Professional Documents
Culture Documents
tiếp cận đau khớp khuỷu không do chấn thương
tiếp cận đau khớp khuỷu không do chấn thương
GIỚI THIỆU
Đau khuỷu có thể do các bệnh lý bên trong khớp khuỷu, hay do các cấu trúc
mô mềm xung quanh khớp, hoặc do nguồn gốc từ nơi khác (ví dụ: cổ, vai, cổ tay).
Các cấu trúc của khớp khuỷu và phần mềm gần khớp khuỷu thường gây đau khuỷu
bao gồm mỏm trên lồi cầu (trong và ngoài), túi hoạt dịch mỏm khuỷu, thần kinh
quay và thần kinh trụ. Đau lan đến khuỷu thường bắt nguồn từ đám rối cổ hoặc từ
khớp vai.
Bài này sẽ giới thiệu cách tiếp cận một cách có hệ thống đau khuỷu không
do chấn thương ở bệnh nhân trưởng thành và xác định nguyên nhân thường gặp
gây đau.
GIẢI PHẪU
Khớp khuỷu được hình thành bởi mặt khớp ở đầu dưới xương cánh tay với
đầu trên xương quay (chỏm quay) và xương trụ (Hình 1). Gấp/duỗi khuỷu tại khớp
cánh tay - trụ lần lượt được thực hiện tương ứng bởi cơ nhị đầu và cơ tam đầu cánh
tay.
Hình 1: Khớp khuỷu là
một phức hợp khớp bản lề
bao gồm ba khớp riêng
biệt: khớp cánh tay trụ
(vòng tròn lớn màu tím),
cánh tay quay (vòng tròn
nhỏ màu tím), và quay trụ
(vòng tròn màu đỏ). Các
khớp cánh tay quay và
cánh tay trụ phối hợp để
cho vận động gấp duỗi
kiểu bản lề (mũi tên màu
tím). Vận động sấp ngửa
cẳng tay thực hiện bởi
khớp quay trụ (mũi tên đỏ)
Tầm vận động bình thường từ duỗi tối đa (0 độ) tới gấp tối đa (135 độ). Một
số trường hợp có thể duỗi khuỷu quá mức bình thường, tình trạng này được gọi là
“cubitus recurvatus” hay còn gọi là khuỷu ưỡn (Hình 2).
Hình 2: Lõng lẻo khớp khuỷu với khớp khuỷu duỗi hơn 10 độ.
Ngửa/sấp xảy ra ở mặt khớp cánh tay quay và mặt khớp quay trụ trên của
khớp khuỷu. Cơ nhị đầu ngửa và cơ sấp tròn làm sấp khuỷu. Khuỷu có thể sấp
ngửa từ 0 đến 180 độ.
Mỏm trên lồi cầu là mỏm xương lồi lên dễ dàng sờ nắn ở mặt trong và mặt
ngoài của đầu dưới xương cánh tay, nằm trên khớp khuỷu và chúng là nguyên nhân
phổ biến gây đau. Nguyên ủy gân cơ gấp, duỗi cổ tay và các ngón tay lần lượt bám
vào mỏm trên lồi cầu trong và lồi cầu ngoài.
Nhiều túi hoạt dịch được tìm thấy xung quanh khớp khuỷu, túi hoạt dịch
mỏm khuỷu nằm ở nông nhất và tràn dịch của túi hoạt dịch này thường gặp và dễ
phát hiện (Hình 3)
Hình 3: Túi hoạt dịch mỏm
khuỷu
Một số dây chằng giúp giữ vững khớp khuỷu. Dây chằng bên trụ hoặc dây
chằng bên trong có tầm quan trọng trên lâm sàng giúp giữ vững tránh vẹo ngoài
khuỷu. Bó hoặc dãi trước của dây chằng này chạy từ lồi cầu trong xương cánh tay
tới mỏm vẹt của xương trụ và là yếu tố chính chống lại lực gây mất vững vẹo ngoài
khuỷu.
