Professional Documents
Culture Documents
(Full) Phân Tích Quy Luật Quan Hệ Sản Xuất Phù Hợp Với Trình Độ Phát Triển Của Lực Lượng Sản Xuất
(Full) Phân Tích Quy Luật Quan Hệ Sản Xuất Phù Hợp Với Trình Độ Phát Triển Của Lực Lượng Sản Xuất
2. Khái niệm, kết cấu lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất(1đ)
Lực lượng sản xuất là khái niệm dùng để chỉ sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu
sản xuất, tạo ra sức sản xuất, năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của
giới tự nhiên theo nhu cầu nhất định của con người và xã hội.
Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động là chủ thể của sáng tạo, là nhân tố hàng đàu
của lực lượng sản xuất giữ vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất. Tư liệu sản xuất
gồm công cụ sản xuất và đối tượng sản xuất. Trong công cụ sản xuất có công cụ lao động
là yếu tố động nhất, luôn luôn đổi mới và đối tượng lao động
Quan hệ sản xuất là khái niệm dùng để chỉ mối quan hệ giữa người với người trong qúa
trình sản xuất. Quan hệ sản xuất bao gồm ba mặt: quan hệ sử hữu về tư liệu sản xuất,
quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ phân phối sản phầm sản xuất. Trong đó
quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là mặt quyết định các quan hệ khác.
Biểu hiện của sự vận động, phát triển lực lượng sản xuất chính là năng suất lao động tăng
lên, biểu hiện ở chỗ sản phẩm lao động đáp ứng được nhu cầu của con người trong một
thời đại, người lao động trong quá trình sản xuất họ thấy được những bất cập, thấy được
cái cần phát triển bổ sung nên người lao động trong quá trình lao động trực tiếp của mình,
trình độ của họ được nâng cao đồng thời họ cải tiến công cụ lao động tinh vi hơn, hiện
đại hơn để phù hợp với quá trình sản xuất, mở rộng đối tượng lao động. Từ đó một đòi
hỏi khách quan quan của nền sản xuất là quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của
lực lượng sản xuất.
Trình độ của lực lượng sản xuất được biểu hiện thông qua trình độ kinh nghiệm, kỹ năng
của người lao động, trình độ của công cụ lao động, trình độ tổ chức, phân công lao động
xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất. Thời đại ngày nay, khoa học đã phát
triển đến mức trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Khoa học là lực lượng sản xuất sản
xuất ra những của cải đặc biệt, hàng hoá đặc biệt (phát mình, sáng chế, bí mật công nghệ)
trở thành nguyên nhân mọi biến đổi trong lực lượng sản xuất. Rút ngắn được từ phát
minh sáng chế đến ứng dụng vào sản xuất làm năng suất lao động, của cải xã hội tăng
nhanh. Nó có khả năng phát triển “vượt trước”, khoa học thâm nhập vào các yếu tố, trở
thành mắt khâu bên trong quá trình sản xuất(tri thức khoa học kết tinh vào người lao
động, người quản lý, “vật hoá” vào công cụ lao động, đối tượng lao động). Nó kích thích
sự phát triển năng lực làm chủ sản xuất của con người.
Gắn với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là tích chất của lực lượng sản xuất.
Trong lịch sử xã hội lực lượng sản xuất đã phát triển từ chỗ mang tính chất cá nhân lên
tính chất xã hội hoá. Khi công cụ lao động là công cụ thủ công, phân công lao động kém
phát triển thì lực lượng sản xuất mang tính cá nhân. Khi công cụ lao động đạt đến trình
độ cơ khí, hiện đại, phân công lao dộng xã hội phát triển thì lực lượng sản xuất mang tính
xã hội hoá.
Thứ hai, lực lượng sản xuất(tư liệu sản xuất, đặc biệt là công cụ lao động) quy định cách
thức tổ chức quản lý sản xuất, quy mô sản xuất(llsx quyết định tính chất, nội dung của
qhsx)
Để quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất thì quan hệ sản xuất
phải là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, các mặt của quan hệ sản xuất phải
“tạo địa bàn đầy đủ” để lực lượng sản xuất phát triển , cách thức tổ chức quản lí sản xuất
phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, trong tổ chức và quản lí khi
trình độ của người lao động nâng cao cần phải tổ chức phân công họ làm những công
việc, vị trí phù hợp, công cụ lao động, máy móc, thiết bị cần phải phù hợp với trình độ
của họ. Khi công cụ lao động đạt đến trình độ cơ khí, hiện đại, dây chuyên cần tổ chức
quản lý lao động mang tính xã hội hoá. Còn khi công cụ lao động còn ở trình độ thủ công
thì tổ chức, quản lí sản xuất mang tính cá nhân. Khi trình độ người lao động, công cụ lao
động tăng cao, năng suất lao động tăng lên, cần phải phân phối sản phẩm, trả tiền lương
phù hợp với năng lực, trình độ, công sức của người lao động.
