You are on page 1of 3

Bối cảnh lịch sử và thách thức:

Trước những năm 1980, nước ta chỉ có hai hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất (TLSX) là quốc doanh và tập thể, thể
hiện ở hai loại hình doanh nghiệp là xí nghiệp quốc doanh và hợp tác xã. Mục đích của chế độ này là thực hiện lý tưởng
CNXH, xây dựng hậu phương vững chắc cho tiền tuyến chống Mỹ.

Tuy nhiên, đến cuối thế kỷ 20, tình hình đất nước và thế giới có nhiều biến chuyển lớn:

 Liên Xô và hầu hết các nước XHCN tan rã, phe XHCN không còn.
 Thế giới chuyển từ đối đầu sang đối thoại, mở ra cơ hội giao lưu đa phương.
 Việt Nam đã giành được độc lập, hoàn thành mục tiêu giải phóng dân tộc.
 Nhân dân mong muốn nâng cao mức sống, đem lại ấm no hạnh phúc.

Bối cảnh mới đặt ra thách thức to lớn cho công cuộc xây dựng CNXH:

 Không còn điều kiện thuận lợi về hậu thuẫn từ phe XHCN để tiến thẳng lên CNXH mà không cần kinh qua CNTB
như trước.
 Nếu cứ kiên trì con đường cũ trong khi thiếu điều kiện thì quan hệ sản xuất không phù hợp sẽ kìm hãm sự phát triển
của lực lượng sản xuất (LLSX).
 LLSX không phát triển thì đời sống nhân dân khó được cải thiện nhanh chóng sau chiến tranh.
 Không mau chóng nâng cao đời sống thì sẽ bất ổn xã hội, đe dọa chế độ chính trị và thành quả cách mạng.
 Nhưng nếu từ bỏ con đường XHCN để theo con đường TBCN thì bị coi là phản bội lý tưởng mà muôn người đã hy
sinh.

Như vậy, bài toán đặt ra là phải tìm giải pháp xử lý vấn đề quan hệ sở hữu TLSX sao cho vừa thúc đẩy LLSX phát
triển, vừa tiếp tục thực hiện lý tưởng không người bóc lột người, trong khi không còn điều kiện hậu thuẫn của phe XHCN.
Giải pháp:

Để xử lý vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất ở Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi, trước hết cần có sự đổi mới tư duy,
nhìn nhận một cách cởi mở, khách quan về các hình thức sở hữu. Tư duy giáo điều, bảo thủ sẽ cản trở nhận thức đúng đắn
về thực tiễn, làm chậm quá trình đổi mới và hội nhập. Cần ghi nhận sự phát triển và biến đổi của chủ nghĩa tư bản hiện đại,
học hỏi những mặt tích cực phù hợp để phát triển đất nước. Đồng thời, trên cơ sở kiên định định hướng xã hội chủ nghĩa,
Nhà nước cần công nhận sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần với các hình thức sở hữu đa dạng. Điều này sẽ tạo môi
trường thuận lợi để khuyến khích sự phát triển của mọi loại hình kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài. Thực tiễn ở Việt Nam kể từ đầu thập niên 90 đã chứng minh, đổi mới tư duy về chế độ sở hữu đã góp phần
quan trọng giải phóng và thúc đẩy sức sản xuất, tạo đà cho kinh tế nước nhà phát triển.

Tuy nhiên, đổi mới tư duy về sở hữu chỉ là tiền đề, cần đi đôi với việc cải cách mạnh mẽ mô hình quản lý kinh tế. Mô
hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung trước đây đã bộc lộ nhiều hạn chế, không tạo động lực để nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, lãng phí nguồn lực của đất nước. Trong khi đó, sự phát
triển của khu vực kinh tế tư nhân bị hạn chế do những phân biệt đối xử trong chính sách. Vì vậy, việc chuyển sang nền kinh
tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là một yêu cầu bức thiết. Cơ chế thị trường tạo áp lực cạnh tranh bình đẳng, buộc
các doanh nghiệp phải liên tục đổi mới, nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh doanh để tồn tại và phát triển. Các
thành phần kinh tế được đối xử bình đẳng, được tạo điều kiện thuận lợi để phát huy tiềm năng. Nhà nước tập trung xây dựng
khu vực kinh tế nhà nước mạnh, làm nòng cốt cho nền kinh tế, đóng vai trò dẫn dắt ở những ngành then chốt gắn với lợi ích
quốc gia. Kể từ khi chuyển đổi mô hình, nền kinh tế Việt Nam đã có sự tăng trưởng ngoạn mục, với sự khởi sắc của kinh tế
tư nhân và làn sóng đầu tư mạnh mẽ từ nước ngoài.

Bên cạnh những thành tựu về tăng trưởng, quá trình phát triển kinh tế thị trường cũng tạo ra không ít những bất cập
xã hội. Đó là sự gia tăng khoảng cách giàu nghèo, làm trầm trọng thêm sự phân hóa xã hội. Một bộ phận người lao động bị
rơi vào hoàn cảnh khó khăn, dễ bị tổn thương, có nguy cơ bị bóc lột, bị xâm phạm quyền lợi. Do đó, Nhà nước cần song
song tăng cường hệ thống an sinh xã hội, bảo đảm công bằng xã hội ở mức tối thiểu, để mọi tầng lớp nhân dân đều được thụ
hưởng những thành quả phát triển. Cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp như xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm, phát triển
giáo dục, y tế, hỗ trợ nhà ở, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp... để hướng tới sự phát triển bao trùm, bền vững, không
bỏ ai ở lại phía sau. Đây là một nội dung cơ bản thể hiện bản chất ưu việt của định hướng xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam
đang theo đuổi. Những tiến bộ về an sinh xã hội đạt được trong thời gian vừa qua là minh chứng sinh động cho điều đó.

Như vậy có thể thấy, ba giải pháp đổi mới tư duy về sở hữu, cải cách mô hình quản lý và tăng cường an sinh xã hội
có mối liên hệ chặt chẽ, bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau. Chúng hợp thành một chỉnh thể đồng bộ và toàn diện để giải quyết vấn
đề sở hữu tư liệu sản xuất trong quá trình chuyển đổi, vừa đảm bảo thúc đẩy kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường, vừa
bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu công bằng, tiến bộ và ấm no hạnh phúc cho nhân dân. Tuy chặng đường
đi lên CNXH của Việt Nam còn dài với không ít thử thách, nhưng những thành tựu bước đầu đã chứng tỏ đất nước đang đi
đúng hướng, phù hợp với nguyện vọng và lợi ích của nhân dân.

You might also like