You are on page 1of 40

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH

KHOA: SƯ PHẠM ĐỊA LÍ

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN


MÔN: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

ĐỀ TÀI: PHÁT TRIỂN DU LỊCH GẮN VỚI BẢO TỒN DI SẢN


VĂN HÓA Ở TỈNH NAM ĐỊNH

Người thực hiện: Nguyễn Thị Minh


MSSV: 47.01.603.077
Lớp: 47.DIA.SPB
Giáo viên hướng dẫn: Thầy Phạm Đỗ Văn Trung

TPHCM - 2023
MỤC LỤC

A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
II. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
3.2. Phạm vi nghiên cứu
IV. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
4.1. Mục đích nghiên cứu
4.2. Nhiệm vụ đề tài
V. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
5.1. Ở Việt Nam
5.2. Ở Nam Định
VI. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp thu nhập và xử lí dữ liệu thứ cấp
6.2. Phương pháp điều tra xã hội học
6.3. Phương pháp chuyên gia
6.4. Phương pháp bản đồ
6.5. Phương pháp phân tích, tổng hợp
VII. BỐ CỤC ĐỀ TÀI
CHƯƠNG 1: DI SẢN VĂN HÓA CỦA TỈNH NAM ĐỊNH VÀ VẤN ĐỀ
PHÁT TRIỂN DU LỊCH GẮN VỚI BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA
1. Khái quát về tỉnh Nam Định
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
1.2. Điều kiện tự nhiên
1.2.1. Vị trí địa lý
1.2.2. Địa hình
1.2.3. Khí hậu
1.3. Điều kiện kinh tế - xã hội
1.3.1. Về kinh tế
1.3.2. Về dân cư – lao động
1.3.3. Về cơ sở hạ tầng
2. Vấn đề bảo tồn di sản văn hóa và việc bảo tồn văn hóa trong phát triển du
lịch
2.1. Khái niệm bảo tồn di sản
2.2. Vấn đề bảo tồn văn hóa
3. Những tác động của du lịch tới các di sản văn hóa ở Nam Định
3.1. Đối với di sản văn hóa vật thể
3.1.1. Tích cực
3.1.2. Tiêu cực
3.2. Đối với di sản văn hóa phi vật thể
3.2.1. Tích cực
3.2.2. Tiêu cực
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH GẮN VỚI BẢO TỒN
DI SẢN VĂN HÓA Ở NAM ĐỊNH
2.1. Giới thiệu chung về các di sản văn hóa Nam Định
2.1.1. Văn hóa vật thể
2.1.1.1. Quần thể di tích lịch sử văn hóa Trần
2.1.1.2. Chùa Cổ Lễ
2.1.1.3. Chùa Keo Hành Thiện
2.1.2. Văn hóa phi vật thể
2.1.2.1. Hội chợ Viềng
2.1.2.2. Lễ hội Đền Trần
2.1.2.3. Lễ hội Phủ Giầy
2.1.3. Văn hóa ẩm thực
2.2. Thị trường - khách du lịch và vấn đề bảo tồn các di sản văn hóa Nam
Định
2.3. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch và vấn đề bảo tồn di sản văn hóa
Nam Định
2.3.1. Hệ thống cơ sở lưu trú
2.3.2. Hệ thống cơ sở kinh doanh ăn uống
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH GẮN VỚI BẢO TỒN DI
SẢN VĂN HÓA Ở NAM ĐỊNH

3.1. Giải pháp góp phần phát triển du lịch tỉnh Nam Định

3.1.1. Giải pháp phát triển sản phẩm du lịch văn hóa đặc thù

3.1.2. Giải pháp phát triển nhân lực du lịch văn hóa

3.2. Giải pháp góp phần bảo tồn di sản văn hóa ở tỉnh Nam Định

B. KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. PHẦN MỞ ĐẦU

I. Lí do chọn đề tài

Chúng ta có thể thấy được sự phục hồi nhanh chóng sau hai năm “ngủ đông’ vì
dịch bệnh của nghành du lịch thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng. Xã hội ngày
càng phát triển thì đời sống của con người ngày càng được nâng cao. Khi đó, du
lịch không còn là “nhu cầu cao cấp” nữa mà trở thành một nhu cầu thiết yếu trong
cuộc sống của con người. Và xu hướng hiện nay, du khách thường tìm đến những
tour gắn liền với tự nhiên, lịch sử, tìm hiểu về văn hóa, cội nguồn dân tộc.

Ngành Du lịch Nam Định cũng đang trên đà phát triển và thu được những thành
quả đáng kể về kinh tế, văn hóa và xã hội. Số lượng khách du lịch; chất lượng dịch
vụ ngày càng tăng; thu nhập từ du lịch và đóng góp cho nền kinh tế có mức tăng
trưởng khá; du lịch đã tạo được nhiều công ăn việc làm cho cư dân địa phương.

Tuy nhiên, sự phát triển đó có gia tăng nhưng chưa ổn định. Trong quá trình
phát triển du lịch còn nảy sinh nhiều mặt tiêu cực như phá huy cảnh quan môi
trường sinh thái, làm thay đổi bản sắc văn hóa dân tộc, các di sản văn hóa vật thể
và phi vật thể đang bị xâm hại một cách vô thức. Điều này không những làm ảnh
hưởng tới các giá trị văn hóa địa phương, dân tộc mà còn ảnh hưởng tới an ninh
trật tự và an toàn xã hội. Tất cả những yếu tố trên là nguyên nhân cơ bản ảnh
hưởng đến quá trình phát triển du lịch của địa phương. Hoạt động du lịch và hoạt
động bảo tồn phải luôn luôn tồn tại song song trong quỹ đạo của lịch sử và xã hội.
Hiện nay việc bảo tồn di sản văn hóa của Việt Nam nói chung và Nam Định nói
riêng đang còn nhiều bất cập.
Trước sức ép của nền kinh tế thị trường cùng với sự thiếu hiểu biết của nhiều cơ
quan chức năng, của cư dân địa phương đã khiến cho rất nhiều di sản văn hóa quý
giá của dân tộc nói chung và của địa phương nói riêng bị mai một, biến dạng, thậm
chí bị hủy hoại. Việc làm này không những làm mất đi giá trị đích thực của di sản
văn hóa mà còn làm mất đi cơ hội phát triển kinh tế, trong đó có kinh tế du lịch. Có
thể nói sức hấp dẫn của các di sản văn hóa đối với du lịch là ở sự khác biệt của tính
nguyên bản, nguyên vẹn và nguyên nghĩa của nó. Nếu mất đi sự khác biệt đó, tức
là mất đi linh hồn của di sản, cũng đồng nghĩa với mất đi sức hấp dẫn du lịch. Vì
vậy, để tạo nên sản phẩm du lịch hấp dẫn, góp phần phát triển du lịch thì việc bảo
tồn tính nguyên bản, nguyên nghĩa, nguyên vẹn di sản văn hóa là cấp thiết.

II. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Đề tài “Phát triển du lịch gắn với bảo tồn di sản văn hóa ở Nam Định” góp
phần khẳng định vai trò quan trọng của các di sản văn hóa ở tỉnh Nam Định trong
phát triển kinh tế - xã hội và cộng đồng, tạo động lực, nguồn lực thúc đẩy phát
triển nghành du lịch, đem đến lợi ích kinh tế và quảng bá hình ảnh của địa phương,
đất nước trong quá trình hội nhập và phát triển. Qua đó, góp phần giúp chính
quyền địa phương và các doanh nghiệp du lịch định hướng sản phẩm du lịch nhằm
hoàn thiện hệ thống sản phẩm du lịch tỉnh Nam Định, đồng thời nhận định đúng
mức đối với giá trị các di sản trong tỉnh nhằm có những giải pháp, chủ trương bảo
tồn phù hợp.

Đề tài này đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần phát triển du lịch gắn với bảo
tồn di sản văn hóa ở tỉnh Nam Định.

III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu


Đối tượng nghiên cứu của đề tài “Phát triển du lịch gắn với bảo tồn di sản văn
hóa ở Nam Định” là hoạt động hoạt động phát triển, khai thác du lịch và công tác
bảo tồn di sản văn hóa (vật thể và phi vật thể) ở địa bàn tỉnh Nam Định.

Tiêu biểu: quần thể di tích Phủ Giầy, chùa keo Hành Thiện, lễ hội đền Trần, lễ
hội chùa Cổ Lễ, nhà thờ Phú Nhai, hội chợ Viềng…

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu mối quan hệ giữa phát triển du lịch và bảo vệ di sản văn hóa bao
gồm di sản văn hóa vật thể và phi vật thể cả về lý luận và thực tiễn. Nghiên cứu
được tiến hành tại các địa điểm du lịch ở tỉnh Nam Định.

- Phạm vi vấn đề nghiên cứu: Nghiên cứu cơ sở lý thuyết và thực tiễn của hoạt
động du lịch gắn với bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản văn hóa tại tỉnh
Nam Định

- Phạm vi không gian: Nghiên cứu tại tỉnh Nam Định, nghiên cứu các di sản
văn hóa tiêu biểu như quần thể di tích Phủ Giầy, chùa keo Hành Thiện, lễ hội đền
Trần, lễ hội chùa Cổ Lễ, nhà thờ Phú Nhai, hội chợ Viềng…

- Phạm vi thời gian: Đề tài tập trung thu thập, phân tích thông tin chủ yếu từ
năm 2015 – 2021.

IV. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài

4.1. Mục đích nghiên cứu

Hướng tới giải quyết mối quan hệ giữa hoạt động du lịch và bảo tồn tài nguyên du
lịch nhân văn và tài nguyên du lịch tự nhiên.

Nghiên cứu thực tế về vấn đề khai thác du lịch gắn với bảo tồn các di sản văn hóa
ở tỉnh Nam Định.
4.2. Nhiệm vụ đề tài

- Nghiên cứu cơ sở lý thuyết và hoạt động bảo tồn di sản văn hóa, mối tương quan
trong khai thác di sản để phục vụ phát triển du lịch cả về tích cực lẫn tiêu cực tại
các địa điểm tiêu biểu trên địa bàn tỉnh Nam Định.

