tắc “bất biến” là
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, là mục tiêu xây dựng
một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, còn cách
thức bảo đảm những nguyên tắc bất di, bất dịch ấy thì có thể ứng biến tùy thuộc từng
giai đoạn phát triển. Thêm vào đó, quá trình hội nhập quốc tế hiện nay là quá trình vừa
hợp tác, vừa đấu tranh, vậy cho nên cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý cấp chiến lược cần nắm vững phương châm: Hòa nhập nhưng không hòa tan,
giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc trong môi trường làm
việc quốc tế, cảnh giác với những âm mưu thông qua hội nhập để thực hiện “diễn biến
hòa bình” đối với Việt Nam.

Câu 21:

Trong những năm đầu của cuộc đổi mới, đảng và đất nước đã đạt được những thành
tựu quan trong, nhưng cũng không tránh được những sai lầm như

*Thành tựu

-Về lương thực thực phẩm: Đạt 21,4 triệu tấn, từ thiếu ăn, phải nhập lương thực, năm
1989 chúng ta đã đáp ứng nhu cầu trong nước, có dự trữ và xuất khẩu, góp phần quan
trọng ổn định đời sống nhân dân; sản lượng lương thực từ 2 triệu tấn (1988) lên 21,4
triệu tấn/1989.

- Hàng hóa trên thị trường: nhất là hàng tiêu dùng dồi dào, đa dạng, lưu thông tương
đối thuận lợi, trong đó hàng trong nước tăng hơn trước và có tiến bộ về mẫu mã, chất
lượng. Các cơ sở sản xuất gắn chặt với nhu cầu thị trường, phần bao cấp của Nhà nước
giảm đáng kể.

- Kinh tế đối ngoại: mở rộng về quy mô và hình thức. Từ 1986 – 1990, hàng xuất khẩu
tăng gấp 3 lần, nhiều mặt hàng có giá trị lớn như gạo (1,5 triệu tấn – 1989), dầu thô…,
tiến gần đến mức cân bằng giữa xuất và nhập khẩu.

- Kiềm chế được một bước lạm phát, từ 20% (1986) còn 4,4% (1990).

- Hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản li của Nhà nước.
-Bộ máy và đối ngũ cán bộ lãnh đạo ở các cơ quan trung ương và địa phương được sắp
xếp lại.

-Sinh hoạt dân chủ trong xã hội ngày càng củng cố và phát huy, nội dung và phương
thức hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị có sự đổi mới, theo phát huy
dân chủ nội bộ và quyền làm chủ của nhân dân.

* Khó khăn, yếu kém:

- Nền kinh tế còn mất cân đối lớn, lạm phát vẫn ở mức cao, lao động thiếu việc làm
tăng, hiệu quả kinh tế thấp, chưa có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế.

- Chế độ tiền lương bất hợp lí, đời sống của những người sống chủ yếu bằng tiền
lương hoặc trợ cấp xã hội và của một bộ phận nông dân bị giảm sút.

- Sự nghiệp văn hóa có những mặt tiếp tục xuống cấp. Tình trạng tham nhũng, nhận
hối lộ, mất dân chủ, bất công xã hội và nhiều hiện tượng tiêu cực khác chưa được khắc
phục.

*Nhận xét.

-Về nhìn chung, chính sách đổi mới của Đảng đã giúp đất nước thoát khỏi tình trạng trì
trệ, có những bước phát triển vượt bậc, phù hợp với tiến trình lịch sử và nhu cầu cần
thiết vào thời điểm đó.

-Thế nhưng, cũng do là một chính sách hoàn toàn mới mẻ thế nên điều này khiến công
việc thực hiện trở nên vất vả, gặp nhiều khó khăn, gây ra một số yeueus kém không
cần thiết.

-Chúng ta có thể coi giai đoạn 5 năm đầu chính là giai đoạn thử nghiệm của chính sách
đổi mới của Đảng, là bài học kinh nghiệm sâu sắc cho cho giai đonạ sau này.

You might also like