You are on page 1of 146

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ NGOAN

HIỆP ĐỊNH TRỊ GIÁ GATT, KINH NGHIỆM MỘT SỐ NƯỚC


VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2009
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ NGOAN

HIỆP ĐỊNH TRỊ GIÁ GATT, KINH NGHIỆM MỘT SỐ NƯỚC


VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật quốc tế


Mã số : 60 38 60

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Ngọc Giao

HÀ NỘI - 2009
MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
Danh mục các sơ đồ
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ HIỆP ĐỊNH TRỊ GIÁ GATT/WTO 1994 9
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của GATT 9
1.2. Khái quát về trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu 11
1.2.1. Khái niệm trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu 11
1.2.2. Đặc điểm và vai trò của trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu 12
1.2.3. Ý nghĩa của trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu 13
1.3. Vài nét tổng quan về hiệp định trị giá hải quan GATT/WTO 1994 14
1.3.1. Mục đích của Hiệp định trị giá Hải quan (ACV) 15
1.3.2. Cấu trúc và nội dung căn bản của ACV 16
1.3.2.1. Cấu trúc của ACV 16
1.3.2.2. Nội dung căn bản của Hiệp định 16
1.3.3. Các nguyên tắc của Hiệp định 18
1.4. Hiệp định trị giá hải quan - đặc điểm và mối liên hệ với các 19
văn kiện trong khuôn khổ của vòng đàm phán U-ru-guay
1.5. Việc tham gia, thực hiện hiệp định trị giá hải quan GATT/WTO 21
1994 tại một số nước trong khu vực, trên thế giới và tại
Việt Nam
1.5.1. Khu vực ASEAN và ASEAN + 3 21
1.5.2. Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương 22
Chương 2: HIỆP ĐỊNH TRỊ GIÁ GATT - KINH NGHIỆM MỘT SỐ 26
NƢỚC VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM

2.1. Kinh nghiệm của một số nước trong quá trình áp dụng hiệp 26
định trị giá GATT/WTO 1994
2.1.1. Đối với các nước công nghiệp phát triển 27
2.1.2. Đối với các nước đang phát triển và chậm phát triển 28
2.1.3. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam trong quá trình thực 35
hiện ACV
2.2. Hiệp định trị giá GATT/WTO - thực trạng áp dụng tại Việt Nam 37
2.2.1. Quá trình hình thành và phát triển cơ chế xác định trị giá 37
tính thuế hàng hóa nhập khẩu của Việt Nam
2.2.2. Thực trạng về cơ sở pháp lý xác định trị giá tính thuế hàng 43
hóa nhập khẩu theo ACV tại Việt Nam
2.2.3. Thực trạng cơ chế xác định trị giá tính thuế hàng hóa nhập 45
khẩu tại Việt Nam
2.2.3.1. Nhóm cơ chế xác định trị giá tính thuế theo ACV 45
2.2.3.2. Nhóm cơ chế xác định trị giá theo phương pháp quốc gia 55
2.2.4. Thực trạng về khai báo và kiểm tra trị giá tính thuế hàng 59
nhập khẩu ở Việt Nam
2.2.4.1. Cơ chế khai báo trị giá, tờ khai trị giá 59
2.2.4.2. Cơ chế kiểm tra trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu ở Việt Nam 60
2.3. Đánh giá chung 61
2.3.1. Kết quả thực hiện cơ chế xác định trị giá tính thuế hàng hóa 61
nhập khẩu ở Việt Nam
2.3.2. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân chủ yếu 69
2.3.2.1. Những khó khăn, hạn chế của cơ chế xác định trị giá tính 69
thuế hiện hành
2.3.2.2. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, trở ngại của cơ chế 79
xác định giá tính thuế hiện hành
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG HIỆU QUẢ ÁP 88
DỤNG HIỆP ĐỊNH TRỊ GIÁ GATT/WTO 1994 TRONG
ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA
VIỆT NAM

3.1. Bối cảnh chuyển đổi cơ chế xác định trị giá tính thuế theo 88
phương pháp quốc gia sang phương pháp trị giá GATT/WTO
3.2. Một số giải pháp tăng cường hiệu quả áp dụng hiệp định trị 96
giá GATT/WTO 1994 trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam
3.2.1. Nhóm giải pháp về hoàn thiện cơ sở pháp lý 96
3.2.1.1. Hoàn thiện cơ sở pháp lý qui định về kiểm tra, xác định trị giá 97
3.2.1.2. Hoàn thiện cơ sở pháp lý có liên quan đến kiểm tra, kiểm 98
soát xác định trị giá như: Quản lý tài chính, tiền tệ, quản lý
thuế, hạch toán kế toán, kiểm tra sau thông quan, điều tra
chống buôn lậu, xử lý vi phạm hành chính
3.2.2. Hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin trong 103
thực hiện xác định trị giá tính thuế hàng nhập khẩu
3.2.2.1. Hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật công nghệ 103
3.2.2.2. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ trong việc kiểm 105
tra, xác định trị giá tính thuế hàng nhập khẩu
3.2.3. Hoàn thiện mô hình tổ chức kết hợp với việc đào tạo nâng 107
cao năng lực cán bộ làm công tác quản lý trị giá tính thuế
3.2.3.1. Hoàn thiện mô hình tổ chức với các chức năng quản lý trị 107
giá phù hợp với Hiệp định và thực tiễn
3.2.3.2. Đẩy mạnh đào tạo và nâng cao năng lực cán bộ làm công 109
tác kiểm tra xác định trị giá
3.2.4. Hoàn thiện cơ chế, tăng cường hiệu lực và hiệu quả của các 111
công cụ kiểm tra, kiểm soát trị giá khai báo
3.2.5. Phát huy tối đa và đồng bộ các nguồn lực 114
3.2.5.1. Phát huy các nguồn nội lực 114
3.2.3.2. Huy động các nguồn lực hỗ trợ bên ngoài khác 116
3.2.6. Nâng cao năng lực nhận thức của hải quan và cộng đồng 119
doanh nghiệp. Xây dựng chiến lược tự nguyện chấp hành
pháp luật của doanh nghiệp
KẾT LUẬN 122
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 124
PHỤ LỤC 129
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ACV : Hiệp định về thực hiện Điều VII của Hiệp định chung về
Thuế quan và Thương mại (Hiệp định trị GATT/WTO)
AFTA : Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
ASEAN : Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
ASEM : Diễn đàn hợp tác Á - Âu
BDV : Định nghĩa Burusselle
CARICOM : Khối thị trường chung CARIBE
CIF : Giá hàng hóa bao gồm phí vận tải và bảo hiểm đến các
nước nhập khẩu
CNTT : Công nghệ thông tin
EEC : Cộng đồng kinh tế châu Âu
GATT 1947 : Hiệp định chung về thuế quan và thương mại năm 1947
GATT/WTO (GATT 1994): Hiệp định chung về thuế quan và thương
mại năm 1994
GT : Giá trị
GTT : Giá tính thuế
GTT22 : Hệ thống thông tin dữ liệu giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu
HH : Hàng hóa
HHNK : Hàng hóa nhập khẩu
ICD : Cảng chu chuyển hàng hóa nội địa
KB : Khai báo
KTSTQ : Kiểm tra sau thông quan
LAN : Mạng cục bộ
NĐ 40 : Nghị định số 40/2007/NĐ-CP ngày 16/3/2007 của Chính
phủ quy định về xác định trị giá hải quan đối với hàng
hóa xuất khẩu, nhập khẩu
NK : Nhập khẩu
NSNN : Ngân sách nhà nước
OECD : Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
PP : Phương pháp
PTA : Khu vực thương mại ưu đãi
PTPL : Phân tích phân loại
QĐ 1636 : Quyết định số 1636/QĐ-TCHQ ngày 4/8/2008 về việc ban
hành Quy trình kiểm tra, xác định trị giá tính thuế hàng
hóa xuất khẩu, nhập khẩu
QLRR : Quản lý rủi ro
SL : Số lượng
SLHH : Số lượng hàng hóa
SX : Sản xuất
TGGD : Trị giá giao dịch
TGKB : Trị giá khai báo
TGTT : Trị giá tính thuế
TS : Thuế suất
TT 40 : Thông tư số 40/2008/TT-BTC ngày 21/5/2008 của Bộ Tài
chính hướng dẫn thi hành Nghị định 40/2007/NĐ-CP
ngày 16/3/2007 của Chính phủ
UDEAC : Liên minh Hải quan các quốc gia Trung Phi
WAN : Mạng diện rộng
WB : Ngân hàng Thế giới
WCO : Tổ chức Hải quan thế giới
WTO : Tổ chức Thương mại Thế giới
XK : Xuất khẩu
XNK : Xuất nhập khẩu
DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu Tên bảng Trang