- Tìm hiểu thực trạng phát triển du lịch tại tỉnh Nam Định, việc khai thác các giá trị
văn hóa lịch sử, nhận diện các vấn đề đặt ra cho công tác bảo tồn di sản tại các địa
điểm này.

- Theo đó đưa ra một số giải pháp nhằm bảo vệ và phát huy các giá trị của di sản
văn hóa du lịch ở tỉnh Nam Định.

V. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

5.1. Ở Việt Nam

Nỗ lực của ngành du lịch Việt Nam mở cửa trở lại với sự chú trọng đầu tư, làm
mới sản phẩm, nâng sức hấp dẫn của điểm đến cũng như sự thân thiện, mến khách,
chu đáo của con người Việt Nam.

Để đáp ứng được nhu cầu đó của toàn xã hội, những di sản văn hóa phục vụ du lịch
đang được khai thác và sử dụng một cách rộng rãi, tuy nhiên đôi khi còn thiếu hiệu
quả vào nhiều mục đích khác nhau. Vì thế, vấn đề bảo tồn di sản văn hóa đã và
đang là vấn đề được quan tâm. Trong những năm gần đây vấn đề này được nghiên
cứu và để cập tới nhiều khía cạnh và mục đích khác nhau. Tiêu biểu:

Tác giả Nguyễn Thị Chiến đã nêu ra quan điểm của mình trong “Văn hóa trong
phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam”: Yêu cầu cao nhất trong phát triển du lịch
là phát triển bền vững và phân tích cách phát triển du lịch bền vững theo hướng
nhấn mạnh yếu tố văn hóa.
Tại hội thảo “Du lịch có trách nhiệm và Di sản văn hóa” diễn ra ngày 3/4/2015
tại Hà Nội, trong khuôn khổ Hội chợ Du lịch quốc tế Việt Nam VITM Hà Nội
2015, đã có nhiều tham luận nói tầm quan trọng của di sản văn hóa trong phát triển
du lịch, các tác giả cũng đã nói tới hệ lụy của du lịch tác động tới di sản và cũng
xác định rằng phát triển du lịch có trách nhiệm là một trong những giải pháp trụ cột
nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa, hướng tới sự phát triển bền
vững.

Trong cuốn "Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể - Quá trình nhận thức và bài học
thực tiễn" của tác giả Nguyễn Thị Minh Lý đã xây dựng cơ sở lý luận về bảo vệ di
sản văn hóa phi vật thể, khẳng định tầm quan trọng của việc nâng cao nhận thức
của cộng đồng về giá trị di sản…

Ngoài ra, còn có rất nhiều công trình nghiên cứu, dự án và các bài báo được
đăng trên tạp chí Du lịch Việt Nam về bảo tồn di sản và phát triển du lịch được tiến
hành từng tỉnh trong cả nước. Các công trình nghiên cứu này cho thấy nhận thức
và hành động thực tiễn của Nhà nước về vấn đề bảo tồn di sản và phát triển du lịch.

Mấy năm trở lại đây, do tình hình dịch bệnh COVID_19 làm cho nền du lịch bị
“đóng băng” thì sau khi giải quyết được tình hình dịch bệnh, nhà nước đã mở cửa
du lịch trở lại. Cùng với sự đổi mới đất nước, kinh tế ngày càng phát triển mạnh
mẽ, theo đó là 2 năm dịch bệnh “cầm chân” nên nhu cầu vui chơi và du lịch ngày
càng lớn. Bên cạnh đó, Việt Nam là một nước có nền văn hóa đa dạng, đậm đà bản
sắc dân tộc, cùng với những phong tục tập quán, danh lam thắng cảnh tự nhiên. Vì
thế mà nghành du lịch có bước đột phá, các công trình nghiên cứu lễ hội gắn với
du lịch cũng được quan tâm, đặc biệt là cá lễ hội lớn ở các địa phương trên khắp
địa bàn cả nước.

5.2. Ở Nam Định


Có một số đề tài nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến phát triển du lịch gắn
với bảo tồn di sản văn hóa ở tỉnh Nam Định:

“Bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa Nam Định góp phần thúc đẩy kinh tế - xã
hội phát triển” của tác giả Trần Minh Oanh. “Lễ hội Phủ Giầy và phát triển du
lịch ở Nam Định” – Bài viết trên tạp chí du lịch của Đào Duy Tuấn. Sách “Di tích
lịch sử văn hóa tỉnh Nam Định” của ban quản lí di tích và thắng cảnh tỉnh Nam
Định… Bên cạnh đó, còn có một số bài báo được đăng tải trên các tạp chí viết về
du lịch Nam Định, chủ yếu tập trung viết về phát triển du lịch văn hóa, lễ hội ở tỉnh
Nam Định và những tác động tích cực, tiêu cực đối với đời sống xã hội.

VI. Phương pháp nghiên cứu

6.1. Phương pháp thu nhập và xử lí dữ liệu thứ cấp

Phương pháp thu thập tài liệu được sử dụng để lựa chọn những tài liệu, số liệu,
những thông tin có liên quan đến nội dung và đối tượng nghiên cứu của đề tài.
Phương pháp này rất quan trọng, là tiền đề giúp cho việc phân tích, đánh giá tổng
hợp các nội dung và đối tượng nghiên cứu một cách khách quan, chính xác.

Sử dụng phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp và sơ cấp:

+ Thu thập nguồn dữ liệu thứ cấp từ các kết quả nghiên cứu, sách báo, tạp chí,
các trang web điện tử, các tài liệu, báo cáo của cơ quan quản lý du lịch và chính
quyền địa phương. Dựa trên cơ sở đó đưa ra được những khái niệm chung nhất liên
quan đến đề tài đang nghiên cứu, đưa ra được những đánh giá và những giải pháp
để bảo tồn các di sản văn hóa của Nam Định nhằm thúc đẩy du lịch Nam Định phát
triển.
+ Thu thập dữ liệu sơ cấp bằng việc khảo sát thực địa, phỏng vấn các cán bộ
chuyên trách du lịch của tỉnh Nam Định và một số người dân địa phương nơi có tài
nguyên du lịch.

6.2. Phương pháp điều tra xã hội học

Phương pháp điều tra xã hội học là phương pháp điều tra quan điểm, thái độ của
quần chúng về sự kiện chính trị, xã hội, hiện tượng văn hóa, thị hiếu... Trong quá
trình thực hiện đề tài, tác giả tiến hành thu thập thông tin quần chúng về vấn đề sử
dụng, khai thác cũng như bảo tồn các giá trị văn hóa trong hoạt động du lịch tỉnh
nhà bằng cách phỏng vấn trực tiếp…

6.3. Phương pháp chuyên gia

Đây là một phương pháp quan trọng. Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả
tham khảo ý kiến của các cán bộ, các nhà nghiên cứu trong vấn đề khai thác và bảo
tồn giá trị văn hóa trong hoạt động du lịch tỉnh nhà từ các cơ quan: Sở Văn hóa, thể
thao và Du lịch, trung tâm quản lý di tích và danh thắng tỉnh Nam Định, cán bộ
quản lý tại khu du lịch…

6.4. Phương pháp bản đồ

Sử dụng bản đồ hành chính, bản đồ kinh tế để nhận định vai trò du lịch trong cơ
cấu nền kinh tế tỉnh Nam Định. Phương pháp bản đồ nhằm xác định phạm vi phân
bố của tài nguyên du lịch, hỗ trợ cho công tác khảo sát trong thực tế, nhằm đề xuất
các phương án kết nối với các điểm du lịch có khả năng khai thác du lịch thành
tuyến du lịch mới.

6.5. Phương pháp phân tích, tổng hợp

Sử dụng trong suốt quá trình phân tích, đánh giá toàn diện các nội dung, các đối
tượng nghiên cứu của đề tài như: thực trạng tiềm năng tài nguyên du lịch; thực
trạng công tác tổ chức quản lý và khai thác các di sản văn hóa tiêu biểu của tỉnh
Nam Định. Thông qua phương pháp phân tích tổng hợp đề tài phát hiện ra những
vấn đề cần bảo tồn các di sản văn hóa tiêu biểu của địa phương gắn với phát triển
du lịch, tìm ra những nguyên nhân của hạn chế và từ đó đề xuất những giải pháp
khắc phục.

- Phương pháp thống kê: Những thống kê về số liệu có liên quan đến các hoạt
động du lịch ở tỉnh Nam Định sẽ được thu thập, thống kê trong khoảng thời gian
2015 – 2021 theo quy chuẩn chung của ngành Du lịch làm cơ sở cho việc xử lý,
phân tích, đánh giá nhằm thực hiện những mục tiêu đã đề ra.

- Phương pháp nghiên cứu, khảo sát thực địa: Phương pháp này được thực hiện
để điều tra bổ sung hoặc kiểm tra lại những thông tin quan trọng cần thiết cho quá
trình phân tích, đánh giá và xử lý các tài liệu và số liệu. Đây là phương pháp
nghiên cứu nhằm góp phần làm cho kết quả nghiên cứu có tính xác thực hơn.

