You are on page 1of 30

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT – CÔNG NGHỆ CẦN THƠ

KHOA KHOA KỸ THUẬT CƠ KHÍ

-----˜&™-----

BÀI TIỂU LUẬN


ĐỀ TÀI:

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG


VẤN ĐỀ TÔN GIÁO Ở NƯỚC TA

Giảng viên giảng dạy: Sinh viên thực hiện:


ThS. Trần Thị Vinh Trương Phước Phúc 1900106
Nguyễn Thanh Qui 1900699
Nguyễn Trọng Thọ 1900568
Trần Thanh Nghĩa 1900099
Liêu Minh Nhựt 1900351
Lê Chí Nguyện 1900424
Võ Minh Nhựt 1900544

Cần Thơ – 12/2021


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT – CÔNG NGHỆ CẦN THƠ

KHOA KHOA KỸ THUẬT CƠ KHÍ

-----˜&™-----

BÀI TIỂU LUẬN


ĐỀ TÀI:

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG


VẤN ĐỀ TÔN GIÁO Ở NƯỚC TA

Giảng viên giảng dạy: Sinh viên thực hiện:


ThS. Trần Thị Vinh Trương Phước Phúc 1900106
Nguyễn Thanh Qui 1900699
Nguyễn Trọng Thọ 1900568
Trần Thanh Nghĩa 1900099
Liêu Minh Nhựt 1900351
Lê Chí Nguyện 1900424
Võ Minh Nhựt 1900544
LỜI NÓI ĐẦU
Cần Thơ – 12/2021
Vấn đề tôn giáo là một vấn đề nhạy cảm không chỉ đối với Việt Nam mà
còn đối với nhiều nước trên thế giới. Vì thế nên cần phải có sự hiểu biết thấu đáo
trước khi giải quyết về vấn đề này.
Vấn đề tôn giáo đã từng bị đế quốc tìm cách lợi dụng phục vụ cho âm mưu
xâm lược chống phá cách mạng ở Việt Nam nói riêng và các nước xã hội chủ
nghĩa nói chung. Chúng sử dụng tôn giáo như một chiêu bài trong âm mưu diễn
biến hoá hoà bình hòng chống phá sự nghiệp xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội ở Việt
Nam cũng như các nước khác
Xuất phát từ vấn đề trên nhóm em quyết định chọn đề tài này để tìm hiểu
thêm về tôn giáo ở Việt Nam cũng như phân tích thực trạng và giải pháp xây
dựng vấn đề tôn giáo ở nước ta.
LỜI CẢM ƠN
Qua một thời gian học tập và nghiên cứu tại Trường Đại học Kỹ Thuật –
Công Nghệ Cần Thơ. Nhóm em đã tiếp thu được nhiều kiến thức bổ ích không
những trong học tập mà còn là những kinh nghiệm trong cuộc sống để em có thể
vươn xa hơn trong tương lai.

Nhóm em xin gửi lời cảm ơn trân thành nhất đến Cô Trần Thị Vinh đã tận
tình hướng dẫn em trong suốt thời gian thực hiện đề tài tạo điều kiện tốt nhất để
em có thể hoàn thành học phần này.

Mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng với sự hạn chế về kiến thức cũng như thời
gian có hạn nên chắc chắn tiểu luận không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong
nhận được sự đóng góp của quý thầy cô và các bạn để bài báo cáo này hoàn thiện
hơn.

Kính chúc ban giám hiệu, quý thầy cô đang giảng dạy tại Trường Đại học
Kỹ Thuật – Công Nghệ Cần Thơ sức khỏe và ngày gặt hái được nhiều thành công
hơn trong tương lai.

Xin trân trọng cảm ơn!


MỤC LỤC

CHƯƠNG 1: MỞ ĐẦU.................................................................................................1
1.1. Lí do chọn đề tài.......................................................................................1
1.2. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu..............................................2
1.2.1. Mục đích nghiên cứu...........................................................................2
1.2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu..........................................................................2
1.2.3. Phạm vi nghiên cứu.............................................................................2
1.3. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................2
1.4. Ý nghĩa đề tài............................................................................................2
1.5. Bố cục tiểu luận.........................................................................................2
CHƯƠNG 2: TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ CHÍNH SÁCH TÔN
GIÁO CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY.....................................3
2.1. Vài nét về tôn giáo ở Việt Nam................................................................3
2.1.1. Đặc điểm..............................................................................................3
2.1.2. Chính sách của đảng và nhà nước.......................................................5
2.2. Thực trạng giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam...............................7
2.2.1. Ưu điểm...............................................................................................7
2.2.2. Hạn chế................................................................................................9
2.2.3. Giải pháp khắc phục..........................................................................11
2.3. Quan điểm của nhà nước ta về tôn giáo...............................................13
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CỤ THỂ ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM ..............................................................................15
3.1. Tình hình chung......................................................................................15
3.2. Giải pháp cụ thể......................................................................................20
CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN.................................................................................23
CHƯƠNG 5: TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................24
CHƯƠNG 1: MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Vấn đề tôn giáo từ lâu là một vấn đề nhạy cảm không chỉ đối với Việt Nam mà
còn với nhiều nước trên thế giới. Hiện nay, tôn giáo ngày càng can thiệp sâu hơn vào
đời sống chính trị với nhiều hình thức khác nhau, vì thế luôn cần có hiểu biết thấu đáo
trước khi giải quyết về các vấn đề.
Vấn đề tôn giáo đã từng bị chủ nghĩa đế quốc tìm cách lợi dụng phục vụ cho
âm mưu xâm lược và chống phá cách mạng ở Việt Nam nói riêng và các nước xã hội
chủ nghĩa nói chung. Chúng sử dụng tôn giáo như một chiêu bài trong âm mưu diễn
biến hòa bình hòng chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cũng
như các nước khác.
Việt Nam là một quốc gia tồn tại nhiều tôn giáo khác nhau và đa dạng về chiều
hướng phát triển trên phạm vi cả nước. Vì vậy để tiến hành thắng lợi công cuộc đổi
mới ở nước ta, trước hết đòi hỏi Đảng và nhà nước ta cần phải có cái nhìn đúng đắn
những vấn đề lí luận và thực tiễn về vấn đề tôn giáo cũng như có những chính sách về
tôn giáo một cách phù hợp và linh hoạt trong tình hình hiện nay.
Nhìn chung mọi giáo lý của các tôn giáo đều chứa đựng tính nhân văn sâu sắc.
Những chiết lý ấy giúp cho con người sống với nhau gần gũi hơn, có trách nhiệm hơn
với bản thân, cộng đồng, với sự phát triển chung của toàn xã hội. Tôn giáo là sự tự do
tin ngưỡng của mỗi công dân. Vì vậy trong định hướng trên con đường xây dựng xã
hội chủ nghĩa, Đảng và nhà nước ta luôn coi trọng vai trò của các tôn giáo. Mặt khác
ở Việt Nam trong lịch sử, tôn giáo đã bị lợi dụng để phục vụ cho mục đích chính trị,
và ngày nay vẫn còn tồn tại những kẻ lợi dụng tôn giáo để chống phá nhà nước xã hội
chủ nghĩa của ta. Chính vì thế mà mỗi người dân cần xác định rõ tư tưởng tự do tín
ngưỡng phải đi đôi với chấp hành pháp luật của Đảng và nhà nước. Đó cũng là lý do
tôi quyết định làm đề tài tiểu luận “Thực trạng giải quyết tôn giáo ở Việt Nam hiện
nay”.

