Professional Documents
Culture Documents
Câu 3: Trình bày khái niệm công tác cung ứng dịch vụ y tế, đặc điểm công tác
cung ứng dịch vụ y tế tốt?
Công tác cung ứng dịch vụ y tế
Công tác cung ứng dịch vụ y tế (DVYT) là một yếu tố rất quan trọng trong quá
trình chăm sóc sức khoẻ (CSSK). Theo WHO, cung cấp DVYT là sự kết hợp các yếu tố
đầu vào (gồm quản trị hệ thống, nhân lực, tài chính, thông tin, dược, trang thiết bị và
công nghệ) để thực hiện một loạt biện pháp can thiệp hoặc các hoạt động y tế cho cá
nhân và cho cộng đồng.
Cung cấp DVYT là chức năng chủ yếu và dễ nhận thấy nhất của Hệ thống y tế.
Toàn bộ Hệ thống y tế thường được đánh giá qua chức năng cung cấp dịch vụ, Việc
cải thiện khả năng tiếp cận, độ bao phủ và chất lượng dịch vụ phụ thuộc vào cách tổ
chức và quản lý dịch vụ và các biện pháp khuyến khích đối với các nhà cung cấp và
người sử dụng (Hình 1).
Câu 4: Vai trò của YHGĐ trong hệ thống y tế và công tác CSSK
- Hiện nay, mặc dù có những tiến bộ đáng kể trong khoa học và công
nghệ y khoa nhưng còn rất nhiều người dân trên toàn thế giới không được tiếp
cận với các DVYT. Trên thực tế còn có một số lượng lớn người dân sống hàng
ngày với các mối đe dọa bệnh tật và nguy cơ tử vong do một số bệnh có thể điều
trị hoặc phòng ngừa được.
- YHGĐ là một chuyên ngành nhấn mạnh vào công tác CSSKBĐ. Các
BSGĐ thực hành với 6 nguyên lý cơ bản của YHGĐ, trong đó lấy cá nhân làm
trung tâm, tính toàn diện, tính liên tục và tính lồng ghép giúp chuyên ngành
YHGĐ phù hợp nhất cho việc cung cấp dịch vụ CSSKBĐ tốĩ ưu.
- Các đặc trưng cơ bản và thuộc tính của BSGĐ cho phép đội ngũ BSGĐ
góp một phần đáng kể trong hệ thống CSSK nói chung, không chỉ trong công tác
cung cấp các dịch vụ sức khoẻ, mà còn có tầm ảnh hưởng đốỉ với các chính sách
y tế thông qua vai trò điều phối, phối hợp vối các chuyên ngành khác.
- BSGĐ là người cung cấp dịch vụ CSSK một cách liên tục và toàn diện
cho người dân trong cộng đồng ở mọi lứa tuổi và cho cả gia đình họ, kể cả lúc
có bệnh và lúc khoẻ mạnh.
- BSGĐ có trách nhiệm xử lý các nhu cầu sức khoẻ cũng như thiết lập và
duy trì mối quan hệ gần gũi, tin cậy với bệnh nhân và gia đình họ. BSGĐ có khả
năng chăm sóc hầu hết các nhu cầu sức khoẻ của bệnh nhân nếu vấn đề vượt
ngoài khả năng, họ có trách nhiệm lựa chọn các bác sĩ chuyên khoa khác phù
hợp, để tiếp tục phối hợp chăm sóc cho bệnh nhân. Các thầy thuốc chuyên khoa
khác sẽ phốỉ hợp vối BSGĐ cùng CSSK cho người bệnh để đạt hiệu quả điều trị
cao nhất và tiết kiệm nhất.
- BSGĐ với sự kết hợp chức năng của một bác sĩ lâm sàng vói bác sĩ dự
phòng và nhà tâm lý sẽ đáp ứng khoảng 90% các nhu cầu CSSK của người dân,
thích hợp làm việc tại các phòng khám thuộc hệ thống y tế công và tư nhân ở
mọi tuyến từ trung ương đến cơ sở (trạm y tế xã), đặc biệt là tuyến YTCS để giải
quyết các vấn đề sức khoẻ/bệnh mà người dân trong cộng đồng thường gặp, điều
trị và quản lý bệnh nhân ngoại trú.
- Khả năng tiếp cận với các dịch vụ CSSK được xác định dựa trên cách
mà các BSGĐ cung cấp các dịch vụ chăm sóc lấy cá nhân làm trung tâm tại
tuyến cơ sở. Nó được xác định bởi tính sẵn có, tính tiện lợi, gần gũi, khả năng
chi trả và khả năng chấp nhận.
- Khi bệnh nhân có thể sẵn sàng tiếp cận với các dịch vụ CSSKBĐ ở
tuyến cơ sở, họ sẽ ít có nhu cầu tìm đến các dịch vụ chăm sóc tại bệnh viện
thưòng tốn kém hơn và ít tiện lợi hơn.
- Tỷ trọng chủ yếu của hệ thống CSSK vẫn nằm ở công tác CSSKBĐ, tự
chăm sóc và CSSK ngoại trú. Các vấn đề sức khoẻ phổ biến nhất ở hầu hết các
cộng đồng nằm ngoài khả năng phát hiện, phân tích và đáp ứng bởi các hệ thống
CSSK trong bệnh viện và các trung tâm y tế chuyên sâu.
- Kinh nghiệm và chuyên môn của BSGĐ khác biệt so với các bác sĩ
thuộc những chuyên khoa khác
+ Ở bệnh viện, bệnh thì vẫn còn đó và bệnh nhân đến rồi đi. Trong thực
hành YHGĐ, bệnh nhân ở lại, còn bệnh đến rồi đi,
+ Quá trình thực hành của các BSGĐ phải đối mặt với một số lượng lớn
các vấn đề thưòng gặp trong CSSKBĐ và các BSGĐ cần lồng ghép các chăm
sóc lâm sàng, y học dự phòng và hướng dẫn tự chăm sóc bản thân.
+ Thực hành của các BSGĐ có liên quan mật thiết đến công tác đào tạo
bác sĩ và nhấn mạnh tầm quan trọng của việc huấn luyện các BSĐK trong môi
trường cộng đồng nơi mà họ sẽ gặp những bệnh nhân với những vấn đề sức
khoẻ mà các bác sĩ sẽ phải xử lý được trong tương lai thực hành của mình.
- Với vai trò của chuyên ngành YHGĐ, Tổ chức Y tế Thế giới đã nhận
định: “BSGĐ đóng một vai trò trung tâm trong việc đạt được các mục tiêu vê chất
lượng, chi phí- hiệu quả và tính công bằng trong các hệ thống CSSK”.
- Năm 2008, WHO đã tái khẳng định cam kết và kêu gọi các quốc gia
thành viên hỗ trợ sự phát triển công tác CSSKBĐ như một nền tảng để có được
hệ thống CSSK hiệu quả, toàn diện và lồng ghép, vói chuyên ngành YHGĐ là
hạt nhân của hệ thống đó.
- Việc chăm sóc liên tục mang lại nhiều hiệu quả tích cực như rút ngắn
thời gian điều trị và nằm viện, giảm được số lượng các xét nghiệm và tăng
cưòng sự tin cậy của người bệnh đối với thầy thuốc. Nhiều nghiên cứu cũng cho
thấy chảm sóc toàn diện và liên tục có liên quan với việc cải thiện kết quả đầu ra
về sức khoẻ của bệnh nhân ở tất cả mọi lứa tuổi, bao gồm cả tăng cân nặng khi
sinh, giảm tỷ lệ tử vong trẻ em, giảm số lần và thòi gian nhập viện ở người cao
tuổi và giảm chi phí cho chăm sóc y tế.
1.2 phân tích nội dung: phân tích nguyên lý chăm sóc sức khỏe phổi hợp.
- BSGĐ có thể giải quyết được nhiều vấn đề sức khoẻ khác nhau khi một đối
tượng đến gặp ở lần tiếp xúc đầu tiên, khi cần thiết, BSGĐ cần đảm bảo việc chuyển
bệnh nhân một cách hợp lý và đúng thời điểm đến các dịch vụ chăm sóc của chuyên
khoa khác. Trong những tình huống này, BSGĐ đóng vai trò là người điều phôi giống
như một nhạc trưởng trong việc CSSK.
- BSGĐ chịu trách nhiệm quản lý sức khoẻ của bệnh nhân theo thời gian, đây
chính là một chức năng quan trọng của BSGĐ trong hệ thống CSSK. Để hoàn thành
nhiệm vụ này, việc chăm sóc phối hợp sẽ giúp cải thiện được kết quả điếu trị của bệnh
nhân, làm cho nó trở thành một công cụ mạnh trong việc quản lý và điều trị bệnh tật,
đặc biệt là các bệnh lý mạn tính.
- BSGĐ ngoài việc trực tiếp CSSK cho bệnh nhân còn cần có mạng lưái những
bác sĩ chuyên khoa khác và các nguồn lực CSSK khác nếu thấy cần thiết để kết hợp
trong quá trình khám chữa bệnh tổng thể cho bệnh nhân.
- Khi một người bệnh cần đến sự chăm sóc của một số bác sĩ chuyên khoa khác
nhau người BSGĐ sẽ là ngưồi điều phối, xây dựng kế hoạch chăm sóc lồng ghép Trao
đổi các thông tin cần thiết của bệnh nhân trong quá trình chẩn đoán cũng như điều trị
bệnh giữa các bác sĩ chuyên khoa khác nhau. Nếu thiếu sự trao đổi, thiếu phối hợp sẽ
dẫn đến việc chăm sóc kém hiệu quả và tạo ra gánh nặng CSSK cho bản thân người
bệnh, gia đình và cho cả hệ thống y tế.
- Việc hiểu và sử dụng hợp lý hệ thống chuyển tuyến là một phương thức hiệu
qủa nhằm cải thiện sự phối hợp chăm sóc giữa BSGĐ và các bác sĩ chuyên khoa; giữa
các tuyến y tế khác nhau. Vận hành hệ thống chuyển tuyến hợp lý cũng giúp thúc đẩy
tính liên tục của quá trình chăm sóc bằng cách hướng dẫn bệnh nhân quay lại BSGĐ
sau khi được khám/điều trị bệnh giai đoạn nặng tại bác sĩ chuyên khoa. Hệ thống này
cũng yêu cầu bác sĩ chuyên khoa cung cấp/phản hồi cho BSGĐ các thông tin về
phương thức điều trị bệnh nhân đã được áp dụng.
