Professional Documents
Culture Documents
Mo Hinh Dao To Giao Vien Ca Vit Nam T
Mo Hinh Dao To Giao Vien Ca Vit Nam T
2
Mô hình đào tạo giáo viên của Việt Nam
Khu Học Xá Trung Ương) (Lê Văn Giạng, 2003). Đến năm 1953 thành lập
trường Sư Phạm Sơ Cấp Miền Núi trực thuộc Bộ Giáo Dục.
Trong cùng thời gian đó trong vùng do Pháp quản lý đã củng cố trường Cao đẳng
Sư phạm (École Supérieure de Pédagogie) trên cơ sở trường sư phạm cũ, chủ yếu
để đào tạo giáo viên trung học đệ nhất (tương đương THCS hiện nay).
3
Mô hình đào tạo giáo viên của Việt Nam
toàn quốc. Hệ thống đào tạo giáo viên đã góp phần không nhỏ trong đáp ứng yêu
cầu phổ cập giáo dục và xóa mù chữ, nhất là ở các địa bàn xa xôi hẻo lánh, có
nhiều khó khăn.
4
Mô hình đào tạo giáo viên của Việt Nam
nhiệm vụ đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ. Tuy nhiên cũng nhiều trường sư phạm cũng
đã biến đổi thành các trường đa ngành dưới áp lực của cơ chế kinh tế mới trong
khi nhiều trường /khoa vốn không liên quan tới sư phạm lại đang phát triển công
tác đào tạo giáo viên.
2. Thực trạng các mô hình đào tạo giáo viên hiện nay
tại Việt Nam
2.1. Đào tạo giáo viên tiểu học ở trình độ Trung học sư phạm
Hiện tại ở Việt Nam vẫn còn hệ thống các trường THSP. Trong các trường THSP
giáo viên được đào tạo để có dạy học tất cả các môn (trừ một số môn gọi là năng
khiếu). Đầu vào được lấy từ học sinh đã đã tốt nghiệp THPT và thời gian đào tạo
là 2 năm.
Giáo viên đào tạo trheo chương trình này có được các kiên thức cơ bản về lứa
tuổi học sinh tiểu học, về công tác giáo dục ở trường tiểu học. giáo sinh cũng sẽ
có các kĩ năng cần thiết để thực hiện nhiệm vụ chủ nhiệm lớp, tổ chức các hoạt
động giáo dục và xã hội cho học sinh, biết làm việc với cha mẹ học sinh và các
đồng nghiệp trong trường cũng như vận động các lực lượng xã hội tham gia công
tác giáo dục.
Thời gian đào tạo kéo dài 2 năm (4 học kì) với khoảng 128 đơn vị học trình trong
đó kiến thức giáo dục chung là 24 và kiến thức chuyên môn nghiệp vụ sư phạm
là 88 (bao gồm các kiến thức liên quan tới 9 môn học hiện hành của tiểu học).
Sau khi tốt nghiệp người học sẽ được cấp bằng Trung cấp chuyên nghiệp ngành
sư phạm tiểu học. Phần thực tập được tiến hành 2 lần với thời lượng 3 và 6 tuần
(tương đương 45 và 90 đơn vị học trình). Người tốt nghiệp có thể tiếp trục học
lên trình độ cao đẳng.
2.2. Đào tạo giáo viên tiểu học ở trình độ cao đẳng sư phạm
Trong các trường cao đẳng giáo viên cũng được đào tạo để có dạy học tất cả các
môn (trừ một số môn gọi là năng khiếu). Đầu vào được lấy từ học sinh đã đã tốt
nghiệp THPT và thời gian đào tạo là 3 năm.
Các giáo viên tiểu học (GVTH) được đào tạo theo yêu cầu của chuẩn GVTH, có
khả năng dạy tốt chương trình tiểu học mới cũng như có khả năng đáp ứng được
những thay đổi của GDTH trong tương lai; có kỹ năng nghiên cứu, tự bồi dưỡng
khoa học giáo dục (KHGD).