VII. BỐ CỤC ĐỀ TÀI

CHƯƠNG 1: DI SẢN VĂN HÓA CỦA TỈNH NAM ĐỊNH VÀ VẤN ĐỀ


PHÁT TRIỂN DU LỊCH GẮN VỚI BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA

1. Khái quát về tỉnh Nam Định

1.1. Lịch sử hình thành và phát triển

Nam Định có lịch sử hơn 750 năm hình thành và phát triển. Năm 1262, nhà Trần
đã xây dựng Nam Định thành thủ phủ Thiên Trường dọc bờ hữu ngạn sông Hồng.
Năm 1831, nhà Nguyễn đặt tên là tỉnh Nam Định. Dưới thời Nguyễn, Nam Định là
một thành phố lớn cùng với Hà Nội và Huế. Thời đó Nam Định còn có trường thi
Hương, thi Hội, có Văn Miếu.
Dưới thời Pháp thuộc, Nam Định được Toàn quyền Đông Dương công nhận là
thành phố vào ngày 17/10/1921. Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công,
Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa quy định trong Sắc
lệnh số 77 năm 1945, Nam Định là thành phố đặt dưới quyền cấp kỳ (Bắc Bộ). Từ
năm 1945-1956, Nam Định là thành phố trực thuộc Trung ương. Ngày 3/9/1957,
sáp nhập thành phố Nam Định vào tỉnh Nam Định, là tỉnh lỵ tỉnh Nam Định. Đến
ngày 06/11/1996, sau nhiều lần chia tách sáp nhập, thành phố Nam Định chính
thức là tỉnh lỵ tỉnh Nam Định đến ngày nay. Ngày 24/9/1998, Thủ tướng Chính
phủ ban hành Quyết định số 183/1998/QĐ-TTg công nhận thành phố Nam Định là
đô thị loại II. Ngày 28/11/2011, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
2106/QĐ-TTg công nhận thành phố Nam Định là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Nam
Định.

Cùng với lịch sử hình thành và phát triển, Đảng bộ và nhân dân thành phố Nam
Định luôn luôn tự hào về mảnh đất quê hương. Sự tham gia tích cực của mọi tầng
lớp nhân dân Nam Định đã và đang góp phần tạo dựng một hình ảnh tốt đẹp của
một thành phố đang từng bước trở thành đô thị trung tâm vùng Nam đồng bằng
sông Hồng, có vai trò quan trọng trong hệ thống đô thị Việt Nam.

1.2. Điều kiện tự nhiên

Nằm ở trung tâm vùng Nam đồng bằng sông Hồng, tỉnh Nam Định có tiềm năng,
lợi thế rất lớn chưa được khai thác hết cho đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh,
đặc biệt là: Lợi thế về nguồn nhân lực trẻ, dồi dào, được đào tạo cơ bản, có chất
lượng cao. Hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông mới được đầu tư khá đồng bộ, giúp
rút ngắn khoảng cách và thời gian đi đến thủ đô Hà Nội cũng như cảng biển cửa
ngõ quốc tế Hải Phòng chỉ còn khoảng 1 giờ đồng hồ. Hạ tầng điện lực có công
suất nằm trong Top dẫn đầu cả nước, luôn sẵn sàng đáp ứng tốt cho nhu cầu sản
xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp. Vùng kinh tế biển của tỉnh rất giàu tiềm
năng về phát triển công nghiệp, thương mại, du lịch, dịch vụ và hạ tầng đô thị.
Tỉnh luôn đảm bảo an ninh, an toàn cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước.

1.2.1. Vị trí địa lý

Nam Định nằm ở phía Nam vùng đồng bằng sông Hồng, ở tọa độ 19 ° 54’ đến 20°
40’ vĩ độ Bắc và từ 105° 55’ đến 106° 45’ kinh độ Đông. Nam Định tiếp giáp với
tỉnh Thái Bình ở phía Bắc, tỉnh Ninh Bình ở phía Nam, tỉnh Hà Nam ở phía Tây
Bắc, giáp biển (vịnh Bắc Bộ) ở phía Đông.

1.2.2. Địa hình

Địa hình tương đối bằng phẳng, có 2 vùng chính là vùng đồng bằng thấp trũng
và vùng đồng bằng ven biển, ở phía Tây Bắc tỉnh có một số ít đồi núi thấp. Địa
hình thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Vùng ven biển có bờ biển dài, địa
hình khá bằng phẳng. Một số nơi có bãi cát thoải mịn thích hợp với phát triển du
lịch nghỉ mát tắm biển. Nam Định có 3 sông lớn là sông Hồng, sông Đáy, sông
Ninh Cơ.

1.2.3. Khí hậu

Nam Định mang đầy đủ đặc điểm khí hậu của khu vực nhiệt đới gió mùa nóng
ẩm mưa nhiều. Nhiệt độ trung bình: 23 ° –24° C. Độ ẩm trung bình: 80–85%. Tổng
số ngày nắng: 250 ngày. Tổng số giờ nắng: 1650–1700 giờ. Lượng mưa trung
bình: 1750–1800 mm. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa ít mưa từ tháng 11
đến tháng 2 năm sau. Tốc độ gió trung bình: 2–2,3 m/s. Mặt khác, do nằm trong
vùng vịnh Bắc Bộ nên hàng năm Nam Định thường chịu ảnh hưởng của bão hoặc
áp thấp nhiệt đới, bình quân 4–6 cơn bão/ năm (khoảng từ tháng 7 đến tháng 10).

1.3. Điều kiện kinh tế - xã hội

1.3.1. Về kinh tế
Năm 2021, Nam Định là đơn vị hành chính Việt Nam xếp thứ 35 về Tổng sản
phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 31 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ
11 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với GRDP đạt 84.097 tỉ Đồng (tương ứng với
3,66 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 45,8 triệu đồng (tương ứng với 1.982
USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 7,7%.

Nam Định nằm trong vùng trọng điểm sản xuất lương thực, thực phẩm của đồng
bằng Bắc Bộ. Đồng thời, có nền sản xuất công nghiệp phát triển tương đối sớm với
nhiều ngành nghề truyền thống, là một trong những trung tâm dệt may hàng đầu
của cả nước.

1.3.2. Về dân cư – lao động

Nam Định là tỉnh có dân số đông và lực lượng lao động khá lớn. Tỷ lệ lao động
và cư dân cao hơn nhiều so với tỷ lệ trong cả nước với mức dao động khoảng
2,7%, đứng thứ 6 trong toàn quốc, nhưng lao động thiếu việc làm lại chiếm tỷ lệ
lớn 33,2% so với 25,2% trong cả nước và 33,6% ở đồng bằng sông Hồng. Trên
thực tế số lao động không có việc làm vẫn có các hoạt động để tạo thu nhập nhưng
thấp và không thường xuyên. Trong thời kỳ đổi mới, với sự hỗ trợ của nhà nước,
chính quyền địa phương đã tiến hành nhiều biện pháp nhằm tạo công ăn việc làm,
kể cả đội ngũ công nhân vốn gặp không ít khó khăn trong thời kỳ "hậu bao cấp'' và
triển khai đưa dân đi vùng kinh tế mới.

1.3.3. Về cơ sở hạ tầng

Trong hơn 10 năm qua, Nam Định đã chủ động tập trung huy động nhiều nguồn
lực đầu tư xây dựng và phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng giao thông, nhất là hạ
tầng giao thông đường bộ để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thu hút đầu tư
trong và ngoài nước phát triển sản xuất, kinh doanh, phát triển toàn diện kinh tế -
xã hội.
2. Vấn đề bảo tồn di sản văn hóa và việc bảo tồn văn hóa trong phát triển du
lịch

2.1. Khái niệm bảo tồn di sản

Bảo tồn di sản được hiểu như là các nỗ lực nhằm bảo vệ và giữ gìn sự tồn tại của di
sản theo dạng thức vốn có của nó.

Bảo tồn là bảo vệ và giữ gìn sự tồn tại của sự vật hiện tượng theo dạng thức vốn có
của nó. Bảo tồn là giữ lại, không mất đi, không để bị thay đổi, biến hóa.

Đối tượng bảo tồn tức là các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể cần được thỏa
mãn hai điều kiện:

- Một là, nó phải được coi là tinh hoa, là một giá trị đích thực được thừa nhận một
cách minh bạch, không có gì hồ nghi hay bàn cãi.

- Hai là, nó phải hàm chứa khả năng, chí ít là tiềm năng, đứng vững lâu dài với thời
gian, là cái giá trị của nhiều thời (tức là có giá trị lâu dài) trước những biến đổi tất
yến về đời sống vật chất và tinh thần con người, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế
thị trường và quá trình toàn cầu hóa đang diên ra cực kì sôi động.

2.2. Vấn đề bảo tồn văn hóa

Trong xu thế hội nhập quốc tế, các quốc gia luôn tuân thủ định hướng lớn là: tôn
trọng sự đa dạng văn hóa, bảo vệ và tôn vinh bản sắc văn hóa dân tộc làm nền tảng
tinh thần và động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, trong đó có mục tiêu xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Với ý thức rằng “đa
dạng văn hóa tạo nên một thế giới phong phú và đa dạng, gia tăng các lựa chọn và
nuôi dưỡng khả năng và giá trị của con người, và vì vậy, đa dạng văn hóa là một
động lực thúc đẩy sự phát triển bền vững cho các cộng đồng, các dân tộc và các
quốc gia”, UNESCO đã trịnh trọng tuyên bố trong lời nói đầu Công ước Bảo vệ và
phát huy sự đa dạng của các biểu đạt văn hóa được thông qua tại phiên họp lần thứ
33 tổ chức tại Paris từ ngày 3 đến 21-10-2005. Là một quốc gia đa tộc người như
Việt Nam, quan điểm tôn trọng sự đa dạng văn hóa càng có ý nghĩa cấp thiết hơn
bao giờ hết. Đặc biệt trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và giao
lưu văn hóa với thế giới, chúng ta cần phải quan tâm bảo vệ bản sắc văn hóa dân
tộc để hội nhập mà không bị hòa tan.

