You are on page 1of 17

BỘ MÔN TRIẾT HỌC

NỘI DUNG ÔN TẬP MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN (Trường Đại học
Kinh tế)
Nội dung 9: Nội dung, ý nghĩa quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
* Khái niệm:
- Lực lượng sản xuất là khái niệm dùng để chỉ mối quan hệ giữa con người
với tự nhiên trong quá trình sản xuất. (Là khái niệm để chỉ những phương thức
kết hợp giữa người lao động với TLSX trong sản xuất vật chất.)
- Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa con người với con người trong quá trình
sản xuất. QHSX bao gồm: QH về chiếm hữu TLSX, QH về quản lí và phân
công LĐ, QH về phân phối sản phẩm.
* Mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX:
- Tính thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất: LLSX và
QHSX là hai mặt đối của phương thức sản xuất, chúng không tồn tại tách rời
nhau mà tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật về
sự phù hợp của QHSX với trình độ và tính chất của LLSX.
Phù hợp là sự thích ứng tương đối tạm thời, thoảng qua của QHSX với
LLSX, và đây là mối quan hệ luôn vận động và biến đổi không ngừng, cái
không phù hợp bị cái phù hợp phủ định… đây là sự phát triển theo con đường
xoáy ốc.
- Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất:
+ Trong phương thức sản xuất, LLSX là nội dung còn QHSX là hình thức
xã hội của nó, do đó, trong mối quan hệ giữa LLSX và QHSX thì LLSX giữ vai
trò quyết định.
+ Trong phương thức sản xuất thì LLSX là yếu tố biến động nhất, cách
mạng nhất.
+ Cùng với sự biến đổi và phát triển của LLSX, QHSX mới hình thành,
biến đổi, phát triển. Sự tác động trở lại của QHSX đối với LLSX theo 2 hướng:
 Khi QHSX hình thành, biến đổi và theo kịp, phù hợp với trình độ phát
triển và tính chất của LLSX thì nó sẽ thúc đẩy LLSX tiếp tục phát triển.
 Khi QHSX hình thành, biến đổi nhưng không theo kịp, không phù hợp
với trình độ phát triển và tính chất của LLSX thì nó sẽ kìm hãm LLSX
phát triển. Khi mâu thuẫn chín muồi thì QHSX cũ sẽ bị xóa bỏ, thay thế
vào là một QHSX mới tiến bộ hơn, phù hợp với trình độ phát triển và
tính chất của LLSX.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Phát triển LLSX: CNH - HĐH LLSX tiên tiến. Coi trọng yếu tố con
người trong LLSX.
- Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, đảm bảo sự phù hợp của QHSX
với trình độ phát triển của LLSX, nhằm phát huy mọi tiềm năng vốn có của
LLSX ở nước ta.
- Từng bước hoàn thiện QHSX XHCN; phát huy vai trò chủ đạo của
thành phần kinh tế nhà nước; nâng cao sự quản lí của nhà nước đối với các
thành phần kinh tế; đảm bảo các thành phần kinh tế phát triển theo định hướng
XHCN.