5
Mô hình đào tạo giáo viên của Việt Nam
Thời gian đào tạo kéo dài 3 năm (6 học kì) với khoảng 102 tín chỉ trong đó kiến
thức giáo dục chung là 25 và kiến thức chuyên môn nghiệp vụ sư phạm là 78 bao
gồm
1. Kiến thức cơ sở ngành: 14 tín chỉ
2. Kiến thức chuyên môn: 49 tín chỉ
3. Tự chọn: 04 tín chỉ
4. Thực tập sư phạm 1 và 2: 06 tín chỉ
5. Khoá luận tốt nghiệp: 05 tín chỉ
Sau khi tốt nghiệp người học sẽ được cấp bằng cao đẳng ngành sư phạm tiểu học.
Người tốt nghiệp có thể tiếp trục học lên trình độ đại học.
2.3. Đào tạo giáo viên tiểu học ở trình độ đại học sư phạm
Đầu vào được lấy từ học sinh đã đã tốt nghiệp THPT và thời gian đào tạo là 4
năm. Người tốt nghiệp có kiến thức giáo dục đại cương đủ rộng, nắm vững các
kiến thức chuyên môn, bảo đảm dạy tốt các môn học và các hoạt động giáo dục
trong chương trình tất cả các lớp cấp tiểu học, được nâng cao về 3 môn Tiếng
Việt, Toán, Tự nhiên-Xã hội, hoặc 1 môn chuyên sâu (Toán/ Tiếng Việt/ Sư
phạm Âm nhạc/Sư phạm Mĩ thuật/ Giáo dục Thể chất/Giáo dục chuyên
biệt/Công tác Đội/Tiếng dân tộc). được trang bị kiến thức cơ bản về Tâm lý học,
Giáo dục học, Phương pháp dạy học, về đánh giá kết quả học tập ở tiểu học cũng
như hiểu biết về Quản lý hành chính nhà nước và Quản lý ngành. Người học
cũng được trang bị những thông tin cập nhật về đổi mới giáo dục tiểu học trong
nước và khu vực, có khả năng vận dụng đổi mới phương pháp dạy học các môn
học ở tiểu học.
Tổng thời gian đào tạo là 8 học kì và khoảng 210 đơn vị học trình, trong đó có 50
đpn vị học trình thuộc về phần kiến thức giáo dục cơ bản và 160 đơn vị học trình
về giáo dục chuyên nghiệp. Thời lượng thực hành, thực tế là 23 đơn vị học trình.
Sau khi tốt nghiệp người học sẽ được cấp bằng đại học ngành giáo dục tiểu học.
Người tốt nghiệp có thể tiếp trục học lên trình độ sau đại học.
2.4. Đào tạo giáo viên tiểu học dạy các môn năng khiếu và
ngoại ngữ
Để đáp ứng yêu cầu dạy học có chất lượng các môn có tính năng khiếu như
6
Mô hình đào tạo giáo viên của Việt Nam
- Âm Nhạc,
- Mỹ thuật
- Ngoại ngữ
hệ thống đào tạo giáo viên của Việt Nam còn có các chương trình đào tạo giáo
viên chuyên các môn này. Giáo viên các môn này có thể được đào tạo ở trình độ
cao đẳng hay đại học theo hướng sư phạm có nhấn mạnh vào các nội dung và
phương pháp dạy học các môn đó. Người học xong có thể học tiếp lên theo
hướng đi chuyên sâu về sư phạm hay chuyên ngành.
2.5. Đào tạo giáo viên trung học cơ sở trình độ cao đẳng sư
phạm
Giáo viên dạy THCS là giáo viên dạy đơn môn hoặc 2-3 môn ghép. Chính vì vậy
các trường cao đẳng sư phạm có các chương trình tương ứng.
Người tốt nghiệp các chương trình cao đẳng sư phạm sẽ có đủ năng lực chuyên
môn và nghiệp vụ đảm bảo được những yêu cầu đổi mới mục tiêu, nội dung,
phương pháp, hình thức tổ chức dạy và học, kiểm tra đánh giá kết quả giáo
dục/dạy học môn chính của mình trong trường Trung học cơ sở (THCS), đáp ứng
yêu cầu phát triển giáo dục THCS. Sinh viên tốt nghiệp cao đẳng sư phạm ngoài
môn chính còn phải dạy được môn thứ hai (môn phụ), làm công tác chủ nhiệm
lớp, tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp.