bảng

2.1 Xác định trị giá tính thuế hàng hóa miễn thuế chuyển 55
mục đích sử dụng

2.2 Số hồ sơ tham vấn và điều chỉnh trị giá hải quan 62

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Số hiệu Tên biểu đồ Trang


biểu đồ

2.1 Tỷ lệ sử dụng phương pháp trị giá giao dịch tại các 46
nước phát triển

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ

Số hiệu Tên sơ đồ Trang


sơ đồ

2.1 Mạng WAN ngành Hải quan 64

2.2 Mô hình tổ chức Hải quan Việt Nam 67

3.1 Mô hình hệ thống khai hải quan điện tử 91

3.2 Quy trình ra quyết định quản lý rủi ro 92


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Nền kinh tế thị trường đặt ra cho các nhà kinh doanh và đầu tư phải
nắm bắt và xử lý thông tin chính xác, kịp thời nhằm đưa ra các quyết định tối
ưu có lợi nhất cho mình. Trong nền kinh tế toàn cầu hóa và sự phát triển
thương mại quốc tế hiện nay, một trong những kênh thông tin luôn thu hút sự
quan tâm của các doanh nghiệp là các quy định về hệ thống thuế quan.

Vận dụng và quản lý đúng đắn nghiệp vụ xác định trị giá hàng hóa
nhập khẩu theo mục đích Hải quan là một trong những vấn đề mà Hải quan
toàn thế giới đã và đang phải quan tâm xử. Bởi lẽ, Theo quản lý hải quan hiện
đại, trị giá hải quan là phần số liệu về trị giá được đưa ra hoặc đưa vào lãnh
thổ hải quan, do cơ quan hải quan quản lý và sử dụng phục vụ cho các mục
tiêu quản lý nhà nước về Hải quan, trong đó mục tiêu dùng để tính thuế đối
với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu là chủ yếu và gọi là trị giá tính thuế. Trị
giá tính thuế là yếu tố quan trọng (cùng với số lượng hàng hóa và mức thuế
suất đối với mỗi loại hàng hóa đó) cấu thành nên thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu. Hơn nữa, Việc áp dụng Hiệp định trị giá của Tổ chức Thương mại thế
giới WTO yêu cầu phải có sự thay đổi về nhận thức của cả cơ quan Hải quan
và cộng đồng doanh nghiệp. Theo các nguyên tắc xác định trị giá của WTO,
cộng đồng doanh nghiệp thương mại mong đợi hàng hóa trao đổi quốc tế
được thuận lợi và không bị gián đoạn. Mặt khác, Hải quan có quyền yêu cầu
cộng đồng doanh nghiệp thương mại phải hoàn toàn tuân thủ, tôn trọng Luật
Hải quan quốc gia, trong đó có nội dung về xác định trị giá.

Hiệp định Thực hiện Điều VII của Hiệp định chung về thuế quan và
thương mại GATT/WTO 1994 có hiệu lực đối với các nước thành viên của
WTO từ 1/1/1995. Hiệp định này là hệ thống phương pháp xác định trị giá
Hải quan của hàng nhập khẩu đã được chấp nhận.

1
Ở Việt Nam, trị giá hải quan của hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu được
chính thức xuất hiện vào đầu thập kỷ 90, đánh dấu bằng sự ra đời của Luật
thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 1991. Từ thời điểm đó đến trước năm
2002, trị giá hải quan chủ yếu phục vụ một mục tiêu quản lý duy nhất là dùng
để tính thuế cho hàng hóa xuất nhập khẩu, vì vậy giai đoạn này trị giá hải
quan được biết với tên gọi là trị giá tính thuế hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
Theo đó, việc xác định trị giá tính thuế chủ yếu dựa trên bảng giá tối thiểu do
Nhà nước qui định. Đây là cơ chế áp dụng trị giá tính thuế hải quan theo sự áp
đặt của Nhà nước. Theo cơ chế này, tuy đã có tác dụng nhất định trong việc
dự toán nguồn thu cho NSNN và trong đấu tranh chống gian lận thương mại
qua giá, nhưng cũng biểu hiện rất nhiều bất cập cho cả cơ quan quản lý lẫn
doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong việc tự chủ hạch toán kinh doanh.

Xác định trị giá tính thuế theo Bảng giá tối thiểu không còn phù hợp
với thực tiễn khi Việt Nam hội nhập với khu vực và quốc tế. Với sức ép hội
nhập và toàn cầu hóa nền kinh tế bắt buộc chúng ta phải thay đổi, phải có một
cơ chế xác định trị giá phù hợp hơn, thuận tiện, khách quan và minh bạch hơn.

Từ năm 2002 về sau, qua một thời gian Việt Nam tham gia vào các tổ
chức khu vực, liên khu vực như ASEAN, ASEM, AFTA,... để chuẩn bị các
điều kiện tạo tiền đề cho Việt Nam gia nhập vào Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO), về phương diện thuế quan, Việt Nam phải có nghĩa vụ thực hiện xác
định trị giá tính thuế theo các nguyên tắc của Hiệp định thực hiện điều 7 Hiệp
định chung về thuế quan và thương mại (gọi tắt là Hiệp định trị giá
GATT/WTO hay ACV), vì vậy Chính phủ đã ban hành Nghị định
60/2002/NĐ-CP ngày 06/06/2002 áp dụng cơ chế xác định giá tính thuế theo
nguyên tắc của Hiệp định trị giá GATT/WTO và được hướng dẫn bằng Thông
tư 118/2003/TT-BTC ngày 8/12/2003 của Bộ Tài chính. Tuy nhiên, mãi đến
đầu năm 2004, các văn bản này mới chính thức được áp dụng để xác định giá
tính thuế đối với hàng hóa nhập khẩu đối với các quốc gia có tham gia ký kết
trao đổi thương mại song phương với Việt Nam. Đến cuối năm 2004 đã áp

2
dụng xác định trị giá tính thuế hàng nhập khẩu cho 56 quốc gia và đến thời
điểm hiện nay đã áp dụng đối với hầu hết các nước trên thế giới.