Nội dung 10: Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
của xã hội. Ý nghĩa phương pháp luận.
* Khái niệm:
- Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những của xã hội trong quá trình vận động hiện
thực của chúng hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội đó. CSHT bao gồm nhiều
kiểu QHSX: QHSX thống trị, QHSX tàn dư, QHSX mầm mống(*).
- Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền,
triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, v.v.. cùng với các thiết chế xã hội tương
ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội… hình thành trên
một cơ sở hạ tầng nhất định.
* Mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTH:
- CSHT quyết định KTTT: CSHT nào thì nảy sinh ra KTTT ấy. Tất cả các
yếu tố của KTTT đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào CSHT, do CSHT
quyết định. CSHT thay đổi thì sớm hay muộn KTTT cũng phải thay đổi theo.
Sự thay đổi CSHT dẫn đến sự thay đổi KTTT, thay đổi này diễn ra rất phức tạp.
- KTTT tác động trở lại CSHT: Sự tác động này thể hiện chức năng xã hội
của KTTT là bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển CSHT sinh ra nó. Sự tác
động của KTTT đối với CSHT diễn ra theo hai hướng:
 Nếu KTTT phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì nó là động
lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển.
 Ngược lại, KTTT không phù hợp thì sẽ kìm hãm sự phát triển của kinh tế
– xã hội, tuy nhiên, sự kìm hãm này chỉ là tạm thời, sớm hay muộn, bằng
cách này hay cách khác, KTTT cũ sẽ được thay thế bằng KTTT mới, phù
hợp với yêu cầu của CSHT.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Nghiên cứu mối quan hệ giữa CSHT và KTTT cho ta thấy phải đề phòng 2
khuynh hướng sai lầm :
+ Tuyệt đối hóa vai trò của kinh tế, coi nhẹ vai trò của yêu tố tư tưởng,
chính trị, pháp lí.
+ Tuyệt đối hóa vai trò của yếu tố chính trị,tư tưởng, pháp lí, biến những
yếu tố đó thành tính thứ nhất so với kinh tế.
- Nghiên cứu mối quan hệ giữa CSHT và KTTT cho ta một cái nhìn đúng
đắn, đề ra chiến lược phát triển hài hòa giữa kinh tế và chính trị, đổi mới kinh
tế phải đi đôi với đổi mới chính trị; lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, từng
bước đổi mới chính trị.
- Nắm được mối quan hệ giữa CSHT và KTTT giúp cho sự hình thành
CSHT và KTTT xã hội chủ nghĩa diễn ra đúng theo quy luật mà chủ nghĩa duy
vật lịch sử đã khái quát.
Nội dung 11: Tồn tại xã hội, ý thức xã hội, mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại
xã hội và ý thức xã hội, tính độc lập tương đối của ý thức xã hội.
* Khái niệm:
- Tồn tại xã hội là toàn bộ những điều kiện vật chất cùng với những quan hệ
vật chất được đặt trong phạm vi hoạt động thực tiễn của con người trong một
gia đoạn lịch sử nhất định. Tồn tại XH bao gồm nhiều yếu tố (phương thức sx,
điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh địa lí, dân cư,.. ), trong đó phương thức sản xuất
là yếu tố quyết định.
- Ý thức xã hội là khái niệm chỉ các hiện tượng thuộc đời sống tinh thần của
xã hội, phản ánh tồn tại xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Về mặt nội
dung, ý thức xã hội gồm: tư tưởng, quan điểm, tâm trạng, tình cảm, tập quán,…
* Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội:
- Vai trò quyết định của TTXH đối với YTXH:
+ TTXH là cơ sở, là nguồn gốc khách quan và là nguồn gốc duy nhất của
YTXH, nó làm hình thành và phát triển YTXH, còn YTXH chỉ là sự phản ánh
TTXH.
+ Khi TTXH thay đổi thì sớm hay muộn YTXH cũng phải thay đổi theo.
+ Ta nói TTXH quyết định YTXH là ta nói trong tất cả các bộ phận của
TTXH đều có ảnh hưởng đến sự thay đổi của YTXH, nhưng trong đó phương
thức sản xuất là yếu tố giữ vai trò quan trọng nhất, trực tiếp nhất đến sự thay đổi
của YTXH. Có nghĩa là muốn thay đổi YTXH, muốn xây dựng YTXH mới thì
sự thay đổi và xây dựng đó phải dựa trên sự thay đổi của tồn tại vật chất hay
thay đổi bởi những điều kiện vật chất.
- Sự tác động trở lại của YTXH đối với TTXH: Sự tác động trở lại này rất
lớn, tuy nhiên hiệu quả của sự tác động còn phụ thuộc vào những điều kiện như:
lực lượng xã hội, giai cấp đề ra những quan điểm, tư tưởng cho xã hội; mức độ
phù hợp ít hay nhiều của tư tưởng đó đối với hiện thực; mức độ thâm nhập của
những tư tưởng đó đối với nhu cầu phát triển XH và mức độ mở rộng của tư
tưởng trong quần chúng.
* Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội: tính độc lập tương đối của ý
thức thể hiện ở chỗ, ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào trong đầu óc con
người, do vật chất sinh ra, nhưng khi đã ra đời thì ý thức có “đời sống” riêng, có
quy luật vận động, phát triển riêng, không lệ thuộc một cách máy móc vào vật
chất. Ý thức một khi ra đời thì có tính độc lập tương đối, tác động trở lại thế
giới vật chất.

Nội dung 1: Triết học và vấn đề cơ bản của triết học.


Theo Mác – Ăngghen: “Vấn đề cơ bản lớn nhất của mọi triết học, đặc biệt là
của triết học hiện đại, là vấn đề quan hện giữa tư duy và tồn tại”. Nội dung của
vấn đề này gồm hai mặt:
- Mặt thứ nhất (mặt bản thể luận) trả lời câu hỏi: trong mối quan hệ giữa tư
duy và tồn tại, giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau,
cái nào sinh ra cái nào, cái nào quyết định cái nào?
- Mặt thứ hai (mặt nhận thức luận) trả lời câu hỏi: tư duy con người có khả
năng nhận thức thế giới xung quanh hay không?

Cách giải quyết vấn đề cơ bản của triết học của các trào lưu triết học:
- Giải quyết mặt thứ nhất:
+ Chủ nghĩa duy vật cho rằng vật chất (tồn tại, tự nhiên) có trước, ý thức (tư
duy, tinh thần) có sau, vật chất quyết định ý thức.
+ Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức (tư duy, tinh thần) có trước, vật chất có
sau, ý thức quyết định vật chất. Chủ nghĩa duy tâm có hai hình thức cơ bản là
CNDT khách quan và CNDT chủ quan. CNDT khách quan cho rằng có một lực
lượng siêu nhiên có trước, sinh ra và quyết định thế giới vật chất, còn CNDT
chủ quan cho rằng cảm giác, ý thức quyết định vật chất, vật chất không tồn tại
độc lập mà phụ thuộc vào cảm giác, ý thức.
+ Thuyết nhất nguyên: là khuynh hướng triết học cho rằng thế giới chỉ có
một bản nguyên duy nhất, hoặc là thực thể vật chất, hoặc là thực thể tinh thần.
(nhất nguyên duy vật/ nhất nguyên duy tâm).
+ Thuyết nhị nguyên: là khuynh hướng triết học cho rằng có hai thực thể
song song tồn tại, không phụ thuộc lẫn nhau (cả vật chất lẫn tinh thần).
+ Thuyết đa nguyên: là khuynh hướng triết học cho rằng có nhiều cơ sở,
nhiều bản nguyên tồn tại. (Các nhà triết học cổ đại đưa ra những bản nguyên đa
dạng như đất, nước, lửa, không khí với tư cách là cơ sở của mọi tồn tại).
- Giải quyết mặt thứ hai:
+ Vấn đề cơ bản của triết học có hai khuynh hướng đối lập nhau là thuyết
khả tri và thuyết bất khả tri. Đa số các nhà triết học khẳng định rằng con
người có khả năng nhận thức được thế giới khách quan (khả tri). Một số ít
các nhà triết học phủ nhận một phần hay toàn bộ khả năng nhận thức của con
người (bất khả tri).