Chương trình đào tạo kéo dài 3 năm (6 học kì) với thời lượng khoảng 169 đơn vị
học trình.45 đơn vị học trình dành cho khối kiến thức cơ bản, 20 đơn vị học trình
cho kiến thức nghiệp vụ chung trình độ cao đẳng sư phạm. Phần thời gian dành
cho môn chính nhiều hơn môn phụ khoảng 1,5 đến 2 lần (tùy theo tổ hợp môn
học). Thời gian thực hành chiếm 9 đơn vị học trình.
Sau khi tốt nghiệp người học sẽ được cấp bằng cao đẳng ngành sư phạm tiểu học.
Người tốt nghiệp có thể tiếp trục học lên trình độ đại học.
2.6. Đào tạo giáo viên trung học trình độ đại học sư phạm
Chương trình đào tạo sư phạm ở trình độ đại học hướng tới những người tốt
nghiệp có kiến thức chuyên sâu về khoa học cơ bản và khoa học giáo dục.
Người tốt nghiệp các chương trình cao đẳng sư phạm sẽ có đủ năng lực chuyên
môn và nghiệp vụ đảm bảo được những yêu cầu đổi mới mục tiêu, nội dung,
7
Mô hình đào tạo giáo viên của Việt Nam
phương pháp, hình thức tổ chức dạy và học, kiểm tra đánh giá kết quả giáo
dục/dạy học môn chính của mình trong trường Trung học cơ sở (THCS), đáp ứng
yêu cầu phát triển giáo dục THCS. Sinh viên tốt nghiệp cao đẳng sư phạm ngoài
môn chính còn phải dạy được môn thứ hai (môn phụ), làm công tác chủ nhiệm
lớp, tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp.
Chương trình đào tạo kéo dài 3 năm (6 học kì) với thời lượng khoảng 169 đơn vị
học trình.45 đơn vị học trình dành cho khối kiến thức cơ bản, 20 đơn vị học trình
cho kiến thức nghiệp vụ chung trình độ cao đẳng sư phạm. Phần thời gian dành
cho môn chính nhiều hơn môn phụ khoảng 1,5 đến 2 lần (tùy theo tổ hợp môn
học). Thời gian thực hành chiếm 9 đơn vị học trình.
Sau khi tốt nghiệp người học sẽ được cấp bằng cao đẳng ngành sư phạm tiểu học.
Người tốt nghiệp có thể tiếp trục học lên trình độ sau đại học.
2.7. Đào tạo giáo viên trung học dạy một số môn năng khiếu,
công nghệ và ngoại ngữ
Tương tự như bậc cao đẳng ở bậc đại học cũng có chương trình đào tạo giáo viên
một số môn năng khiếu và ngoại ngữ. Giáo sinh của các chương trình này được
tuyển vào sau khi tốt nghiệp THPT và có thời gian học 4 năm để lấy bằng cử
nhân sư phạm.
Gần đây đã bắt đầu xuất hiện mô hình đào tạo nối tiếp ở trình độ đại học cho
giáo viên trung học, trong đó các sinh viên đã hoàn thành 3 năm chương trình đại
học chuyên ngành khoa học sẽ được học tập trung 1 năm về khoa học giáo dục
để nhận bằng cử nhân khoa học giáo dục (mô hình 3+1). Một số sinh viên đã có
bằng cử nhân khoa học của một số chuyên ngành có liên quan cũng có thể học
thêm 1 năm nữa để lấy chứng chỉ nghiệp vụ sư phạm (mô hình 4+1 - tương
đương cử nhân sư phạm theo chuyên ngành). Mô hình đào tạo nối tiếp này mới
được thử nghiệm tại đại học giáo dục Hà nội.
Mô hình đào tạo giáo viên công nghệ được các khoa sư phạm kỹ thuật thuộc các
trường đại học lớn hay đại học sư phạm tiến hành. Giáo sinh có thể được đào tạo
nối tiếp (mô hình mới) hay đào tạo song song (mô hình cũ) để có được kiến thức
chuyên môn về công nghệ (nong nghiệp, kỹ thuật..) và khoa học giáo dục. Số
này khi tốt nghiệp ra có thể đi dạy về công nghệ trong các trường trung học hoặc
tiếp tục đi sâu hơn về ngành công nghệ/kỹ thuật.