Thần kinh trụ đi qua khớp khuỷu ở rãnh thần kinh trụ ở phía sau trong
khuỷu. Đường đi của nó nằm sát bao khớp, do đó bất cứ nguyên nhân nào làm
sưng khớp sẽ chèn ép lên thần kinh trụ, gây tê và dị cảm ở bờ trụ bàn tay và thỉnh
thoảng gây gấp yếu ngón 4,5. Thần kinh giữa đi phía trước bao khớp, bị chèn ép ở
vùng này thường do chấn thương khuỷu, gấp khuỷu hay do sấp và ngửa cẳng tay
lặp đi lặp lại nhiều. Thần kinh quay đi phía sau xương cánh tay, và sau đó vòng ra
trước ở trên mỏm trên lồi cầu ngoài trước khi chia thành nhánh nông và sâu.
NGUYÊN NHÂN VÀ TRIỆU CHỨNG THƯỜNG GẶP
Nhiều nguyên nhân dẫn tới đau khuỷu bắt nguồn quanh khớp, bao gồm:
viêm mỏm trên lồi cầu, viêm túi hoạt dịch mỏm khuỷu, hội chứng chèn ép thần
kinh, và đau do lan từ nơi khác tới. Bệnh hệ thống (ví dụ: viêm khớp dạng thấp)
thường liên quan nhiều khớp, được phát hiện qua hỏi bệnh sử và thăm khám cẩn
thận. Tuy nhiên, vài khớp liên quan có thể bị ảnh hưởng, ví dụ trong bệnh viêm cột
sống huyết thanh âm tính.
Triệu chứng điển hình của khuỷu thường liên quan tới đau (vd: viêm mỏm
trên lồi cầu), sưng (vd: viêm túi hoạt dịch mỏm khuỷu) hay mất vận động (vd: tổn
thương khớp). Mỗi triệu chứng sẽ được thảo luận kỹ dưới đây.
Đau phía bên ngoài khuỷu:
Đau bên ngoài khuỷu là than nhiều thường gặp nhất ở khuỷu. Nguồn gốc của
đau có thể là do mỏm trên lồi cầu ngoài, khớp cánh tay quay, hoặc đau lan từ vai
hoặc cổ. Các nguyên nhân gây đau bên ngoài khuỷu được trình bày trong Bảng 1.
Đau mỏm trên lồi cầu ngoài (tennis elbow) là vị trí thường gặp và đau nhiều
hơn khi vận động duỗi cổ tay, bao gồm việc sử dụng quá mức cẳng tay và cổ
tay tay, và rung lắc bàn tay.
Đau xuất hiện từ khớp khuỷu (khớp cánh tay quay) vị trí đau hơi ở phía sau
mỏm trên lồi cầu (giữa mỏm trên lồi cầu với mỏm khuỷu), thường khó xác
định và dễ dàng phân biệt với viêm mỏm trên lồi cầu ngoài do liên quan tới
khớp (viêm mỏm trên lồi cầu cực kì hiếm ảnh hưởng tới tầm vận động của
khuỷu). Tràn dịch khớp làm giảm duỗi khớp.
Bảng 1: Các nguyên nhân gây đau bên ngoài khuỷu
Bệnh lý gân duỗi
Chuột khớp
Khiếm khuyết sụn xương (Khớp quay – chỏm con)
Thoái hóa khớp (gai xương phía sau)
Valgus extension overload
Hội chứng ống thần kinh quay
Đau khớp do viêm
Lateral synovial plica
Bệnh lý rễ cổ
Thoracic outlet syndrome
Đau lan tới phía ngoài khuỷu nghĩ tới khi tình trạng đau không tăng thêm
khi sờ nắn hoặc vận động khuỷu, đau mơ hồ, và đau nhiều hơn khi vận động
vai hoặc cổ.
Đau phía bên trong khuỷu
Đau phía bên trong khuỷu là vị trí đau thường gặp thứ hai ở khuỷu.
Đau thường xuất phát từ mỏm trên lồi cầu trong hoặc từ thần kinh trụ khi nó
đi qua ống trụ. Các nguyên nhân gây đau bên trong khuỷu được trình bày
trong Bảng 2.
Bảng 2: Các nguyên nhân gây đau bên trong khuỷu
Bệnh lý gân gấp
Hội chứng ống khuỷu
Viêm dây thần kinh trụ
UCL insufficiency
Little league elbow
Đau khớp do viêm
Bệnh lý rễ cổ
Thoracic outlet syndrome
Myofascial pain
Cũng như viêm mỏm trên lồi cầu ngoài, đau do viêm mỏm trên lồi cầu trong
dễ dàng nhận biết và đau tăng khi vận động gấp cổ tay, ví dụ: hành động
nhấc vật nặng hoặc sử dụng cẳng tay và cổ tay lặp đi lặp lại.