Vai trò của triết học Mác - Lênin trong đời sống xã hội và trong sự nghiệp
đổi mới ở Việt Nam hiện nay
- Là thế giới quan, phương pháp luận khoa học và cách mạng cho con người
trong nhận thức và thực tiễn
- Là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học và cách mạng để
phân tích xu hướng phát triển của xã hội trong điều kiện cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ.
- Là cơ sở lý luận khoa học của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên
thế giới và sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Nội dung 2: Những tích cực và hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước Mác quan
niệm về vật chất. Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận định nghĩa vật chất
của Lênin.
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật trước Mác:
- Thời kỳ cổ đại:
 Trung Quốc: Các nhà triết học thời kỳ này cho rằng bản nguyên của
thế giới là các yếu tố ngũ hành: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ là những yếu
tố đầu tiên của vũ trụ.
 Hy Lạp: Các nhà triết học thời kỳ này đồng nhất vật chất với các dạng
tồn tại cụ thể của vật chất như: đất, nước, lửa, không khí, nguyên tử,…
xem đó là điểm khởi đầu của vũ trụ.
- Thời kỳ cận đại:
 Cuối TK XIX – đầu TK XX: các nhà khoa học đã chứng minh được
nguyên tử là một trong những thành phần cấu tạo nên điện tử và quan
điểm đồng nhất vật chất với nguyên tử sụp đổ trước khoa học.
 Ưu điểm: Hình thành chủ nghĩa duy vật chất phác và phép biện chứng sơ
khai.
 Nhược điểm:
 Đồng nhất vật chất với một dạng vật thể cụ thể: Lấy một vật chất
cụ thể để giải thích cho toàn bộ thế giới vật chất ấy

 Những yếu tố khởi nguyên mà các nhà tư tưởng nêu ra đều mới chỉ
là các giả định, còn mang tính chất trực quan cảm tính, chưa được
chứng minh về mặt khoa học.
 Gây ra cuộc khủng hoảng về thế giới quan trong vật lý học và triết
học. Giải thích một cách duy tâm các hiện tượng vật lý, vật chất
đang tiêu tan, thậm chí còn cho rằng những tri thức khoa học về vật
chất trước đây đều là dối trá
 Chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán lợi dụng tình hình đó để tấn công,
phủ nhận sự tồn tại của vật chất và chủ nghĩa duy vật và còn cho
rằng: chỉ có tinh thần là đang tồn tại mà thôi…
Quan điểm của Lênin: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực
tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác
của con người chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm
giác.”
- Nội dung định nghĩa:
 Vật chất là một phạm trù triết học: dùng để chỉ vật chất nói chung, vô
cùng, vô tận, không sinh ra và cũng không mất đi mà chỉ chuyển hoá
từ dạng này sang dạng khác.
 Dùng để chỉ thực tại khách quan: thuộc tính tồn tại khách quan, tồn tại
ngoài ý thức, độc lập, không phụ thuộc vào ý thức con người.
 Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi gián tiếp hoặc trực
tiếp gây tác động lên giác quan con người; cảm giác, tư duy, ý thức
chỉ là sự phản ánh của vật chất.

- Ý nghĩa phạm trù vật chất của Lênin:


 Giải quyết triệt để hai mặt trong vấn đề cơ bản của triết học.
 Bác bỏ thuyết bất khả tri, đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, khắc
phục được tính chất máy móc, siêu hình của chủ nghĩa duy vật trước
Mác.
 Khắc phục sự khủng hoảng của vật lý học và triết học trong quan niệm
về vật chất, định hướng, mở đường cho khoa học - kỹ thuật phát triển.
 Bảo vệ và phát triển triết học Mác, cho phép xác định cái gì là vật chất
trong lĩnh vực xã hội.
 Đưa ra một phương pháp định nghĩa mới về vật chất.

Nội dung 3: Quan điểm duy vật biện chứng về nguồn gốc, bản chất, kết cấu của
ý thức và mối quan hệ giữa vật chất, ý thức.
Nguồn gốc: Ý thức ra đời là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài của tự nhiên
và xã hội.
- Nguồn gốc tự nhiên: bộ óc người và thế giới hiện thực khách quan
+ Ý thức là kết quả của quá trình tiến hóa của thuộc tính phản ánh có ở mọi
dạng vật chất. Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật
chất có ở mọi dạng vật chất khác trong quá trình tác động qua lại giữa chúng,
gồm phản ánh lí hóa và phản ánh sinh học.
+ Ý thức là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực, chỉ có ở
con người. Bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức. Hoạt động ý thức chỉ
diễn ra trong bộ não người, trên cơ sở các quá trình sinh lí – thần kinh của bộ
não.
- Nguồn gốc xã hội: Lao động và ngôn ngữ
+ Ý thức người ra đời cùng với quá trình hình thành bộ óc người nhờ có lao
động và ngôn ngữ.
+ Lao động là quá trình diễn biến giữa con người và tự nhiên, trong đó con
người đóng vai trò là môi giới, điều tiết và giám sát trong sự trao đổi vật chất
giữa người và tự nhiên. Đặc điểm của lao động: là hoạt động đặc thù của con
người, lao động luôn mang tính tập thể.
+ Vai trò của lao động: nhờ có lao động mà con người tách khỏi thế giới
động vật; lao động làm cho cơ thể con người ngày càng hoàn thiện, đặc biệt là
bộ óc và các giác quan; thế giới khách quan bộc lộ những thuộc tính, những kết
cấu, những quy luật vận động của mình trong quá trình lao động; (ngôn ngữ
xuất hiện từ lao động).
+ Ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng.
Vai trò của ngôn ngữ: là phương tiện giao tiếp trong xã hội, để trao đổi tri thức,
kinh nghiệm…; là phương tiện để tổng kết thực tiễn, đồng thời là công cụ của tư
duy nhằm khái quát hóa, trừu tượng hóa hiện thực.
(Trong 2 nguồn gốc thì nguồn gốc xã hội quyết định bản chất ý thức. Tách ra
khỏi môi trường xã hội, con người sẽ mất ý thức. Người nào mắc khiếm khuyết
về ngôn ngữ thì ý thức kém phát triển hơn.)