- Phối hợp chăm sóc không chỉ giới hạn trong môi trường điều trị ngoại trú. Sự
cung cấp/trao đổi thông tin một cách đầy đủ về các vấn đề của bệnh nhân trong giai
đoạn nằm điều trị tại bệnh viện với BSGĐ phụ trách bệnh nhân, có thể làm giảm được
tỷ lệ tái nhập viện sau khi xuất viện.
- Để có thể phối hợp vấn đề chăm sóc một cách có hiệu quả, BSGĐ cần có mổì
liên lạc tốt với các bác sĩ chuyên khoa, nắm vững hệ thống chuyển tuyến để có thể
chuyển bệnh nhân khi cần thiết.
- BSGĐ cần biết cách lưu lại chi tiết và toàn diện các thông tin của bệnh nhân và
theo dõi liên tục theo thời gian. Mặt khác, hệ thống y tế cần có các quy định của chuyển
tuyến phù hợp.
Câu 8. nêu các nguyên lý, phân tích nguyên lý quan tâm đến dự phòng?
Các nguyên lý…
Phân tích nguyên lý quan tâm đến dự phòng:
- BSGĐ không những chỉ là bác sĩ điều trị còn phải giúp bệnh nhân phòng chống
các yếu tố nguy cơ bệnh tật. Công tác dự phòng là một vấn đề quan trọng trong thực
hành YHGĐ đốì với cá nhân và cộng đồng và là một trong những công cụ mạnh mẽ
của BSGĐ nhằm nâng cao tình trạng sức khoẻ cho người dân.
- Nguyên lý: dự phòng bệnh tật trước khi nó thật sự diễn ra và dự phòng các
biến chứng của bệnh. Mặc dù đây là một nguyên lý đơn giản nhưng việc triển khai nó
trong thực tế lại khó khăn hơn rất nhiều.
- Phòng bệnh bao gồm nhiều khía cạnh: nhận biết được những yếu tố nguy cơ
có thể làm tăng khả năng mắc bệnh, làm chậm lại các hậu quả của bệnh tật và khuyến
khích lối sống lành mạnh.
- Dự phòng cũng có nghĩa là dự đoán trước các vấn đề sẽ có thể ảnh hưởng
đến sức khỏe, tâm lý của bệnh nhân và gia đình.
- Phòng bệnh không chỉ giới hạn vào việc tư vấn mọi người không hút thuốc lá,
tích cực tập thể dục và ăn uống đúng cách,... mà còn là việc nhận ra các yếu tố nguy
cơ mắc bệnh; triển khai tiêm chủng đề phòng bệnh; sử dụng các phương tiện sàng lọc
để phát hiện bệnh sớm ngay từ giai đoạn đầu.
- Tất cả các thông tin về các yếu tô nguy cơ và dự phòng bệnh tật được thể hiện
đầy đủ trong hồ sơ bệnh án YHGĐ.
- Công tác dự phòng được chia thành các cấp (cấp 0 - cấp 4), trong đó dự phòng
cấp 4 là những hành động được thực hiện nhằm xác định các nguy cơ của việc sử
dụng quá nhiều thuốc và bảo vệ bệnh nhân khỏi những can thiệp hoặc xét nghiệm
không cần thiết
- Nguyên lý thực hành lâm sàng toàn diện và liên tục của các BSGĐ tạo điều
kiện lý tưởng giúp cung cấp đầy đủ các dịch vụ về dự phòng và đánh giá hiệu quả của
các dịch vụ này. BSGĐ có điều kiện xem xét các can thiệp dự phòng trong mỗi lần bệnh
nhân đến khám và theo dõi các biện pháp dự phòng đó.
- Áp dụng những nguyên tắc của YHGĐ trong việc cung cấp các dịch vụ lâm
sàng sẽ giúp hiện thực hóa nỗ lực của các chương trình y tế công cộng tới từng bệnh
nhân cụ thể, gia đình bệnh nhân và cả cộng đồng.
Câu 9. Nêu các nguyên lý, phân tích nguyên lý hướng gia đình?
Các nguyên lý…
Phân tích nội dung nguyên lý hướng gia đình:
- Các BSGĐ cần xem xét sự ảnh hưởng của bệnh tật mà bệnh nhân mắc đến
gia đình họ, cũng như ảnh hưỏng của gia đình đến tình trạng sức khoẻ của từng cá thể
trong gia đình. Yếu tố gia đình có nhiều ảnh hưởng rất quan trọng như:
+ Các bệnh có tính chất di truyền.
+ Ảnh hưởng đến sức khoẻ tinh thần của mỗi cá nhân trong gia đình.
+ Sự lây truyền của các bệnh truyền nhiễm.
+ Tác động và hỗ trợ đối với kết quả điều trị của bệnh nhân (ảnh hưởng đến sự
tuân thủ điều trị, phục hồi chức năng, chế độ dinh dưỡng,...).
+ Yếu tố gia đình ảnh hưởng đến cả quá trình chẩn đoán phát hiện, điều trị và
dự phòng bệnh.
- Gia đình là nơi mà người bệnh có thể nhận được sự hỗ trợ ở quá khứ, hiện tại
và tương lai. Trong quá trình thực hành lâm sàng, các BSGĐ thưòng sử dụng một số
công cụ để đánh giá tác động của gia đình như: cây phả hệ, sơ đồ gia đình chuỗi sự
kiện gia đình,... Các công cụ này giúp cho BSGĐ hiểu được và đánh giá đúng về các
ảnh hưởng của yếu tố sinh học, đời sống tâm sinh lý, mức độ chia sẻ và khả nâng hỗ
trợ của các thành viên trong gia đình, từ đó dự kiến được các khủng hoảng có thể xảy
ra trong vòng đời của gia đình.
- Việc chẩn đoán và điều trị cần phải được thực hiện trên cơ sở đánh giá các
ảnh ưởng của bệnh tật đối với các thành viên của gia đình và ảnh hưởng của gia đình
đối với bệnh tật.
- Do các BSGĐ cần cung cấp một chương trình chăm sóc toàn diện cho tất cả
các thành viên trong gia đình nên:
+ Cần nhìn nhận bệnh nhân trong bối cảnh gia đình, áp dụng cách tiếp cận gia
đình trong chăm sóc bệnh nhân.
+ Bắt đầu bằng việc phải hiểu được vai trò của gia đình trong các hành vi sức
khoẻ và hành vi có thể gây ra bệnh tật, động lực của gia đình và các giai đoạn trong
cuộc sống gia đình.
+ Sự tham gia của các thành viên gia đình từ khi một đứa trẻ được sinh ra đến
giai đoạn cuối của cuộc đòi có thể giúp cải thiện cả chất lượng chăm sóc và sự điều
chỉnh của các thành viên gia đình khi hòan cảnh thay đổi.
- BSGĐ cần có nhiều kỹ năng khác nhau để có thể cung cấp được một dịch vụ
chăm sóc định hướng gia đình có hiệu quả:
+ Khai thác tiền sử gia cfình (không chỉ đơn thuần là những thông tin liên quan
những bệnh lý di truyền).
+ Hiểu được tầm quan trọng của động lực gia đình và các giai đoạn của chu kỳ
cuộc sống
+ Kỹ năng trong việc tổ chức các cuộc họp trong gia đình để thảo luận về các
vấn đề sức khoẻ quan trọng.
+ Kỹ năng cơ bản trong việc tư vấn gia đình, giúp các gia đình trong những tính
huống căng thẳng ảnh hưởng đến sức khoẻ.
- Sức khoẻ của một cá thể là kết quả của một sự tương tác phức tạp, ảnh hưởng
không chỉ bởi các hành vi và yếu tố di truyền, mà còn chịu sự ảnh hưỏng của gia đình
và cộng đồng mà cá thể đó sinh sống và các bệnh lý cụ thể đi kèm của bản thân họ.
Bên cạnh đó, cuộc sống cá nhân và các mục tiêu về sức khoẻ của một người sẽ định
hướng việc tìm kiếm các dịch vụ CSSK của người đó.
Câu 10: Kể tên các nguyên lý cơ bản của YHGĐ, phân tích nội dung nguyên lý
hướng cộng đồng.
1. Các nguyên lý cơ bản của Y học gia đình
YHGĐ là một chuyên ngành lâm sàng, phần lớn các chuyên khoa được xác định
bằng cách loại trừ hoặc giới hạn dựa vào một số yếu tố như tuổi, giới tính hoặc cụ thể
cơ quan hay hệ thống của cơ thể. Chuyên ngành YHGĐ không có giới hạn, mà chịu
trách nhiệm CSSK tất cả các lĩnh vực và các cơ quan trong cơ thể (chuyên ngành lâm
sàng đa khoa).
2. Nội dung nguyên lý hướng cộng đồng
- Nghề nghiệp cua bệnh nhân, yếu tố văn hóa và môi trường là những khía cạnh
của cộng đồng tác động đến việc CSSK cho bệnh nhân. Sự hiểu biết về mô hình bệnh
tật trong cộng đồng sẽ ảnh hưỏng đến định hướng chẩn đoán của bác sĩ và giúp họ
đưa ra những quyết định liên quan đến việc cung ứng dịch vụ.
- Các vấn đề của bệnh nhân cần được nhìn nhận trong bối cảnh cộng đồng địa
phương nơi họ sinh sống. Các BSGĐ phải lưu ý các phong tục tập quán của cộng đồng
có ảnh hưông đến tình trạng sức khoẻ của cá nhân và cả cộng đồng cũng như mô hình
sử dụng DVYT của cộng đồng đó.
- Hầu hết các BSGĐ có có mối quan hệ mật thiết với cộng đồng nơi mà họ quản
lý và chăm sóc bệnh nhân. Các hoạt động sức khoẻ cộng đồng có thể bao gồm nhiều
hoạt động khác nhau về giáo dục, dự phòng cũng như các biện pháp can thiệp khác
chẳng hạn như: Chương trình Y tế học đưòng, Chương trình Tiêm chủng, CSSK cho
người cao tuổi,...
- Cơ cấu bệnh tật tại phòng khám của một BSGĐ sẽ thể hiện được tình trạng
sức khoẻ của người dân tại cộng đồng đó, cũng như những vấn đề liên quan đến sức
khoẻ nói chung của toàn bộ cộng đồng.