Đau xuất hiện từ thần kinh trụ nghĩ tới khi đau lan tỏa tới bờ trụ của bàn tay
và liên quan triệu chứng cảm giác (hoặc thỉnh thoảng vận động) ở ngón tay
4,5.
Sưng khuỷu
Những bệnh nhân than phiền về vấn đề sưng khuỷu thường có viêm túi hoạt
dịch mỏm khuỷu, tuy nhiên một vài bệnh lý nặng khác có thể xảy ra. Nóng ấm và
đỏ da đi kèm với sưng, và các triệu chứng, dấu hiệu tiến triển nhanh, là những gợi
ý phân biệt giữa những nguyên nhân cơ bản (thường là chấn thương, nhiễm trùng
hoặc gút). Khả năng bệnh nhân duỗi hoặc gấp khuỷu hoàn toàn được giúp loại trừ
những nguyên nhân bên trong khớp làm đau khuỷu.
Giảm tầm vận động
Những bệnh nhân với những bệnh lý nằm bên trong khớp khuỷu thỉnh
thoảng than phiền về sưng cũng như là đau khớp khuỷu. Tuy nhiên, những triệu
chứng này hầu như luôn luôn bị quên lãng bởi than phiền phổ biến hơn, đó là “tôi
không thể duỗi thẳng khuỷu của mình”. Những nguyên nhân của viêm màng hoạt
dịch bao gồm viêm khớp dạng thấp, bệnh cột sống huyết thanh âm tính, viêm khớp
phản ứng, vảy nến, hoặc bệnh viêm ruột, viêm màng hoạt dịch do lắng đọng tinh
thể như gút hoặc giả gút, và viêm khớp nhiễm trùng.
Mất vận động trơn tru của khuỷu mà không có dấu hiệu viêm thường xảy ra ở
những vận động viên, đặt biệt ở những người có động tác ném (vd: cầu thủ bóng
chày), và những vận động viên thể dục có chấn thương khớp do ném hay nhảy sào.
Những dấu hiệu này gợi ý một tình trạng hoại tử xương của xương cánh tay (viêm
sụn xương bóc tách).
Đau lan
Bệnh lý rễ cổ và vai, đặc biệt là bệnh lý gân chóp xoay, có thể đau lan tới hoặc
lan xuống dưới qua khuỷu. Đau kiểu này thường đau sâu và không ảnh hưởng bởi
vận động khuỷu. Những chẩn đoán được nghĩ tới khi có những triệu chứng phối
hợp (tê, dị cảm), không có đau khi sờ nắn tại chỗ hoặc sưng nề. Và các triệu chứng
nặng lên khi vận động vai và cổ.
Một ví dụ minh họa, thoát vị đĩa đệm sang bên tại vị trí C6-7 gây đau ở xương
bả vai, vùng ngực, mặt trong nách và lan tới mặt sau ngoài cánh tay, mặt sau khuỷu
và cẳng tay, ngón trỏ và ngón giữa hay tất cả các ngón tay, và làm giảm cảm giác ở
những vùng này. Ngoài ra, duỗi cẳng tay, đôi khi cổ tay yếu và làm giảm hoặc mất
phản xạ cơ tam đầu.
BỆNH SỬ
Hỏi bệnh sử cẩn thận nên được thực hiện trước khi khám lâm sàng. Bệnh sử
nên biết cách khai thác một tình trạng cấp tính hay mãn tính, và khai thác chi tiết
cơ chế chấn thương (ví dụ, do chấn thương hoặc thứ phát sau khi làm việc quá
mức). Khởi phát của bệnh hay những can thiệp trước đó (ví dụ: phẫu thuật và tiêm)
có thể cung cấp những dữ liệu quan trọng để tìm ra nguyên nhân.
Quan trọng đối với chẩn đoán là ghi nhận bất kỳ tình trạng suy giảm chức
năng nào so với bình thường, bao gồm bất kỳ sự rối loạn chức năng liên quan đến
thể thao hoặc nghề nghiệp, và bất kỳ hạn chế trong hoạt động hàng ngày.