Sau hơn 5 năm thực hiện áp dụng Hiệp định trị giá GATT/WTO trong
hoạt động xác định trị giá tính thuế đối với hàng hóa nhập khẩu ở nước ta, về
cơ bản đã tiếp cận được cơ chế và kỹ thuật xác định trị giá hiện đại của Hiệp
định. Tuy vậy, trên thực tế vẫn còn nhiều bất cập, khó khăn cả về cơ chế
chính sách, cả về cơ sở công nghệ kỹ thuật và đội ngũ cán bộ thực hiện của
chủ thể quản lý lẫn đối tượng quản lý, hiện tượng gian lận trốn thuế qua việc
khai giá thấp hơn thực tế mua bán còn diễn ra hết sức phổ biến mà cơ quan
quản lý chưa quản lý được, việc khiếu nại, khiếu kiện về trị giá tính thuế vẫn
diễn ra thường xuyên và vô cùng phức tạp.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, yêu
cầu đơn giản và hài hòa hóa thủ tục hải quan theo Công ước Kyoto và để có
được những cơ chế xác định trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu khoa học,
phù hợp với Luật pháp quốc tế và điều kiện thực tiễn Việt Nam hiện nay, đòi
hỏi phải nhận thức đúng đắn về cơ sở lý luận và thực tiễn, từ đó đề ra những
giải pháp thiết thực nâng cao hiệu quả công tác xác định giá tính thuế hàng
hóa nhập khẩu ở Việt Nam, tiến tới đạt được mục tiêu cải thiện môi trường
kinh doanh xuất nhập khẩu và thu hút đầu tư, đảm bảo nguồn thu, chống thất
thu cho NSNN là vấn đề hết sức ý nghĩa và thiết thực hiện nay.

Xuất phát từ lý do trên, tác giả chọn đề tài "Hiệp định trị giá GATT,
kinh nghiệm một số nước và thực trạng áp dụng tại Việt Nam" làm luận văn
thạc sĩ chuyên ngành Luật Quốc tế, hy vọng góp phần tháo gỡ những vấn đề
cấp thiết trên đây.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Ngay từ đầu những năm 2000, để chuẩn bị những tiền đề cho Việt
Nam gia nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là tổ chức Thương mại quốc tế WTO,
Chính phủ đã có Chỉ thị về từng bước áp dụng các phương pháp của Hiệp

3
định trị giá GATT/ WTO để xác định trị giá tính thuế đối với hàng hóa nhập
khẩu. Trên tinh thần đó, ngành Hải quan đã tổ chức nhiều hội thảo, cử nhiều
đoàn cán bộ cao cấp đi tham quan, học hỏi kinh nghiệm ở nhiều nước trên
thế giới và khu vực, đồng thời biên soạn nhiều tài liệu nghiên cứu với sự
tham gia của nhiều nhà khoa học và các nhà hoạch định và điều hành chính
sách, cụ thế như:

- Sách "Các phương pháp xác định trị giá hải quan theo GATT và
kiểm toán hải quan" của tác giả Phạm ngọc Hữu biên soạn và hiệu đính- NXB
Tài chính Hà nội - 1996

- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành mã số N08-2000 "Xác định lộ
trình tiến tới thực hiện Hiệp định trị giá GATT/WTO và các giải pháp thực
thi" do Cục Kiểm tra thu thuế xuất nhập khẩu thuộc Tổng cục Hải quan thực
hiện năm 2000.

- Sách "Cộng đồng doanh nghiệp - cơ quan Hải quan và Hiệp định trị
giá GATT/WTO" do Tổng cục hải quan biên soạn tháng 5-2001

- Sách "Hướng dẫn xác định trị giá hải quan Asean (ACVG)" do Tổng
cục hải quan biên soạn tháng 4-2004.

- Giáo trình "Thuế và trị giá hải quan" do trung tâm đào tạo, bồi
dưỡng công chức Hải quan thuộc Tổng cục Hải quan biên soạn năm 2006.

- Sách "Sổ tay kiểm tra trị giá hải quan của Tổ chức Hải quan thế giới
WCO" do trung tâm đào tạo, bồi dưỡng công chức Hải quan thuộc Tổng cục
Hải quan biên soạn tháng 4-2007.

- Sổ tay Hiện đại hóa hải quan do Ngân hàng Thế giới xuất bản (bản
dịch năm 2007).

- Tài liệu "Cải cách thủ tục xuất nhập khẩu hướng dẫn cho đối tượng
thực thi" do Cab Doanh nghiệp vừa và nhỏ - Ngân hàng Thế giới xuất bản
tháng 9/2008.

4
- Hiệp định trị giá GATT/WTO (ACV) bản tiếng Anh và tiếng Việt gồm:

+ Các văn bản Luật Hải quan năm 2001, Luật Hải quan sửa đổi bổ
sung năm 2005; Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; Luật Quản lý thuế;
Luật Kế toán và các chuẩn mực kế toán hiện hành; Luật Ngân hàng, Luật Đầu
tư,... nghiên cứu những điều qui định liên quan đến xác định trị giá tính thuế

+ Các Nghị định của Chính phủ qui định chi tiết thi hành các Luật nêu
trên và các thông tư hướng dẫn của các Bộ, ngành hữu quan, đặc biệt là các
qui định riêng trong lĩnh vực kiểm tra, xác định trị giá tính thuế.

+ Các văn bản của ngành Hải quan về qui trình nghiệp vụ, tổ chức hệ
thống kiểm tra và xác định trị giá hải quan, về tờ khai trị giá, về thu thập, cập
nhật khai thác thông tin dữ liệu giá tính thuế,... từ cơ quan Hải quan trung
ương đến Cục Hải quan, Chi cục Hải quan địa phương.

(Phụ lục 8: Danh mục các văn bản Luật và các văn bản khác về xác
định trị giá tính thuế hàng nhập khẩu tại Việt Nam).

Các công trình nghiên cứu trên hầu hết mới chỉ đề cập đến các khía
cạnh về kỹ thuật cũng như giới thiệu các phương pháp mang tính chất chung
nhất, chưa có công trình nào đi sâu đánh giá thực trạng việc xác định trị giá
tính thuế hiện nay, chưa đề cập tới kinh nghiệm của một số nước trong áp
dụng, thực hiện Hiệp định nêu trên để từ đó đưa ra những giải pháp hữu hiệu
nhằm hoàn thiện cơ chế xác định trị giá tính thuế hiện nay cho phù hợp với
thực tiễn Việt Nam hiện nay và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích

Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận, phân tích thực trạng quá trình
kiểm tra, xác định trị giá tính thuế, kinh nghiệm thực tiễn từ Hải quan một số
nước và đề xuất giải pháp hoàn thiện cơ chế xác định trị giá tính thuế hàng

5
hóa nhập khẩu nói chung và áp dụng hiệu quả Hiệp định cho phù hợp với thực
tiễn đất nước và quốc tế.

3.2. Nhiệm vụ

+ Phân tích những đặc điểm, bất cập về cơ chế xác định trị giá tính
thuế theo bảng giá tối thiểu trước thời điểm chính thức áp dụng hiệp định trị
giá GATT/WTO (trước năm 2004).

+ Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về trị giá tính thuế theo
các phương pháp của GATT/WTO và cơ chế xác định giá tính thuế hàng hóa
nhập khẩu theo Luật pháp Việt Nam hiện nay.

+ Đánh giá đúng thực trạng cơ chế xác định giá tính thuế hàng hóa
nhập khẩu hiện hành ở Việt Nam, chỉ ra những bất cập, hạn chế của công tác
xác định giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu hiện hành.