Văn hóa nói chung, di sản văn hóa nói riêng được khẳng định là bộ phận hữu cơ
trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Kinh tế và văn hóa là những yếu tố có mối
liên hệ mật thiết, phụ thuộc và tác động tương hỗ, bổ sung lẫn nhau. Hơn nữa trong
cấu trúc nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, việc bảo tồn di
sản văn hóa phải đặt ra nhiệm vụ phục vụ nhu cầu phát triển bằng cách tác động tới
việc giáo dục, bồi dưỡng nhân cách con người và đào tạo nguồn nhân lực có chất
lượng cho phát triển. Do đó bảo tồn di sản văn hóa phải vì mục tiêu phát triển và
gắn với phát triển kinh tế xã hội. Nhìn thoáng qua, dường như khó có thể gắn kết
kinh tế và văn hóa, di sản văn hóa. Cái thứ nhất chủ yếu liên quan đến sản xuất,
cạnh tranh, lợi nhuận tối đa và tăng trưởng, trong khi cái thứ hai luôn hướng tới
các giá trị nhân văn cao cả, chân – thiện – mỹ, phục vụ cho lợi ích chung của cộng
đồng mà không phải là những tham vọng vị kỷ của cá nhân. Nhưng sẽ bảo tồn như
thế nào, bằng phương tiện nào nếu không có cơ sở vật chất, kỹ thuật hoặc thiếu
nguồn kinh phí do nền kinh tế mang lại. Và do đó bảo tồn di sản văn hóa phải phục
vụ mục tiêu phát triển và cũng là nhu cầu tự thân của chính mình.

Di sản văn hóa cần được bảo vệ và phát huy giá trị với tư cách là một bộ phận
cấu thành môi trường sống của nhân loại (môi trường văn hóa xã hội, cái thiên
nhiên thứ hai), trong đó lãnh thổ quốc gia, không gian sinh tồn và hệ thống đô thị
và các địa điểm cư dân là những đại diện điển hình nhất. Di sản văn hóa còn được
coi trọng và tôn vinh vì đó là loại tài sản quý giá không thể thay thế, không thể tái
sinh, nhưng lại rất dễ bị biến dạng và tổn thương trước tác động của các nhân tố tự
nhiên và cách hành xử thiếu văn hóa do chính con người gây ra. Theo định nghĩa
tại Điều 1 Luật bảo vệ môi trường của Việt Nam “Môi trường bao gồm các yếu tố
tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con
người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại và phát triển của con người
và thiên nhiên”. Môi trường sống của con người có 3 bộ phận cấu thành: môi
trường tự nhiên, môi trường nhân tạo và môi trường văn hóa xã hội, trong đó di sản
văn hóa hàm chứa trong bản thân nó cả 3 hợp phần (nơi chúng ta sống – văn hóa
vật thể, cách chúng ta sống – văn hóa phi vật thể và môi trường thiên nhiên quanh
ta). Khái niệm di tích lịch sử – văn hóa và danh lam thắng cảnh lại bao hàm: các
hạng mục kiến trúc, các địa điểm lịch sử; môi trường – cảnh quan thiên nhiên bao
quanh di tích và giá trị văn hóa phi vật thể gắn với di tích. Từ đặc trưng đó đặt ra
yêu cầu bảo tồn di sản văn hóa phải gắn với bảo vệ môi trường thiên nhiên và
ngược lại, bảo vệ môi trường thiên nhiên là tạo ra môi trường tự nhiên trong lành
cho sự tồn tại lâu dài của di sản, cao hơn nữa, còn tạo nên sức hấp dẫn thẩm mỹ
cho di sản văn hóa.

Xã hội hóa (huy động nguồn lực xã hội) các hoạt động văn hóa cần được nhìn
nhận một cách chuẩn xác và toàn diện. Con người được coi là trung tâm của quá
trình phát triển. Và do đó, di sản văn hóa phải luôn gắn con người và cộng đồng cư
dân địa phương nơi nó được sáng tạo ra và hiện đang được thực hành và truyền
dạy. Đồng thời mục tiêu bảo tồn di sản văn hóa luôn phải hướng vào việc đáp ứng
nhu cầu sinh hoạt văn hóa lành mạnh của công chúng trong xã hội. Trước tiên, xã
hội hóa được định nghĩa là “quá trình mà qua đó chúng ta có thể tiếp nhận được
nền văn hóa của xã hội – nơi chúng ta sinh ra, là quá trình mà nhờ nó chúng ta đạt
được những đặc trưng xã hội của bản thân, học được cách suy nghĩ và ứng xử được
coi là thích hợp trong xã hội của chúng ta”. Đó cũng là quá trình cá nhân liên tục
chủ động học hỏi lĩnh hội kiến thức văn hóa, giá trị văn hóa, kinh nghiệm, bài học
từ trong lịch sử để làm giàu thêm đời sống tinh thần của mình, từng bước hình
thành nhân cách con người để hòa nhập vào xã hội, từ con người cá nhân thành con
người xã hội (từ bầy đàn thành một thực thể xã hội có tổ chức), từ cá thể độc lập
thành một thành viên của cộng đồng. Thông qua xã hội hóa phần con sẽ thu hẹp lại
tối thiểu, phần người được không ngừng gia tăng và thăng hoa.

Xã hội hóa các hoạt động văn hóa được hiểu là xây dựng cộng đồng trách nhiệm
của các tầng lớp cư dân trong xã hội, tự nguyện tham gia vào việc tạo lập và cải
thiện môi trường kinh tế, xã hội lành mạnh và thuận lợi cho phát triển kinh tế cũng
như các hoạt động văn hóa. Nhờ thế chúng ta có thể thu hút các nguồn lực, thành
phần kinh tế, các cộng đồng cư dân trong xã hội tham gia sáng tạo, cung cấp và
phổ biến các sản phẩm văn hóa (loại hàng hóa đặc biệt) có chất lượng cao thỏa
mãn nhu cầu hưởng thụ văn hóa đa dạng của công chúng.

Trong quá trình xã hội hóa, nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo trong việc định
hướng cho các hoạt động văn hóa (định hướng chứ không làm thay, nhất là không
được khoán trắng cho cộng đồng), đồng thời tăng cường đầu tư và tài trợ cho các
hoạt động văn hóa, thì mới mong thực hiện có hiệu quả chủ trương xã hội hóa các
hoạt động văn hóa nói chung và hoạt động bảo tồn di sản văn hóa nói riêng. Hướng
đích cần thực hiện là:

Đổi mới, nâng cao chất và hiệu quả quản lý nhà nước, quan trọng hơn cả là có biện
pháp nâng cao năng lực cũng như văn hóa đạo đức của đội ngũ cán bộ quản lý để
ngăn ngừa những biến thái có thể xảy ra trong quá trình xã hội hóa các hoạt động
văn hóa.
Sáng tạo nhiều hình thức hoạt động phong phú, vừa hấp dẫn, vừa phù hợp với
phong tục, tập quán của dân tộc cũng như yêu cầu các tầng lớp cư dân khác nhau
trong xã hội.

Tôn trọng và phát huy tối đa vai trò của cộng đồng trong các hoạt động văn hóa.

Huy động nguồn lực tại chỗ và của cả xã hội.

Tạo ra sự kích thích, tổ chức các hoạt động mang tính chất đòn bẩy để phát triển
năng lực cộng đồng bằng tài chính, trang thiết bị, xây dựng cơ sở hạ tầng, đào tạo
nâng cao chất lượng nguồn lực.

Bản chất của hoạt động bảo tồn là giữ gìn, bảo vệ các yếu tố nguyên gốc trong di
sản văn hóa. Trước hết cần nhận thức di sản văn hóa như là một dạng sản phẩm
được sáng tạo trong những điều kiện kinh tế, lịch sử và văn hóa cụ thể qua nhiều
giai đoạn phát triển. Do đó chúng ta cần làm rõ mối quan hệ giữa di sản văn hóa
với các giai đoạn lịch sử mà nó đã được sáng tạo để tìm thấy những thông tin, kinh
nghiệm và cả bài học lịch sử, trong đó quan trọng nhất là tính nguyên gốc và tính
chân xác lịch sử của di sản.

Tính nguyên gốc gắn với những bộ phận cấu thành của di tích được sáng tạo ngay
từ lúc khởi dựng ban đầu. Còn tính chân xác lịch sử lại gắn với những dấu ấn sáng
tạo được hình thành trong quá trình tồn tại của di tích. Như vậy, yếu tố nguyên gốc
và yếu tố chân xác lịch sử sẽ quyết định các mặt giá trị của di tích. Yếu tố gốc gắn
với sự khởi thủy, sáng tạo ban đầu, tính nguyên mẫu, nó đối lập với sự sao chép,
yếu tố gốc còn là những căn cứ đáng tin cậy, ngược với những gì là phỏng đoán
hoặc giả thiết. Còn tính chân xác lịch sử lại đối lập với những gì là giả mạo hoặc
làm giả như thật.

3. Những tác động của du lịch tới các di sản văn hóa ở Nam Định
3.1. Đối với di sản văn hóa vật thể

3.1.1. Tích cực

+ Tăng hiểu biết của du khách đối với các di sản: di sản nếu không được con
ngƣời biết đến thì giá trị của di sản đó sẽ không được phát huy. Du lịch chính là
con đường hợp pháp giới thiệu di sản đến với công chúng. Khi du lịch phát triển sẽ
có số lượng khách du lịch đến tham quan và tìm hiểu các di tích, di sản càng nhiều.
Chính điều này đã giúp cho các giá trị di sản được giới thiệu rộng rãi, không dừng
lại ở mức độ vùng, miền hay khu vực mà ở khắp thế giới.

+ Tuyên truyền cho người dân về lợi ích do các di sản mang lại. Từ đó giáo dục và
nâng cao sự nhận thức bảo vệ các di sản: du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp.
Khi du lịch phát triển, đồng nghĩa với nền kinh tế ở những điểm đến cũng phát
triển theo. Người dân sẽ nhận thức được chính các di sản là nguồn tài nguyên
mang đến sự phồn vinh cho cuộc sống của họ. Chính lợi ích đó sẽ giúp họ phát huy
sức mạnh của cộng đồng để bảo vệ di sản nhƣ bảo về chính nguồn lợi kinh tế lâu
dài cho gia đình và địa phương họ.

+ Du lịch góp phần tôn tạo và tái đầu tư vào các di sản: kinh tế địa phương phát
triển, các khoản thuế từ các cơ sở kinh doanh địa phương đóng góp vào ngân sách
chung của nhà nước nhiều hơn. Nhà nước có kinh phí để bảo tồn và tôn tạo các di
sản. Như vậy cũng có nghĩa là di sản sẽ tái tạo lại giá trị của mình bằng chính con
đường du lịch. Điều này cũng phù hợp với mục tiêu phát triển du lịch để bảo tồn di
sản.