KHÁM LÂM SÀNG
Các kỹ thuật thường được sử dụng để khám khuỷu tay còn thiếu. Tuy nhiên,
quan sát và kinh nghiệm lâm sàng cho thấy khám cẩn thận có thể giúp đưa ra chẩn
đoán đúng. Để khám khuỷu tay hiệu quả cần tiếp cận một cách có hệ thống, bao
gồm nhìn, sờ nắn, đánh giá tầm vận động, khám cảm giác và vận động, các nghiệm
pháp đặc biệt và khám các vùng liên quan. Khuỷu tay cũng như phần còn lại của
tay liên quan và cột sống cổ nên được khám kỹ. Các dấu hiệu giúp chẩn đoán được
mô tả trong Bảng 3.
Nhìn
Khám khuỷu tay bắt đầu với việc nhìn một cách có hệ thống. Nhìn xem khớp
có sưng, thay đổi màu sắc da, teo cơ (hình 4), giảm sắc tố và mất đối xứng. Góc
mang (góc giữa xương cánh tay và xương trụ; bình thường là 5 đến 15 độ) nên
được lưu ý, chú ý đến bất kỳ biến dạng gập góc và mất cân xứng.
Kiểm tra túi hoạt dịch khuỷu tay có sưng và dày không. Nếu thấy túi hoạt dịch
tăng kích thước, gấp khuỷu 90 độ và sờ nắn xem có dấu hiệu của sưng căng do
nang hoạt dịch không (hình 5). Dấu hiệu sưng và đỏ cấp tính của túi hoạt dịch nghĩ
tới viêm túi hoạt dịch cấp tính, trong khi sưng và dày của túi hoạt dịch liên quan tới
đợt cấp của viêm túi hoạt dịch mãn tính, và nếu túi hoạt dịch chỉ dày đơn thuần sẽ
gợi ý tình trạng viêm mãn tính.
Chọc hút dịch nên được thực hiện để xác định nguyên nhân cơ bản của sưng
nếu có đau, viêm tại chổ, hoặc nếu bệnh nhân bị sốt.
Sờ nắn
Sờ nắn khớp quay cánh tay để xác định xem có tràn dịch hoặc đau tại chổ.
Mỏm trên lồi cầu trong và ngoài được sờ nắn khi khuỷu gấp 90 độ để tìm điểm đau
(hình 6 và 7). Đau tại chổ là đặc điểm nổi bật của viêm mỏm trên lồi cầu trong và
ngoài tương ứng. Bệnh nhân bị đau ở vị trí này nên tiếp tục được thực hiện các
nghiệm pháp để xác định bệnh sẽ được trình bày bên dưới.
Mặc dù không thể sờ thấy trực tiếp, các vị trí thông thường của dây chằng bên
trong và ngoài được sờ nắn tìm điểm đau ở những bệnh nhân, đặc biệt là các vận
động viên thực hiện động tác ném, nghi ngờ có tổn thương dây chằng.
Điểm bám của gân tam đầu và mỏm khuỷu được sờ nắn tìm điểm đau, đặc biệt
ở những bệnh nhân đau sau khuỷu.
Bảng 3: Khám khuỷu tay: các dấu hiệu và chẩn đoán
Các dấu hiệu khi khám Chẩn đoán Xác định
Ấn đau mỏm trên lồi cầu ngoài*
Đau khởi phát khi duỗi khuỷu có kháng lực #1 – Viêm Tiêm thuốc tê tại chổ tại
Đau khởi phát khi nghiêng quay cổ tay có mỏm trên lồi mỏm trên lồi cầu ngoài
kháng lực cầu ngoài (optional)
Giảm lực nắm tay
Ấn đau mỏm trên lồi cầu trong*
Đau khởi phát khi gấp khuỷu có kháng lực #2 – Viêm Tiêm thuốc tê tại chổ tại
Đau khởi phát khi nghiêng trụ cổ tay có mỏm trên lồi mỏm trên lồi cầu trong
kháng lực cầu trong (optional)
Hình 5: Khi khuỷu gấp 900, Túi hoạt dịch sờ thấy sưng, mức dộ nặng phối hợp với
phản ứng mô mềm (nóng, đỏ, cứng). trong trường hợp viêm túi hoạt dịch mạn,
thành túi dày nhiều.