1
1.2. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
1.2.1 Mục đích nghiên cứu
- Đề tài này nghiên cứu thực trạng giải quyết tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
1.2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nêu rõ thực trạng giải quyết tôn giáo ở Việt Nam hiện nay và đưa ra 1 số
giải pháp để giải quyết tốt vấn đề tôn giáo hiện nay.
1.2.3. Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài này chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề giải quyết tôn giáo ở Việt Nam
hiện nay.
1.3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp tổng hợp
- Phương pháp thống kê
1.4. Ý nghĩa đề tài
- Qua đề tài giúp ta thấy rõ được tình hình tôn giáo ở Việt Nam hiện nay,
đồng thời thấy được thực trạng và giải pháp giải quyết vấn đề về tốn giáo ở Việt Nam.
1.5. Bố cục tiểu luận
- Phần nội dung thì gồm 4 chương:
 Chương 1: Mở đầu
 Chương 2: Tôn giáo ở Việt Nam và một số chính sách tôn giáo của
đảng và nhà nước ta hiện nay
 Chương 3: Một số giải pháp cụ thể để giải quyết vấn đề tôn giáo ở
nước ta hiện nay
 Chương 4: Kết luận

2
CHƯƠNG 2: TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ CHÍNH SÁCH TÔN
GIÁO CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1.Vài nét về tôn giáo ở Việt Nam
2.1.1. Đặc điểm
- Thứ nhất: Việt Nam là một quốc gia có nhiều tôn giáo
Nước ta hiện nay có 13 tôn giáo đã được công nhận tư cách pháp nhân (Phật
giáo, Công Giáo, Hồi giáo, Tin lành, Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo, Tứ Ân Hiếu
Nghĩa, Bửu Sơn Kỳ Hương, Bahai, Minh Lý đạo - Tam Tông miêu, Giáo hội Phật
đường, Nam Tông Minh Sư Đạo, Tịnh độ Cư sĩ Phật hội, Bà la môn) và trên 40 tổ
chức tôn giáo đã được công nhận về mặt tổ chức hoặc đã đăng ký hoạt động với
khoảng 24 triệu tín đồ, 95.000 chức sắc, 200.000 chức việc và hơn 23.250 cơ sở thờ
tự. Các tổ chức tôn giáo có nhiều hình thức tồn tại khác nhau. Có tôn giáo du nhập từ
bên ngoài, với những thời điểm, hoàn cảnh khác nhau, như Phật giáo, Công Giáo, Tin
lành, Hồi giáo; có tôn giáo nội sinh, như Cao Đài, Hòa Hảo.
- Thứ hai: Tôn giáo ở Việt Nam đa dạng, đan xen, chung sống hòa bình và
không có xung đột, chiến tranh tôn giáo
Việt Nam là nơi giao lưu của nhiều luồng văn hóa thế giới. Các tôn giáo ở Việt
Nam có sự đa dạng về nguồn gốc và truyền thống lịch sử. Mỗi tôn giáo ở Việt Nam
có quá trình lịch sử tồn tại và phát triển khác nhau, nên sự gắn bó với dân tộc cũng
khác nhau. Tín đồ của các tôn giáo khác nhau cùng chung sống hòa bình trên một địa
bàn, giữa họ có sự tôn trọng niềm tin của nhau và chưa từng xảy ra xung đột, chiến
tranh tôn giáo. Thực tế cho thấy, không có một tôn giáo nào du nhập vào Việt Nam
mà không mang dấu ấn, không chịu ảnh hưởng của bản sắc văn hóa Việt Nam.
- Thứ ba: Tín đồ các tôn giáo Việt Nam phần lớn là nhân dân lao động, có
lòng yêu nước, tinh thần dân tộc

3
Tín đồ các tôn giáo Việt Nam có thành phần rất đa dạng, chủ yếu là người lao
động... Đa số tín đồ các tôn giáo đều có tinh thần yêu nước, chống giặc ngoại xâm,
tôn trọng công lý, gắn bó với dân tộc, đi theo Đảng, theo cách mạng, hăng hái tham
gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Trong các giai đoạn lịch sử, tín đồ các tôn
giáo cùng với các tầng lớp nhân dân làm nên những thắng lợi to lớn, vẻ vang của dân
tộc và có ước vọng sống “tốt đời, đẹp đạo”.
- Thứ tư: Hàng ngũ chức sắc các tôn giáo có vai trò, vị trí quan trọng trong
giáo hội, có uy tín, ảnh hưởng với tín đồ
Chức sắc tôn giáo là tín đồ có chức vụ, phẩm sắc trong tôn giáo, họ tự nguyện
thực hiện thường xuyên nếp sống riêng theo giáo lý, giáo luật của tôn giáo mà mình
tin theo. Về mặt tôn giáo, chức năng của họ là truyền bá, thực hành giáo lý, giáo luật,
lễ nghi, quản lý tổ chức của tôn giáo, duy trì, củng cố, phát triển tôn giáo, chuyên
chăm lo đến đời sống tâm linh của tín đồ.
Trong giai đoạn hiện nay, hàng ngũ chức sắc các tôn giáo ở Việt Nam luôn chịu
sự tác động của tình hình chính trị - xã hội trong và ngoài nước, nhưng nhìn chung xu
hướng tiến bộ trong hàng ngũ chức sắc ngày càng phát triển.
- Thứ năm: Các tôn giáo ở Việt Nam đều có quan hệ với các tổ chức, cá
nhân tôn giáo ở nước ngoài
Nhìn chung các tôn giáo ở nước ta, không chỉ các tôn giáo ngoại nhập, mà cả
các tôn giáo nội sinh đều có quan hệ với các tổ chức, cá nhân tôn giáo ở nước ngoài
hoặc các tổ chức tôn giáo quốc tế.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, Nhà nước Việt Nam đã thiết lập quan hệ
ngoại giao với gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới. Đây chính là điều
kiện gián tiếp củng cố và phát sinh mối quan hệ giữa các tôn giáo Việt Nam với tôn
giáo ở các nước trên thế giới. Vì vậy, việc giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam phải
đảm bảo kết hợp giữa mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế với việc bảo đảm độc lập, chủ
quyền, không để cho kẻ địch lợi dụng dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo để chống