+ Du lịch giúp cải thiện môi trường đầu tư và sự hỗ trợ của các tổ chức, cá nhân: di
sản là nguồn tài nguyên đưa đến những giá trị kinh tế rất lớn cho ngành công
nghiệp không khói. Vì thế nơi đâu có di sản là nơi đó thường thu hút sự quan tâm
của các nhà đầu tư. Khi du lịch phát triển, các di sản càng có điều kiện tiếp cận với
các kênh đầu tư và sự hỗ trợ của các tổ chức, cá nhân. Du lịch trở thành kênh tuyên
truyền, quảng bá hữu hiệu cho việc đầu tư, hỗ trợ nâng cấp và bảo tồn các di sản.

+ Du lịch giúp nâng cao trình độ quản lý các di sản: Khi du lịch phát triển đòi hỏi
các ngành quản lý phải có trình độ tương xứng nếu không sẽ không phát huy hết
giá trị của di sản và không mang lại hiệu quả kinh tế tối ưu. Thị trường du lịch
cũng mang tính chất đào thải như bao thi trường kinh tế khác. Du lịch phát triển
đặt ra vấn đề cấp thiết về trình độ quản lý di sản phải tương thích với sự phát triển
chung của xã hội.

3.1.2. Tiêu cực

+ Du lịch làm xuống cấp các di sản: Phát triển du lịch làm cho lượng khách tập
trung nhiều hơn ở di sản. Sự quản lý không chặt chẽ của các nhà chuyên môn trong
việc bảo quản không tốt di sản, và sự thiếu hiểu biết ở nhiều du khách thể hiện qua
việc sờ, mó, đụng chạm đến di sản là điều khó tránh khỏi. Sự tham gia của cộng
đồng đối với vấn đề khai thác và bảo vệ di sản khỏi những xâm hại của con người
chưa cao. Mỗi ngườii một kiểu, một cách đụng chạm dần dần sẽ làm hao mòn và
xuống cấp di sản.

+ Làm biến dạng các di sản: Hiện nay, phong trào trùng tu các di tích để phát triển
du lịch đang nở rộ ở nhiều địa phương. Điều nay vẫn không có gì trái với chủ
trương của chính phủ và đề án phát triển du lịch của cả nước. Tuy nhiên, có nơi chỉ
vì đáp ứng những nhu cầu trước mắt của du khách nên các nhà quản lý ra sức trùng
tu, chỉnh trang các di tích thiếu cơ sở khoa học, không theo một quy hoạch hay quy
định nhất quán đã làm cho các di sản biến dạng so với hình thể ban đầu.

+ Môi trường của di sản bị ô nhiễm: Những nơi có đông du khách nếu không có
biện pháp xử lý môi trường phù hợp thì sẽ dẫn đến tình trạng quá tải về vệ sinh
chung. Sự thiếu hợp tác từ phía cư dân địa phương, khách du lịch và nhà quản lý
trong việc giữ gìn môi trường xung quanh những điểm có di sản góp phần làm môi
trường xung quanh di sản bị ô nhiễm trầm trọng và dẫn đến kết quả là làm cho di
sản mau chóng bị hư hại.

3.2. Đối với di sản văn hóa phi vật thể

3.2.1. Tích cực

+ Du lịch giúp phát huy giá trị văn hóa bản địa: du lịch là cầu nối cho du khách đến
với các giá trị văn hóa phi vật thể của vùng miền. Chính du khách sẽ trở thành
những nhà tuyên truyền hữu hiệu đưa các di sản này đến với cộng đồng rộng lớn.
Giá trị của di sản nếu không được con người cảm nhận đồng nghĩa với việc di sản
đó không có giá trị. Du khách là những người cảm thụ các giá trị văn hóa và khẳng
định giá trị di sản. Du lịch phát triển càng làm cho văn hóa bản địa phát huy hết
tính năng của mình. Điều này mang đến lợi ích kinh tế về du lịch và cũng giúp cho
các di sản có nhiều khả năng tồn tại.

+ Giáo dục con người có ý thức bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể: Du lịch phát
triển sẽ phản ánh được tầm quan trọng của di sản trong đời sống kinh tế cũng như
đời sống tinh thần của người dân. Di sản văn hóa phi vật thể hình thành trong quá
trình phát triển của một cộng đồng cư dân. Nó đại diện cho con người qua từng
giai đoạn lịch sử. Con người thừa hưởng những thành quả sáng tạo mà cha ông để
lại qua lời ca, tiếng hát, qua kinh nghiệm sống. Vì thế, đứng ở góc độ nào thì người
dân trong vùng có di sản cũng rất tự hào về địa phương mình.

+ Đóng góp kinh phí để bảo tồn các giá trị di sản: Du lịch phát triển, giải quyết
lượng lớn lao động địa phƣơng và đem lại nguồn thu rất lớn cho cư dân bản địa,
đóng góp ngân sách nhà nước. Đồng thời, giúp cho nhiều ngành kinh tế địa phương
phát triển ăn theo với du lịch. Chính nguồn thu đó góp phần khôi phục lại những
giá trị di sản sắp bị lãng quên, góp phần tái tạo sức sống của di sản, duy trì kinh phí
cho đội ngũ làm công tác có liên quan đến việc bảo tồn và tôn tạo di sản.

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH GẮN VỚI BẢO TỒN
DI SẢN VĂN HÓA Ở NAM ĐỊNH

2.1. Giới thiệu chung về các di sản văn hóa Nam Định

Nằm ở trung tâm vùng Nam đồng bằng sông Hồng, trong suốt quá trình hình
thành và phát triển, Nam Định được coi là trung tâm tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ
của người Việt. Đây cũng là nơi phát tích của Vương triều Trần, nơi sản sinh ra
nhiều nhà khoa bảng, danh nhân văn hóa của Việt Nam.

Nam Định còn có kho tàng di sản văn hóa vật thể và phi vật thể phong phú, đa
dạng. Ở khắp các miền quê trong tỉnh đều dày đặc di sản, di tích; đó là những công
trình tôn giáo, tín ngưỡng tâm linh: đình, đền, chùa, miếu, phủ, nhà thờ, từ đường,
những phong tục tập quán, các loại hình dân ca, dân vũ, trò chơi dân gian, thể hiện
đậm nét trong các lễ hội truyền thống và những sinh hoạt văn hóa trong cộng đồng
dân cư.

2.1.1. Văn hóa vật thể

2.1.1.1. Quần thể di tích lịch sử văn hóa Trần

Khu di tích Đền Trần Nam Định là ngôi đền thờ 14 vị vua nhà Trần cùng gia
quyến và các quan lại có công phù tá. Nơi đây còn nổi tiếng với Lễ dâng hương
khai ấn Đền Trần đầu xuân và Hội Đền Trần tháng tám âm lịch hàng năm.
Khu di tích đền Trần - Nam Định bao gồm 3 công trình kiến trúc chính là: đền
Thiên Trường, đền Cố Trạch và đền Trùng Hoa, có kiểu dáng chung và quy mô
ngang nhau. Phía trước có cổng ngũ môn. Qua cổng là một hồ nước hình chữ nhật.
Chính giữa phía sau hồ là đền Thiên Trường.

Hàng năm, tại khu di tích Đền Trần Nam Định sẽ diễn ra 2 lễ hội lớn, đó là Lễ khai
ấn Đền Trần đầu xuân và Hội Đền Trần tháng tám, thu hút đông đảo người dân địa
phương cùng du khách thập phương về dự, tri ân công đức của 14 vị vua Trần và
cầu mong những điều tốt đẹp.

2.1.1.2. Chùa Cổ Lễ

Chùa Cổ Lễ có tên chữ là Quang Thần tự thuộc thị trấn Cổ Lễ, huyện Trực
Ninh, một di tích lịch sử - văn hoá, thắng cảnh nổi tiếng vùng đồng bằng châu thổ
sông Hồng, được lập vào thế kỷ thứ XII thời Lý. Chùa dựng trên một nền đất
vuông, có sông nhỏ và hồ bao quanh. Chùa Cổ Lễ ngoài thờ Phật, còn thờ Thiền sư
Nguyễn Minh Không, người đã từng chữa cho vua Lý Thần Tông thoát khỏi cơn
bệnh hiểm nghèo.

Chùa đầu tiên bằng gỗ theo lối kiến trúc cổ, tuy nhiên đã bị đổ nát. Năm 1902,
chùa được xây dựng lại theo kiến trúc "Nhất Thốc Lâu Đài" với những yếu tố kiến
trúc Gothique giống như các nhà thờ Công giáo có khá nhiều ở khu vực lân cận.
Sau đó, chùa đã được trùng tu nhiều lần, vật liệu xây dựng là gạch, vôi vữa, mật
mía, giấy bản tạo nên độ cố kết vững bền của toàn bộ kiến trúc ngôi chùa.

2.1.1.3. Chùa Keo Hành Thiện

Chùa Keo nằm ở xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Đây là một
trong những ngôi chùa cổ ở Việt Nam được bảo tồn hầu như còn nguyên vẹn kiến
trúc 400 năm tuổi.

Không gian chùa là là cả một khu kiến trúc cổ to lớn, bề thế với 13 tòa rộng gồm
121 gian nối tiếp nhau soi bóng xuống mặt hồ lung linh huyền diệu. Hai bên đường
kiệu lát gạch, kề liền hai dãy hành lang, mỗi dãy gồm 40 gian bề thế.

2.1.2. Văn hóa phi vật thể

2.1.2.1. Hội chợ Viềng

Theo truyền thuyết, có hai vị tướng hành quân khi đến đất Nam Giang thì ngựa
của hai tướng bị hỏng móng phải dừng lại. Nhân tiện có làng Vân Tràng nổi tiếng
với nghề rèn truyền thống, nên đã nhờ bà con rèn lại móng ngựa và vũ khí mang
theo. Trong khi chờ đợi, hai tướng đã ra lệnh cho lính lập đàn loan tin chiến thắng.
Biết được, dân chúng ở khắp các xã, thôn lân cận đem trâu, bò về mổ ở làng Vân
Tràng ăn mừng… Từ sự kiện đó, bà con huyện Nam Trực lấy đêm ngày mồng 7 và
sáng mồng 8 tháng Giêng làm ngày hội họp đầu xuân để tưởng nhớ hai vị tướng.