+ Đề xuất giải pháp tiếp tục hoàn thiện cơ chế và nâng cao hiệu quả
thực thi trong việc kiểm tra, xác định trị giá tính thuế hàng nhập khẩu theo xu
hướng hội nhập quốc tế.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Hiệp định trị giá GATT/WTO 1994,
kinh nghiệm một số nước và thực tiễn áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu tại
Việt Nam hiện nay.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu trong phạm vi các vấn đề về chính sách, pháp
luật về kiểm tra, xác định trị giá (các phương pháp xác định, phương thức
khai báo, qui trình thủ tục kiểm tra, xác định trị giá); cơ chế phối hợp giữa cơ
quan hải quan và các cơ quan hữu quan trong việc xác định, kiểm tra giá;
những điều kiện, cơ sở để thực hiện cơ chế xác định trị giá; biện pháp thanh

6
tra, kiểm tra trị giá, xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp về trị giá tính thuế
hàng hóa nhập khẩu từ 2004 đến nay.

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

Việc nghiên cứu đề tài dựa trên phương pháp duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh, các
quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về những
vấn đề liên quan đến xác định trị giá tính thuế.

Trên cơ sở đó, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu như: Tổng
hợp, phân tích, so sánh, tích hợp số liệu kết hợp nghiên cứu lý luận với khảo
sát thực tiễn; phương pháp xã hội học, điều tra, tiếp cận hệ thống.

6. Đóng góp mới của đề tài

- Hệ thống hóa, phân tích, so sánh các cơ chế, chính sách liên quan
đến xác định trị giá tính thuế hàng nhập khẩu. Phân tích những cơ chế do
ngành Hải quan ban hành, chính sách do Chính phủ và các ngành hữu quan
ban hành mà Ngành hải quan phải thực hiện, qua đó đánh giá những thuận lợi,
khó khăn của từng loại cơ chế, chính sách đối với hoạt động xác định trị giá
hàng hóa nhập khẩu hiện nay.

- Hệ thống hóa, phân tích, so sánh kinh nghiệm áp dụng, thực hiện
Hiệp định trị giá (ACV) tại một số nước có nền kinh tế khác nhau, chỉ ra
những nguyên nhân và đưa ra những bài học kinh nghiệm thiết thực trong áp
dụng tại Việt Nam

- Đánh giá thực trạng hoạt động xác định giá tính thuế hàng hóa nhập
khẩu hiện nay trên cơ sở khảo sát, điều tra, thu thập, phân tích các dữ liệu giá
tính thuế tại ngành Hải quan.

- Phân tích những khó khăn, thuận lợi và đề xuất các giải pháp nhằm
hoàn thiện qui trình xác định trị giá tính thuế hiện nay về cơ chế chính sách,
về điều kiện trang thiết bị làm việc và con người thực hiện, về quan hệ phối

7
hợp trong và ngoài ngành, về nhận thức và tình hình chấp pháp của người
nhập khẩu, doanh nghiệp.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Tổng quan về Hiệp định trị giá GATT/ WTO 1994.

Chương 2: Hiệp định trị giá GATT - kinh nghiệm một số nước và thực
trạng áp dụng tại Việt Nam

Chương 3: Một số giải pháp tăng cường hiệu quả áp dụng Hiệp định trị
giá GATT/ WTO 1994 trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.

8
Chương 1

TỔNG QUAN VỀ HIỆP ĐỊNH TRỊ GIÁ GATT/WTO 1994

1.1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA GATT

GATT là tên viết tắt của tổ chức các quốc gia tham gia ký kết và thực
hiện Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (The General Agreement
of Tariff and Trade), được hình thành sau khi chiến tranh thế giới lần II
(1939 - 1945) kết thúc, trong bối cảnh thế giới bước vào thời kỳ phục hồi
kinh tế và thương mại hàng hóa chiếm lĩnh thế giới. Hiệp định GATT bắt
đầu có hiệu lực từ năm 1947 (gọi là GATT 1947), trong đó đưa ra hàng loạt
các quy định liên quan đến thương mại quốc tế đòi hỏi các nước ký kết phải
tuân thủ. Có thể nói, đây là văn bản có tính pháp quy đầu tiên đặt ra các tiêu
chuẩn chung về thương mại mang tính toàn cầu. Trong điều kiện thương mại
quốc tế ngày càng tăng nhanh, một số nước phát triển đã liên kết với nhau để
tiếp tục nghiên cứu, cụ thể hóa các quy định của GATT nhằm làm tăng năng
lực áp dụng và tính hiệu quả của văn bản này. Kết quả là hàng loạt hiệp định
cụ thể đã ra đời và giải thích, cụ thể hóa hơn nữa những điều khoản quy định
của GATT, là những nội dung vẫn được coi là quá trừu tượng, khó hiểu và
khó áp dụng.

Năm 1947, dưới sự bảo trợ của Hội quốc liên, nay là Liên Hợp quốc,
một Hiệp định chung về thương mại quốc tế, có tên gọi là Hiệp định chung
về Thuế quan và thương mại (GATT) đã được ký kết tại Gernever, Thụy Sỹ.
Trong Hiệp định này, vấn đề về xác định trị giá tính thuế của hàng hóa nhập
khẩu, xuất khẩu (gọi tắt là Trị giá Hải quan) đã được quy định trong Điều VII,
đưa ra một nguyên tắc chung về xác định Trị giá Hải quan cho tất cả các nước
tham gia ký kết. Song khi áp dụng thực tế, vì Điều VII chỉ đưa ra những
nguyên tắc chung mà không có những hướng dẫn cụ thể, nên mỗi nước lại

9
hiểu và phát triển các nguyên tắc này theo những hướng khác nhau. Hệ thống
xác định Trị giá Hải quan chung trên thế giới lại gặp phải những khó khăn
mới là tính "thiếu thống nhất" trong phương pháp định giá cụ thể.

Đến năm 1951, Định nghĩa Brussels về trị giá hải quan ra đời để giải
quyết những khó khăn của Hiệp định 1947. Định nghĩa Brussels quy định trị
giá hải quan là giá thông thường của hàng hóa đang xác định trị giá. Giá
thông thường này phải được xem xét trong điều kiện cạnh tranh đầy đủ, và có
xét đến thời gian bán hàng, địa điểm bán hàng và số lượng, cấp độ thương
mại của giao dịch bán hàng. Hệ thống xác định trị giá hải quan theo định
nghĩa Brussel đã được nhiều nước tham gia. Nhưng đến đầu những năm 70
của thế kỷ XX, người ta đã nhận thấy rõ ràng hơn những nhược điểm của Hệ
thống Brussels đó là "tính không đồng bộ" trong việc áp dụng định nghĩa
Brussels giữa các quốc gia khác nhau.

Từ năm 1973 -1979, các nước trên thế giới bắt đầu một loạt các cuộc
đàm phán mới nhằm đạt được những thuận lợi trong mở rộng và tự do hóa
thương mại quốc tế. Vòng đàm phán này được gọi là Vòng đàm phán Tokyo
(1973 -1979) với sự tham gia của 120 quốc gia, với mục tiêu là tiếp tục những
nỗ lực mà GATT theo đuổi nhằm từng bước giảm bớt hàng rào thuế quan, và
kết quả của nó là một Hiệp định mới về xác định trị giá hải quan ra đời năm
1981. Hiệp định trị giá hải quan vẫn dựa trên Điều VII của Hiệp định trị giá
GATT. Tuy nhiên, nguyên tắc chung đã được cụ thể hóa bằng các phương
pháp xác định trị giá hải quan cụ thể đi kèm những hướng dẫn rõ ràng.