4
phá, can thiệp vào công việc nội bộ của Nhà nước Việt Nam nhằm thực hiện âm mưu
“diễn biến hòa bình” đối với nước ta.
2.1.2 Chính sách của Đảng và nhà nước
Chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam bao gồm những nội dung
cơ bản sau:
- Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang
và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Đảng ta khẳng định, tín ngưỡng, tôn giáo sẽ tồn tại lâu dài cùng dân tộc trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sự khẳng định đó mang tính khoa học và cách
mạng, hoàn toàn khác với cách nhìn nhận chủ quan, tả khuynh khi cho rằng có thể
bằng các biện pháp hành chính, hay khi trình độ dân trí cao, đời sống vật chất được
bảo đảm là có thể làm cho tín ngưỡng, tôn giáo mất đi; hoặc duy tâm, hữu khuynh khi
nhìn nhận tín ngưỡng, tôn giáo là hiện tượng bất biến, độc lập, thoát ly với mọi cơ sở
kinh tế - xã hội, thể chế chính trị.
Vì vậy, thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, theo hoặc không theo một tín ngưỡng, tôn giáo nào, quyền sinh hoạt in
ngưỡng, tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong
khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật.
- Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết dân tộc.
Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn
giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Nhà nước xã hội chủ nghĩa, một mặt, nghiêm
cấm mọi hành vi chia rẽ, phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo;
mặt khác, thông qua quá trình vận động quần chúng nhân dân tham gia lao động sản
xuất, hoạt động xã hội thực tiễn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, nâng cao trình
độ kiến thức... để tăng cường sự đoàn kết vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”, để cùng nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Mọi công dân không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo, đều có quyền và nghĩa vụ xây

5
dựng, bảo vệ Tổ quốc. Giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ
cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc và nhân dân. Đồng thời,
nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái
pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân
tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia.
- Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng.
Công tác vận động quần chủng các tôn giáo nhằm động viên đồng bào nêu cao
tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất đất nước; thông qua việc thực
hiện tốt các chính sách kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, bảo đảm lợi ích vật chất
và tinh thần của nhân dân nói chung, trong đó có đồng bào tôn giáo. | Đẩy mạnh phát
triển kinh tế, xã hội, văn hóa vùng đồng bào theo các tôn giáo, nhằm nâng cao trình
độ, đời sống mọi mặt cho đồng bào, làm cho quần chúng nhân dân nhận thức đầy đủ,
đúng đắn đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tích cực, nghiêm
chỉnh thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật, trong đó có chính sách, pháp luật về
tín ngưỡng, tôn giáo.
- Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Công tác tôn
giáo có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, các cấp, các ngành, các địa
bàn, liên quan đến chính sách đối nội và đối ngoại của Đảng, Nhà nước. Công tác tôn
giáo không chỉ liên quan đến quần chúng tín đồ, chức sắc các tôn giáo, mà còn gắn
liền với công tác đấu tranh với âm mưu, hoạt động lợi dụng tôn giáo gây phương hại
đến lợi ích Tổ quốc, dân tộc. Làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ
thống chính trị, bao gồm hệ thống tổ chức đảng, chính quyền, mặt trận Tổ quốc, đoàn
thể chính trị do Đảng lãnh đạo. Cần củng cố và kiện toàn tổ chức bộ máy và đội ngũ
cán bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo các cấp. Tăng cường công tác quản lý nhà
nước đối với các tôn giáo và đấu tranh với hoạt động lợi dụng tôn giáo gây phương
hại đến lợi ích Tổ quốc và dân tộc.
- Vấn đề theo đạo và truyền đạo. Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo

6
tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật. Các tổ chức tôn
giáo được Nhà nước thừa nhận được hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo
hộ.
2.2. Thực trạng giải quyết các vấn đề tôn giáo ở Việt Nam
2.2.1. Ưu điểm
- Phát huy những giá trị tốt đẹp về văn hóa, đạo đức của tôn giáo. Do tôn giáo
có sự đồng hành lâu dài với con người trong lịch sử, nên có thể xem nó như một phần
tài sản văn hóa của nhân loại. Trong quá trình phát triển, lan truyền trên bình diện thế
giới, tôn giáo không chỉ đơn thuần chuyển tải niềm tin của con người, mà còn có vai
trò chuyển tải, hoà nhập văn hóa và văn minh, góp phần duy trì đạo đức xã hội nơi
trần thế. Nó có ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống tinh thần của con người. Với tư
cách một bộ phận của ý thức hệ tôn giáo đã đem lại cho cộng đồng xã hội, cho mỗi
khu vực, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc những biểu hiện độc đáo thể hiện trong cách ứng
xử, lối sống, phong tục, tập quán, trong các yếu tố văn hóa vật chất cũng như tinh
thần.
- Điều dễ nhận thấy là, những hệ thống đạo đức của tôn giáo rất khác nhau về
niềm tin, rất xa nhau về địa lý vẫn có một mẫu số chung là nội dung khuyên thiện.
Điểm mạnh trong truyền thụ đạo đức tôn giáo là ngoài những điều phù hợp với tình
cảm đạo đức của nhân dân, nó được thực hiện thông qua tình cảm tín ngưỡng, niềm
tin vào giáo lý. Do đó, tình cảm đạo đức tôn giáo được tín đồ tiếp thu, tạo thành đức
tin thiêng liêng bên trong và chi phối hành vi ứng xử của họ trong các quan hệ cộng
đồng. Họat động hướng thiện của con người được tôn giáo hóa sẽ trở nên mạnh mẽ
hơn, nhiệt thành hơn.
- Là hình thức phản ánh đặc thù, phản ánh hư ảo thế giới hiện thực, tôn giáo
đã

7
góp phần chế ngự các hành vi phi đạo đức. Do tuân thủ những điều răn dạy về đạo
đức của các tôn giáo, nhiều tín đồ đã sống và ứng xử đúng đạo lý, góp phần làm cho
xã hội ngày càng thuần khiết.
- Đặc biệt, đạo đức tôn giáo được hình thành trên cơ sở niềm tin vào cái siêu
nhiên (Thượng đế, Chúa, Thánh Ala) và sau này, Đức Phật cũng được thiêng hóa, nên
các tín đồ thực hành đạo đức một cách rất tự nguyện, tự giác. Song, suy cho cùng,
việc thực hiện những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức ấy cũng là để phục vụ cho mềm
tin siêu nhiên. Sự đan xen giữa hy vọng và sợ hãi, giữa cái thực và cái thiêng đã mang
lại cho tôn giáo khả năng thuyết phục tín đồ khá mạnh mẽ. Trên thực tế, chúng ta thấy
nhiều người cung tiến rất nhiều tiền của vào việc xây dựng chùa chiền, làm từ thiện
vốn là những tín đồ tôn giáo.
- Đạo đức tôn giáo hướng con người đến những giá trị nhân bản, góp phần
tích
cực vào việc hoàn thiện đạo đức cá nhân. Bất kỳ tôn giáo nào cũng đề cập đến tình
yêu. Tinh thần “từ bi” trong Phật giáo không chỉ hướng đến con người, mà còn đến cả
muôn vật, cỏ cây Phật giáo kêu gọi lòng nhân đạo, yêu thương và bảo vệ sự sống. Đặc
biệt, trong quan hệ giữa con người với con người, Phật giáo muốn tình yêu thương ấy
phải biến thành hành động “bố thí”, cứu giúp những người đau khổ hoặc “nhẫn nhục”
để giữ gìn đoàn kết.
- Muốn giải thóat khỏi đau khổ, con người phải tự hoàn thiện đạo đức cá
nhân,
diệt trừ tham, sân, si, xoá bỏ vô minh, chặt đứt cây “nghiệp” để vượt qua biển khổ
luân hồi. Đạo đức của Kitô giáo cũng đề cập đến tình yêu: yêu thương bản thân mình,
yêu tha nhân và yêu thiên nhiên, trong đó, yêu tha nhân là trọng tâm của quan niệm
đạo đức về tình yêu. Những chuẩn mực của đạo đức Kitô giáo giúp con người hoàn
thiện đạo đức cá nhân trong quan hệ với cộng đồng. Tình yêu tha nhân ở đây không
đơn thuần là tình yêu trong tâm tưởng mà được cụ thể hóa: cho kẻ đói ăn, cho kẻ rách