- Phương pháp tiếp cận chăm sóc ban đầu dựa trên cộng đồng giúp khuyến
khích các nhà cung cấp dịch vụ thực hiện các quan sát và sau đó tìm kiếm các cơ hội
nhằm xác định và đáp ứng với các nhu cầu sức khoẻ tại địa phương một cách có hệ
thông. Thông qua điều này, các BSGĐ sẽ có những đánh giá chính xác hơn về các tác
động của xã hội, môi trưòng và kinh tế của một cộng đồng rộng lên sức khoẻ của một
cá nhân cụ thể.
- Ngoài vai trò cung cấp thông tin hỗ trợ cho chẩn đoán, cộng đồng còn là một
trong các yếu tố trị liệu. Trong cộng đồng có thể có nhiều thành phần/tổ chức mà BSGĐ
có thể phối hợp để cung ứng dịch vụ CSSK hiệu quả cho bệnh nhân.
- Rất cần thiết cân nhắc yếu tố cộng đồng trong việc đưa ra kế hoạch điều trị và
CSSK phù hợp cho từng bệnh nhân cụ thể.
Câu 11: Phân tích tại sao y học gia đình lấy người bệnh làm trung tâm?
Y học gia đình lấy người bệnh làm trung tâm:
- Chuyên ngành YHGĐ quan tâm đến người bệnh, lấy người bệnh làm trung tâm
chứ không chỉ quan tâm đến một bệnh/vấn đề sức khoẻ cụ thể nào đó.
+ Với đặc trưng lấy người bệnh làm trung tâm, thể hiện một sự thay đổi từ việc
tập trung vào chăm sóc lâm sàng dựa trên một phương pháp tiếp cận điều trị bệnh tật
sang việc CSSK mang tính chất toàn diện cho người bệnh.
+ Y học gia đình áp dụng nguyên tắc này như một động lực thúc đẩy việc cung
cấp các dịch vụ CSSK và chất lượng của các dịch vụ này.
- Đặc tính lấy người bệnh làm trung tâm chú trọng đến các yếu tố có mối quan
hệ mật thiết với nhau trong việc chăm sóc bệnh nhân:
+ Xác định các vấn đề về bệnh lý của bệnh nhân.
+ Hiểu bệnh nhân cả chi tiết và tổng thể.
+ Tìm kiếm phương pháp điều trị hiệu quả đối với cá thể từng bệnh nhân.
+ Chú trọng lồng ghép công tác dự phòng và nâng cao sức khoe trong quá trình
CSSK.
+ Cải thiện quan hệ giữa người bệnh và bác sĩ trong quá trình quản lý sức khoẻ
liên tục.
- Sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế cũng như sự chuyển đổi mô hình bệnh tật
trên toàn cầu đã dẫn đến sự thay đổi về nhu cầu CSSK của mỗi cá nhân và cả cộng
đồng.
+ Ở những nước phát triển, việc chăm sóc các bệnh mạn tính như: đái tháo
đường, tàng huyết áp, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD), hen phế quản,... đã
chuyển từ phòng bệnh nội trú tại bệnh viện ra phòng khám ngoại trú với các phác đồ
điều trị được xây dựng nhằm phân cấp các bước/giai đoạn điều trị có sự phối hợp của
các chuyên khoa liên quan.
+ Sự ra đời của các Chương trình CSSKBĐ và chuyên ngành YHGĐ trong
những năm 1960 là một đáp ứng kịp thời của hệ thống y tế đối với sự thay đổi trong
nhu cầu CSSK của người dân trên toàn thế giới.
+ Các BSGĐ sẽ là bác sĩ lâm sàng đa khoa chủ yếu thực hành ỏ phòng khám
ngoại trú ở các tuyến y tế, đặc biệt là tuyến YTCS để giải quyết các vấn đề sức
khoẻ/bệnh tật/cấp cứu mà người dân trong cộng đồng thường gặp:
- Điều quan trọng là mỗi người bệnh đều được chăm sóc một cách toàn diện và
theo dõi bởi một bác sĩ hoặc một đội ngũ thầy thuốc ngay tại nơi cư trú.
+ Đội ngũ thầy thuốc này có thể biết chi tiết các thông tin về y khoa, xã hội, môi
trưòng sống của người bệnh, từ đó ghi nhận và cập nhật các thông tin vào hồ sơ bệnh
án lưu trữ của bệnh nhân.
+ Trong quá trình CSSK, các BSGĐ trở thành người đồng hành thân cận với
người bệnh, định hướng cho người bệnh lựa chọn DVYT phù hợp khi cần, cũng như
đảm bảo tổng thể việc quản lý và theo dõi điều trị bệnh.
- Sự khác biệt về tần suất các bệnh gặp phải đối với BSGĐ và bác sĩ chuyên
khoa sâu có sự khác nhau:
+ Các bác sĩ chuyên khoa sâu khám những bệnh nhân đã được sàng lọc trước
đó, do vậy sẽ có tiên lượng khác với những bệnh nhân đến khám tại phòng khám
BSGĐ. Giả sử một bệnh nhân đến với BSGĐ với triệu chứng đau đầu, khả năng cơn
đau này là do một khối u não là rất thấp. Ngược lại một bệnh nhân đau đầu đến khám
bác sĩ chuyên khoa phẫu thuật thần kinh thường được sàng lọc thông qua một quy
trình chuyển tuyến, khả năng cơn đau do u não sẽ cao hơn. Do đó, BSGĐ và bác sĩ
phẫu thuật thần kinh sẽ có những cách phản ứng khác nhau trước một bệnh nhân bị
đau đầu.
+ Cách thức đánh giá hợp lý của các BSGĐ và bác sĩ chuyên khoa sâu khác phụ
thuộc nhiều vào tần suất lưu hành của các bệnh lỷ trong môị trường thực hành lâm
sàng. Do đó, cần thận trọng trong việc khái quát hóa các tiêu chuẩn chất lượng từ mô
hình thực hành với chuyên môn hóa cao phục vụ cho một số lượng bệnh nhân nhất
định và một mô hình CSSKBĐ cho toàn bộ dân số trong cộng đồng.
+ Trên thực tế, cả hai phương pháp tiếp cận đều cần thiết để có thể cung cấp
được các dịch vụ CSSK có chất lượng giúp hạn chế việc chẩn đoán muộn cũng như
việc chỉ định nhiều xét nghiệm không cần thiết gây lãng phí.
+ BSGĐ cần làm việc trong mối quan hệ hợp tác với các bác sĩ chuyên ngành
khác để nâng cao hiệu quả của công tác CSSK.
Câu 12: Phân tích những ảnh hưởng của gia đình tới sức khỏe cá nhân.
Câu 13: Phân tích ảnh hưởng của gia đình tới hành vi sức khỏe và sử dụng dịch
vụ y tế
Câu 14: Phân tích ảnh hưởng hành vi hút thuốc lá và lạm dụng rượu bia đến sức
khỏe con người
2.1. Hút thuốc lá
- Hút thuốc lá là yếu tố nguy cơ của nhiều bệnh, chủ yếu là BKLN như nhiều loại
ung thư, bệnh tim mạch, tai biến mạch máu não, đái tháo đường, bệnh phổi tắc nghẽn
mãn tính và các bệnh phổi mạn tính khác. Hút thuốc lá cũng tăng nguy cơ mắc các
bệnh truyền nhiễm như lao, nhiễm khuẩn đường hô hấp.
- Hút thuốc lá là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở Việt
Nam, gây ra khoảng 40.000 ca tử vong mỗi năm, tức hơn 100 người chết do thuốc lá
mỗi ngày. Hiện nay ước tính hút thuốc lá gây ra khoảng 16,9% tổng số ca tử vong và
8,8% gánh nặng bệnh tật tính bằng DALY. Nếu không có các can thiệp khẩn cấp, có
hiệu quả, ước tính số tử vong do các bệnh liên quan đến thuốc lá mỗi năm sẽ tăng lên
tới 70.000 người vào năm 2030.
- Kết quả 1 cuộc điều tra cho thấy: có khoảng 47,4% nam giới và 1,4% nữ giới
từ 15 tuổi trở lên có hút thuốc. Tỷ lệ hút thuốc lá trong thanh thiếu niên vẫn ở mức cao,
tuổi bắt đầu hút thuốc khá sớm do thuốc lá được bán rộng rãi ở khắp nơi, dễ tiếp cận
ngay cả với trẻ em.
- Tình trạng vi phạm hút thuốc lá nơi công cộng vẫn còn diễn ra khá phổ biến,
dẫn đến tỷ lệ hút thuốc lá thụ động ở các cơ quan, công sở, địa điểm công cộng vẫn
còn cao. Có đến 73,1% người trưởng thành bị phơi nhiễm khói thuốc lá tại nhà (67,6%
trong số người không hút thuốc) và 55,9% người lao động phơi nhiễm với khói thuốc lá
tại nơi làm việc (49,0% với số người không hút thuốc). Tỷ lệ hút thuốc lá thụ động cao
nhất là ở các quán rượu/cà phê/trà với 92,6% và ở nhà hàng với 84,9%. Tỷ lệ này ở
các trường đại học và các công sở lần lượt là 54,3% và 38,7%.
- Luật phòng chống tác hại của thuốc lá đã được Quốc hội thông qua năm 2012
và bắt đầu có hiệu lực từ 01/05/2013. Mặc dù vậy, ý thức của người dân về tác hại của
thuốc lá và ý thức chấp hành luật còn hạn chế, các chế tài xử phạt chưa cụ thể và việc
thực hiện xử phạt chưa nghiêm nên việc vi phạm các quy định của luật phòng chống
tác hại của thuốc lá về kinh doanh, buôn bán thuốc lá, hút thuốc lá nơi công cộng và
các địa điểm cấm vẫn diễn ra phổ biến.
- Việc sàng lọc người nghiện thuốc lá cũng chưa được đưa vào hoạt động khám
chữa bệnh thường quy ở tuyến YTCS nói chung và BSGĐ nói riêng.
2.2. Lạm dụng rượu bia
- Lạm dụng rượu, bia cũng liên quan đến nhiều BKLN như ung thư đường tiêu
hoá, hệ tiết niệu, gan, vú, bệnh tim mạch, tai biến mạch máu não, xơ gan, đái tháo
đường, động kinh và rối loạn tâm thần liên quan đến rượu. Đồng thời sử dụng rượu bia
cũng có liên quan với bệnh lao, nhiễm khuẩn đường hô hấp dưới, ngộ độc, tai nạn giao
thông và nhiều loại chấn thương, bạo lực.