Duỗi khuỷu hết mức làm giảm đáng kể thể tích trong khớp. Với tình trạng
viêm hoạt mạc trong khớp, khớp khuỷu thường ở tư thế gấp khuỷu để tăng thể tích
bên trong khớp, do đó làm giảm áp lực nội khớp và giảm cảm giác đau liên quan.
Do đó, duỗi khuỷu tay hết tầm sẽ gây đau với viêm hoạt mạc bên trong khớp
khuỷu, nhưng không đau với viêm túi hoạt dịch khuỷu.
Mất duỗi hết mức khớp khuỷu kèm cứng ở cuối tầm duỗi khuỷu nghĩ đến
tràn dịch khớp nhẹ do viêm khớp nhẹ. Mất duỗi và gấp khuỷu hết mức nghĩ tới sự
tràn dịch khớp nhiều với viêm khớp vừa đến nặng. Tràn dịch khớp liên quan đến
tình trạng viêm khác hoặc tràn máu trong khớp có thể dễ dàng được loại trừ bằng
cách ghi nhận tầm vận động khớp bình thường.
Siêu âm
Có nhiều chấn thương và tình trạng bệnh lý của khuỷu tay liên quan đến các
cấu trúc nông, siêu âm thường là một công cụ có giá trị để đánh giá đau ở khuỷu
tay. Siêu âm là một công cụ đáng tin cậy để chẩn đoán viêm mỏm trên lồi cầu
ngoài, tổn thương thường gặp nhất ở khuỷu tay. Khám trên siêu âm của khuỷu
được thực hiện chi tiết, các cấu trúc có thể kiểm tra được liệt kê bên dưới theo vị
trí:
Mặt trước khuỷu – Cơ cánh tay và cánh tay quay, đầu dưới gân nhị đầu,
thần kinh quay và giữa, động mạch cánh tay và bao khớp trước.
Mặt trong khuỷu – gân gấp chung, dây chằng bên trụ.
Mặt sau khuỷu – Khớp khuỷu ở phía sau, điểm bám gân tam đầu, túi hoạt
dịch mỏm khuỷu, ống khuỷu và thần kinh trụ.
Mặt ngoài khuỷu – gân duỗi chung, khớp cánh tay - quay và chỏm quay.
CÁC TEST CHUYÊN BIỆT
Một số xét nghiệm giúp xác nhận chẩn đoán ở những bệnh nhân còn nghi
ngờ chẩn đoán dựa trên những dấu hiệu trên.
Chọc hút túi hoạt dịch khuỷu tay
Khi túi hoạt dịch bị tràn dịch, có thể phát hiện được bởi sờ nắn, chọc hút
dịch nên được thực hiện nếu có đau, viêm tại chổ và sốt (Hình 11). Dịch hút ra nên
được nhộm Gram và nuôi cấy vi khuẩn. Số lượng bạch cầu và sự hiện diện của tinh
thể trong dịch cũng nên được lưu ý.
Bạch cầu trên 1000/mm3 gợi ý tình trạng viêm do nhiễm trùng, RA hoặc gút.
Xác định có hiện diện tinh thể trong dịch giúp chẩn đoán gút và giả gút.
Hình 11: Chọc hút túi hoạt dịch
khuỷu tay. Bệnh nhân nằm
ngửa, khuỷu gấp 900 và cẳng tay
để trên ngực. sử dụng kim 16G
tiêm vào vị trí bờ dưới của túi
hoạt dịch, hướng gần như song
song với xương trụ. Có thể dùng
0.5ml Lidocaine tiêm dưới da để
giảm đau trước khi chọc hút
Điện cơ
Điện cơ và kiểm tra dẫn truyền thần kinh được áp dụng để đánh giá các trường
hợp nghi ngờ hội chứng chèn ép thần kinh. Mặc dù các xét nghiệm này có thể hỗ
trợ chẩn đoán nhưng thỉnh thoảng không nhạy.