8
mặc, chăm sóc người ốm đau, bệnh họan, khuyên can người lầm lỗi Tóm lại, đây là
những hành vi đạo đức rất cụ thể, rất thiết thực khi trong xã hội còn nhiều cảnh khổ
cần được cứu vớt, giúp đỡ.
- Tuy nhiên, tình yêu, lòng từ bi mà đạo đức tôn giáo đề cập đến còn chung
chung, trừu tượng. Các tôn giáo đều muốn san bằng mọi bất công, mâu thuẫn trong xã
hội bằng đạo đức ý tưởng đó dù tất đẹp, nhưng khó có thể hiện thực hóa trong cuộc
sống trần thế. Song, có thể nói, việc hoàn thiện đạo đức cá nhân mà đạo đức tôn giáo
đề ra nhằm hướng đến mục đích siêu nhiên, hướng đến chốn Thiên đường của Chúa
hay cõi Niết bàn của Phật, dẫu sao vẫn có những tác động tích cực đến đạo đức cá
nhân và xã hội.
- Tất cả các tôn giáo như: Phật Giáo, Kitô Giáo, Tin Lành, Hòa Hảo, Cao Đài,
đều hướng thiện, muốn con người hoàn hảo hơn, tôn giáo nào cũng dạy con người
làm việc tốt không gây oán thù, tu dưỡng rèn luyện đạo đức và giúp con người hiểu
hơn về nhận thức cũng như bản chất con người.
- Hầu hết các tôn giáo đều hướng tới con người tới cái thiện cái tốt đẹp
khuyên
răn con người làm điều hay lẽ phải và nhân từ với đồng loại.
2.2.2. Hạn chế
Bên cạnh về mặt ưu điểm tôn giáo ở Việt Nam hiện nay còn có những hạn chế
của đạo đức tôn giáo. Một khi đã thâm nhập vào ý thức con người (các tín đồ, các
giáo dân và quần chúng chịu ảnh hưởng của tôn giáo), nó sẽ làm cho con người lãng
quên hiện thực, đặt tất cả tinh thần, tâm tưởng vào thần thánh hư ảo mà họ tin đó là
giá trị đích thực. Chức năng thế giới quan của tôn giáo dẫn dắt các tín đồ theo một
triết lý sống không hành động, không đấu tranh trong thực tại, lấy tu dưỡng tâm tính
làm điều cốt yếu để mau chóng được giải thoát ở bên ngoài thực tại, nơi Thiên đường
của Chúa hay Niết bàn của Phật. Theo cách nhìn của tôn giáo, cuộc đời là nơi đầy
những cám dỗ, lành ít, dữ nhiều, đầy những cạm bẫy, những cái ác, những sự ô uế,

9
vẩn đục làm vấy bẩn linh hồn. Muốn sớm được đến gần Chúa và trở về nơi nước
Chúa, các con chiên phải tránh xa quỷ dữ.
Muốn chứng được Niết bàn (đạt đến giải thoát), các tín đồ phật tử phải từ bỏ
mọi ham muốn dục vọng, diệt trừ tham, sân, si. Tất cả những quan niệm, những triết
lý sống đó cho thấy mặt tiêu cực của thế giới quan tôn giáo.
Hạnh phúc trong đạo đức tôn giáo là hạnh phúc hư ảo. Tôn giáo không đề cao
cuộc sống trần gian. Mặt khác, nó khuyên con người nhẫn nhục trước tình cảnh nô lệ,
biết sợ hãi trước sức mạnh siêu nhiên. Chính vì vậy, tôn giáo trở thành công cụ phục
vụ đắc lực cho lợi ích của giai cấp thống trị (dù rằng, lúc đầu tôn giáo không phải là
của giai cấp thống trị). Tôn giáo làm cho nhân dân đắm chìm vào đam mê, làm tê liệt
ý chí đấu tranh giai cấp.
K. Marx gọi “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” theo nghĩa đó và cũng vì
vậy đạo đức tôn giáo đối lập với đạo đức chân chính.
Về mặt nào đó, đạo đức tôn giáo đã tạo cho con người thế giới quan và nhân
sinh quan sai lệch, làm hạn chế tính tích cực, chủ động và sáng tạo của con người.
Đạo đức tôn giáo hướng con người tới khát vọng hạnh phúc, song đó là thứ hạnh phúc
hư ảo, hão huyền. Tinh thần nhẫn nhục mà các tôn giáo đề ra thể hiện thái độ cực
đoan, thủ tiêu đấu tranh. Nó tạo cho các tín đồ thái độ bàng quan trước thế giới hiện
thực, bằng lòng với số phận không tích cực đấu tranh chống lại những cái xấu, cái ác,
an ủi và ru ngủ con người trong niềm tin rằng kẻ gây tội ác sẽ phải chịu “quả báo”
hoặc bị trừng trị ở kiếp sau. Chính tâm lý đó đã ngăn cản con người đi đến hạnh phúc
thực sự của mình nơi trần thế.
Một số phần tử xấu lợi dụng hoặc cuồng tín việc bảo vệ tôn giáo để gây nhiều
chiến tranh, bất ổn làm ảnh hưởng đến hòa bình thế giới gây nhiều tệ nạn xã hội như
mê tín dị đoan, bói toán, chữa bệnh bằng bùa phép, nhập hồn lên đồng lên cốt và một
số lý thuyết của tôn giáo cản trở nhận thức của con người cũng như khiến họ có nhận
thức sai lệch về 1 số vấn đề của tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.