2.1.2.2. Lễ hội Đền Trần

Không biết từ bao giờ câu ca "Tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ" luôn vương
vấn trong tâm thức của mỗi người dân đất Việt như một lời nhắc nhở để mỗi dịp
tháng ba, tháng tám hàng năm lại tìm về cội nguồn, cùng hoà mình vào những lễ
nghi trang nghiêm, những lễ hội tưng bừng, tưởng nhớ Thánh, Mẫu đã có công
sáng lập và gìn giữ vùng đất thiêng này. Lễ hội đền Trần được tổ chức trong các
ngày từ ngày 15 đến ngày 20 tháng tám âm lịch hàng năm tại phường Lộc Vượng,
thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định nhằm tri ân công đức của 14 vị vua Trần.

2.1.2.3. Lễ hội Phủ Giầy

Nam Định được xem là trung tâm của Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam với gần
400 điểm thờ cúng Thánh Mẫu, trong đó Phủ Dầy (tương truyền là nơi Mẫu Liễu
Hạnh sinh ra) là tâm điểm của hoạt động thực hành tín ngưỡng này. Phủ Dầy trước
đây có tên cổ là Kẻ Dầy, cho tới khi Liễu Hạnh được suy tôn là “Mẫu nghi thiên
hạ” thì Kẻ Dầy được đổi thành Phủ Dầy. Quần thể Phủ Dầy bao gồm hơn 20 di tích
gắn liền với cuộc đời Thánh Mẫu Liễu Hạnh trong lần giáng sinh thứ 2. Trong đó,
kiến trúc quan trọng nhất là phủ Tiên Hương (phủ chính), phủ Vân Cát và lăng
chúa Liễu. Lễ hội Phủ Dầy được tổ chức để tưởng nhớ ngày giỗ Thánh mẫu Liễu
Hạnh.

Hội Phủ Dầy hấp dẫn du khách bởi sự đan xen, hòa quyện giữa những nghi thức
trang trọng như: rước đuốc, rước thỉnh kinh, hoa trượng hội, hầu đồng với các hoạt
động văn hóa dân gian sôi nổi, đặc sắc như: thi hát văn, đánh cờ người, múa lân,
múa rồng, đấu võ, đấu vật, thổi cơm thi...
2.1.3. Văn hóa ẩm thực

Cùng với cảnh quan thiên nhiên, hệ thống các di tích lịch sử – văn hoá khá dày
đặc, tỉnh Nam Định còn là nơi hội tụ đa dạng nghệ thuật ẩm thực truyền thống nổi
tiếng như: Phở Nam Định, Kẹo Sìu Châu, Bánh cuốn làng Kênh… Những năm gần
đây, xu hướng du khách lựa chọn du lịch sinh thái, du lịch văn hóa tâm linh kết
hợp trải nghiệm, thưởng thức các món ăn bản địa truyền thống ngày càng tăng, đó
là một trong những điều kiện thuận lợi để ngành du lịch Nam Định sẵn sàng phục
hồi và phát triển khi dịch bệnh COVID-19 được kiểm soát.

Những năm gần đây, công tác quảng bá ẩm thực Nam Định được sự quan tâm
của ngành chức năng và sự chung tay của nhiều nhà hàng, doanh nghiệp du lịch, lữ
hành. Hàng năm, Bảo tàng tỉnh thường xuyên tổ chức các sự kiện quảng bá gian
hàng ẩm thực Nam Định trong khuôn viên Bảo tàng nhân dịp Chợ tết “Một Thoáng
Thành Nam”; mở cửa khu trưng bày, trải nghiệm một số loại hình di sản văn hóa
tiêu biểu của Nam Định để phục vụ hoạt động giáo dục gồm: không gian “Bếp Việt
truyền thống” vùng đồng bằng Bắc Bộ; tham quan, trải nghiệm tìm hiểu đặc trưng
văn hóa làng quê vùng đồng bằng Bắc Bộ với hình ảnh lũy tre xanh, không gian
thu hoạch lúa, chế biến thóc, gạo; không gian bếp của người Việt xưa… trải
nghiệm các hoạt động xay thóc, giã gạo, sàng, sảy, thổi cơm bằng niêu đất, làm
món cơm nắm muối vừng… Nhà hàng Cánh diều Vàng cũng tích cực tham gia
công tác quảng bá ẩm thực Nam Định. Năm 2019, nhà hàng Cánh diều Vàng tổ
chức trưng bày và trình diễn “Không gian phở Nam Định” với hơn 10 gian hàng
thu hút đông đảo du khách tham gia trải nghiệm. Khách sạn Nam Cường tổ chức
Dạ tiệc “Tinh hoa nghệ thuật văn hoá và truyền thống Nam Định”.

Để “đánh thức” tiềm năng du lịch ẩm thực, thời gian tới, các cấp, các ngành, các
địa phương tiếp tục tăng cường quản lý Nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm; tổ
chức tập huấn, hướng dẫn các cơ sở dịch vụ ăn uống, nhà hàng, khách sạn đảm bảo
vệ sinh, an toàn trong lựa chọn, chế biến, cung cấp thực phẩm. Trên cơ sở rà soát,
thống kê những món ăn tiêu biểu, đặc trưng có khả năng tích hợp đưa vào xây
dựng sản phẩm du lịch, ngành Du lịch tỉnh xây dựng chiến dịch quảng bá văn hóa
ẩm thực địa phương đến với du khách thông qua những sự kiện du lịch, văn hóa
ẩm thực được tổ chức trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, những người làm du lịch
cần bồi dưỡng kiến thức, giới thiệu, chia sẻ với du khách về không gian, văn hóa
ẩm thực làm nổi bật nét đẹp văn hóa ẩm thực Nam Định trong lòng du khách.

2.2. Thị trường - khách du lịch và vấn đề bảo tồn các di sản văn hóa Nam
Định

Mạng lưới cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch và hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật
nghành du lịch trên địa bàn tỉnh từng bước phát triển đáp ứng nhu cầu của khách
du lịch. Khách du lịch đến Nam Định gần như quanh năm: Mùa lễ hội đầu xuân,
cuối thu; mùa hè tại các khu nghỉ mát, tắm biển Quất Lâm, Thịnh Long và mùa
đông khi đến thăm quan nghiên cứu tìm hiểu Vườn quốc gia Xuân Thủy, nhưng
khách đến Nam Định tập trung đông nhất vẫn là vào mùa lễ hội, điển hình như Lễ
hội Phủ Giầy, lễ hội Đền Trần.

Năm 2021, nghành du lịch bị ảnh hưởng trực tiếp bởi đại dịch Covid-19, lượng
khách và doanh thu sụt giảm mạnh. Lượt khách do các cơ sở lữ hành phục vụ đạt
13 nghìn lượt khách, giảm 12.7% so với năm trước. Khách du lịch chủ yếu là
khách trong nước. Doanh thu hoạt động du lịch và lữ hành đạt 7 tỷ đồng, giảm
32,8% so với năm trước.

- Thị trường khách du lịch: Sau đại dịch, tỉnh Nam Định, doanh nghiệp, cộng đồng
và khách du lịch đã nhận thức được tầm quan trọng của việc phát triển bền vững,
giảm thiểu các ảnh hưởng xấu của du lịch tới môi trường hội và xã hội; quan tâm
hơn tới công tác ứng phó với biến đổi khí hậu; ý thức xây dựng các kế hoạch dài
hạn, quản trị rủi ro, tập trung phát triển công nghệ để chuẩn bị sẵn sàng cho các
cuộc khủng hoảng có thể hiện ra trong tương lai. Khách du lịch cũng có yêu cầu
cao hơn với chất lượng trải nghiệm, mức độ bền vững và có trách nhiệm đối với tất
cả các mặt của ngành du lịch như hàng không, lưu trú, ẩm thực.

Đại dịch COVID-19 cũng đòi hỏi công tác chuyển đổi số trong ngành du lịch được
thực hiện nhanh hơn để bắt kịp với những yêu cầu mới của của thị trường. Nhiều
quốc gia đã đơn giản hóa thủ tục nhập cảnh và ứng dụng công nghệ thông tin để
tạo ra các trải nghiệm "không chạm" và thông suốt cho khách du lịch, giúp tiết
kiệm thời gian cũng như hạn chế tương tác trực tiếp trong giai đoạn đại dịch (quét
sinh trắc học, sử dụng thẻ đi lại số, check-in phòng ở và nhận chìa khóa phòng trên
app di động, sử dụng robot dọn dẹp và vận chuyển hành lý...).

Hiện nay, du khách quan tâm hơn đến yếu tố an toàn và tốt cho sức khoẻ, điều kiện
y tế của điểm đến khi đi du lịch, đồng thời chú ý đến việc mua bảo hiểm du lịch và
xem xét các chính sách hoãn hủy chuyến do đại dịch. Các sản phẩm du lịch bền
vững, du lịch xanh, du lịch sinh thái được tìm hiểu nhiều hơn, khách du lịch có xu
hướng lựa chọn các khu vực ngoài trời, thông thoáng khi đi nghỉ dưỡng. Các sản
phẩm du lịch ẩm thực được chứng nhận tốt cho sức khoẻ, sử dụng nguyên liệu hữu
cơ cũng trở thành lựa chọn phổ biến hơn.

2.3. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch và vấn đề bảo tồn di sản văn hóa
Nam Định

2.3.1. Hệ thống cơ sở lưu trú

Du lịch được xác định “là một ngành kinh tế mũi nhọn” trong các ngành kinh tế
quốc dân và đang hội nhập với trào lưu phát triển du lịch của khu vực và thế giới.