8
Mô hình đào tạo giáo viên của Việt Nam
2.8. Đào tạo / bồi dưỡng nâng chuẩn cho đội ngũ giáo viên
đương nhiệm
Công tác đào bồi dưỡng, đào tạo lại đội ngũ giáo viên là một vấn đề được hệ
thống sư phạm Việt Nam thường xuyên tiến hành. Công tác này có mục đích
- nâng cao trình độ cho đội ngũ giáo viên
- tạo cơ hội thăng tiến cho giáo viên
- cập nhật kiến thức
Đối với số giáo viên vì lý do lịch sử hay chưa đạt chuẩn trình độ theo yêu cầu sẽ
được tham gia các chương trình đào tạo tập trung hay không tập trung để nâng
lên trình độp theo yêu cầu.
Một số giáo viên nếu có nguyện vọng cũng có thể được đào tạo thêm để nâng
cao trình độ (cao hơn yêu cầu của chương trình) để đáp ứng yêu cầu giáo dục
hiện nay hay tiếp tục phát triển sâu hơn về chuyên môn hay quản lý. Các giáo
viên này sẽ tham gia các chương trình đào tạo tại chức hay từ xa để tiếp nhận
thêm các kiến thức còn thiếu, thực hiện các nghiên cứu về nghiệp vụ sư phạm và
hoàn thành khóa luận theo yêu cầu để được cấp văn bằng cao hơn. Hiện tại các
chương trình phổ biến là:
- đào tạo tại chức cho giáo viên tiểu học có trình độ THSP lên CĐSP
- đào tạo tại chức/từ xa cho giáo viên THCS có trình độ CĐSP lên trình độ
ĐHSP
Trong các chương trình đào tạo nâng cao trình độ dạng này các cơ sở đào tạo sẽ
căn cứ vào chương trình đào tạo của hai cấp độ đào tạo để đưa ra một chương
trình rút gọn hơn so với chương trình chính quy cũng cấp, tiến hành tổ chức các
hoạt động đào tạo theo phương thức linh hoạt cho những người đang dạy học tại
nhà trường phổ thông. Nhiều nơi giáo viên được bố trí tham gia học tập vào các
ngày nghỉ cuối tuần, cũng có cơ sở đào tạo chia chương trình đào tạo ra thành
các đoạn thời gian khoảng 1 tháng và bố trí 2-3 lần như vậy trong năm học, vào
những khoảng thời gian người giáo viên phổ thông ít vướng bận với các nhiệm
vụ dạy học để tập trung họ tại các thị trấn hay thành phố.
Các giáo viên đương nhiệm cũng thường xuyên được tham gia các khóa bổ túc,
cập nhật kiến thức chuyên môn và sư phạm trong các chương trình bồi dưỡng
9
Mô hình đào tạo giáo viên của Việt Nam
định kì và không định kì. Các khóa bổ túc dạng này thường được tiến hành căn
cứ vào nhu cầu cụ thể của đội ngũ giáo viên.
3.1. Khả năng thích ứng với các thay đổi của chương trình
Hiện nay các chương trình đào tạo giáo viên thường được các đơn vị đào tạo xây
dựng trên cơ sở các khung chương trình do Bộ GD&ĐT ban hành, Các chương
trình này không được thiết kế cùng lúc với chương trình giáo dục phổ thông nên
đã nảy sinh nhiều bất cập, Người thiết kế chương trình đào tạo giáo viên có thể
nắm không rõ chương trình giáo dục phổ thông hoặc chương trình giáo dục phổ
thông đã đổi trong khi chương trình đào tạo giáo viên chưa được đổi nên kiến
thức của giáo sinh khi ra trường còn có khoảng cách so với chương trình giáo
dục mà họ phải thực hiện trong nhà trường.
Đào tạo giáo viên theo chương trình song song thường có thời gian dài nên khi
có nhu cầu đổi mới nội dung hay phương pháp trong trường phổ thông thì đội
ngũ giáo viên mới được đào tạo không có đủ để đáp ứng ngay, buộc các nhà
trường phải dành nhiều thời gian và nguồn lực để đào tạo lại.