10
Thêm nữa, đạo đức tôn giáo quá chú trọng đến việc hoàn thiện đạo đức cá nhân
nhưng lại bỏ quên các mối quan hệ xã hội của con người. Với tính cách một hình thái
ý thức xã hội, đạo đức cũng phản ánh tồn tại xã hội, cũng có quá trình phát sinh, phát
triển và biến đổi cùng với điều kiện sinh sống của con người. Do vậy, muốn hoàn
thiện đạo đức cá nhân, không thể tách nó khỏi những điều kiện sinh hoạt vật chất
cùng các quan hệ xã hội khác của con người.
K. Marx đã khẳng định rằng, “bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã
hội” và nhân cách con người cũng chỉ có thể được hoàn thiện trong các mối quan hệ
xã hội mà thôi.
Như trên đã phân tích, đạo đức tôn giáo có nhiều điểm tích cực, phù hợp với xã
hội ta hiện nay. Song, cũng sẽ là không khoa học, nếu chúng ta tuyệt đối hóa đạo đức
tôn giáo, thổi phồng vai trò của nó. F. Engels từng khẳng định rằng, ngay cả một số
yếu tố tiến bộ của đạo đức tôn giáo cũng chỉ giống với đạo đức mới của chúng ta về
mặt hình thức mà thôi. Vì vậy, mặc dù tôn giáo “là sự phản kháng chống lại sự nghèo
nàn của hiện thực” nhưng rất cuộc nó vẫn chỉ là một sự phản kháng mang tính tiêu
cực, thụ động của con người mà thôi.
Có thể nói, trong điều kiện hiện nay, việc phân tích vai trò của đạo đức tôn giáo
để khẳng định một cách khách quan, khoa học những đóng góp, đồng thời chỉ ra
những ảnh hưởng tiêu cực của nó trong đời sống xã hội là điều cần thiết. Chúng ta hy
vọng rằng, những giá trị nhân văn, hướng thiện, những chuẩn mực đạo đức tiến bộ
trong tôn giáo sẽ giúp phần làm phong phú hệ giá trị đạo đức của dân tộc và hữu ích
trong công cuộc xây dựng xã hội mới.
Tôn giáo làm cho con người bằng lòng với thực tế họ trở nên thụ động làm mất
tính sáng tạo của con người, tôn giáo dễ làm cho con người mê tín tâm lí sợ hãi chờ
đợi nhờ cậy vào Thần Thánh, Phật mỗi khi gặp khó khăn, tôn giáo dễ bị lợi dụng bởi
các thế lực khác điều đó thường dẫn đến những hậu quả xấu, ảnh hưởng đến xã hội.
2.2.3 Giải pháp khắc phục

11
Một là, nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền về tôn giáo, tín
ngưỡng theo tinh thần của Hiến pháp 2013 và các văn bản chỉ đạo về công tác tôn
giáo, tín ngưỡng của Trung ương. Theo đó, tôn giáo, tín ngưỡng là nhu cầu về tinh
thần của một bộ phận quần chúng nhân dân, sẽ tiếp tục tồn tại trong quá trình xây
dựng CNXH. Chức sắc, tín đồ tôn giáo là đồng bào, là công dân Việt Nam trong khối
đại đoàn kết dân tộc. Tôn giáo, các tổ chức tôn giáo là những thực thể xã hội đã và
đang thích ứng với CNXH; có khả năng và quyền tham gia tích cực vào nhiều lĩnh
vực xã hội, góp phần xây dựng và phát triển đất nước.
Hai là, nhanh chóng xây dựng, bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về tín
ngưỡng, tôn giáo theo tinh thần của Hiến pháp 2013. Trước hết là ban hành Luật Tín
ngưỡng, tôn giáo; rà soát, đồng bộ các quy định có liên quan đến tôn giáo, tín ngưỡng
trong các văn bản quy phạm pháp luật; tập hợp đầy đủ các nội dung biểu hiện đa dạng
của tôn giáo, tín ngưỡng trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường và hội nhập
quốc tế vào các chính sách, chế tài quản lý, xóa các lỗ hổng về pháp lý, tạo tâm lý an
lạc trong đồng bào có đạo, đồng thời bảo đảm hiệu lực quản lý nhà nước. Bổ sung các
quy định cụ thể về phân công trách nhiệm, phối hợp công tác giữa các cấp, các ngành
trong công tác tôn giáo. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực
tôn giáo, tín ngưỡng.
Ba là, làm tốt công tác quy hoạch, xây dựng và kiện toàn tổ chức bộ máy làm
công tác quản lý nhà nước về tôn giáo các cấp, bắt đầu từ cơ sở. Trước mắt, thực hiện
việc bố trí cán bộ, công chức cơ sở có năng lực, có trình độ chuyên môn để tham mưu
cho cấp ủy và chính quyền về công tác tôn giáo ở vùng đồng bào tôn giáo, vùng sâu,
vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Tiến tới sự đồng bộ về năng lực và trình độ của cán
bộ, công chức quản lý nhà nước về tôn giáo ở cấp xã. Bảo đảm việc quản lý nhà nước
và giải quyết tốt các vấn đề tôn giáo từ cơ sở.
Bốn là, xây dựng kế hoạch, tạo nguồn tuyển dụng, ưu tiên tuyển dụng cán bộ,
công chức cho ngành quản lý nhà nước về tôn giáo các cấp từ đội ngũ được đào tạo

12
đúng và gần với ngành tôn giáo học; từ cán bộ, công chức đã công tác lâu năm trong
các cơ quan dân vận, mặt trận. Tăng cường bồi dưỡng cho cán bộ, công chức làm
công tác quản lý nhà nước về tôn giáo về lý luận Mác - Lênin, chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước về hoạt động tôn giáo. Đặc biệt bồi dưỡng chuyên sâu kiến
thức về tôn giáo; kỹ năng phối hợp với các tổ chức đoàn thể vận động quần chúng,
nhất là chức sắc, tín đồ các tôn giáo; phương thức đấu tranh chống lại các hành vi lợi
dụng tôn giáo của các thế lực thù địch.
Năm là, xây dựng và hoàn thiện một chiến lược tổng thể phát triển ngành quản
lý nhà nước về tôn giáo trong cơ cấu tổ chức đa ngành, đa lĩnh vực. Đổi mới chính
sách tiền lương và chế độ đãi ngộ đặc thù đối với cán bộ, công chức làm công tác tôn
giáo. Trước mắt, khẩn trương xây dựng, bổ sung chức danh và tiêu chuẩn công chức
ngành quản lý nhà nước về tôn giáo để thực hiện phụ cấp ưu đãi theo ngành. Chú
trọng tới giá trị nghề nghiệp, khuyến khích cán bộ, công chức của ngành trở thành
chuyên gia trong lĩnh vực công tác. Tăng cường kinh phí, điều kiện làm việc (trụ sở,
phương tiện đi lại v.v..) đặc biệt là ở vùng dân tộc, vùng đồng bào tôn giáo, vùng sâu,
vùng xa.
2.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề tôn giáo.
Một là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân,
đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo
hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường đúng pháp
luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật.
Hai là, Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân
tộc. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn giáo
và đồng bào không theo tôn giáo. Giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của
truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc và nhân
dân. Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.

13
Đồng thời, nghiên cứu lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan,
hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia
rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc qua.
Ba là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng.
Công tác vận động quần chúng các tôn giáo phải động viên đồng bào nêu cao tinh
thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất của Tổ quốc, thông qua việc thực
hiện tốt các chính sách kinh tế xã hội, an ninh, quốc phòng, bảo đảm lợi ích vật chất
và tinh thần của nhân dân nói chung, trong đó có đồng bào tôn giáo.
Bốn là, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Công tác tôn
giáo có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, các lớp, các cấp, các ngành,
các địa bàn. Làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị
do Đảng lãnh đạo, nhưng trước hết và trực tiếp là trách nhiệm của bộ máy và đội ngủ
cán bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo. Công tác quản lý nhà nước đối với các tôn
giáo và đấu tranh chống việc lợi dụng tôn giáo để chống đối chế độ.
Năm là, theo đạo, truyền đạo và hoạt động tôn giáo phải tuân thủ đúng Hiến
pháp và pháp luật của Nhà nước. Mọi tin đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình
và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật. Các tổ chức của tôn giáo được
Nhà nước thừa nhận được hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ, được
hoạt động tôn giáo, mở trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành, xuất bản kinh sách và
giữ gìn, sửa chữa, xây dựng cơ sở thờ tự tôn giáo của mình theo đúng quy định của
pháp luật. Việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải
tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; không lợi dụng tôn giáo tuyên truyền tà đạo hoạt
động mê tín dị đoan, không được ép buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ
chức truyền đạo, người truyền đạo và các cách thức truyền đạo trái phép, vi phạm các
quy định của Hiến pháp và pháp luật.