Với những lợi thế về tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn phong phú, đa
dạng, đậm đà bản sắc dân tộc phát triển du lịch của tỉnh Nam Định là phù hợp với
xu thế của thời đại, phù hợp với chiến lược phát triển du lịch của Việt Nam, đặc
biệt là chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong đó du lịch và dịch vụ được xác
định là một ngành kinh tế quan trọng...

Năm 2015 (chưa Covid-19), tỉnh Nam Định đón 816.080 lượt khách du lịch đến
năm 2021 lượt khách du lịch là 684.301 lượt, giảm 83%. Tuy nhiên, dịch bệnh
được kiểm soát, nhu cầu đi du lịch đang tăng trở lại và có xu hướng cao vì thế các
cơ sở lưu trú du lịch ngày càng được chú trọng đầu tư xây dựng, đặc biệt là hệ
thống các khách sạn tư nhân, bên cạnh đó là một số Nhà nghỉ du lịch và homestay.

Lưu trú du lịch được xem là hoạt động có ý nghĩa quan trọng trong phát triển
ngành du lịch. Tuy nhiên hoạt động dịch vụ này tại tỉnh Nam Định vẫn còn nhiều
hạn chế, chưa theo kịp đòi hỏi ngày càng cao và đa dạng của hoạt động du lịch
trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày một sâu rộng và toàn diện. Ngoài những
nguyên nhân về thị trường thì đại đa số các cơ sở kinh doanh dịch vụ lưu trú trong
tỉnh xuất phát từ hộ gia đình kinh doanh tận thu, nên cơ sở vật chất không đảm bảo
đầy đủ các tiêu chí theo quy định, trang thiết bị tiện nghi xuống cấp nhưng chưa
được quan tâm đầu tư, sửa chữa; Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của người quản
lý điều hành, người lao động còn thiếu và yếu, thiếu kỹ năng phục vụ, giao tiếp với
khách rất hạn chế, chưa đạt yêu cầu, trình độ ngoại ngữ chưa đáp ứng được công
việc; Bên cạnh đó hầu hết các đơn vị kinh doanh cơ sở lưu trú chưa biết liên kết,
hợp tác với nhau dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, mạnh ai nấy làm,
giá phòng tự tăng lên vào mùa cao điểm...

2.3.2. Hệ thống cơ sở kinh doanh ăn uống

Ở Nam Định, các nhà hàng thường gắn liền với khách sạn từ 2 đến 4 sao. Các
nhà hàng này ngoài việc phục vụ đám tiệc của địa phương còn phục vụ lượng
khách lưu trú trong khách sạn. Đây cũng là các đơn vị lữ hành ở các tỉnh bạn
thường đặt ăn cho đoàn khách đến Nam Định. Những nhà hàng này phục vụ mang
tính chuyên nghiệp và quy mô lớn, thực đơn cũng phong phú có sự giao lưu văn
hóa ẩm thực giữa các dân tộc. Bên canh đó, các nhà hàng kinh doanh riêng biệt
cũng rất linh động, khách chủ động xây dựng thực đơn. Tuy nhiên, loại nhà hàng
này chủ yếu phục vụ khách địa phương và lượng lớn khách du lịch tự phát.

CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH GẮN VỚI BẢO TỒN DI
SẢN VĂN HÓA Ở NAM ĐỊNH

3.1. Giải pháp góp phần phát triển du lịch tỉnh Nam Định

3.1.1. Giải pháp phát triển sản phẩm du lịch văn hóa đặc thù

- Trước hết, cần xác định được sản phẩm du lịch đặc thù là sản phẩm có nét khá
đặc trưng của Nam Định là “Du lịch biển”

Ngoài ra còn có các sản phẩm du lịch khác như:

+ Du lịch tham quan nghiên cứu, tìm hiểu.

+ Du lịch văn hóa lễ hội, sự kiện lịch sử.

+ Du lịch sinh thái

+ Du lịch khảo cổ

+ Du lịch làng nghề

+ Du lịch nghỉ dưỡng

+ Du lịch kèm theo sự kiện đặc biệt (lễ kỷ niệm)

- Xây dựng sản phẩm du lịch văn hóa ở Nam Định theo đặc tính tài nguyên du lịch
của tỉnh kết hợp với nét đặc sắc dân tộc của cư dân địa phương.
- Nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch văn hóa thông qua việc xác định giá trị
thực của sản phẩm để có kế hoạch đầu tư đúng đắn và lâu dài.

- Khai thác văn hóa ẩm thực của các dân tộc ở tỉnh để làm điểm nhấn trong tour du
lịch nhằm góp phần nâng cao các giá trị văn hóa trong du lịch ở Nam Định

- Khôi phục các trò chơi dân gian biểu diễn tại các điểm đến, mang đến cho khách
du lịch những cảm giác mới, lạ và không gian du lịch ấm cúng.

3.1.2. Giải pháp phát triển nhân lực du lịch văn hóa

Nguồn nhân lực luôn là vấn đề quan trọng quyết định chất lượng dịch vụ. Trong
thời gian qua, nguồn nhân lực trong du lịch văn hóa ở Nam Định đang ngày càng
được lãnh đạo tỉnh quan tâm đào tạo. Tuy nhiên, do nhu cầu của du khách về du
lịch ngày càng cao vì thế khả năng đáp ứng về chất lượng của nguồn nhân lực
trong du lịch của tỉnh vẫn còn rất khiêm tốn. Giải quyết vấn đề về nguồn nhân lực
trong du lịch ở Nam Định hiện nay cần chú ý các vấn đề như sau:

- Nguồn nhân lực quản lý nhà nước về du lịch văn hóa

+ Rà soát lại trình độ quản lý của các cán bộ lao động trong các cơ quan quản lý
nhà nước về du lịch, để từ đó có cơ sở lập kế hoạch đào tạo mới và đào tạo lại cho
phù hợp với nhu cầu quản lý hiện tại

+ Mời và đào tạo các chuyên gia cao cấp để tư vấn cho các cấp lãnh đạo các ngành
nghề có liên quan về vấn đề đầu tư, tuyên truyền quảng bá trong lĩnh vực du lịch
văn hóa.

+ Liên kết đào đạo rộng khắp trong nước và quốc tế nhằm cung cấp đội ngũ lao
động ưu việt phục vụ trong du lịch văn hóa ở địa phương. Cử các cán bộ chủ chốt
học tập và trao đổi kinh nghiệm, nghiên cứu các mô hình hoạt động du lịch văn hóa
thành công ở các địa phương trong nước và các nước khác trên thế giới. Tham gia
các hội thảo chuyên đề về du lịch văn hóa để từ đó rút ra đƣợc những ứng dụng
thiết thực cho địa phương mình.

- Nguồn nhân lực trong các cơ sở kinh doanh du lịch

- Xây dựng kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực trong các cơ sở kinh doanh du lịch.

- Có kế hoạch sử dụng lâu dài và hợp lý, đúng người, đúng việc đối với lao động
đã qua đào tạo chuyên mốn.

- Tạo môi trường làm việc lành mạnh và chất lượng cho người lao động.

- Xây dựng kỷ luật, chế độ thường, phạt và nội quy lao động rõ ràng trong doanh
nghiệp. Khuyến khích người lao động sáng tạo và ưu đãi những sáng kiến thiết
thực của người lao động.

- Đối với hướng dẫn viên, thuyết minh viên, tài xế và bộ phận lễ tân cần khuyến
khích thường xuyên cập nhật thông tin, trau dồi trình độ chuyên môn và ngoại ngữ.
Tăng cường mở các lớp tập huấn để ôn lại kiến thức chuyên môn, văn hóa ứng xử,
kỹ năng giao tiếp và khả năng nhạy bén trong việc xử lý các tình huống thường
xuyên xảy ra trong công việc.

3.2. Giải pháp góp phần bảo tồn di sản văn hóa ở tỉnh Nam Định

Tập trung bảo tồn, khai thác phát huy giá trị tài nguyên du lịch nhân văn là một
hướng quan trọng trong chiến lược phát triển du lịch của tỉnh Nam Định. Với định
hướng đó, trong những năm qua, ngành VH, TT và DL Nam Định đã tập trung
khai thác, phát huy giá trị các di sản văn hóa để hình thành các sản phẩm du lịch
văn hóa đặc trưng phục vụ du khách. Các khu du lịch văn hóa lịch sử Đền Trần,
Chùa Phổ Minh, Phủ Dầy, Đền Bảo Lộc, Chùa Cổ Lễ, Chùa Keo Hành Thiện, làng
cây cảnh Vị Khê, làng nghề đúc đồng Tống Xá, chạm khắc gỗ La Xuyên đã được
quy hoạch thành điểm du lịch quốc gia, điểm du lịch trọng điểm của tỉnh Nam
Định trong quy hoạch tổng thể phát triển du lịch của cả nước và của tỉnh. Ngoài
việc tuyên truyền quảng bá cho các sản phẩm du lịch văn hóa, ngành còn làm tốt
công tác tham mưu cho lãnh đạo tỉnh, các bộ, ngành Trung ương đầu tư, tu bổ, tôn
tạo bảo tồn các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể. Ngành đã tiến hành kiểm kê các
di sản văn hóa, lập hồ sơ đề nghị Thủ tướng Chính phủ, Bộ VH, TT và DL cấp
Bằng di tích quốc gia đặc biệt đối với di tích lịch sử văn hóa Đền Trần - Chùa Phổ
Minh, kiến trúc Chùa Keo Hành Thiện; công nhận Nghi lễ hát văn của người Việt
và Lễ hội Phủ Dầy là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Di sản “Thực hành nghi
lễ tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt” do tỉnh Nam Định đại diện xây
dựng, trình đã được UNESCO vinh danh là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của
nhân loại vào cuối năm 2016. Đây là niềm vinh dự lớn đối với ngành VH, TT và
DL Nam Định và cả nước bởi vì các di sản văn hóa của Việt Nam sau khi được thế
giới công nhận luôn được đánh giá cao và được định hướng khai thác để phát triển
trở thành các khu, điểm du lịch có ý nghĩa quốc gia và quốc tế, làm động lực cho
sự phát triển du lịch của cả nước và của các địa phương có di sản.