Nội dung 4: Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý mối liên hệ
phổ biến, nguyên lý phát triển.
Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến:
* Khái niệm mối liên hệ phổ biến:
- Quan điểm siêu hình cho rằng sự vật, hiện tượng tồn tại độc lập, tách biệt
nhau, giữa chúng không có sự liên hệ hoặc nếu có thì đó chỉ là liên hệ bề
ngoài, thụ động, một chiều, giữa các hình thức liên hệ không có chuyển
hóa lẫn nhau.
- Quan điểm DVBC cho rằng mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ
sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật,
hiện tượng, hay giữa các mặt của một sự vật hiện tượng trong thế giới.
* Tính chất của mối liên hệ:
- Mối liên hệ phổ biến mang tính khách quan, nó là cái vốn có của sự vật,
hiện tượng.
- Mối liên hệ mang tính phổ biến, thể hiện ở chỗ:
+ Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật, hiện tượng khác,
không có sự vật, hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ.
+ Mối liên hệ biểu hiện dưới nhiều hình thức riêng biệt, cụ thể tùy theo
từng điều kiện nhất định. Song, dù dưới hình thức nào chúng cũng chỉ là biểu
hiện của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất.
- Mối liên hệ mang tính đa dạng, phong phú, vì thế hình thức liên hệ giữa
chúng cũng rất đa dạng. Tuy nhiên, có thể căn cứ vào vị trí, phạm vi, vai
trò, tính chất mà phân chia ra thành những mối liên hệ khác nhau như:
mối liên hệ bên trong, bên ngoài; mối liên hệ bản chất – không bản chất;
trực tiếp – gián tiếp;… Nhưng sự phân chia này cũng chỉ là tương đối.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Khi xem xét sự vật, hiện tượng cần phải có quan điểm toàn diện. Quan
điểm này yêu cầu: phải xem xét tất cả các mặt, các mối liên hệ của sự vật
và các khâu trung gian của nó; phải nắm bắt và đánh giá đúng vai trò, vị
trí của từng mặt, từng mối liên hệ trong quá trình cấu thành sự vật.
- Trong quan điểm toàn diện bao hàm cả quan điểm lịch sử cụ thể. Vì vậy,
khi xem xét sự vật, hiện tượng phải đặt sự vật, hiện tượng vào không
gian, thời gian cụ thể…

Nguyên lí về sự phát triển:


* Khái niệm “phát triển”:
- Quan điểm siêu hình cho rằng phát triển chỉ là sự tăng, giảm đơn thuần
về mặt số lượng hay khối lượng mà không có sự thay đổi về chất. Phát
triển cũng như quá trình chuyển lên liên tục, không có bước quanh co,
thăng trầm phức tạp. Nguồn gốc phát triển là do bên ngoài quy định.
- Quan điểm DVBC cho rằng phát triển là quá trình vận động tiến lên từ
thấp lên cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hòa thiện đến hoàn thiện
hơn.
* Tính chất của sự phát triển:
- Phát triển mang tính khách quan, nó là cái vốn có của bản thân sự vật,
hiện tượng.
- Phát triển không chỉ là sự thay đổi về mặt số lượng hay khối lượng mà
nó còn là sự thay đổi về chất.
- Phát triển mang tính kế thừa nhưng trên cơ sở có sự phê phán, lọc bỏ, cải
tạo và phát triển, không kế thừa nguyên xi hay lắp ghép từ cái cũ sang
cái mới một cách máy móc, hình thức.
- Tùy vào sự vật, hiện tượng, quá trình cụ thể, phát triển còn bao gồm cả
sự thụt lùi đi xuống nhưng khuynh hướng chung là đi lên, là tiến bộ.
Theo quan điểm DVBC thì khuynh hướng của sự phát triển xảy ra theo
hình đường xoáy ốc.
- Nguồn gốc của sự phát triển là ở trong bản thân sự vật hiện tượng, do
mâu thuẫn của sự vật hiện tượng quy định.
* Ý nghĩa phương pháp luận: Khi xem xét sự vật hiện tượng cần phải có quan
điểm phát triển. Yêu cầu:
- Xem xét sự vật hiện tượng phải đặt chúng trong sự vận động phát triển
không ngừng, vạch ra xu hướng biến đổi chuyển hóa của chúng.
- Phải biết phân chia quá trình phát triển của sự vật thành nhiều giai đoạn,
trên cơ sở đó tìm ra phương pháp nhận thức và cách tác động phù hợp
nhằm thúc đẩy sự vật phát triển nhanh hơn hoặc kìm hãm sự phát triển
của nó.