- Khoảng 70% nam giới Việt Nam có sử dụng rượu bia và đồ uống có cồn. Tỷ lệ
sử dụng rượu bia ở tuổi vị thành niên, thanh niên và phụ nữ đều gia tăng nhanh.
- Mức tiêu thụ rượu bia bình quân đầu người tăng nhanh, lên đến 6,6 lít cồn
nguyên chất/người trên 15 tuổi/năm trong giai đoạn 2008-2010, cao gấp đôi so với giai
đoạn 2003-2005. Trong số người 15 tuổi trở lên có tiêu thụ rượu bia, trung bình mỗi
người tiêu thụ 17,2 lít cồn nguyên chất mỗi năm (nam 17,4 lít, nữ 0,9 lít). Năm 2013,
Việt Nam tiêu thụ khoảng 3 tỷ lít bia, bình quân 35,6 lít/ người với tổng chi phí cho tiêu
thụ bia gần 3 tỷ USD, chiếm khoảng 1,8% GDP.
- Tính trung bình, cứ bốn người đàn ông Việt Nam thì có một người sử dụng
rượu bia và chất có cồn ở mức có hại. Sử dụng rượu bia gây ra 5,7% tổng số ca tử
vong và 4,7% tổng gánh nặng bệnh tật tính bằng DALY của Việt Nam năm 2010 với
khoảng ¾ gánh nặng bệnh tật liên quan đến rượu bia là do các BKLN như xơ gan, tai
biến mạch máu não, ung thư gan, rối loạn tâm thần,…
- Năm 2012, ước tính có khoảng 71,7% xơ gan ở nam và 33,7% xơ gan ở nữ có
liên quan đến rượu bia. Con số tương ứng cho tai nạn là 36,2% ở nam và 0,7% ở nữ.
Tỷ lệ có các rối loạn do sử dụng rượu, bia là 4,7% (8,7% ở nam và 0,9% ở nữ), trong
đó lệ thuộc rượu bia là 2,9% (5,9% ở nam và 0,1% ở nữ).
Câu 15: Phân tích ảnh hưởng của chế độ ăn uống không lành mạnh, ít hoạt động
thể lực tới sức khỏe con người
2.3. Chế độ ăn không lành mạnh
- Ngoài dinh dưỡng và vi chất, chế độ ăn cũng có tác động tới sức khoẻ:
+ Chế độ ăn đủ rau quả, ngũ cốc nguyên hạt, các loại hạt như hạt điều, lạc,
vừng, sữa, chất xơ, calci, acid béo omega 3 từ hải sản và acid béo không bão hoà đã
có lợi cho sức khoẻ.
+ Ngược lại chế độ ăn thừa thịt đỏ (như thịt bò), thịt qua chế biến (như chả, giò),
đồ uống có đường và ga, muối, acid béo chuyển hoá gây nguy cơ cho sức khỏe.
+ Chế độ ăn uống hợp lý có thể phòng được: nhiều loại ung thư đường tiêu hoá,
bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính, tai biến mạch máu não, bệnh suy thận, đái tháo
đường...
+ Nghiên cứu gánh nặng bệnh tật toàn cầu ước tính có khoảng 31,3% tổng số tử
vong và 25,3% gánh nặng bệnh tật tính bằng DALY có liên quan đến chế độ ăn không
hợp lý.
- Hiện nay ở Việt Nam, chế độ ăn của người dân đã có những cải thiện, có đủ
dinh dưỡng và trở nên cân đối hơn, nhưng vẫn chưa bảo đảm lành mạnh:
+ Vẫn còn tình trạng tiêu thụ nhiều thịt, thực phẩm có nhiều muối, đường...trong
khi tiêu thụ chưa đủ lượng hải sản, hoa quả và rau xanh theo khuyến cáo.
+ Tiêu thụ quá nhiều thực phẩm, đặc biệt đồ uống ngọt, thức ăn có nhiều đường,
nhiều chất béo, thức ăn nhanh... dẫn đến hậu quả thừa cân, béo phì và là yếu tố nguy
cơ của nhiều BKLN như tăng huyết áp, đái tháo đường, ung thư.
- Tiêu thụ quá nhiều muối có thể dẫn đến (hoặc góp phần vào) bệnh tăng huyết
áp và làm tăng đáng kể nguy cơ mắc bệnh tim mạch và đột quỵ.
+ Trung bình mỗi người Việt Nam tiêu thụ từ 12-15 gam muối mỗi ngày, cao hơn
rất nhiều so với khuyến cáo của WHO (ít hơn 5 gam một người, tương đương một thìa
cà phê, một ngày).
+ Gần 60% người dân tiêu thụ lượng muối cao gấp 2 lần lượng muối được
khuyến cáo khuyên dùng hàng ngày.
- Gánh nặng bệnh tật do chế độ ăn không hợp lý ở Việt Nam năm 2010 ước tính
là 23% tổng số tử vong và 9,5% tổng số DALY.
2.4. Lối sống ít hoạt động thể lực
- Hoạt động thể lực có liên quan chặt chẽ đến tình trạng sức khoẻ.
+ Ít hoạt động thể lực là yếu tố nguy cơ gây ra chứng loãng xương, viêm xương
khớp, đau lưng, béo phì, trầm cảm, lo âu, căng thẳng, ung thư tuyến tiền liệt và ung thư
trực tràng.
+ Ít hoạt động thể lực gây ra 2,5% tổng số ca tử vong và 2,5% gánh nặng bệnh
tật tính bằng DALY năm 2010.
+ Đặc biệt, các bệnh tim mạch, đái tháo đường và ung thư là các vấn đề sức
khoẻ chính liên quan đến tình trạng ít vận động.
- Ở Việt Nam, tỷ lệ luyện tập thể dục thể thao thường xuyên đã tăng dần qua
thời gian nhưng tỷ lệ này vẫn còn thấp, chỉ đạt 27% năm 2013.
+ Tỷ lệ gia đình luyện tập thể dục thể thao thấp hơn, chỉ 18,6%. Kết quả điều tra
năm 2009-2010 cho thấy có đến 28,7% người trưởng thành trong độ tuổi 25 - 64 thiếu
vận động thể lực.
+ Hiện nay, các thành phố lớn còn thiếu không gian cho người dân hoạt động
thể lực như đi bộ, chơi cầu lông, đá bóng,…
+ Tình trạng ô nhiễm không khí trong thành phố cũng cản trở việc hoạt động thể
lực. Điều tra gần đây cho thấy có đến 34% người dân Hà Nội, Huế, TP Hồ Chí Minh
không tham gia bất kỳ hoạt động thể thao nào
Câu 16: Phân tích ảnh hưởng của thu nhập, nghèo đói, công bằng, và ảnh hưởng
của trình độ học vấn đến sức khỏe con người?
1. Thu nhập, nghèo đói và công bằng
- Thu nhập có lẽ là yếu tố kinh tế - xã hội tác động quan trọng nhất đến sức
khoẻ. Mức thu nhập quyết định điều kiện sống tổng thể, ảnh hưởng đến chức năng tâm
lý và liên quan tới các hành vi lối sống:
+ Thu nhập cũng quyết định chất lượng của các yếu tố xã hội khác ảnh hưởng
đến sức khoẻ như việc bảo đảm lương thực, thực phẩm, nhà ở và các điều kiện tiên
quyết cơ bản khác cho sức khoẻ.
+ Sức khoẻ của mỗi người có thể bị ảnh hưởng bởi thu nhập thực tế của bản
thân và gia đình họ. Thu nhập thấp dẫn đến khó khăn thiếu thốn trong cuộc sống vật
chất và tinh thần. Thu nhập càng thấp, càng khó có đủ khả năng chi trả cho các nhu
cầu thiết yếu của cuộc sống như thực phẩm, quần áo, nhà ở.
+ Thiếu thốn cũng khiến cho các hộ gia đình khó hoà nhập với xã hội do không
có khả năng tham gia vào các hoạt động văn hoá, giáo dục và giải trí.
+ Tất cả những điều này ảnh hưởng đến sức khoẻ nói chung và chất lượng tổng
thể của cuộc sống hàng ngày nói riêng.
- Ở cấp độ cộng đồng, thu nhập, chi tiêu, tình trạng đói nghèo và bất bình đẳng
mức sống dân cư là những yếu tố kinh tế quan trọng nhất ảnh hưởng đến sức khoẻ và
CSSK.
+ Tình trạng sức khoẻ của cả một cộng đồng có liên quan với thu nhập bình
quân đầu người của các hộ gia đình trong cộng đồng. Nhiều nghiên cứu cho thấy mối
liên quan nghịch chiều giữa tỷ suất tử vong ở trẻ em dưới 1 tuổi và mức thu nhập bình
quân đầu người.
+ Sức khoẻ của cộng đồng còn chịu ảnh hưởng nhiều hơn bởi phương thức
phân phối thu nhập trong cộng đồng đó. Phân phối thu nhập công bằng được chứng
minh là một trong những chỉ số dự báo quan trọng nhất cho một xã hội có các chỉ số
sức khoẻ cơ bản tốt.
- Trong những năm gần đây, thu nhập bình quân đầu người ở nước ta đã tăng
lên đáng kể. Tuy nhiên, chênh lệch trong thu nhập bình quân đầu người giữa các khu
vực, vùng miền và các nhóm đối tượng vẫn chưa được cải thiện:
+ Thu nhập bình quân đầu người ở khu vực thành thị vẫn gần gấp đôi so với khu
vực nông thôn, vùng giàu nhất vẫn gấp 2,5 lần so với vùng nghèo nhất và ở 20% nhóm
người giàu nhất vẫn gấp 9,4 lần nhóm người nghèo nhất.
+ Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm dần nhưng khoảng cách giữa các vùng miền vẫn còn
rất lớn.
- Trong quá trình tư vấn và điều trị cho bệnh nhân, BSGĐ cần quan tâm đến vấn
đề thu nhập và đời sống kinh tế của bệnh nhân để thảo luận và đề xuất phương án điều
trị phù hợp nhất, tối ưu nhất với hoàn cảnh cụ thể của bệnh nhân và gia đình họ.
2. Trình độ học vấn
- Trình độ học vấn là một yếu tố xã hội quan trọng tác động đến sức khoẻ. Thông
thường những người có học vấn cao hơn sẽ có tình trạng sức khoẻ tốt hơn. Có nhiều lý
do dẫn đến tình trạng này:
+ Trình độ học vấn thường có mối liên quan với nhiều yếu tố khác ảnh hưởng
đến sức khoẻ như thu nhập, khả năng tìm kiếm việc làm và môi trường làm việc.