Trong thời gian tới có thể vấn đề đào tạo giáo viên sẽ phải được định hướng
trước để theo kịp yêu cầu về cải cách giáo dục (dự kiến 2015). Như vậy chương
trình đào tạo giáo viên phải được hiệu chỉnh ngay từ bây giờ để đến khi đó chúng
ta có đủ các giáo viên có năng lực triển khai chương trình phổ thông mới. Việc
đào tạo giáo viên theo mô hình song song cũng sẽ phải được mở rông hơn để
nhanh chóng đáp ứng yêu cầu về giáo viên mới trên cơ sở đào tạo thêm về sư
phạm cho những người đã có bằng cử nhân muốn đi làm giáo viên.
3.2. Khả năng đáp ứng nhu cầu về giáo viên của nhà trường
Nhu cầu về giáo viên của các nhà trường phổ thông thay đổi, phụ thuộc nhiều lí
do:
- phát triển dân số
- thay đổi biên chế giáo viên của nhà trường
- biến động về giáo viên (nghỉ hưu, chế độ hay chuyển vùng)
10
Mô hình đào tạo giáo viên của Việt Nam
trong khi đó số giáo viên đào tạo mới lại phụ thuộc vào các định mức đào tạo của
các trường sư phạm. Bên cạnh đó lựa chọn sinh viên cho các trường sư phạm
cũng có một số vấn đề về
- nhận thức xã hội về nghề dạy học và phân biệt giữa bằng sư phạm và bằng
chuyên ngành
- các chính sách hỗ trợ của các cấp chính quyền đối với ngành học sư phạm
- thời gian đào tạo kéo dài (giữ chậm trong hệ thống)
Chính vì vậy các trường sư phạm của Việt Nam, nhất là các trường của tỉnh luôn
trong trạng thái thụ động, không theo kịp nhu cầu về số lượng giáo viên của địa
phương.
Để giải quyết các vấn đề này cần có tính toán và điều tiết ở cấp vĩ mô về định
mức đào tạo giáo viên và phân công đào tạo, tiến tới cân đối được quy mô đào
tạo với biến động số lượng đội ngũ giáo viên. Bên cạnh đó công tác hướng
nghiệp, tư vấn nghề cho học sinh phổ thông, sinh viên các trường đại học và cao
đẳng cũng cần được đẩy mạnh để lựa chọn được những người thực sự phù hợp
với nghề giáo viên. Các chính sách hỗ trợ cho giáo viên và giáo sinh cũng cần
được điều chỉnh để có thể tuyển đủ và giữa chân những người theo học ngành sư
phạm.
11
Mô hình đào tạo giáo viên của Việt Nam
Chính vì vậy các khoa sư phạm khó phát huy đặc thù của mình là nới nối kết
kiến thức chuyên ngành với kiến thức khoa học giáo dục.
Hoạt động thực hành sư phạm của giáo sinh các trường sư phạm cũng là vấn đề
đang được xã hội quan tâm. Khi nào thì giáo sinh cần được tiếp xúc với thực tế
nhà trường phổ thông? Mức độ tiếp xúc và sự tham gia của giáo sinh trong môi
trường giáo dục cụ thể cần được tiến hành ra sao cũng là vấn đề đang được thảo
luận rất nhiều.
Triong tương lai vấn đề thực hành sư phạm của giáo sinh cần được thiết kế lại
đồng bộ, sao cho tất cả giáo sinh thật sự được tham gia vào quá trình giáo dục
trong nhà trường phổ thông, có đủ các trải nghiệm cần thiết để có thể đảm nhiệm
vai trò giáo viên khi được nhận vào nhà trường mà không cần đào tạo lại hay bổ
túc nhiều. Mô hình trường thực hành sư phạm cần được nhân rộng và coi là nôi
của các đổi mới về phương pháp dạy học và thử nghiệm các nội dung mới trong
quá trình đào tạo giáo viên.