Cho đến những năm 1986 - 1994, trước áp lực của xu hướng toàn cầu
hóa nền kinh tế và thương mại thế giới, các nước chủ chốt của GATT đã đi
đến quyết định nhất thể hóa toàn bộ các hiệp định, hiệp ước, công ước liên
quan đến thương mại và dịch vụ thành một hệ thống thống nhất, có một cơ
quan chính thức quản lý và điều hành. Sự kiện này còn được đánh dấu bằng
một tên gọi khác, đó là Vòng đàm phán Uruguay (1986 - 1994) với sự tham

10
gia của 125 quốc gia; đây cũng là vòng đàm phán cuối cùng và là vòng đàm
phán tham vọng nhất trong số tất cả (8 vòng) đàm phán của GATT. Kết quả
là, năm 1994, Tổ chức thương mại thế giới - World Trade Organization -
WTO đã ra đời và thay thế GATT. WTO không chỉ đơn giản là sự kế thừa của
GATT, mà còn có phạm vi hoạt động lớn hơn rất nhiều. Nó vừa là cơ quan
quản lý, vừa là cơ quan trọng tài đứng ra phán xử các tranh chấp quốc tế về
các hoạt động thương mại quốc tế.

Cùng với sự ra đời của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Hiệp
định về thực hiện điều VII của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại
hay còn được biết đến với cái tên - Hiệp định trị giá Hải quan GATT - đã
được sửa đổi và có tên là Hiệp định về thực hiện Điều VII của Hiệp định
chung về thuế quan và thương mại 1994.

Từ tháng 1 năm 1995, Hiệp định trị giá Hải quan thường được cộng
đồng quốc tế biết đến là Hiệp định Trị giá Hải quan của Tổ chức Thương mại
Thế giới (GATT/WTO). Đối với những nước muốn trở thành thành viên của
Tổ chức thương mại thế giới WTO, việc áp dụng Hiệp định trị giá hải quan là
việc bắt buộc.

1.2. KHÁI QUÁT VỀ TRỊ GIÁ TÍNH THUẾ HÀNG HÓA NHẬP KHẨU

1.2.1. Khái niệm trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu

- Trị giá hải quan (Custom Value)

Theo quản lý hải quan hiện đại: "Trị giá hải quan đối với hàng hóa
xuất khẩu, nhập khẩu là phần số liệu về trị giá của hàng hóa được đưa ra hoặc
đưa vào lãnh thổ hải quan do cơ quan hải quan quản lý và sử dụng phục vụ
cho các mục tiêu quản lý Nhà nước về hải quan" [50, tr. 92].

Theo điều 15 Hiệp định trị giá GATT/WTO: "Trị giá hải quan của
hàng nhập khẩu là trị giá hàng hóa phục vụ cho đánh thuế theo trị giá hàng
đối với hàng nhập khẩu" [36, tr. 4]; [40, tr. 156].

11
- Trị giá tính thuế (Duty Value)

+ Quan niệm giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu theo Hiệp định trị giá
GATT/WTO: "Trị giá tính thuế là trị giá hải quan nhằm mục đích tính thuế.
Xác định trị giá hải quan là xác định trị giá làm cơ sở tính thuế" [23, tr. 300].

+ Khái niệm theo luật pháp Việt Nam: Điều 9 Luật thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu số 45/2005/QH11 ngày 14/6/2005 quy định "giá tính thuế đối
với hàng hóa nhập khẩu là giá thực tế phải trả tính đến cửa khẩu nhập đầu tiên
theo hợp đồng, phù hợp với cam kết quốc tế" [5, tr. 11]. Điều 1 Nghị định số
40/2007/NĐ-CP ngày 16/3/2007 của Chính phủ qui định về xác định trị giá
đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu "Xác định trị giá hải quan nhằm mục
đích tính thuế và thống kê đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu" [8, tr. 1].

Thông tư 40/2008/TT-BTC cũng ghi rõ "Trị giá hải quan nhằm mục
đích tính thuế (sau đây gọi là trị giá tính thuế)" [6, tr.1].

Như vậy, từ các khái niệm trên, thừa nhận một quan điểm chung đó là:
"Trị giá tính thuế đối với hàng hóa nhập khẩu là trị giá hải quan của hàng hóa
nhập khẩu đó phục vụ mục đích tính thuế". Trên thực tế, tùy theo từng phạm vi
và mục đích nghiên cứu, có tài liệu, văn bản (hầu hết là tài liệu nước ngoài) sử
dụng cụm từ "Trị giá hải quan"; có tài liệu, văn bản (chủ yếu các tài liệu trong
nước) sử dụng cụm từ "trị giá tính thuế" nhưng phân tích dưới góc độ nhằm
mục đích tính thuế thi 2 khái niệm này đồng nhất với nhau. Trong luận văn này,
xin sử dụng chung một khái niệm là "trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu"

1.2.2. Đặc điểm và vai trò của trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu

 Đặc điểm của trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu

- Đặc điểm chung: Nhằm mục đích tính thuế (thuế nhập khẩu, thuế
tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng, thu chênh lệch giá)

- Đặc điểm riêng: Với mỗi khái niệm kéo theo những đặc điểm khác
nhau, chẳng hạn trị giá tính thuế theo khái niệm Việt Nam còn nhằm mục đích

12
thống kê kim ngạch xuất nhập khẩu. Phương pháp xác định cũng khác nhau
tùy theo chính sách xác định giá tính thuế từng giai đoạn.

 Vai trò của trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu

Trị giá tính thuế thể hiện vai trò cơ bản là:

- Trị giá tính thuế phục vụ mục tiêu quản lý và xây dựng chính sách
xuất nhập khẩu hàng hóa trong nền kinh tế. Trị giá tính thuế còn cho biết tổng
trị giá hàng hóa đã được thực xuất khẩu hay nhập khẩu qua từng thời kỳ. Đây
chính là số liệu quan trọng để xây dựng bảng cân đối kim ngạch XNK của nền
kinh tế, từ đó giúp cơ quan quản lý có thể biết được trong kỳ đó, thời điểm đó,
giai đoạn đó nền kinh tế có đạt được sự cân bằng về cán cân thương mại hay
không, có hiện tượng nhập siêu hay xuất siêu không để có chính sách điều
chỉnh (về hạn ngạch hoặc về thuế) và quản lý kịp thời.

- Trị giá tính thuế là cơ sở để thực thi các chính sách quản lý hàng hóa
xuất khẩu, nhập khẩu. Trong một số trường hợp, để bảo hộ nền sản xuất trong
nước và điều chỉnh các chính sách đối ngoại song phương, các quốc gia
thường sử dụng công cụ hạn ngạch (quota) như một hàng rào phi thuế quan.
Trị giá tính thuế sẽ là cơ sở số liệu để cơ quan quản lý thương mại đánh giá
hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu đạt hay vượt hạn ngạch qui định, từ đó có biện
pháp điều chỉnh về chính sách thương mại hay chính sách thuế (thuế hạn ngạch).

- Trị giá tính thuế tham gia thực hiện nhiệm vụ thống kê nền kinh tế

- Trị giá tính thuế là cơ sở quan trọng cho việc tính toán, xác định thuế
đánh vào hàng hóa xuất nhập khẩu. Đây là vai trò cơ bản của trị giá tính thuế.
Với vai trò này trị giá tính thuế đồng nghĩa với trị giá hải quan.

1.2.3. Ý nghĩa của trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu

- Trước hết, trị giá tính thuế góp phần hình thành đúng giá cả hàng hóa
xuất khẩu, nhập khẩu. Với một cơ chế tính thuế nhất định, xác định đúng trị
giá tính thuế sẽ góp phần bình ổn giá cả thị trường hàng hóa xuất nhập khẩu.