Những người có học vấn tốt hơn dễ tìm được công việc ổn định hơn, có môi trường
làm việc tốt hơn và có thu nhập cao hơn. Bởi vậy, những người có học vấn cao hơn
thường có địa vị xã hội cao hơn và có khả năng tiếp cận tốt hơn với các nguồn lực kinh
tế xã hội khác.
+ Những người có học vấn cao hơn thường có nhiều cơ hội hơn để được tiếp
cận với các chương trình đào tạo mới khi có sự thay đổi công việc đột ngột.
+ Những người có học vấn cao cũng có khả năng phân tích và thích ứng tốt hơn
với những thay đổi về chính trị, xã hội.
+ Trình độ học vấn cao hơn giúp đối tượng có thể nhận thức được những hành
vi nào có lợi, hành vi nào có hại cho sức khoẻ, dễ tiếp thu các thông điệp truyền thông
giáo dục sức khoẻ và nhận thức được sự cần thiết cũng như cách thức thay đổi các
hành vi cá nhân có hại cho sức khoẻ.
+ Những người có học vấn cao có khả năng và nguồn lực tốt hơn để duy trì các
hành vi có lợi cho sức khoẻ.
- Ở Việt Nam, trình độ học vấn của người dân tương đối cao so với điều kiện
kinh tế. Số liệu điều tra cho thấy, hiện nay tỷ lệ dân số 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết
đạt trên 95%.
+ Tuy nhiên, tỷ lệ này có sự chênh lệch đáng kể giữa khu vực thành thị và nông
thôn, giữa vùng đồng bằng và miền núi.
+ Tỷ lệ dân số đạt được trình độ học vấn cao (trên đại học) còn thấp.
+ Trình độ học vấn của người dân được cải thiện sẽ giúp nâng cao nhận thức về
dự phòng bệnh tật, nâng cao sức khoẻ, cải thiện việc tiếp cận DVYT.
Câu 17: Phân tích ảnh hưởng của việc làm và ảnh hưởng của lương thực, thực
phẩm đến sức khỏe con người?
1. Việc làm
- Việc làm giúp tạo thu nhập, khẳng định giá trị bản thân và giúp cho mỗi cá nhân
tổ chức cuộc sống hàng ngày của mình.
+ Sống trong tình trạng thiếu việc làm, lo sợ mất việc hoặc thất nghiệp gây ra
nhiều ảnh hưởng xấu cho sức khoẻ của bản thân cũng như các thành viên khác trong
hộ gia đình.
+ Thất nghiệp dẫn tới khủng hoảng tài chính, nợ nần, thiếu thốn về vật chất,
thiếu dinh dưỡng... dễ mắc bệnh cả về thể chất và tâm thần.
+ Mất việc làm cũng là một căng thẳng tâm lý, giảm lòng tự trọng của bản thân
và gia tăng sự lo lắng.
+ Thất nghiệp dễ nảy sinh các hành vi ứng phó có hại cho sức khoẻ như sử
dụng thuốc lá, rượu, bia và ma tuý.
+ Thiếu công ăn việc làm có thể dẫn đến những vấn đề sức khoẻ về thể chất
cũng như tinh thần như trầm cảm, lo âu và gia tăng tỷ lệ tự tử.
- Tỷ lệ thất nghiệp là một chỉ báo quan trọng của nền kinh tế và có ảnh hưởng
đến tình trạng sức khoẻ và chăm sóc y tế.
+ Giải quyết tình trạng thất nghiệp, tạo công ăn việc làm ổn định cho mỗi cá nhân
là mối quan tâm chung của mọi xã hội hiện đại.
+ Tỷ lệ thất nghiệp ở đối tượng thanh niên thường cao hơn so với tỷ lệ thất
nghiệp chung trong độ tuổi lao động.
+ Ngoài số lượng người trong độ tuổi lao động thất nghiệp, còn có một tỷ lệ gần
tương đương những người trong độ tuổi này bị thiếu việc làm.
+ Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị thường cao hơn ở nông thôn trong khi tỷ lệ thiếu
việc làm ở nông thôn lại cao hơn so với thành thị.
2. Lương thực và thực phẩm
- Lương thực và thực phẩm là những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống con người
đồng thời cũng là một yếu tố quan trọng tác động đến sức khoẻ.
+ An ninh lương thực là vấn đề mang tính toàn cầu, cần phải được quan tâm ở
tất cả các cấp độ cá nhân, gia đình, cộng đồng, quốc gia và toàn thế giới.
+ Theo Tổ chức Nông Lương thế giới (FAO) thì an ninh lương thực là “mọi
người có quyền tiếp cận các thực phẩm một cách an toàn, bổ dưỡng, đầy đủ mọi lúc
mọi nơi để duy trì cuộc sống khoẻ mạnh và năng động”.
+ An ninh lương thực được xét đến dưới 4 góc độ: sự sẵn có lương thực, tiếp
cận được với lương thực, ổn định lương thực và tiêu thụ lương thực.
- Mất an ninh lương thực là một rào cản cho việc bảo đảm một chế độ ăn đầy đủ
về số lượng và cân đối về chất lượng.
+ Những hộ gia đình thiếu ăn ít có cơ hội tiêu thụ đầy đủ hoa quả, thịt sữa và
vitamin hơn so với các hộ gia đình khác.
+ Thiếu hụt về chế độ ăn dễ dẫn đến tăng nguy cơ mắc các bệnh mạn tính
không lây và gặp khó khăn trong việc kiểm soát các bệnh này.
+ Các bệnh về tim mạch, tăng huyết áp, đái tháo đường và dị ứng với thức ăn
đều phổ biến hơn trong các hộ gia đình thiếu ăn.
+ Thiếu lương thực, thực phẩm cũng gây nên tình trạng căng thẳng và cảm giác
cuộc sống không chắc chắn, thiếu an toàn, từ đó dẫn đến nhiều nguy cơ cho sức khoẻ.
+ Những hộ gia đình thiếu ăn, con cái thường có nguy cơ cao bị suy dinh dưỡng.
Tình trạng suy dinh dưỡng trong thời thơ ấu có ảnh hưởng lâu dài lên sự phát triển thể
chất và tâm sinh lý của trẻ về lâu dài.
- Tình trạng thiếu lương thực, thực phẩm thường đi kèm với các yếu tố tác động
đến sức khoẻ khác như thu nhập thấp, nhà không đảm bảo vệ sinh,…làm gia tăng tác
động tiêu cực đến sức khoẻ.
+ Ở Việt Nam, tỷ lệ hộ thiếu đói tính theo chuẩn về lương thực, thực phẩm đã
giảm nhiều trong những năm gần đây. Tuy nhiên, tỷ lệ này vẫn còn cao ở các khu vực
miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
+ BSGĐ cần quan tâm một cách toàn diện đến các yếu tố này của mỗi người,
ngay từ khi mới chào đời để từ đó có các biện pháp tư vấn, điều trị cho phù hợp cho
từng bối cảnh cụ thể.
- Trong thực hành CSSKBĐ, BSGĐ cần quan tâm đến học vấn của khách hàng
để từ đó lựa chọn phương thức và nội dung tư vấn, truyền thông giáo dục sức khoẻ
phù hợp.
+ Những bệnh nhân có trình độ học vấn khác nhau, BSGĐ cần lựa chọn hình
thức phù hợp cho việc hướng dẫn sử dụng thuốc và các biện pháp điều trị, chăm sóc,
nuôi dưỡng.
+ Mối liên hệ chặt chẽ với bệnh nhân và gia đình bệnh nhân cho phép BSGĐ có
lợi thế hơn so với bác sĩ thuộc các chuyên ngành khác trong việc nắm rõ thông tin về
học vấn của các đối tượng khách hàng.
Câu 18: Phân tích ảnh hưởng của nhà ở, điều kiện vệ sinh; ảnh hưởng của môi
trường làm việc và ảnh hưởng của mạng lưới hỗ trợ xã hội đến sức khỏe con
người?
1. Nhà ở và điều kiện vệ sinh
- Nhà ở an toàn, vệ sinh là điều kiện tối cần thiết cho một cuộc sống khoẻ mạnh.
Sống trong một ngôi nhà không an toàn, không đảm bảo vệ sinh và vượt quá khả năng
chi trả tạo nên nguy cơ cho rất nhiều vấn đề sức khoẻ khác nhau.
+ Nhà ở chật chội ẩm thấp là môi trường thuận lợi cho việc lan truyền các bệnh
về hô hấp. Thiếu cung cấp nước sạch và hố xí hợp vệ sinh tạo điều kiện phát sinh các
bệnh truyền nhiễm lây qua đường tiêu hoá.
+ Những người vô gia cư thường phải chịu rất nhiều tác động tiêu cực của một
loạt các vấn đề sức khoẻ khác nhau, nguy cơ chết sớm ở những người vô gia cư ở
Canada cao hơn từ 8-10 lần so với cộng đồng chung.
+ Nhà ở là một yếu tố để tự thể hiện và khẳng định giá trị bản thân. Sống trong
điều kiện nhà ở tồi tàn gây nên sự căng thẳng và dễ phát sinh các hành vi ứng phó
không tốt cho sức khoẻ như lạm dụng rượu, bia, ma tuý...
+ Tuy nhiên chi phí quá nhiều cho nhà ở có thể làm giảm nguồn lực cho các nhu
cầu thiết yếu khác như: thực phẩm, quần áo, giáo dục và y tế và qua đó cũng không có
lợi cho sức khoẻ.
- Gánh nặng bệnh tật liên quan tới thiếu nước sạch và hố xí hợp vệ sinh ở Việt
Nam ước tính thấp, chỉ chiếm 0,2% tổng số tử vong và 0,4% DALY gây ra bởi các yếu
tố nguy cơ này.
2. Môi trường làm việc
- Điều kiện môi trường làm việc cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến
sức khoẻ bởi chúng ta dành khá nhiều thời gian tại nơi làm việc.
+ Những người dễ bị tổn thương về sức khoẻ do trình độ học vấn và thu nhập
thấp cũng chính là những người dễ bị các tác động tiêu cực của môi trường làm việc.
+ Một loạt các vấn đề tại nơi làm việc có thể tác động đến sức khoẻ như: vấn đề
an toàn, điều kiện cơ sở vật chất, áp lực công việc, giờ làm việc và cơ hội thể hiện,
phát triển bản thân...