Bên cạnh đó, để phát huy giá trị di sản văn hóa phục vụ phát triển du lịch, ngành
VH, TT và DL Nam Định cũng luôn quan tâm tăng cường công tác quản lý, tổ
chức các lễ hội theo đúng thuần phong mỹ tục, phát huy bản sắc văn hóa truyền
thống. Trong những năm qua, ngành VH, TT và DL đã phối hợp với UBND Thành
phố Nam Định triển khai Đề án tổ chức Lễ hội Đền Trần đạt kết quả tốt, khắc phục
được tình trạng chen lấn, xô đẩy gây phản cảm, bức xúc trong dư luận xã hội.
Ngành cũng đã tạo điều kiện cho các loại hình văn hóa ở cơ sở, các trò chơi dân
gian được khôi phục, phát triển phục vụ nhu cầu thưởng thức của khách du lịch. Từ
năm 2009 đã chỉ đạo, phối hợp tổ chức 5 hội thi diều sáo các tỉnh đồng bằng sông
Hồng kết hợp trình diễn nghệ thuật diều Huế, diều quốc tế. Đặc biệt Hội thi Diều
sáo các tỉnh đồng bằng sông Hồng năm 2013 tổ chức tại khu du lịch biển Quất
Lâm với sự tham gia của 19 đội diều sáo đến từ 11 tỉnh, thành phố trong khu vực là
điểm nhấn trong chương trình Năm Du lịch quốc gia. Trong nhiều năm gần đây,
ngành đã chỉ đạo tổ chức các hoạt động trưng bày, đấu giá cổ vật vừa tạo cơ hội
giao lưu, trao đổi cho những người có cùng thú chơi và đam mê cổ vật vừa tạo ra
sản phẩm du lịch mới phục vụ khách du lịch đến Nam Định vào các dịp đầu xuân,
năm mới.

Với những nỗ lực, cố gắng trong việc khai thác phát huy giá trị di sản văn hóa của
địa phương để đa dạng hóa và nâng cao chất lượng các sản phẩm du lịch trong đó
có sản phẩm du lịch văn hóa của ngành VH, TT và DL, trong những năm qua
lượng khách du lịch đến Nam Định đều duy trì mức tăng trưởng bình quân trên
10% năm và ước đạt hơn 2,4 triệu lượt vào năm 2017. Lượng khách du lịch văn
hóa tâm linh đến Nam Định bình quân mỗi năm đạt trên 1,5 triệu lượt, thuộc nhóm
các tỉnh có lượng du khách tham quan du lịch lễ hội lớn trong cả nước.

Để du lịch văn hóa tiếp tục phát triển đem lại hiệu quả thiết thực cho hoạt động du
lịch của tỉnh góp phần thỏa mãn nhu cầu đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân
và du khách nhiệm vụ đặt ra đối với ngành VH, TT và DL trong thời gian tới là:

- Tăng cường tuyên truyền nâng cao nhận thức về du lịch, đảm bảo thực hiện đúng
các quan điểm phát triển du lịch văn hóa đặc biệt du lịch văn hóa tâm linh mang lại
những giá trị tinh thần tiến bộ cho xã hội, góp phần tích cực vào phát triển kinh tế -
xã hội bền vững; Tập trung tuyên truyền thực hiện tốt Nghị quyết 08 của Bộ Chính
trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn và các chương trình hành
động của Bộ VH, TT và DL.

- Tăng cường công tác quản lý lễ hội theo các văn bản quy định của Nhà nước đã
ban hành. Thực hiện nghiêm túc Quy chế quản lý và tổ chức lễ hội của Bộ VH, TT
và DL và chỉ đạo của UBND tỉnh hằng năm về “Tăng cường công tác quản lý và tổ
chức các hoạt động lễ hội”

- Tập trung nguồn lực, đẩy mạnh xã hội hóa để huy động nguồn lực đầu tư vào các
khu, điểm du lịch tâm linh. Bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa tâm linh, đặc
biệt về tín ngưỡng, tôn giáo và những giá trị di sản văn hóa vật thể và phi vật thể
gắn với điểm tâm linh tạo ra yếu tố hấp dẫn đặc sắc mang tính đặc trưng để thu hút
khách du lịch

- Đầu tư nâng cấp, phát triển hệ thống cơ sở dịch vụ đảm bảo chất lượng, tiện nghi,
hài hòa với không gian và tính chất khu, điểm du lịch văn hóa, tổ chức cung cấp
dịch vụ tại điểm du lịch tâm linh và tăng cường quản lý điểm du lịch tâm linh

- Tích cực xúc tiến quảng bá loại hình du lịch văn hóa tâm linh trong mối liên kết
phát triển với các loại hình du lịch khác

- Thực hiện chương trình liên kết phát triển du lịch giữa các điểm du lịch văn hóa
của các tỉnh Quảng Ninh - Hải Dương - Thái Bình - Nam Định - Ninh Bình - Hà
Nội

- Phát huy vai trò của cộng đồng dân cư, mang lại sự hưởng lợi tối đa cho cộng
đồng dân cư tại điểm du lịch tâm linh. Phổ biến kiến thức, kinh nghiệm cho cộng
đồng dân cư các địa phương có các khu, điểm du lịch tâm linh trong việc phát triển
du lịch cộng đồng gắn với điểm du lịch tâm linh.

Phát triển du lịch trên cơ sở khai thác các giá trị di sản văn hóa là phát huy các giá
trị văn hoá tinh thần mang bản sắc văn hóa của mọi vùng, miền, địa phương phục
vụ nhu cầu tham quan, tìm hiểu, học tập, giao lưu trao đổi của khách du lịch trong
nước và quốc tế. Nói cách khác là phát triển du lịch vì mục tiêu văn hoá đồng thời
phát huy giá trị di sản văn hóa hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, phát
triển ngành du lịch Nam Định theo hướng bền vững./.

B. KẾT LUẬN

Nhu cầu được đi du lịch thật sự rất cần thiết trong hoạt động sống của con
người. Vì thế, du lịch đã trở thành ngành kinh tế tổng hợp mang về cho con người
khối lợi nhuận khổng lồ. Ngày càng có nhiều loại hình du lịch đƣợc hình thành
nhằm thỏa mãn các nhu cầu vui chơi, khám phá, nghỉ dưỡng …. của du khách. Tuy
nhiên, loại hình du lịch văn hóa đang là xu hướng mới của ngành du lịch trên thế
giới trong đó có Việt Nam. Vì ngoài lợi ích kinh tế, loại hình du lịch này còn mang
đến cho con người những giá trị vô giá về văn hóa.

Nam Định là tỉnh đồng bằng ven biển nam châu thổ sông Hồng, có điều kiện tự
nhiên kinh tế xã hội và những yếu tố nguồn lực thuận lợi để phát triển ngành du
lịch với tốc độ nhanh, bền vững.
Ngoài ra tuyến sông Hồng nối thủ đô Hà Nội với Nam Định và các tỉnh phía
nam đồng bằng Bắc Bộ là tuyến du lịch đường sông có tiềm năng khai thác góp
phần làm đa dạng hoá các loại hình cũng như sản phẩm du lịch. Có nguồn tài
nguyên du lịch đa dạng phong phú bao gồm tài nguyên du lịch tự nhiên và tài
nguyên du lịch nhân văn có khả năng tổ chức các loại hình du lịch văn hoá, du lịch
sinh thái là hai hướng ưu tiên phát triển trong chiến lược phát triển du lịch cả nước.
Tuy nhiên, từ thực trạng hoạt động du lịch ở Điện Biên cho thấy: còn rất nhiều tài
nguyên du lịch chưa được quan tâm khai thác hợp lý; Các sản phẩm du lịch ở Nam
Định rất đơn điệu, chưa thể hiện rõ tính đặc thù và khả năng cạnh tranh trên thị
trương; Các cơ quan quản lý nhà nước và các đơn vị kinh doanh du lịch trên địa
bàn tỉnh chưa tìm được tiếng nói chung. Từ đó đã làm lãng phí tài nguyên du lịch
và lợi nhuận kinh tế đáng kể cho tỉnh. Chọn đề tài “Phát triển du lịch gắn với bảo
tồn di sản văn hóa ở Nam Định” là muốn góp phần giải quyết các vấn đề trên trong
phạm vi tỉnh Nam Định qua loại hình du lịch văn hóa.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Niên giám thống kê tỉnh Nam Định (2021)

2. Nguyễn Khoa Điềm (2001), "Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc", Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội

3. Chùa Keo Hành Thiện, Bách khoa toàn thư

4. Cổng thông tin điện tử: Sở văn hóa, thể thao và du lịch tỉnh Nam Định

5. Chùa Cổ lễ văn hóa cách mạng, Nxb. Tôn giáo

6. Nguyễn Xuân Năm - Nam Định đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc, Sở Văn hóa
Thông tin Nam Định
7. Một số vấn đề nâng cao chất lượng của các cơ sở kinh doanh lưu trú du lịch ở
tỉnh Nam Định, Tạp chí Văn hóa, thể thao và Du lịch Nam Định

8. Ban Quản lý Di tích và Danh thắng tỉnh Nam Định, Di tích lịch sử - văn hóa
tỉnh Nam Định, Nxb. Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.

9. https://tuyengiao.vn/van-hoa-xa-hoi/bao-ton-di-san-van-hoa-va-phat-trien-kinh-
te-xa-hoi-136999

10. https://baonamdinh.vn/channel/5086/201712/bao-ton-khai-thac-phat-huy-gia-
tri-di-san-van-hoa-nam-dinh-de-day-manh-phat-trien-du-lich-2522234/

11. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/823912/
bao-ton%2C-phat-huy-gia-tri-di-san-van-hoa-trong-phat-trien-du-lich-di-san-vung-
dong-bao-dan-toc-thieu-so.aspx

You might also like