14
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CỤ THỂ
ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM
3.1. Tình hình chung
Việt Nam là một quốc gia có nhiều tín ngưỡng, tôn giáo cùng tồn tại lâu đời
trong lịch sử của dân tộc. Mặc dù đức tin, giáo lý và sự thờ phụng của đồng bào theo
các tôn giáo khác nhau nhưng đều có điểm tương đồng ở tinh thần dân tộc, truyền
thống yêu nước, truyền thống văn hóa và luôn đồng hành cùng dân tộc cả trong cách
mạng giải phóng dân tộc trước đây cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc hiện nay. Chính vì thế, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước
ta luôn khẳng định chủ trương, chính sách nhất quán là tôn trọng, bảo đảm quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng tôn giáo của đồng bào các dân tộc.
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã khẳng định: “Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân theo quy định của
pháp luật”1. Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (năm 2013),
Điều 24 quy định:
“1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một
tôn giáo nào…
2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”.
 Đây là cơ sở pháp lý rất quan trọng để nhân dân ta thực hiện quyền bình
đẳng trong chính sách tự do tôn giáo theo nguyên tắc: bình đẳng về tín ngưỡng, bình
đẳng về quyền lợi, nghĩa vụ (nghĩa vụ tôn giáo, nghĩa vụ công dân) và bình đẳng về
pháp luật.
Trên thực tế, mọi tôn giáo ở Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật,
được pháp luật bảo vệ, được tự do hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Tuyệt nhiên không một tôn giáo nào hoạt động đúng pháp luật mà bị chính quyền

15
ngăn cấm. Chức sắc, tín đồ các tôn giáo luôn gắn bó với quốc gia, dân tộc theo
phương châm “Đạo pháp dân tộc và CNXH”, thực hiện “sống phúc âm trong lòng dân
tộc”, “nước vinh đạo sáng”, vừa làm tròn bổn phận của tín đồ đối với tôn giáo, vừa
hăng hái lao động sản xuất, góp phần cùng toàn dân đẩy mạnh thực hiện công cuộc
đổi mới, CNH, HĐH phải xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực tiễn sinh động đó đã,
đang được khẳng định qua những thành tựu đã đạt và được nhiều nước, nhiều tổ chức
quốc tế đánh giá cao. Thế nhưng, các thế lực thù địch cùng các tổ chức, cá nhân thiếu
thiện chí lại ra sức tung tin xuyên tạc, bịa đặt về tình hình tôn giáo tại Việt Nam.
Chúng lợi dụng một số phần tử đội lốt tôn giáo, vi phạm luật pháp và bị pháp luật xử
lý để vu cáo Việt Nam đàn áp tôn giáo, ngăn cấm xây, sửa nơi thờ tự, cản trở các hoạt
động tín ngưỡng của các chức sắc tôn giáo, nhà tu hành,… Không những thế, các tổ
chức thiếu thiện chí ở nước ngoài đã dựa trên những thông tin bịa đặt từ một nhóm
người có hoạt động chống Nhà nước Việt Nam để đưa ra những luận điệu vu cáo
“Việt Nam đàn áp, tấn công tôn giáo”. Gần đây nhất, trong phiên điều trần tại Quốc
hội Hoa Kỳ về các cộng đồng thiên chúa giáo thiểu số bị đàn áp trên thế giới, ông Cơ-
rít X-mít lại cố tình đưa vấn đề hoàn toàn trái với sự thật rằng: Nhà nước Việt Nam
đang có sự phân biệt đối xử về tôn giáo; rằng Việt Nam đang đi những bước lùi về tôn
giáo, v.v.
Đánh giá đó là sự xuyên tạc một cách trắng trợn về tự do tín ngưỡng, tôn
giáo ở Việt Nam. Sẽ chẳng có gì đáng nói nếu như những thông tin mà dân biểu Cơ-
rít X-mít đưa ra, rồi cáo buộc Việt Nam là đúng sự thật khách quan và không phải
xuất phát từ động cơ chính trị xấu nào hay chỉ là sự lặp lại những định kiến, áp đặt
chủ quan cũ rích, bất chấp những thành tựu về tự do tôn giáo ở Việt Nam. Dư luận
cũng đang đặt câu hỏi, phải chăng các “nhà dân chủ” Mỹ và phương Tây đang thực sự
đấu tranh vì quyền con người, vì đối thoại xây dựng, vì sự phát triển tín ngưỡng, tôn
giáo cho các dân tộc? Có thể khẳng định ngay rằng, hoàn toàn không phải như vậy,
mà thực chất là họ đã và đang lợi dụng vấn đề nhân quyền, tự do tôn giáo để chống

16
phá các nhà nước không thân thiện với họ, trong đó có Việt Nam. Mục đích của họ
không có gì khác là nhằm hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, tiến tới xóa bỏ chế độ
XHCN ở nước ta. Một số phần tử cơ hội chính trị ở trong nước đã ngay lập tức “tát
nước theo mưa”, lợi dụng lòng tin của nhân dân để thực hiện các động cơ chính trị đi
ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc, kích động quần chúng chống phá, gây rối an ninh
trật tự, tạo các “điểm nóng” về chính trị, v.v.
Song sự thật vẫn là sự thật. Dù họ có phớt lờ hoặc cố tình không nhận thấy thì
sự phát triển và những thành tựu về tôn giáo ở Việt Nam tự nó đã làm bẽ mặt những
kẻ lâu nay vẫn rắp tâm chống phá. Trong những năm qua, Chính phủ và nhân dân
Việt Nam đã nỗ lực thực hiện một cách toàn diện từ việc hoàn thiện hệ thống pháp
luật đến việc triển khai thực hiện việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho
nhân dân. Các bản hiến pháp của nước Việt Nam đều có các điều, khoản về quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân; Quốc hội Khóa XI đã ban hành Pháp lệnh tín
ngưỡng, tôn giáo; Chính phủ đã ban hành Nghị định 22/2005/NĐ-CP về hướng dẫn
thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo. Điều đáng chú ý là, cùng với
các quy định về tín ngưỡng, tôn giáo của Nhà nước, Nghị quyết Đại hội XI của Đảng
còn nhấn mạnh: “Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo;
động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng
góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”2. Như vậy, quan điểm nhất
quán của Đảng ta không chỉ tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc
không theo một tôn giáo nào mà còn đánh giá cao vai trò, vị trí của các tôn giáo đối
với sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Điều này đã phản bác các luận điệu xuyên tạc
cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam là vô thần và chủ trương diệt trừ tôn giáo.
Không chỉ dừng lại ở việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, Chính phủ Việt Nam
đã cụ thể hóa và đưa những quy định đó vào hiện thực cuộc sống. Đến nay, theo số
liệu thống kê, cả nước đã có 12 tôn giáo với 37 tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa
nhận hoạt động trong khuôn khổ pháp luật (tăng gấp 2 lần so với năm 2006), với hơn