+ Những người làm việc trong môi trường căng thẳng thường dễ bị mắc các
bệnh tăng huyết áp, tim mạch, trầm cảm và lo âu.
+ Những người làm việc trong điều kiện luôn cho rằng những nỗ lực của bản
thân không được đền đáp xứng đáng cũng dễ dẫn đến một loạt các vấn đề phiền não
cả về thể chất và tinh thần như suy sụp, mặc cảm.
- Hơn 80% trong tổng số 3 tỷ người lao động trên thế giới đang phải sống và làm
việc trong điều kiện không được tiếp cận DVYT lao động cơ bản. Tại Việt Nam bên
cạnh những thành tựu to lớn về phát triển kinh tế - xã hội, nước ta đang phải đối mặt
với nhiều thách thức về an toàn và vệ sinh lao động:
+ Trong quá trình công nghiệp hoá đã xuất hiện nhiều nguy cơ và rủi ro mới và
phát sinh nhiều nhóm bệnh nghề nghiệp mới, nhất là các bệnh do căng thẳng nghề
nghiệp và các yếu tố tâm lý xã hội.
+ Cần củng cố hệ thống DVYT sức khoẻ nghề nghiệp và môi trường lao động,
nhất là ở các doanh nghiệp nhỏ, khu vực nông nghiệp, làng nghề thủ công.
+ BSGĐ cần phải quan tâm hơn đến yếu tố bệnh nghề nghiệp trong thực hành
CSSKBĐ.
3. Mạng lưới hỗ trợ xã hội
- Mạng lưới hỗ trợ xã hội bao gồm một hệ thống các lợi ích, các chương trình,
các trợ giúp có thể giúp đỡ, bảo vệ mọi người trước những bước ngoặt, những thay đổi
trong cuộc sống có thể ảnh hưởng đến sức khoẻ của họ.
+ Những thay đổi của cuộc sống có thể bao gồm các thay đổi bình thường trong
vòng đời như: giai đoạn mang thai, sinh con, nuôi dạy con cái, giáo dục và đào tạo
nghề, tìm việc, nghỉ hưu,...
+ Những thay đổi này cũng có thể bất thường, không lường trước được như: gia
đình tan vỡ, thất nghiệp, ốm đau, tàn tật.
+ Những sự kiện này đe doạ đến sức khoẻ do tạo nên thay đổi về thu nhập, bất
ổn về kinh tế và gia tăng tình trạng căng thẳng về tâm lý, vốn là những yếu tố tác động
quan trọng đến sức khoẻ.
+ Những sự kiện bất ổn này thường là những chỉ báo quan trọng cho khả năng
lâm vào tình trạng đói nghèo.
- Xã hội phát triển thường xây dựng một hệ thống phúc lợi, an sinh xã hội cho
phép bảo vệ và hỗ trợ công dân của mình đối phó với những biến cố trong cuộc sống
như: hệ thống bảo hiểm thất nghiệp, phụ cấp nuôi dạy trẻ em, bảo hiểm y tế, phụ cấp
người già...
+ Một mạng lưới hỗ trợ xã hội hoạt động tốt không chỉ đơn thuần cung cấp các
lợi ích về tài chính mà còn phải bao gồm các dịch vụ như: tư vấn, đào tạo việc làm và
các dịch vụ cộng đồng khác kể cả chăm sóc y tế.
+ Trên quan điểm chăm sóc toàn diện, liên tục và phối hợp, lồng ghép, BSGĐ
cần tìm hiểu đầy đủ các sự kiện xảy ra có liên quan đến tình trạng bệnh tật của bệnh
nhân để có sự chia sẻ, có biện pháp tư vấn, điều trị phù hợp và phối hợp chặt chẽ với
mạng lưới CSSK khác tại cộng đồng cũng như các mạng lưới hỗ trợ khác để giúp bệnh
nhân có được sự chăm sóc toàn diện.
Câu 19:Trình bày nguyên tắc chăm sóc sức khỏe dự phòng(nguyên tắc
RISE) Nguyên tắc CSSK dự phòng (Nguyên tắc RISE)
- CSSK dự phòng hay chăm sóc “khoẻ mạnh” đặt niềm tin vững chắc vào người bệnh.
+ BSGĐ phải khai thác tiền sử gia đình, tiền sử cá nhân, bệnh sử, sở thích, thói
quen..., giúp đối tượng nhận ra các yếu tố nguy cơ và có kế hoạch giảm bớt, hạn chế
tiếp xúc, theo dõi tác hại của các yếu tố nguy cơ này.
+ Thực hành CSSK dự phòng của BSGĐ hiệu quả bao gồm việc làm quen với các
hướng dẫn chung, hiểu biết cá nhân về người bệnh và áp dụng kiến thức một cách
hiệu quả phù hợp cho từng cá nhân, từng gia đình và từng cộng đồng.
+ Thực hành CSSK dự phòng trong YHGĐ đòi hỏi bác sĩ phải dành nhiều thời gian
giáo dục và tư vấn bệnh nhân, trên cơ sở sử dụng hệ thống thông tin, biểu đồ, cảnh
báo. dự phòng có định hướng.
- Để thực hiện CSSK dự phòng có hiệu quả trong thực tiễn, BSGĐ cần phân tích và
hành động một cách có hệ thống theo các bước sau:
+ R (Risk): Xác định yếu tố nguy cơ - Hỏi tiền sử, lịch sử bệnh.
+ I (Immunization): Tạo miễn dịch chủ động - Tiêm chủng vaccine.
+ S (screening): Khám sàng lọc - Thăm dò cận lâm sàng.
+ E (Education): Giáo dục sức khoẻ - Tiếp cận cá nhân, gia đình, cộng đồng. - Xác
định yếu tố nguy cơ gắn liền với bệnh sử, tiền sử gia đình, tiêm chủng trong các lần
khám cho người khoẻ hay cấp cứu. Các số liệu về bệnh sử thích hợp cho dự phòng
bao gồm:
+ Cây phả hệ sức khoẻ gia đình làm đầy đủ về những bệnh phổ biến và bệnh ít
gặp, các bệnh có yếu tố di truyền, có tính chất gia đình.
+ Tiền sử bệnh dị ứng, nhập viện, và các đợt ốm trước của các thành viên trong gia
đình. + Thông tin về nghề nghiệp, nơi làm việc và điều kiện lao động, điều kiện sống,
nhà ở. + Các thói quen như hút thuốc lá, tập thể dục, hoạt động tình dục và sử dụng
thuốc, giải trí, thư giãn.
+ Thời gian và kết quả của các thăm khám lâm sàng, cận lâm sàng các biện pháp dự
phòng lần trước.
- Khám thực thể, khám sàng lọc để phát hiện sớm bệnh, ở mỗi lứa tuổi có một số các
vấn đề ưu tiên cao nhất về mặt dịch tễ học. Trước khi bắt đầu kiểm tra thực thể
BSGĐ cần đặt câu hỏi, “Những bệnh phổ biến nào có thể được phát hiện sớm bằng
khám thực thể bệnh nhân này và bằng cách nào?”.
- GDSK, cần xác định các ưu tiên dự phòng với các nguy cơ trước mắt và nguy cơ lâu
dài. Để lựa chọn các chủ đề quan trọng nhất cho tư vấn dự phòng trong một cuộc
thăm khám, BSGĐ cần xem xét các nguyên nhân gây bệnh và gây tử vong phổ biến
nhất tại cộng đồng đó trong thời gian hiện tại.
Câu 20:Trình bày nội dung các cấp dự phòng bệnh tật
Nội dung các cấp độ dự phòng bệnh tật
2.1. Dự phòng cấp 0 (Dự phòng không yếu tố nguy cơ)
Là các biện pháp dự phòng ngăn ngừa các yếu tố nguy cơ, ví dụ:
- Tuyên truyền chống hút thuốc lá làm giảm yếu tố nguy cơ cho các nguyên nhân
ung do thuốc lá.
- Tăng cường kiểm tra, chống đua xe, tuyên truyền cho người dân chấp hành các quy
định an toàn khi tham giao thông.
- Tăng cường truyền thông phòng chống ma túy...
2.2. Dự phòng cấp I (không bệnh)
Là các biện pháp dự phòng ngăn ngừa bệnh xảy ra, như:
- Tiêm phòng vaccin tạo miễn dịch chủ động
- Tránh tiếp xúc với người đang mắc bệnh
- Diệt côn trùng trung gian truyền bệnh
- Tư vấn cho người dân ngừng hút thuốc...
2.3. Dự phòng cấp II (bệnh không nặng)
Là các biện pháp dự phòng không để bệnh diễn biến nặng
- Khám sàng lọc phát hiện bệnh sớm giai đoạn tiền lâm sàng
- Điều trị bệnh sớm, triệt để ngăn ngừa diễn biến của bệnh nặng lên.
2.4. Dự phòng cấp III hạn chế ảnh hưởng của di chứng (đã hết bệnh)
Là các biện pháp dự phòng ngăn ngừa các di chứng:
- Vật lý trị liệu phục hồi chức năng
- Chăm sóc hòa nhập cộng đồng
- Chăm sóc cuối đời, chăm sóc giảm đau.
2.5. Dự phòng cấp IV hạn chế can thiệp không cần thiết
- Ngăn ngừa lạm dụng thuốc, xét nghiệm
- Ngăn ngừa kỹ thuật thăm khám xâm lấn không cần thiết
- Chuẩn hóa công tác chuyên môn...
* Lưu ý:
- Điều quan trọng nhất của thực hành CSSK dự phòng theo YHGĐ là xác định thứ tự
các ưu tiên dự phòng và thông báo cho cá nhân, gia đình, cộng đồng.
- Huy động các nguồn lực sẵn có tại cộng đồng, phù hợp văn hóa, phong tục tại cộng
đồng. - Lựa chọn các chủ đề quan trọng nhất cho tư vấn dự phòng trên cơ sở xem xét
các nguyên nhân gây bệnh và gây tử vong phổ biến nhất.
Câu 21:Trình bày vai trò của truyền thông-giáo dục sức khỏe trong chăm sóc
sức khỏe dự phòng ở nước ta giai đoạn hiện nay
3. Vai trò của TT - GDSK trong CSSK dự phòng theo nguyên lý YHGĐ - Muốn có sức
khoẻ tốt phải tạo ra môi trường sống lành mạnh và đòi hỏi phải có sự tham gia tích cực,
chủ động của mỗi cá nhân, gia đình và cộng đồng vào các hoạt động bảo vệ và nâng
cao sức khoẻ.