Nội dung 5: Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của quy luật thống nhất và
đấu tranh giữa các mặt đối lập.
Nội dung
- Khái niệm mặt đối lập: Mặt đối lập là những mặt có thuộc tính, khuynh
hướng vận động trái ngược nhau, bài trừ, gạt bỏ, chống đối lẫn nhau,
nhưng tồn tại và gắn bó với nhau trong một thể thống nhất hợp thành một
mâu thuẫn.
- Đặc điểm của mâu thuẫn:
+ Tính khách quan: Mâu thuẫn nằm ngoài ý thức con người, không có sinh
vật nào tồn tại mà không có mâu thuẫn.
+ Tính phổ biến trong tự nhiên: Có mâu thuẫn giữa cực bắc và cực nam của
nam châm, mâu thuẫn giữa cộng trừ, nhân chia,…
+ Trong tư duy có mâu thuẫn đúng sai, sướng khổ,..
- Khái niệm thống nhất giữa các mặt đối lập: Được hiểu theo 2 nghĩa:
+ Nghĩa 1: Là sự liên hệ, nương tựa, rang buộc, cấu kết hữu cơ với nhau đến
mức không có cái này sẽ không có cái kia, cái này mất đi cái kia cũng mất theo,
caí này xuất hiện cái kia xuất hiện theo. (Ví dụ: không có sai thì không có đúng)
+ Nghĩa 2: bao hàm sự khác biệt giữa những cái tưởng như không thể thống
nhất nhưng vẫn thống nhất với nhau.
- Khái niệm đấu tranh giữa các mặt đối lập: Đấu tranh không phải hiểu là
đánh nhau, đấu tranh được hiểu là sự bài trừ, gạt bỏ đi đến phủ định lẫn nhau,
khi đủ điều kiện thì chuyển hóa các mặt đối lập. Có thể mặt này chuyển thành
mặt kia, có thể cả 2 mặt đều biến thành thứ khác.
- Quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh: Thống nhất ứng với quan điểm cho
rằng đứng im của vật chất là tương đối, tạm thời. Đấu tranh của các mặt đối lập
ứng với quan điểm vận động đấu tranh là tuyệt đối và nó diễn ra cho đến khi sự
vật hết mâu thuẫn. Khi đó cái chết xảy ra đối với sinh vật, đối với sự vật nói
chung không còn lí do để tồn tại vì mất hết động lực.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Nghiên cứu quy luật mâu thuẫn giúp ta hiểu được nguồn gốc, động lực của
sự tự thân vận động, tự thân phát triển của sự vật, hiện tượng. Chống quan điểm
duy tâm, siêu hình tìm nguồn gốc vận động, phát triển từ bên ngoài, từ những
nguyên nhân thần bí.
- Xác định mâu thuẫn là hiện tượng tất yếu khách quan (chấp nhận mâu
thuẫn để tìm cách giải quyết mâu thuẫn, thúc đẩy sự vật phát triển tiến lên).
- Nắm vững mâu thuẫn cơ bản, mâu thuẫn chủ yếu để xác định nhiệm vụ
chiến lược cũng như nhiệm vụ trung tâm trước mắt cho từng thời kì cách mạng.
- Có cách giải quyết thích hợp với bản chất của từng mâu thuẫn, trình độ
chín muồi và điều kiện tồn tại của mâu thuẫn.

Nội dung 6: Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận quy luật chuyển hóa từ
những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại.
Đây là một trong 3 quy luật của phép BCDV. Nó nói lên hình thức của sự phát
triển.
a. Nội dung:
- Khái niệm:
+ Chất là tính quy định vốn có của sự vật, hiện tượng, nói lên sự vật đó và
là cái phân biệt nó với sự vật, hiện tượng khác. (Chất là tổng hợp các thuộc
tính, trong đó có thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản. Chỉ thuộc tính
cơ bản mới phân biệt chất).
+ Lượng là tính quy định của sự vật, hiện tượng về mặt quy mô, cường độ,
trình độ, tốc độ, vv.. (Lượng có thể đo được bằng con số. Tuy nhiên, sự vật
phức tạp thì thông số về lượng của nó cũng phức tạp; do đó để nhận thưc được
lượng của nó, phải sử dụng nhiều con số thống kê và phải thông qua sự phán
đoán, đánh giá của tư duy).
- Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng:
+ Tính thống nhất giữa chất và lượng trong một sự vật: Chất và lượng là hai
mặt thống nhất hữu cơ với nhau. Chất nào có lượng đó; lượng nào có chất đó.
Chất và lượng có sự phù hợp với nhau. Sự phù hợp này diễn ra trong một phạm
vi, giới hạn nhất định gọi là “độ”. Độ là phạm vi, giới hạn trong đó lượng đổi
chưa làm chất thay đổi.
+ Quá trình chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay
đổi về chất: Lượng biến đổi trong phạm vi “độ” chưa làm chất thay đổi. Vượt
quá độ, sự biến đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất. Chất cũ mất đi, chất
mới ra đời. Sự thay đổi về chất gọi là bước nhảy. Điểm diễn ra bước nhảy gọi là
điểm nút.
+ Quá trình chuyển hóa từ những thay đổi về chất thành những sự thay đổi
về lượng: Chất mới ra đời thúc đẩy quá trình biến đổi về lượng với quy mô và
tốc độ cao hơn. Bởi vì trong phạm vi chất cũ, lượng biến đổi đến một giới hạn
nhất định thì bị chất cũ kìm hãm. Do đó, thay chất cũ bằng chất mới là phá bỏ
sự kìm hãm đó. Mặt khác, chất mới cần được kết hợp với lượng mới.
+ Bước nhảy và các hình thức của bước nhảy: Bước nhảy là sự thay đổi về
chất, từ chất cũ sang chất mới. Bước nhảy có nhiều hình thức đa dạng phong
phú tùy theo bản chất của sự vật và điều kiện tồn tại của sự vật. Người ta chia
bước nhảy thành: Bước nhảy đột biến & Bước nhảy dần dần; Bước nhảy toàn
bộ & Bước nhảy bộ phận.
b. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Giúp ta hiểu được cách thức của sự phát triển. Chống lại các quan điểm
duy tâm, siêu hình. (Quan điểm siêu hình chỉ thừa nhận sự thay đổi về lượng,
phủ nhận sự thay đổi về chất; không thừa nhận cái mới, cái tiến bộ tất yếu thay
thế cái cũ, lạc hậu và cho rằng cái mới ra đời là ngẫu nhiên hoặc do nguyên
nhân bên ngoài).
- Trong hoạt động thực tiễn muốn có chất mới, cần phải có quá trình tích
lũy về lượng. Cần chống khuynh hướng bảo thủ, trì trệ, tranh thủ tạo ra những
bước nhảy để thúc đẩy sự vật phát triển tiến lên. Đồng thời, phải chống lại bệnh
chủ quan nóng vội, thực hiện bước nhảy khi chưa có sự chín muồi về lượng.
- Kết hợp tinh thần cách mạng với khoa học nghiêm túc.
Nội dung 7: Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của các cặp phạm trù: Cái
chung và cái riêng, Nguyên nhân và kết quả, nội dung và hình thức.