17
100.000 chức sắc và nhà tu hành, gần 26.000 cơ sở thờ tự và trên 30 triệu tín đồ,
chiếm 1/3 dân số cả nước.
Trong đó, tín đồ Phật giáo 14 triệu, Thiên Chúa giáo 6 triệu, Tin lành 1,5 triệu,
Cao Đài gần 3,5 triệu, Phật giáo Hòa Hảo 1,5 triệu, Tịnh độ Cư sĩ Phật hội 1,5 triệu,
Tứ Ân Hữu Nghĩa 78.000 và Hồi giáo 67.000, … Riêng trên địa bàn Tây Nguyên,
năm 1975 chỉ có 50.000 người/200 thôn, làng theo đạo Tin lành, đến nay, đã là hơn
500.000 người/18.000 thôn, làng.
Bên cạnh đó, việc học tập, đào tạo của các tôn giáo cũng được phát triển nhanh.
Từ chỗ chỉ có 22 trường cao đẳng, trung cấp Phật học (năm 1993), đến nay, cả nước
đã có 4 học viện Phật giáo và 49 trường cao đẳng, trung cấp, sơ cấp Phật học; Giáo
hội Công giáo có 6 Đại Chủng viện với hàng nghìn chủng sinh,... Không những thế,
Nhà nước còn tạo điều kiện cho hàng trăm tu sĩ đi học tập, hội thảo nâng cao trình độ
ở nước ngoài và nhiều người đã trở thành tiến sĩ Phật học. Việc in ấn, xuất bản kinh
sách được Nhà nước quan tâm, hầu hết các tổ chức tôn giáo đều có báo, tạp chí, bản
tin, đáp ứng yêu cầu hoạt động của các tôn giáo. Chỉ tính riêng Nhà xuất bản Tôn
giáo, mỗi năm đã cấp phép xuất bản hơn 1.000 ấn phẩm liên quan đến tôn giáo.
Hằng năm, có khoảng 8.500 lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo được tổ chức ở các quy
mô khác nhau trên phạm vi cả nước; trong đó, các sự kiện trọng đại của các tôn giáo
đều được chính quyền các cấp tạo điều kiện tổ chức và lãnh đạo Đảng, Nhà nước, địa
phương đều quan tâm, động viên, chúc mừng. Năm 2011, đã diễn ra Đại lễ kỷ niệm
30 năm Ngày thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam với sự tham gia của hàng nghìn
tăng ni, phật tử trong nước và trên 2.000 chức sắc, tín đồ đến từ nhiều quốc gia và
vùng lãnh thổ. Ngoài ra, quan hệ đối ngoại của các tôn giáo cũng được Nhà nước tạo
điều kiện và ngày càng mở rộng, nhất là quan hệ với các tổ chức tôn giáo ở khu vực
Đông Nam Á, Tây Âu và Tòa thánh Va-ti-căng, góp phần làm cho bạn bè quốc tế hiểu
rõ hơn chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước cũng như tình
hình tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam. Những con số biết nói nêu trên là bằng

18
chứng sinh động bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, bịa đặt về tình hình tôn giáo tại
Việt Nam.
Thử hỏi rằng, nếu Việt Nam kỳ thị tôn giáo, hạn chế và đàn áp tôn giáo, vi
phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo như các luận điệu mà thế lực thù địch vẫn thường rêu
rao thì các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam liệc có thể xác lập vị trí và phát triển ổn định
như hiện nay không; bức tranh tôn giáo ở Việt Nam không thể phong phú, đa dạng
đến như vậy hay không?
Ông Giôn Hen-pho, Đại sứ lưu động phụ trách tự do tôn giáo Mỹ có dịp đến
Việt Nam đã phải thốt lên rằng, “Việt Nam đã có những bước tiến bộ đáng kể trong
việc đẩy mạnh tự do tôn giáo”. Đồng quan điểm này, Thượng nghị sĩ Mỹ Jim Oép –
Chủ tịch Tiểu ban Đông Á - châu Á - Thái Bình Dương thuộc Ủy ban Đối ngoại
Thượng viện Mỹ trong cuộc gặp Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng gần đây đã đánh giá:
cho dù vẫn còn những quan điểm cá nhân về một vài việc cụ thể liên quan đến tự do
tôn giáo tại Việt Nam, nhưng không thể phủ nhận những tiến bộ về tự do tôn giáo mà
Việt Nam đã đạt được, nhất là từ năm 1991 đến nay, v.v.
Cần thấy rằng, tín ngưỡng, tôn giáo là vấn đề mang tính văn hóa, tư tưởng, sự
vận động và phát triển của nó gắn liền với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, lịch sử,
hệ tư tưởng, văn hóa của mỗi quốc gia, dân tộc, nên không thể sao chép “tiêu chuẩn”
tôn giáo của quốc gia, dân tộc này cho quốc gia, dân tộc khác và càng không thể áp
đặt theo ý muốn chủ quan của một chủ thể nào đó từ bên ngoài. Hơn thế nữa, các tổ
chức tôn giáo về thực chất vẫn là một tổ chức xã hội, bao gồm nhiều tín đồ với các
lứa tuổi, trình độ, thành phần…, khác nhau, hoạt động và tồn tại trong khuôn khổ
pháp luật nhất định; do đó, việc một vài tín đồ tôn giáo vi phạm pháp luật, bị xử lý
cũng là việc bình thường trên con đường phát triển. Song, lợi dụng điều đó để vu cáo
chính quyền đàn áp tôn giáo như đối với Việt Nam là điều không thể chấp nhận được.
Ngay ở các nước phương Tây, được coi là những “quốc gia dân chủ nhất”, các giáo