- TT - GDSK là biện pháp quan trọng giúp mọi cá nhân, gia đình và cộng đồng có kiến
thức về sức khoẻ, bảo vệ và nâng cao sức khoẻ, từ đó có cách nhìn nhận vấn đề sức
khoẻ đúng đắn và hành động thích hợp vì sức khoẻ.
- TT - GDSK nói chung tác động vào 3 lĩnh vực: Kiến thức của con người về sức
khoẻ, thái độ của con người đối với sức khoẻ, thực hành hay cách ứng xử của con
người đối với bảo vệ và nâng cao sức khoẻ.
- TT - GDSK là một phần của công việc hàng ngày, là một phần của mỗi cuộc gặp gỡ
giữa BSGĐ và bệnh nhân.
- TT - GDSK làm thay đổi những thói quen và lối sống không lành mạnh, có hại cho
sức khoẻ, để người dân có kiến thức tự bảo vệ và tăng cường, nâng cao sức khoẻ
cho bản thân, gia đình.
+ Khi người dân có kiến thức về sức khoẻ, họ sẽ tự nhận ra những hành vi có hại cho
sức khoẻ và tự thay đổi, có ý thức gìn giữ và bảo vệ sức khỏe cho chính họ và cộng
đồng.
+ TT - GDSK từ đơn giản đến phức tạp, từ việc chỉ dẫn cho bệnh nhân vệ sinh cá
nhân... tới việc hướng dẫn xử lý và đương đầu với bệnh tật.
- TT - GDSK bao gồm nhiều khía cạnh, từ dự phòng đến quản lý bệnh, từ tư vấn trước
khi có thai cũng như giúp đỡ các gia đình trong giai đoạn chăm sóc cuối đời và chăm
sóc giảm nhẹ khi mất.
- TT - GDSK có vị trí quan trọng trong công việc của BSGĐ, nó đặc biệt quan trọng
trong CSSKBĐ, khi hội nhập với các nước trên thế giới, những thói quen, phong tục
tập quán và lối sống đôi khi sẽ là rào cản.
- Xây dựng mối quan hệ giữa BSGĐ với bệnh nhân là nền móng giáo dục bệnh
nhân có hiệu quả và tuân theo đúng chế độ điều trị, chế độ dự phòng.
+ Những bệnh nhân hài lòng với mối quan hệ thầy thuốc - bệnh nhân: thực hiện
đúng chế độ thuốc men nhiều hơn.
+ Lắng nghe chăm chú kết hợp với sự quan tâm, đồng cảm và lo lắng chân thành sẽ
tăng cường mối quan hệ hiểu biết, đồng thời cho phép BSGĐ đánh giá chính xác
những nhu cầu, thái độ và niềm tin của người bệnh.
- Sự giao tiếp hai chiều là nền tảng của mối quan hệ thầy thuốc và bệnh nhân. Các
thầy thuốc gia đình cần tránh vội vàng hướng vào những điều mà họ cho là quan
trọng, trong khi đó lại bỏ qua nội dung trình bày của người bệnh.
+ Người bệnh có thể không được thoải mái khi nói ra những lý do thực của họ tìm đến
thầy thuốc vì họ lúng túng hoặc cảm thấy những lý do của họ có lẽ không thỏa đáng. +
Do không nắm được những điều ẩn kín trong nội dung trình bày của bệnh nhân,
BSGĐ không thể xử lý những vấn đề quan trọng nhất của bệnh nhân.
+ Xem xét cẩn thận thông tin về những lần bệnh nhân đã điều trị trước đây, sẽ có thể
ngăn chặn được việc lặp lại những sai lầm trước đây đã mắc phải.
- Yêu cầu của TT - GDSK là hướng dẫn rõ ràng, ngắn gọn.
+ Người thầy thuốc luôn luôn lắng nghe bệnh nhân, sử dụng ngôn ngữ mà bệnh
nhân có thể hiểu được.
+ Các thầy thuốc và gia đình người bệnh sẽ xác định các vấn đề bằng sự hiểu biết và
nên khuyến khích họ nói cho bạn biết những vấn đề đó.
Câu 22: Phân tích các thách thức và các biện pháp thực hiện công tác chăm sóc
sức khỏe dự phòng ở nước ta giai đoạn hiện nay?
* Khái niệm: - CSSK dự phòng trong YHGĐ là: Những CSSK thiết yếu, dựa trên
phương pháp và kỹ thuật thực hành, cung cấp đến từng cá nhân và gia đình trong cộng
đồng, được các cá nhân chấp nhận thông qua sự tham gia đầy đủ với chi phí, giá thành
mà họ chấp nhận được nhằm đạt được sức khoẻ cao nhất.
* Các thách thức trong CSSK dự phòng:
- Phải xác định xem các can thiệp nào là có chi phí - hiệu quả, có thể chấp nhận
được để đưa vào việc CSSK dự phòng.
- Một số điều trở ngại cho CSSK dự phòng do quan điểm của bệnh nhân:
+ CSSK dự phòng có thể không được cung cấp hoặc không sẵn có
+ Bệnh nhân có thể từ chối, không chấp nhận một số thủ tục
+ Nhiều loại test khám sàng lọc không được dễ chịu
- CSSK dự phòng có thể tốn kém:
+ Hiện nay bệnh nhân phải tự chi trả tiền cho khám sức khoẻ định kỳ
+ Trong khi, việc này phòng tránh được bệnh hoặc giảm bớt mức độ bệnh do
được phát hiện và điều trị sớm..., do đó có lợi về mặt tài chính
- Trở ngại cho việc sàng lọc từ phía thầy thuốc: Chuẩn mực của CSSK dự phòng
cũng luôn luôn thay đổi theo mô hình bệnh tật, theo khuyến cáo từ các tổ chức có sự
khác nhau.
- Chỉ có một số bệnh nhân đến với bác sĩ chỉ để CSSK dự phòng, đa phần là để
khám chữa bệnh, vì thế mà người ta thường quên CSSK dự phòng.
- Một số thầy thuốc cảm thấy không đủ bằng chứng để chứng tỏ rằng CSSK dự
phòng có hiệu quả rõ rệt trong việc giảm tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong, cũng như là có
thể giảm chi phí.
- CSSK dự phòng đưa lại lợi ích lâu dài, đôi khi chưa thấy tác dụng ngay nên rất
nhiều người dân vì lợi ích trước mắt mà không chấp nhận.
Câu 23: Trình bày đặc điểm quá trình giao tiếp và mối quan hệ giữa bác sỹ với
người bệnh?
* Quá trình giao tiếp giữa bác sĩ với người bệnh:
- Hoạt động của bác sĩ mang tính quan hệ xã hội, giao tiếp không những giữa
con người với con người mà còn là giữa người bệnh và bác sĩ. Vì vậy, giao tiếp không
chỉ đóng vai trò quan trọng đối với việc hình thành và phát triển nhân cách của NVYT
mà còn là một hoạt động nghề nghiệp, một thành phần quan trọng trong cấu trúc năng
lực nghề nghiệp của họ.
- Sự giao tiếp thuận lợi, đúng hướng của NVYT với người bệnh không chỉ là điều
kiện cơ bản tất yếu tác động đến điều trị, cứu chữa người bệnh, mà còn là phương
tiện, phương thức thực hiện mục đích của hoạt động này.
+ Giao tiếp là một trong những yếu tố quyết định đến hiệu quả hoạt động của
NVYT.
+ Giao tiếp là một quá trình động, luôn biến đổi, gồm hai phần chính là giao tiếp
bằng lời và không bằng lời.
+ Thái độ tế nhị, nhẹ nhàng và sâu sắc của các NVYT đối với người bệnh sẽ loại
bỏ những yếu tố làm tổn thương tâm lý, lòng tin của người bệnh.
+ Sắc thái tâm lý trong mối quan hệ giữa NVYT và người bệnh đóng vai trò
không kém gì việc dùng các loại thuốc.
- Sự giao tiếp thành công hay thất bại đối với người bệnh nhằm mục đích KCB
tùy thuộc vào nghệ thuật giao tiếp của NVYT.
+ NVYT phải nắm vững và vận dụng được các kiểu giao tiếp, các phương tiện
giao tiếp và tuân thủ các giai đoạn của quá trình giao tiếp.
Câu 24: Trình bày các hình thức giao tiếp giữa bác sỹ và người bệnh?
Câu 25: Trình bầy đặc điểm giao tiếp trong lần tiếp xúc đầu tiên giữa bác sỹ gia đình
với người bệnh tại phòng khám bác sỹ gia đình.
Bác sĩ làm việc tại tuyến chăm sóc sức khỏe ban đầu (CSSKBĐ) cấn có các kỹ
năng giao tiếp cốt lõi giữa bác sĩ và người bệnh để áp dụng trong thực hành tại môi
trường làm việc hàng ngày.
Giao tiếp trong lần tiếp xúc đầu tiên:
- Trong lần thăm khám đầu tiên bác sĩ cần xây dựng được một hệ thống thông
tin cơ bản liên quan đến người bệnh để có thể biết các vấn đề tiềm ẩn.
- Mô hình tiếp cận tổng quát giúp người bệnh thổ lộ một cách cởi mở các vấn đề
riêng tư của họ mà không có cảm giác bị phán xét hoặc phê phán.
- Trong mô hình tiếp cận này đòi hỏi bác sĩ cần song song tìm hiểu các vấn đề
sức khoẻ của người bệnh và những yếu tố tâm lý, xã hội và tâm linh có thể là nguyên
nhân gây ra các vấn đề sức khoẻ đó.
- Tìm hiểu người bệnh một cách toàn diện: Bao gồm hỏi về tiền sử cá nhân, gia
đình, công việc và vị trí xã hội.
- Tìm tiếng nói chung giữa bác sĩ và người bệnh:
+ Giải thích cho người bệnh mô hình điều trị và cách thức thực hiện.
+ Các bước tiến hành bao gồm các mục tiêu ưu tiên, đánh giá mức độ sẵn sàng
để thay đổi và kế hoạch điều trị được cả bác sĩ và người bệnh đồng ý.
- Phối hợp việc dự phòng và các hoạt động tăng cường sức khỏe: Cung cấp các
biện pháp GDSK, giảm các yếu tố nguy cơ và phát hiện sớm bệnh tật cũng như những
chỉ dẫn về sự tác động của căn bệnh.