Thứ ba, lực lượng sản xuất thay đổi, sớm muộn cũng kéo theo sự thay đổi của quan hệ
sản xuất
Lực lượng sản xuất là nội dung, là yếu tố cách mạng thường xuyên biến đổi, quan hệ sản
xuất là hình thức xã hội bên ngoài, là yếu tố tương đối ổn định thường thay đổi chậm hơn
so với lực lượng sản xuất, đến một giai đoạn nhất định, quan hệ sản xuất từ chỗ là “hình
thức phù hợp”, trở thành “xiềng xích” kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, đòi
hỏi phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ
của lực lượng sản xuất dẫn đến phương thức sản xuất mới ra đời thay thế cho phương
thức sản xuất cũ.
Quan hệ sản xuất có tính độc lập tương đối và tác động trở lại lực lượng sản xuất.
Thứ nhất, tính độc lập tương đối của quan hệ sản xuất thể hiện ở chỗ nó có thể không
thay đổi cùng với sự thay đổi của lực lượng sản xuất(quan hệ sản xuất thay đổi chậm hơn
so với sự thay đổi của lực lượng sản xuất)
Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội bên ngoài của quá trình sản xuất nó là cái kéo theo
mà biểu hiện về mặt xã hội của nó là giai cấp thống trị có quyền sở hữu, tổ chức quản lí,
phân phối có thể vì lợi ích của mình không chịu thay đổi tổ chức, quản lí, phân phối khi
năng suất lao động đã tăng cao, trình độ của công cụ lao động, người lao động, giai cấp bị
trị là biểu hiện về mặt xã hội của lực lượng sản xuất đã được nâng cao.
Thứ hai, quan hệ sản xuất quy định mục đích xã hội của nền sản xuất, qua đó nó tác động
đến thái độ, tính tích cực của người lao động-tức là tác động tới lực lượng sản xuất
Qua việc quy định mục đích xã hội của nền sản xuất,tổ chức phân công lao dộng xã hội
phù hợp, phân phối sản phẩm phù hợp, trả tiền lương phù hợp với trình độ của người lao
động, bảo đảm lợi ích của người lao động sẽ tác động đến thái độ, tính tích cực của người
lao động, người lao động nhiệt tình hăng hái sản xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển.
Thứ ba, quan hệ sản xuất có thể tạo địa bàn cho việc ứng dụng khoa học- công nghệ vào
sản xuất, mở rộng quy mô sản xuất, thay đổi tốc độ, hiệu quả, xu hướng, nhịp điệu của
sản xuất, khiến cho lực lượng sản xuất phát triển.
Tóm lại, quan hệ sản xuất tác động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất theo hai xu
hướng phù hợp hay không phù hợp.
Nếu phù hợp, quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển” của lực lượng sản xuất, “tạo địa
bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển. Nghĩa là kết hợp đúng đắn giữa các yếu tố
cấu thành lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất. Sự kết hợp đúng đắn giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất, tạo điều kiện tối ưu sử dụng và kết hợp giữa người lao động và
tư liệu sản xuất, tạo điều kiện hợp lí cho người lao động sáng tạo trong sản xuất và hưởng
thụ thành quả vật chất , tinh thần của lao động.
Khi quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất như
quan hệ sản xuất lạc hậu, “đi sau” lực lượng sản xuất hay quan hệ sản xuất “vượt trước”,
tiên tiến một cách giả tạo so với lực lượng sản xuất thì sẽ trở thành “xiềng xích” kìm hãm
lực lượng sản xuất phát triển.
Trạng thái vận động của mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản
xuất diễn ra từ phù hợp đến không phù hợp đến phù hợp mới ở trình độ cao hơn. Con
người giữ vai trò chủ thể nhận thức giải quyết mâu thuẫn, thiết lập sự phù hợp.
Trong xã hội có đối kháng giải cấp, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất được biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giai cấp, được giải quyết thông qua đấu
tranh giai cấp và đỉnh cao là cách mạng xã hội.
Sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất không chỉ diễn ra một lần là
xong mà là một quá trình, một “cân bằng động”, tức là một sự phù hợp này được xác lập
rồi phá vỡ, và lại xác lập một sự phù hợp khác, cứ như thế nó tạo ra một quá trình phát
triển. Cho nên quy luật xã hội đòi hỏi một tính năng động cao của con người, để chủ động
điều chỉnh cho phù hợp.