a, Cái chung và cái riêng


* Khái niệm:
- Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng,
một quá trình riêng lẻ nhất định.
- Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính
chung không những chỉ có ở một kết cấu vật chất nhất định mà còn được lặp lại
trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.
- Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ những nét, những mặt,
những thuộc tính chỉ có ở một kết cấu vật chất nhất định nào đó và không được
lặp lại ở bất kì một kết cấu vật chất nào khác.
- Cái đặc thù là phạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính, những đặc
điểm, những bộ phận giống nhau tồn tại ở một số sự vật, hiện tượng (không tồn
tại ở tất cả sự vật hiện tượng).
* Tính chất và mối quan hệ biện chứng:
CNDV cho rằng cái riêng, cái chung và cái đơn nhất đều tồn tại và khẳng
định:
+ Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu hiện sự
tồn tại của mình. Điều này có nghĩa là không có cái chung trừu tượng, thuần túy
tồn tại độc lập ở bên ngoài cái riêng.
+ Cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ đưa đến cái chung, không có cái
riêng nào tồn tại tách rời cái chung và cũng không có cái riêng nào tồn tại vĩnh
viễn.
+ Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, còn cái chung là cái bộ
phận nhưng sâu sắc hơn cái riêng vì cái chung phản ánh thuộc tính, những mối
liên hệ tất nhiên lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại. Cái chung là cái gắn liền với
bản chất, quy định phương hướng tồn tại và phát triển của cái riêng.
+ Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa cho nhau trong quá trình
phát triển của sự vật. (Sự chuyển hóa của cái đơn nhất và cái chung là biểu hiệu
của quá trình cái mới ra đời thay thế cái cũ; sự chuyển hóa của cái chung và cái
đơn nhất là biểu hiện của cái cũ, cái lỗi thời bị phủ định.)
* Ý nghĩa phương pháp luận của cặp phạm trù:
- Muốn biết được cái chung, cái bản chất thì phải xuất phát từ cái riêng, từ
những sự vật, hiện tượng riêng lẻ.
- Nhiệm vụ của nhận thức là phải tìm ra cái chung trong hoạt động thực
tiễn, phải dựa vào cái chung để cải tạo cái riêng.
- Trong hoạt động thực tiễn thấy sự chuyển hóa nào có lợi chúng ta cần chủ
động tác động để nó sớm trở thành hiện thực.
b, Cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả:
* Khái niệm:
- Nguyên nhân là phạm trù để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong
một sự vật hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau gây ra một
biến đổi nhất định.
- Kết quả là phạm trù dùng để chỉ những biến đổi do sự tác động lẫn nhau
giữa các sự vật, hiện tượng hoặc các mặt trong cùng một sự vật, hiện tượng gây
ra. Kết quả chỉ là sự biến đổi do nguyên nhân gây ra.
* Tính chất và mối liên hệ giữa nguyên nhân và kết quả:
- Tính chất: Tính khách quan; tính tất yếu; tính phổ biến lặp đi lặp lại;
nguyên nhân khác nguyên cớ. (Nguyên cớ mang tính chủ quan dùng để che đậy
những nguyên nhân, là điều kiện cần thiết để chuyển hóa nguyên nhân thành kết
quả.)
- Mối liên hệ giưa nguyên nhân và kết quả:
+ Nguyên nhân quyết định kết quả.
+ Nguyên nhân có trước, sinh ra kết quả.
+ Nguyên nhân thế nào thì sinh ra kết quả thế ấy.
Mối quan hệ nhân quả không chỉ đơn thuần là sự đi kế tiếp nhau về thời
gian mà là mối liên hệ sản sinh: cái này tất yếu sinh ra cái kia. Cùng một
nguyên nhân sinh ra nhiều kết quả, và ngược lại, một kết quả do nhiều nguyên
nhân sinh ra. Do đó, mối quan hệ nguyên nhân – kết quả rất phức tạp.
Nguyên nhân và kết quả có thể chuyển hóa lẫn nhau trong những điều kiện
nhất định. Nguyên nhân sinh ra kết quả, rồi kết quả lại tác động tới sự vật, hiện
tượng khác và trở thành nguyên nhân sinh ra kết quả khác nữa. Do đó, sự phân
biệt nguyên nhân, kết quả chỉ có tính tương đối.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả của phép BCDV là cơ sở lí luận để
giải thích một cách đúng đắn mối quan hệ nhân – quả; chống lại các quan điểm
duy tâm, tôn giáo về những nguyên nhân thần bí.
- Nguyên nhân quyết định kết quả nên muốn có một kết quả nhất định thì
phải có nguyên nhân và điều kiện nhất định. Muốn khắc phục một hiện tượng
tiêu cực thì phải tiêu diệt nguyên nhân sinh ra nó.
- Phân loại nguyên nhân, tìm ra nguyên nhân cơ bản, nguyên nhân chủ yếu
giữa vai trò quyết định đối với kết quả.
- Biết sử dụng sức mạnh tổng hợp của nhiều nguyên nhân để tạo ra kết quả
nhất định.
- Biết sử dụng kết quả để tác động lại nguyên nhân, thúc đẩy nguyên nhân
tích cực, hạn chế nguyên nhân tiêu cực.