19
phái hoạt động trái pháp luật cũng đều bị nghiêm trị, liệu đó có phải là hành động đàn
áp tôn giáo không?
Nhân đây, cũng cần nhắc lại rằng, nhiều năm qua, vấn đề tự do tôn giáo luôn
được các thế lực thù địch và những kẻ cực đoan trong nước triệt để lợi dụng để chống
phá Đảng và Nhà nước Việt Nam. Nhân dân ta cũng quá hiểu những thủ đoạn này là
nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xóa bỏ chế độ XHCN ở nước ta. Vì
ý đồ đen tối đó, chúng sẽ còn xuyên tạc, bịa đặt, bóp méo sự thật nhiều vấn đề khác
nhằm bôi đen và hạ uy tín của Việt Nam. Song sự thật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo ở Việt Nam luôn được tôn trọng và bảo đảm đã và sẽ là một trong những thứ vũ
khí sắc bén, lâu bền, vững chắc nhất đập tan những luận điệu xuyên tạc của chúng.
3.2. Giải pháp cụ thể
- Trên lớp
 Học tập về truyền thông tôn giáo
 Học tập nâng cao trình độ với nhau, tạo mối quan hệ gần rủi với bạn bè xung
quanh
 Hòa đồng với các bạn bè trên lớp, tôn trọng tôn giáo của các vùng miền...
 Tích cực trao đổi văn hóa các bạn với nhau
 Không nên tổ chức các hoạt động lôi kéo sinh viên vào mê tín dị đoan
 Tổ chức các hoạt động ngoại khóa, lớp, khoa, trường để giao lưu, lưu giữa văn
hóa tôn giáo nhau
- Nơi cư trú ấp xã
 Tham gia phong trào về tôn giáo
 Tạo các buổi giao lưu về vấn đề dân tộc, tôn giáo
 Tham gia các hoạt động tình nguyện về vấn đề tôn giáo
 Tuyên truyền tín ngưỡng tôn giáo trên các trang thông tin đại chúng
 Một số giải pháp cụ thể để giải quyết tôn giáo Việt Nam.

20
- Tăng cường đoàn kết tôn giáo
 Nâng cao nhận thức tư tường về vấn đề đoàn kết tôn giáo trong tình hình mới
Bồ
sung và hoàn chinh hệ thống pháp luật về tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
 Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo và vai trò lãnh đạo
của Đảng, quản lý của nhà nước về tôn giáo trong bối cành hiện nay
 Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào các tôn giáo
 Thực hiện bình đằng giữa các tôn giáo, giữa đồng bào theo tôn giáo và đồng
bào
không theo tôn giáo
 Kiên quyết đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực trong tôn giáo và đập tan
âm
mưu lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng của lực lượng thù địch
 Nhằm tăng cường công tác tôn giáo
 Cần tiếp tục quan tâm việc tổ chức cho cán bộ, nhân dân nói chung, đồng bào
tôn giáo nói riêng học tập các quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước ta đối với
tôn giáo. Các ngành, các cấp cần đẩy mạnh công tác tuyên tryền, phổ biến giáo dục
pháp luật trong vùng giáo, nhất là trong các chức sắc, chức việc, nhà tu hành và tin đồ
các tôn giáo.
 Tập trung nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm, trách nhiệm của hệ thống
chính trị và toàn xã hội đối với công tác tôn giáo.
 Các ngành các cấp đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục tryền thống yêu
nước,
ý thức bảo vệ độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ, làm cho các tôn giáo gắn bó với
dân tộc, với quê hương đất nước, tăng cường sự đồng thuận giữa người có tín ngưỡng,

21
tôn giáo và những người không có tín ngưỡng, tôn giáo cũng như giữa những người
có tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau.
 Cần nhận thức một cách sâu sắc rằng nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là
công tác vận động quần chúng, thông qua công tác vận động nhằm giúp đồng bào các
tôn giáo phát huy những ưu điểm, khắc phục tồn tại, giữ gin và phát huy những truyền
thống văn hóa của dân tộc, tôn vinh những người có công với Tổ quốc, với nhân dân
đồng thời chủ động đấu tranh chống lại các hoạt động lợi dụng tự do tín ngường tôn
giáo để hành nghề mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà
nước, lợi dụng, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối , xâm phạm an
ninh quốc gia.
 Quan tâm xây dựng tổ chức, bộ máy cán bộ làm công tác tôn giáo đủ mạnh, tạo
điều kiện về mọi mặt nhằm góp phần tham mưu ngày càng tốt hơn cho cấp uỳ, chính
quyền giải quyết các vấn đề có liên quan đến tôn giáo theo đúng chủ trương, chính
sách của Đảng, Nhà nước.
 Trong tình hình hiện nay, bộ máy tham mưu, giúp việc về công tác tôn giáo ở
tình ta, nhất là cấp cơ sở chưa được quan tâm đúng mức vì vậy chưa đáp ứng được
yêu cầu tham muu cho cấp ủy, chính quyền giải quyết các vấn đề này sinh từ cơ sờ.
Vì vậy, trong thời gian tới cần phải tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác tồn
giáo của cấp uỷ, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể quần chúng tạo sự thống nhất
và có tính "liên hoàn" cao nhằm phát huy sức mạnh và hiệu quả công tác tôn giáo
trong tình hình mới.
 Đẩy mạnh công tác tuyên truyền Luật tín ngường, tôn giáo
 Cấp ủy, chính quyền các cấp cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên
truyền, phổ biến Luật Tín ngưỡng, tôn giáo
 Tăng cường bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ báo cáo viên, tuyên
truyền

22
viên Luật Tín ngưỡng, tôn giáo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
 Lựa chọn nội dung, đổi mới phương pháp, hình thức tuyên truyền, phổ biến
Luật
Tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với từng địa bàn, đối tượng
 Phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức, lực luợng trong tuyên truyền, phổ biến Luật
Tín ngưỡng, tôn giáo, tạo sức mạnh tổng hợp trong thực hiện.

23
CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN
Bài tiểu luận đã nêu lên đượ vấn đề tôn giáo đang nóng bỏng ở nước ta giúp ta
thấy rõ mặt tích cực và tiêu cực của tôn giáo ơ Việt Nam hiện nay. Từ đó đưa ra
những giải pháp thích hợp cho vấn đề tôn giáo mà không đụng chạm đến tín ngưỡng
của mỗi cá nhân. Góp phần phát triển tôn giáo một cách toàn diện mà không ảnh
hưởng đến vấn đề chính trị của quốc gia. Nhằm tạo ra một cộng đồng tôn giáo lành
mạnh có những đóng góp tích cực cho sự phát triển của đất nước. Vì vậy chúng ta
cần phải đoàn kết trong mọi tôn giáo cũng như tôn trọng lẫn nhau trong tôn giáo và
mỗi tôn giáo chúng ta cần phải phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực để tôn
giáo ngày càng đi lên một bước ngoặc lớn.

24
CHƯƠNG 5: TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tập thể tác giả GS.TS Hoàng Chí Bảo, GS.TS Dương Xuân Ngọc, PGS.TS Đỗ
Thị Thạch, PGS.TS Nguyễn Bá Dương, PGS.TS Phạm Công Nhất, PGS.TS Đinh Thế
Định, PGS.TS Đặng Hữu Toàn, PGS.TS Lê Hữu Ái, PGS.TS Bùi Thị Ngọc Lan,
PGS.TS Định Ngọc Thạch, PGS.TS Trần Xuân Dung, PGS.TS Lê Văn Đoán, PGS.TS
Ngô Thị Phượng, PGS.TS Nguyễn Chí Hiếu (2019), Giáo trình chủ nghĩa xã hội
khoa học, 2019, Ban Tuyên giáo Trung ương.
2. Luanvan.net (2020), Tiểu luận thực trạng vấn đề tôn giáo ở Việt nam hiện nay,
Tiểu luận Thực trạng giải quyết tôn giáo ở Việt Nam hiện nay - Luận văn, đồ án, đề
tài tốt nghiệp (luanvan.net.vn)

25

You might also like