13
- Trị giá tính thuế là yếu tố cơ bản cấu thành hệ thống thuế quan của
một quốc gia, là căn cứ để xác định các loại thuế nhập khẩu, tiêu thụ đặc biệt,
giá trị gia tăng, chênh lệch giá hàng nhập khẩu. Bởi vậy xét về mặt tài chính,
trị giá tính thuế hàng nhập khẩu là cơ sở để tập trung nguồn thu cho ngân sách
nhà nước. Ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, nhằm đẩy mạnh xuất khẩu,
phát triển sản xuất trong nước đều có chính sách khuyến khích xuất khẩu, vì
vậy thuế đối với hàng hóa xuất khẩu thường có mức thuế suất là 0%. Nguồn
thu thuế quan chủ yếu từ hàng hóa nhập khẩu.

- Xác định đúng về trị giá tính thuế sẽ góp phần chống thất thu cho
ngân sách Nhà nước, bảo hộ sản xuất trong nước phát triển, tạo sự minh bạch,
bình đẳng trong cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường, kích thích
phát triển giao lưu thương mại quốc tế.

- Xác định đúng về trị giá còn góp phần xác định đúng về kim ngạch
nhập khẩu, làm căn cứ số liệu để Chính phủ điều hành và quản lý hoạt động
xuất nhập khẩu của mỗi quốc gia.

Chính vì những ý nghĩa trên, một số nhà nghiên cứu về trị giá hải
quan đã nói một cách hình ảnh rằng: "Các phương pháp xác định trị giá tính
thuế hàng hóa nhập khẩu là những khuôn mẫu hợp lý đúc nên những tấm bê
tông tiêu chuẩn. Khi "trời yên bể lặng" nó là nhịp cầu nối cho các mối quan
hệ thương mại giữa các nước, nhưng khi "gió bão, nó dựng thành hàng rào
thuế quan nghiệt ngã hay những pháo đài kiên cố trong cuộc chiến tranh
thương mại vắng tiếng súng nhưng không kém phần khốc liệt" [36, tr.17].

1.3. VÀI NÉT TỔNG QUAN VỀ HIỆP ĐỊNH TRỊ GIÁ HẢI QUAN
GATT/WTO 1994

Nhằm thiết lập một trật tự trong buôn bán thế giới tiến tới đạt đến sự
mở rộng và tự do hóa trong giao lưu thương mại quốc tế thông qua việc tháo
gỡ những vướng mắc trong chính sách thương mại, các nước nhận thấy cần
phải thiết lập được một hệ thống xác định trị giá hải quan để đảm bảo tính

14
thống nhất, ổn định, trong sáng và công bằng. Ngày 12 tháng 4 năm 1979,
cuộc đàm phán thương mại đa phương (Vòng đàm phán Tokyo) đã được tổ
chức tại Genever, Thụy Sỹ và kết quả là cho ra đời "Hiệp định về thực hiện
Điều VII của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại" hay còn gọi là
Hiệp định trị giá GATT.

Cho tới 1994, để hoàn thiện hơn nữa các quy định của Hiệp định trị
giá GATT, cùng với sự sửa đổi, bổ sung của Hiệp định chung về thuế quan và
thương mại (GATT) 1994, Hiệp định trị giá GATT cũng đã được sửa đổi bổ
sung và có tên gọi như ngày nay "Hiệp định trị giá GATT 1994" hay Hiệp
định trị giá GATT/WTO (gọi tắt là ACV)

1.3.1 . Mục đích của Hiệp định trị giá Hải quan (ACV)

Hiệp định trị giá GATT/WTO ra đời đã tạo ra một chuẩn mực trong
việc xác định trị giá hải quan với những mục đích cụ thể như sau:

- Tạo ra hệ thống xác định trị giá hải quan ổn định, công bằng, phù
hợp với thực tế thương mại;

- Tạo ra chuẩn mực đơn giản, khách quan, đồng nhất cho tất cả các
nước thành viên;

- Loại trừ việc sử dụng trị giá hải quan tùy tiện, áp đặt;

- Xúc tiến các mục tiêu của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại;

- Xóa bỏ việc coi trị giá hải quan là công cụ để điều tiết xuất nhập
khẩu của mỗi quốc gia.

Từ mục đích trên, có thể thấy rằng, đây là một hệ thống trị giá hải
quan tiên tiến dựa trên giá thực thanh toán hay sẽ phải thanh toán, nó loại bỏ
được việc sử dụng trị giá hải quan (trị giá của hàng hóa nhập khẩu) giả định
hay áp đặt.

Nhìn nhận ACV từ góc độ cơ quan Hải quan hay là nhà kinh doanh
cũng đều phải thừa nhận rằng các quy định của Hiệp định trị giá GATT 1994

15
tiến bộ hơn hẳn các quy định trước đây về trị giá hải quan. Tư tưởng xuyên
suốt toàn bộ các quy định của ACV là trị giá hải quan càng gần với trị giá
thực tế của hàng nhập khẩu càng tốt.

1.3.2. Cấu trúc và nội dung căn bản của ACV

1.3.2.1. Cấu trúc của ACV

- Ngoài phần Lời nói đầu và giới thiệu chung, Hiệp định gồm 24 Điều
chia làm 4 Chương và 3 Phụ lục:

Phần I: Quy định các nguyên tắc và phương pháp về xác định trị giá
hải quan (Từ Điều 1 đến Điều 17).

Phần II: Quy định các vấn đề liên quan đến việc điều hành, tham vấn
và việc giải quyết các tranh chấp phát sinh khi áp dụng Hiệp định, gồm hai
Điều 18 và Điều.

Phần III: Là những nguyên tắc đối xử đặc biệt khi áp dụng Hiệp định,
được thể hiện trong Điều (Điều 20).

Phần IV: Quy định những vấn đề thực hiện Hiệp định có 4 điều, gồm
Điều 21, 22, 23, 24 (Điều 21 đến Điều 24).

Các Phụ lục:

Phụ lục I: Thể hiện Các chú giải của các khoản trong Hiệp định.

Phụ lục II: Quy định các cơ quan điều tra của Tổ chức Thương mại thế
giới và Tổ chức Hải quan thế giới có liên quan đến áp dụng Hiệp định (Ủy
ban Kỹ thuật về xác định trị giá hải quan).

Phụ lục III: Quy định về Quyền bảo lưu của các quốc gia đang phát triển.

1.3.2.2. Nội dung căn bản của Hiệp định

Theo ACV, căn cứ cơ bản để xác định trị giá hải quan là trị giá giao
dịch của Hàng nhập khẩu. Trị giá giao dịch là giá thực tế thanh toán hay sẽ
thanh toán cho những hàng hóa được bán theo nghiệp vụ xuất khẩu cho nước

16
nhập khẩu, trị giá này được điều chỉnh bởi một số yếu tố cụ thể quy định tại
Điều 8 của Hiệp định. Những yếu tố điều chỉnh bao gồm: các khoản phí,
những chi phí mà người mua phải gánh chịu trong quá trình nhập khẩu nhưng
chưa được tính vào giá thực tế đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán cho hàng
hóa nhập khẩu. Trị giá giao dịch, được điều chỉnh cộng thêm những khoản chi
phí ở trên sẽ là trị giá tính thuế hải quan khi nó thỏa mãn các điều kiện được
quyết định tại Điều 1.1 từ khoản (a) đến khoản (d) của Hiệp định.