12
Mô hình đào tạo giáo viên của Việt Nam
chức cho giáo sinh nghiên cứu. Các trường cao đẳng sư phạm cũng chưa coi
trọng lắm vấn đề nghiên cứu khoa học của sinh viên. Các trường/khoa đại học sư
phạm đã có những hoạt động nghiên cứu khoa học khá tốt tuy nhiên vẫn còn một
số vấn đề cần thảo luận, đó là:
- Quan hệ nghiên cứu và đào tạo trong đào tạo giáo viên
- Nghiên cứu khoa học chuyên ngành, mức độ và phạm vị
- Nghiên cứu khoa học giáo dục
Giải pháp chính ở đây là tăng cương năng lực nghiên cứu khoa học giáo dục cho
tất cả các giáo sinh. Để làm vậy các trường phải chú ý tới các học phần có liên
quan trong chương trình đào tạo, để giáo sinh thực sự có các nghiên cứu của
chính mình. Vấn đề nghiên cứu khoa học giáo dục trong khi thực hành sư phạm
phải được đặt lên cao hơn so với hiện nay. Trong các trường đại học sư phạm cần
cân đối hơn vai trò ‘nhà khoa học’ và ‘nhà giáo’ của các giáo viên tương lai, thực
sự đảm bảo được mục tiêu đào tạo.
13
Mô hình đào tạo giáo viên của Việt Nam
14
Mô hình đào tạo giáo viên của Việt Nam
Abstract
Teacher training models in Vietnam
Le Dong Phuong, PhD
Ngo Van Trung, MEd.
Do Thi Thu Ha, MEd.
This paper reviews the development of teacher training in Vietnam since the
establishment of the Socialist Republic of Vietnam. The system of teacher
training has eveloved from a few normal schools in the French administration
time into a advanced system of educational institutions at secondray and tertiary
levels. The teacher training was very closely connected to the reforms in schools.
The teacher training in the timebetween 1945-1954 was intended to quickly fill
in the gap of tecahing personall in the new national education system. The design
was simple in order to gather all the learned population to involve in the literacy
and basic education. At the end of this period there was some efforts to prepare
the teacher trainers in the new time.
In the period between 1954-1975 the teacher training was helping to standardize
the education in school and meet the challenges of the education reform. The
curriculum was redisigned to meet the need for qualified teachers.
From 1975 up to date the improvement of education in schools and in the teacher
training institutions have lead to major upgrades in teacher training. Regulations
have been enacted to stnadradize the training of teachers for different school
levels. More and more institutions are involved in the training of school teachers
towards higher qualification standards. Teachers are not just provided with the
initial training but also in-service training as well as further qualification
opportunities to enhance their professional knowledge and skills.
The paper also describes briefly the current teacher training system with the
rerquirements for various teaching positions in the school system, in cluding
teacher for primary schools, lower secondary schools and uppers ecndary schools.
The general picture is that primary teacher trainees are prepared to be class
teachers, taking care of all subjects in the curriculum while secondary teachers
are specualized in a subjects or group of related subjects.
15
Mô hình đào tạo giáo viên của Việt Nam
In the last part this paper discusses some of the major issues facing the teacher
training system in Vietbnam taking into account the new school reform is being
prepared for 2015. One of these is the responsivenerss to curriculum changes
when the teacher training programs are often designed not in the pace with the
school curriculum which causes a gap between teacher training and schools’
reality. I the coming years this shall be changed, teacher training should be
adjusted in advance so that when the new school curriculum is introduced there
are already teachers who are capable to handle the new curriculum.
The ability of teacher training institutions to provide the adequate number of
teachers for schools is also discussed. The current employment system of school
teachers often caused imbalances between supply and demand in school. In the
future the system shall be adjusted at macro level with good forecasts so that
public resources are not wasted and tehre shall be option to involve more people
with degrees to join the school teaching personal.
The organization of teacher training institutions, including the practice (attached)
schools and discrepancies in provsions of school practice to teachers trainees
have been looked at. The author proposed to change the way the practical part of
teaxcher training being provided so that all eacher trainees will have more
chances to experience the schools’ reality. The attached parctice schools shall be
widened as a testbed for new innovation in teaching.
The question about broad-based or in-depth specialization training is one of the
main concern in the current system. This papper proposed to enhance the
pedagogical contents for secondary teacher trainees, helping them to work with
the new young generations who are more able to abosorb new knowledge. Future
primary teachers could be specialized in groups of suvjects instead of being class
teachers.
Teacher student’s research is also in need of change. Teacher trainees shall have
more skills in conducting educational research. Teacher training programs at
bachelor level shall balance between the roles of ‘teachers’ and ‘subject experts’.
16