- Xây dựng mối quan hệ giữa thầy thuốc và người bệnh thông qua sự đồng cảm,
chia sẻ, sự chăm sóc, KCB...
- Tư vấn tuân thủ điều trị, cách thức tự chăm sóc và tái khám.
- Thu thập thông tin là bước đầu tiên của giao tiếp, muốn có được nhiều thông
tin tin cậy thì chủ thể giao tiếp cần:
+ Tiếp xúc với nhiều đối tượng; những hoàn cảnh, tình huống khác nhau.
+ Phải có thái độ tích cực khi thu thập thông tin, cân nhắc kỹ càng
+ Tìm hiểu tâm tư, tính cách, sở thích, học vấn, bệnh tật của người bệnh.
+ Chuẩn bị kỹ càng thời gian, địa điểm, không khí tâm lý...
- Quan sát kỹ hành động, nét mặt, dáng vẻ... của người bệnh để có thể hiểu sâu
thêm bản chất bệnh tật và thấy rõ hơn về họ.
- Bác sĩ cần tạo cho người bệnh ấn tượng tốt đẹp về mình, nhất là những ấn
tượng đầu tiên, chủ động gây thiện cảm với người bệnh.
- Khi giao tiếp với người bệnh nữ cần:
+ Bình đẳng, ở những nơi công khai, sáng sủa
+ Quan tâm, săn sóc họ, song không nên quan tâm quá đặc biệt.
+ Duy trì trạng thái cân bằng tâm lý trong giao tiếp.
Câu 26: Trình bày kỹ thuật BATHE trong thực hành giao tiếp giữa bác sỹ gia đình
và người bệnh tại phòng khám ngoại trú.
Kỹ thuật BATHE trong thực hành giao tiếp giữa bác sỹ và người bệnh tại phòng
khám ngoại trú.
- Người bệnh thường đến khám với nhiều vấn đề về bệnh tật, cảm xúc và có sự
liên quan với nhau. Bác sỹ nên có chiến lược chăm sóc người bệnh một cách có hiệu
quả đối với các vấn đề về tâm lý xã hội và quản lý bệnh tật của họ.
- Kỹ thuật BATHE là một kỹ thuật giao tiếp được thiết kế nhằm giải quyết các vấn
đề sức khoẻ liên quan tới cảm xúc trong vòng 15 phút khám bệnh. BATHE là chữ đầu
của các thành phần của kỹ thuật này:
+ B “background”: hoàn cảnh của người bệnh hay các thông tin liên quan
+ A “affect”: Cảm xúc của người bệnh
+ T “trouble”: Vấn đề gây rắc rối cho người bệnh nhất
+ H “handle”: Cách thức người bệnh đối phó với vấn đề sức khỏe
+ E là “empathy”: Thấu cảm (lắng nghe, quan tâm, thông cảm)
1. Thu thập thông tin về tình hình và hoàn cảnh của người bệnh
- BSGĐ có thể khai thác được thông tin về người bệnh bằng câu hỏi đơn giản:
“Nói cho tôi biết cái gì đã xảy ra đối với ông/bà”.
+ Truyền tải sự quan tâm của bác sĩ
+ Mời người bệnh chia sẻ mối quan tâm của họ với vấn đề sức khoẻ.
- Sau vài phút lắng nghe người bệnh kể một cách cẩn thận, Bác sỹ có thể hiểu rõ
hoàn cảnh và tình trạng của người bệnh.
2. Thu thập thông tin về cảm xúc của người bệnh
Người bác sĩ cần làm sáng tỏ cảm xúc của người bệnh, với câu hỏi “Bạn cảm
thấy thế nào về vấn đề đó ?”.
3. Thu thập thông tin về những điều gây rắc rối nhất
- Người bác sĩ cần hỏi “Điều gì gây rắc rối cho bạn nhất về vấn đề đó?”. giúp
người bệnh tập trung vấn đề chính gây rắc rối, mối quan tâm chính của họ.
- Giúp bác sĩ và người bệnh đi sâu tìm hiểu kỹ vấn đề của người bệnh.
4. Thu thập thông tin về giải pháp người bệnh đã thực hiện
Bác sĩ hỏi về cách mà người bệnh đã thực hiện để giải quyết vấn đề của họ, với
câu hỏi: “Bạn đã làm gì để giải quyết vấn đề của bạn?”, Cho thấy:
- Bác sĩ tin tưởng người bệnh đã có thể đối phó với chính vấn đề của họ.
- Bác sĩ tôn trọng phương pháp mà người bệnh đã sử dụng
- Mong muốn của người bệnh cùng làm việc với bác sĩ để phát triển các chiến
lược mới nhằm đối phó với vấn đề của mình.
3.5. Thái độ thấu cảm của bác sĩ
- Người thầy thuốc cần tỏ thái độ thấu cảm đối với vấn đề của người bệnh
- Giữ thái độ trung lập
- Tạo môi trường tốt, thân thiện, chân thật để giúp người bệnh tin tưởng và chia
sẻ các vấn đề rắc rối của họ.
- Đáp ứng thấu cảm, nghĩa là bác sĩ quan tâm một cách khách quan, hiểu biết và
sẵn sàng giúp người bệnh giải quyết vấn đề của họ.
- Dùng những lời nhận xét mang tính tin cậy, chân thật như là: “Điều đó chắc
hẳn là khó khăn”, hay là “Tôi có thể hiểu là chắc hẳn bạn phải giận dữ”.
- Thấu cảm là điều sống còn trong việc thiết lập và duy trì mối quan hệ tốt giữa
bác sĩ và người bệnh.
Câu 27: Trình bầy khái niệm về hành vi, hành vi sức khỏe và y học hành vi. Nêu
các bước và điều kiện thay đổi hành vi sức khỏe.
1. Khái niệm về hành vi và hành vi sức khỏe và y học hành vi.
1.1. Hành vi
- Hành vi là: cách ứng xử của mỗi cá nhân với một sự vật, sự kiện, hiện tượng
trong một hoàn cảnh, tình huống cụ thể được biểu hiện bằng lời nói, cử chỉ, hành động
nhất định.
- Hành vi có liên quan đến các yếu tố nhận thức, kiến thức, thái độ, niềm tin, văn
hoá, chuẩn mực giá trị cụ thể của mỗi cá nhân trong một xã hội. Các yếu tố này thường
liên kết chặt chẽ, đan xen, khó phân định rạch ròi.
- Như vậy, hành vi của con người được hiểu là một hành động hay nhiều hành
động phức tạp trước một sự việc, hiện tượng mà các hành động này lại chịu ảnh
hưởng của nhiều yếu tố bên trong và bên ngoài, chủ quan và khách quan. Có rất nhiều
yếu tố có thể tác động đến hành vi của một người như trình độ văn hóa, phong tục tập
quán cộng đồng, kinh tế xã hội, chính trị, luật pháp, nguồn lực, kỹ năng, thông tin. Mỗi
hành vi của một người là biểu hiện của các yếu tố kiến thức, niềm tin, thái độ, cách
thực hành của người đó trong một hoàn cảnh hay tình huống cụ thể. Một hành vi có thể
thấy ở một cá nhân, cũng có thể gặp ở một nhóm cá nhân hay cả một cộng đồng. Hành
vi được lặp đi lặp lại nhiều lần trong thời gian dài có thể trở thành thói quen.
1.2. Hành vi sức khỏe
- Hành vi sức khoẻ là: những việc làm hằng ngày của mỗi người liên quan đến
sức khoẻ.
- Có rất nhiều yếu tố tác động đến hành vi của một người như: trình độ học vấn,
phong tục tập quán, kinh tế-xã hội, chính trị, luật pháp...
- Hành vi của mỗi con người có thể có ảnh hưởng tốt hoặc xấu đến sức khoẻ
của chính bản thân họ, của những người xung quanh và của cộng đồng.
- Nhiệm vụ của thầy thuốc là tìm ra và khuyến khích bệnh nhân duy trì các hành vi
có lợi, từ bỏ hoặc giảm bớt các hành vi có hại cho sức khoẻ.
- Mỗi hành vi sức khoẻ có thể được phân tích ra 4 thành phần (4 cấp độ):
Hành vi = Nhận thức + Thái độ + Niềm tin + Thực hành
1.3. Y học hành vi.
- Theo Hiệp hội YHHV Quốc tế: “YHHV là một lĩnh vực liên ngành của y học, liên
quan đến việc phát triển và vận dụng các kiến thức, kỹ thuật trong y sinh học, KHHV,
tâm lý xã hội học liên quan đến hiểu biết về sức khoẻ, bệnh tật và áp dụng các kiến
thức, kỹ thuật này trong chẩn đoán, điều trị bệnh và phục hồi sức khoẻ”.
- Định nghĩa này đã mở rộng phạm vi, nền tảng của YHHV. Trong đó, sự tương
tác qua lại giữa yếu tố sinh học và yếu tố tâm lý xã hội được đề cao.
2. Nêu các bước và điều kiện thay đổi hành vi sức khoẻ. (ko biết có phải nêu chi
tiết các bước ko nhưng t cứ làm z cho đủ nhé mà dài….)
Do hành vi được hình thành trong thời gian dài, chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu
tố khác nhau nên thay đổi hành vi có hại cho sức khoẻ không phải là dễ, nhất là khi các
hành vi đã trở thành thói quen, phong tục tập quán lâu đời trong nhân dân. Cơ sở tâm
lý làm nền tảng cho việc thay đổi hành vi là rất phức tạp. Hai nhà nghiên cứu là
Prochaska và DiClemente đã phát triển một mô hình mô tả các bước thay đổi hành vi
gọi là Mô hình các bước thay đổi hành vi. Mô hình này gồm có 5 bước, ban đầu được
phát triển để mô tả quá trình cai nghiện thuốc lá, sau đó được áp dụng để giải thích cho
quá trình thay đổi của tất cả các hành vi khác. (Hình 1).
Để thay đổi hành vi sức khoẻ, thường phải trải qua các bước sau đây:
- Bước 1: Thiếu kiến thức, chưa nhận ra vấn đề
- Bước 2: Nhận ra vấn đề và quan tâm đến hành vi mới
- Bước 3: Chuẩn bị thử nghiệm các hành vi mới
-. Bước 4: Thực hiện hành vi mới
- Bước 5. Khẳng định và duy trì hành vi