Nếu không thể xác định theo phương pháp trị giá giao dịch (phương
pháp I), thì trị giá hải quan sẽ được xác định căn cứ vào trị giá giao dịch của
hàng nhập khẩu cùng loại (phương pháp II). Trường hợp không thể xác định
theo trị giá giao dịch của hàng cùng loại thì trị giá hải quan sẽ được xác định
căn cứ vào trị giá giao dịch của hàng hóa tương tự (Phương pháp III).

Nếu không thể xác định được dựa trên trị giá giao dịch hoặc trị giá giao
dịch của hàng cùng loại hoặc tương tự thì trị giá hải quan của hàng nhập khẩu
sẽ được xác định dựa trên phương pháp trị giá suy diễn (Phương pháp IV).
Theo phương pháp trị giá suy diễn, trị giá hải quan được xác định căn cứ vào
đơn giá mà với mức giá đó hàng hóa được bán theo điều kiện nhập khẩu cho
một người mua ở nước nhập khẩu không có quan hệ đặc biệt với người bán.

Nếu không thể xác định theo phương pháp trị giá suy diễn, thì phương
pháp tiếp theo là phương pháp trị giá tính toán (Phương pháp V). Nói một
cách ngắn gọn thì theo phương pháp này trị giá hải quan được tính trên cơ sở
tổng số chi phí nguyên vật liệu và chi phí sản xuất cộng với một khoản lợi
nhuận và chi phí chung. Nếu một nước thành viên WTO lựa chọn việc xác
định trị giá hải quan dựa trên chi phí mua hàng (C), bảo hiểm (I) và cước phí
vận chuyển (F) thì trị gí tính toán còn bao gồm cả chi phí vận tải, các chi phí
khác có liên quan đến vận tải và phí bảo hiểm trong quá trình vận tải.

Nếu không thể xác định được theo một trong năm phương pháp đã nêu
trên thì trị giá hải quan sẽ được xác định bằng các phương pháp hợp lý, nhất

17
quán với các nguyên tắc và quyết định chung của Hiệp định này và với Điều
VII của GATT 1994 (phương pháp trị giá dự phòng - Phương pháp 6).

1.3.3. Các nguyên tắc của Hiệp định

Thứ nhất, hệ thống xác định trị giá của hàng nhập khẩu theo mục đích
Hải quan phải hợp lý, thống nhất và độc lập, hệ thống đó phải loại bỏ việc sử
dụng trị giá hải quan áp đặt hay hư cấu. Điều này cũng có nghĩa là quy trình
xác định trị giá không được sử dụng làm hàng rào phi thuế quan đối với
thương mại. Một trong những mục tiêu có tính nguyên tắc của WTO là loại bỏ
các biện pháp này.

Thứ hai, cơ sở để xác định trị giá của hàng nhập khẩu theo mục đích
hải quan hải là trị giá giao dịch, với nghĩa rộng nhất trong chừng mực có thể.
Nói một cách đơn giản nhất, trị giá giao dịch được định nghĩa là giá thực tế đã
thanh toán hay sẽ phải thanh toán cho hàng nhập khẩu cộng thêm với các
khoản điều chỉnh. Trị giá giao dịch được coi là phương pháp chủ yếu để xác
định trị giá theo hiệp định này. Trị giá giao dịch cho phép các doanh nghiệp
dự đoán chính xác số thuế phải nộp đối với hàng nhập khẩu của họ. Hơn nữa,
trị giá giao dịch còn đảm bảo một mức độ chắc chắn cho các doanh nghiệp,
bởi vì trị giá hải quan của hàng nhập khẩu trước hết sẽ dựa trên giá thỏa thuận
giữa người mua và người bán.

Thứ ba, trị giá hải quan phải được xác định dựa trên những tiêu chí
đơn giản, bình đẳng và nhất quán với các thông lệ thương mại. Mặt khác, thủ
tục xác định trị giá cần được áp dụng chung không phân biệt nguồn cung cấp.
Việc áp dụng một trong sáu phương pháp đã nêu phải phù hợp với các thông
lệ thương mại. Việc áp dụng Hiệp định này được thực hiện với tất cả các nước
không phân biệt nước xuất khẩu có phải là bên ký kết hiệp định hay không.
Không có sự phân biệt nào giữa những người xuất khẩu hay giữa các sản
phẩm. Thông qua việc áp dụng các nguyên tắc này, Hiệp định trị giá được kỳ
vọng là sẽ tạo thuận lợi cho thương mại quốc tế.

18
Thứ tư, thủ tục xác định trị giá không được sử dụng để chống phá
giá. Biện pháp chống phá giá đúng đắn phải áp dụng Luật về chống phá giá.
Việc tùy ý áp dụng nâng trị giá tính thuế lên cao để tăng nguồn thu thuế
nhập khẩu theo Hiệp định này là không được phép. Không được từ chối giá
thỏa thuận giữa người mua và người bán chỉ vì lý do đơn giản: Giá đó được
coi là "quá thấp".

1.4. HIỆP ĐỊNH TRỊ GIÁ HẢI QUAN - ĐẶC ĐIỂM VÀ MỐI LIÊN HỆ VỚI
CÁC VĂN KIỆN TRONG KHUÔN KHỔ CỦA VÕNG ĐÀM PHÁN U-RU-GUAY

ACV là một trong những Hiệp định thuộc về chùm Hiệp định về Giao
dịch Thương mại hàng hóa. Do đặc trưng của Vòng đàm phán U-ru-guay, đây
là một trong ba lĩnh vực cơ bản mà Vòng đàm phán đạt được. Bởi tính chất
chuyên ngành, khi nghiên cứu Hiệp định trị giá, chúng ta nên xem xét tổng
thể 12 Hiệp định có liên quan đặc biệt là khi nghiên cứu hướng tới nội luật
hóa. Về bản chất, Hiệp định trị giá thể hiện cụ thể Điều VII của GATT 1994,
như vậy, để đạt được tính tổng quát, vấn đề nghiên cứu Hiệp định trị giá trong
quan hệ chặt chẽ với những văn kiện liên quan khác (như Nghị định thư
Marrakesh) trong khuôn khổ Hiệp định GATT là điều hết sức cần thiết và sẽ
cho chúng ta cách nhìn đầy đủ, toàn diện hơn. Toàn bộ Hiệp định thuộc phụ
lục 1A của GATT 1994, bao gồm:

- Hiệp định Nông nghiệp;

- Hiệp định về áp dụng các biện pháp kiểm dịch động và thực vật;

- Hiệp định về trao đổi thương mại hàng dệt và sản phẩm may mặc;

- Hiệp định về các Biện pháp Đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs)

- Hiệp định về thực thi Điều VI của GATT 1994 (chống bán phá giá);

- Hiệp định về giám định hàng hóa trước khi xếp hàng xuống phương
tiện vận tải;

- Hiệp định về quy tắc xuất xứ…

19
Như vậy, trong số 12 Hiệp định, những Hiệp định liên quan trực tiếp
đến Hiệp định trị giá theo GATT/WTO 1994 sẽ là Hiệp định về quy tắc xuất
xứ, Hiệp định về chống bán phá giá và Hiệp định về Trao đổi thương mại về
dịch vụ. Những đặc trưng cơ bản của chùm Hiệp định nói trên là xu hướng tạo
thuận lợi cho giao dịch thương mại và sản xuất, tạo môi trường bình đẳng,
cạnh tranh lành mạnh giữa những thành phần kinh tế của nền kinh tế quốc gia.
Bên cạnh đó là tạo tiền đề cho nâng cao sự năng động trong các hoạt động sản
xuất kinh doanh và đặc biệt là cải cách phương thức quản lý môi trường luật
lệ phù hợp với thực tế phát triển nhanh chóng

Một điểm nổi bật nữa là nâng cao vai trò tham gia của doanh nghiệp
vào thực hiện pháp luật quốc gia, thực hiện, tôn trọng các cam kết quốc tế của
Chính phủ mối quốc gia và phối hợp với cơ quan quản lý trong đấu tranh chống
các hành vi gian lận thương mại cũng như chống các hành vi cạnh tranh khong
lành mạnh. Mục tiêu này đạt được trên cơ sở những chuẩn mực quốc tế và trên
cơ sở hài hòa giữa hệ thống pháp luật quốc gia và hệ thống pháp luật quốc tế.