TAKE HOME MESSAGES
Đau khuỷu tay có thể là do các bệnh lý liên quan đến chính khớp khuỷu hoặc
các cấu trúc xung quanh nó, chẳng hạn như mỏm trên lồi cầu (trong và ngoài), túi
hoạt dịch mỏm khuỷu, bám tận gân nhị đầu, thần kinh quay và trụ. Đau do lan có
thể bắt nguồn từ cổ hoặc vai.
Đau mặt ngoài khuỷu là than phiền thường gặp nhất ở khuỷu tay. Nguyên
nhân đau có thể do mỏm trên lồi cầu ngoài, khớp cánh tay quay hoặc đau lan từ nơi
khác. Đau mặt trong khuỷu thường gặp thứ hai sau đau bên ngoài khuỷu. Nguyên
nhân gây đau bên trong thường do mỏm trên lồi cầu trong hoặc thần kinh trụ đoạn
đi qua khuỷu. Bệnh nhân bị sung khuỷu thường liên quan đến viêm túi hoạt dịch
mỏm khuỷu. vận động khuỷu giới hạn nghĩ nhiều nguyên nhân bên trong khớp.
Khám khớp khuỷu tay bao gồm đo tầm vận động, nhìn và sờ các cấu trúc sau
Mỏm trên lồi cầu ngoài và các gân duỗi
Mỏm trên lồi cầu trong và gân gấp
Khớp cánh tay – quay
Túi hoạt dịch khuỷu tay
Tầm vận động khuỷu bình thường loại trừ nguyên nhân đau bên trong khuỷu.
các nghiệm pháp chuyên biệt hơn được thực hiện dựa trên bệnh sử và khám sơ bộ.
X quang khuỷu tay thường không cần thiết ở những bệnh nhân đau khuỷu
không do chấn thương. Siêu âm thường có giá trị để đánh giá khuỷu tay, cũng như
những cấu trúc nông liên quan.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Gunn CC, Milbrandt WE. Tennis elbow and the cervical spine. Can Med
Assoc J 1976;114:803.
2. Zwerus EL, Somford MP, Maissan F, et al. Physical examination of the
elbow, what is the evidence? A systematic literature review. Br J Sports Med
2018; 52:1253.
3. Appelboam A, Reuben AD, Benger JR, et al. Elbow extension test to rule
out elbow fracture: multicentre, prospective validation and observational
study of diagnostic accuracy in adults and children. BMJ 2008; 337:a2428.
4. Jie KE, van Dam LF, Verhagen TF, Hammacher ER. Extension test and
ossal point
tenderness cannot accurately exclude significant injury in acute elbow
trauma. Ann Emerg Med 2014; 64:74.
5. Behr CT, Altchek DW. The elbow. Clin Sports Med 1997; 16:681.
6. Hoppenfeld S. Physical examination of the spine and extremities, Prentice
Hall, Upper Saddl e River 1976.
7. Dawson DM. Entrapment neuropathies of the upper extremities. N Engl J
Med 1993;
329:2013.
8. Miller RG. The cubital tunnel syndrome: diagnosis and precise
localization. Ann Neurol 1979; 6:56.
9. van Saase JL, van Romunde LK, Cats A, et al. Epidemiology of
osteoarthritis: Zoetermeer survey. Comparison of radiological osteoarthritis
in a Dutch population with that in 10 other populations. Ann Rheum Dis
1989; 48:271.
10. Woods GW, Tullos HS. Elbow instability and medial epicondyle
fractures. Am J Sports Med 1977; 5:23.
11. Sachar K, Mih AD. Congenital radial head dislocations. Hand Clin 1998;
14:39.
12. Krogh TP, Fredberg U, Christensen R, et al. Ultrasonographic
assessment of tendon
thickness, Doppler activity and bony spurs of the elbow in patients with
lateral epicondylitis and healthy subjects: a reliability and agreement study.
Ultraschall Med 2013; 34:468.
13. Radunovic G, Vlad V, Micu MC, et al. Ultrasound assessment of the
elbow. Med Ultrason 2012; 14:141.
14. Field LD, Altchek DW. Elbow injuries. Clin Sports Med 1995; 14:59
TRẢ LỜI:
Câu 1: c Câu 2: c Câu 3: e Câu 4: b
Câu 5: c Câu 6: d Câu 7: c Câu 8: c
Câu 9: b