c, Cặp phạm trù nội dung và hình thức:


* Khái niệm:
- Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo
nên sự vật.
- Hình thức là cách tổ chức, kết cấu của nội dung, là mối liên hệ ổn định
giữa các mặt, các yếu tố, các bộ phận tạo thành nội dung. Hình thức có hình
thức bên trong và hình thức bên ngoài, trong đó hình thức bên trong quan trọng
hơn.
* Mối liên hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức:
- Nội dung và hình thức gắn bó với nhau trong mỗi sự vật. Không có nội
dung nào lại không có một hình thức nhất định, cũng không có một hình thức
nào lại không chứa đựng một nội dung nhất định.
- Nội dung quyết định hình thức. Bởi vì, mối liên hệ giữa những mặt, những
yếu tố, những bộ phận nào thì do chính những mặt, những yếu tố, những bộ
phận đó quyết định.
- Hình thức phải phù hợp với nội dung, tuy nhiên sự phù hợp này không
cứng nhắc, cùng một nội dung nhưng trong những điều kiện tồn tại khác nhau
có thể có các hình thức khác nhau.
- Hình thức có tác động trở lại nội dung. Nếu hình thức phù hợp với nội
dung thì sẽ tạo điều kiện cho nội dung phát triển. Ngược lại, nếu hình thức
không phù hợp với nội dung thì sẽ cản trở sự phát triển của nội dung.
- Khi hình thức cũ, lỗi thời mâu thuẫn với nội dung mới, cuộc đấu tranh
giữa nội dung và hình thức sẽ dần đến xóa bỏ hình thức cũ, thay bằng hình thức
mới cho phù hợp với nội dung mới. Đồng thời, nội dung cũng được cải tạo lại.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Trong hoạt động thực tiễn, cần tránh sự tách rời giữa nội dung và hình
thức.
- Vì nội dung quyết định hình thức cho nên khi xem xét sự vật, hiện tượng,
trước hết cần căn cứ vào nội dung của nó.
- Trong hoạt động thực tiễn, cần phải biết sử dụng nhiều hình thức để phục
vụ cho một nội dung nhất định.
- Cần thường xuyên đổi mới nội dung và hình thức hoạt động cho phù hợp
với tình hình mới.

Nội dung 8: Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
- Thực tiễn là những hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử – xã
hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên, xã hội và cả tạo chính bản thân con
người.
- Thực tiễn có nhiều hình thức khác nhau, trong đó có 3 hình thức cơ
bản:
+ Hoạt động sản xuất vật chất: Đây là hình thức cơ bản của hoạt động thực
tiễn, có vai trò quyết định và là cơ sở cho các hoạt động khác của thực tiễn.
+ Hoạt động làm biến đổi các quan hệ xã hội: Đây là hình thức cao nhất của
hoạt động thực tiễn.
+ Quan sát và thực nghiệm khoa học: Nó được xem là khâu trung gian giữa
người nghiên cứu khoa học và ứng dụng KH vào thực tế. Đây là khâu quan
trọng nhất trong các khâu của thực tiễn KH.
- Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:
+ Thực tiễn là cơ sở và mục đích của nhận thức: Không chỉ thông qua hoạt
động thực tiễn, thông qua sự tác động của chủ thể và khách thể khi đó các sự
vật, hiện tượng mới bộc lộ những thuộc tính vốn có của nó, nhờ vậy chúng ta
mới nhận thức được sự vật hiện tượng. Nói thực tiễn là cơ sở của nhận thức là
vì thông qua sự tác động, giác quan của con người ngày càng hoàn thiện hơn,
mà nhận thức của con người ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn.
+ Thực tiễn là động lực thúc đẩy quá trình vận động, phát triển của nhận
thức: là vì thực tiễn luôn đề ra những nhu cầu, những nhiệm vụ mới cho quá
trình nhận thức. Thực tiễn cũng luôn vận động, luôn biến đổi, do vậy, mỗi bước
tiến, thay đổi của thực tiễn nó lại đặt ra cho nhận thức những vấn đề cần phải
giải quyết.
+ Thực tiễn là mục đích của quá trình nhận thức: nhận thức phải phục vụ
thực tiễn.
+ Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm nghiệm tính chân lí trong quá trình phát triển
nhận thức: Thực tiễn là thước đo tính chân thực, tính giá trị của những tri thức
mà con người đạt được. Tiêu chuẩn này vừa có tính xác định lại vừa có tính
không xác định…

------------------------------------------------------------------------------------------------

Bản chất của ý thức:


- Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người một
cách năng động và sáng tạo. Điều này được thể hiện ở:
+ Ý thức cũng là “hiện thực”, nhưng đó là hiện thực trong tư tưởng. Đó là
sự thống nhất giữa vật chất và ý thức. Trong đó, vật chất là cái được phản ánh,
còn ý thức là cái phản ánh.
+ Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, bởi vì ý thức con
người mang tính năng động, sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn.
+ Phản ánh ý thức là sự phản ánh sáng tạo. Tính sáng tạo của ý thức rất đa
dạng, phong phú. Tuy nhiên, đó là sự sáng tạo dựa trên sự phản ánh.
- Quá trình ý thức được thống nhất bởi các mặt sau:
+ Trao đổi thông tin giữa chủ thể và đồi tượng phản ánh. Sự trao đổi này
mang tính chất hai chiều, có chọn lọc các thông tin cần thiết.
+ Mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần.
+ Chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan (hiện thực hóa tư
tưởng thông qua hoạt động thực tiễn)
+ Ý thức không phải là một hiện tượng tự nhiên thuần túy mà là một hiện
tượng xã hội. Ý thức chỉ được nảy sinh trong lao động, trong hoạt động cải tạo
thế giới của con người. (Ý thức mang bản chất là có tính xã hội).
c, Kết cấu của ý thức: Ý thức là một hiện tượng xã hội – tâm lí có kết cấu
hết sức phức tạp. Tùy theo cách tiếp cận mà có nhiều cách phân chia khác nhau.
- Theo chiều ngang, ý thức gồm:
+ Tri thức: là kết quả của quá trình nhận thức của con người về thế giới hiện
thực, làm tái hiện trong tư tưởng những thuộc tính, những quy luật của thế giới
ấy và diễn đạt chúng dưới những hình thức ngôn ngữ hoặc các hệ thống ký hiệu
khác.
+ Tình cảm: là sự cảm động của con người trong mối quan hệ với thực tại
xung quanh và với chính mình.
+ Các yếu tố khác như niềm tin, lí trí, ý chí,… Trong tất cả các yếu tố này
thì tri thức là yếu tố quan trọng nhất.
(Tri thức là yếu tố quan trọng nhất, thiếu tri thức thì mọi thứ đều là ý thức
vô hồn, ý thức trống rỗng. Tri thức quan trọng vì thiếu tri thức thì mọi lí tưởng
của con người đều là hão huyền, ước mơ vô vọng. Muốn có ý thức thì phải học
(trường học và trường đời).
- Theo chiều dọc, ý thức bao gồm:
+ Tự ý thức: là ý thức về bản thân mình trong quan hệ với thế giới bên
ngoài.
+ Tiềm thức: là những tri thức mà con người đã có được từ trước nhưng gần
như trở thành bản năng , thành kĩ năng trong tầng sâu ý thức.
+ Vô thức: là trạng thái tâm lí ở chiều sâu, điều chỉnh suy nghĩ, hành vi, thái
độ ứng xử của con người mà chưa có sự tranh luận nội tâm, chưa có sự truyền
thông tin bên trong, chưa có sự kiểm tra, tính toán của lí trí…

Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thức


Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện
chứng,
trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất.
a) Vật chất quyết định ý thức
- Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
 Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức nên vật chất là cái có
trước, là tính thức nhất. Ý thức chỉ là hình thức phản ánh của vật chất vào trong
bộ óc con người nên ý thức là cái có sau, là tính thứ hai.
 Phải có sự vận động của vật chất trong tự nhiên (bộ óc người và thế giới
khách quan) và vật chất trong xã hội (lao động và ngôn ngữ) thì mới có sự ra
đời ý thức.
- Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức.
 Dưới bất kỳ hình thức nào, ý thức đều là phản ánh hiện thực khách quan. Nội
dung của ý thức là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan trong đầu
óc con người.
 Sự phát triển của hoạt động thực tiễn là động lực mạnh mẽ nhất quyết định
tính phong phú và độ sâu sắc nội dung của ý thức con người qua các thế hệ.
- Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức.
 Bản chất của ý thức là phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan, tức
là thế giới vật chất được dịch chuyển vào bộ óc con người và được cải biên
trong đó. Vậy nên vật chất là cơ sở để hình thành bản chất của ý thức.
- Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.
 Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với sự biến đổi của vật
chất. Vật chất thay đổi thì ý thức cũng phải thay đổi theo.
 Vật chất luôn vận động và biến đổi nên con người cũng ngày càng phát triển
cả về thể chất lẫn tinh thần, thì dĩ nhiên ý thức cũng phát triển cả về nội dung
và hình thức phản ánh
b) Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
 Ý thức có “đời sống” riêng, có quy luật vận động, phát triển riêng, không
lệ thuộc một cách máy móc vào vật chất.
 Ý thức có thể làm biến đổi những điều kiện, hoàn cảnh vật chất, thậm chí
còn tạo ra “thiên nhiên thứ hai” phục vụ cho cuộc sống của con người
 Vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động, hành động của
con người; nó có thể quyết định hoạt động của con người
 Vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất là trong thời đại ngày nay

You might also like