Thực hiện Điều VII của GATT 1994 là nội dung của ACV gồm 24
Điều, ba Phụ lục. Trong tương quan là một bộ phận của các Hiệp định thương
mại đa phương của WTO, ACV/WTO cũng đồng thời chịu sự chi phối của
bốn nguyên tắc cơ bản của GATT 1994, bao gồm:

Quy tắc 1: Mặc dù thừa nhận tầm quan trọng đối với các nước thành
viên của GATT tiến theo các chính sách mở cửa, tự do hóa thương mại, Quy
tắc cho phép các nước này bảo vệ sản xuất trong nước trước cạnh tranh của
nước ngoài, với điều kiện là những quy chế, chính sách bảo vệ này chỉ thực
hiện thông qua Biểu thuế quan và chỉ tồn tại ở một mức thấp.

Đáp ứng định hướng này, Quy tắc 1 nghiêm cấm các nước sử dụng
bảo vệ sản xuất bằng hạn chế định lượng, trừ một vài trường hợp cụ thể.

Quy tắc này đề nghị quốc gia lựa chọn sử dụng các phương pháp dựa
trên cơ sở trị giá của hàng hóa thay vì sử dụng các biện pháp hạn chế số lượng.

20
Quy tắc 2: Quy định về giảm bớt và loại trừ biểu thuế quan và các
hàng rào đối với giao lưu thương mại thông qua đàm phán đa phương. Những
biểu thuế quan được hạ thấp được thể hiện trên cơ sở các dòng thuế theo Biểu
thuế quan trong Chương trình nhân nhượng giảm thuế của từng quốc gia.
Những mức thuế suất thuộc các kế hoạch nhượng bộ này được hiểu là mức
thuế suất cam kết. Các quốc gia cam kết thực hiện nghĩa vụ tăng thuế hải
quan trên mức thuế suất cam kết như nêu tại chương trình nêu trên.

Quy tắc 3: Yêu cầu các nước tiến hành trao đổi giao dịch thương mại
mà không phân biệt đối xử về nước từ đó tiến hành nhập khẩu hàng hóa về,
hoặc không phân biệt đối xử với nước thực hiện xuất khẩu hàng hóa đi nước
khác. Quy tắc này thực hiện theo nguyên tắc MNF.

Quy tắc 4: Là quy tắc ứng xử quốc gia. Quy tắc này yêu cầu các quốc
gia không áp đặt luật lệ của họ đối với các sản phẩm nhập khẩu sau khi hàng
đã nhập khẩu vào thị trường nội địa của họ về các lĩnh vực như trả thuế hải
quan tại biên giới, trả các loại thuế nội địa, như thuế bán hàng hay thuế giá trị
gia tăng ở mức thuế suất cao hơn mức thuế suất đánh vào sản phẩm nội địa
tương tự.

Bên cạnh những điểm chung, ACV luôn được xem là một trong những
Hiệp định đặc biệt, có tính nhạy cảm cao, có khó khăn, phức tạp nhiều trong
áp dụng bởi yêu cầu, mục đích của nó và luôn mang tính kỹ thuật, chuyên sâu.
Điều này vừa tạo ra cơ hội đồng thời cũng tạo ra thách thức cho các quốc gia
tham gia, thực hiện ACV.

1.5. VIỆC THAM GIA, THỰC HIỆN HIỆP ĐỊNH TRỊ GIÁ HẢI QUAN
GATT/WTO 1994 TẠI MỘT SỐ NƢỚC TRONG KHU VỰC, TRÊN THẾ GIỚI VÀ
TẠI VIỆT NAM

1.5.1. Khu vực ASEAN và ASEAN + 3

Theo chương trình hành động và thực hiện Chính sách Hải quan
(PIWP) của ASEAN, Hải quan các nước ASEAN đã nhất trí đưa Hiệp định trị

21
giá GATT/WTO vào Luật pháp quốc gia về Hải quan của nước mình. Các
nước thành viên ASEAN đã thực hiện một số bước đi và chiến lược để tiêu
chuẩn hóa việc áp dụng Hiệp định trong khu vực cho phù hợp hoàn toàn với
chuẩn mực quốc tế. Trong khu vực đã tiến hành các khóa đào tạo và hội thảo
về Hiệp định trị giá WTO (gọi tắt là ACV) cho cả các cơ quan Hải quan và
cộng đồng doanh nghiệp thương mại. Các nước thành viên ASEAN đã sửa
đổi bổ sung Luật pháp quốc gia để thực hiện các nguyên tắc xác định trị giá
Hải quan theo Hiệp định. Một số nước thành viên ASEAN đã tổ chức lại các
cơ quan hải quan.

Tuy nhiên, hiện nay mức độ thực hiện, áp dụng Hiệp định này ở các
nước thành viên ASEAN vẫn còn tồn tại những điểm khác nhau.

Trong ASEAN + 3, Nhật Bản, Hàn quốc, Trung Quốc…là những quốc
gia phát triển hơn so với các quốc gia thành viên khác trong ASEAN nhưng
Hàn Quốc cũng phải mất 8 năm vừa thực hiện vừa áp dụng trong quyền bảo
lưu Hiệp định…Hải quan Nhật Bản đã triển khai Hiệp định trị giá từ rất sớm.
Tính đến nay hải quan Nhật Bản đã triển khai hiệp định được khoảng 40 năm.
Với 40 năm kinh nghiệm họ đã tập trung chủ yếu phát triển hệ thống kiểm tra
sau thông quan, đây chính là hệ thống bọc lót cho nghiệp vụ trị giá hải quan.
Tuy nhiên quá trình áp dụng, và kết quả đạt được trong hiện tại, Hải quan
Nhật Bản đã và vẫn đang tiếp tục nỗ lực tìm kiếm các giải pháp khác nhau để
áp dụng ACV một cách hiệu quả hơn.

1.5.2. Khu vực Châu Á - Thái Bình Dƣơng

Hiện nay, tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, có 21 quốc gia và
lãnh thổ là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Trong đó,
19 nước đang thực hiện Hiệp định trị giá GATT/WTO.

7 nước đã thực hiện từ năm 2000, bao gồm: Bangladesh, Brunei,


Indonesia, Malaysia, Pakistan, Philipines và Thái Lan.

22
Trong số các nước thành viên WTO, 31 nước bảo lưu việc áp dụng trị
giá tính toán theo Điều 20.2 của Hiệp định, trong có 7 nước trên đây. 9 nước
thành viên WTO được hưởng quyền bảo lưu liên quan đến việc áp dụng trị giá
tối thiểu theo thời hạn quy định tại đoạn 2, phụ lục III. Pakistan là nước duy
nhất tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương được hưởng quyền bảo lưu.

Một trong những vấn đề đáng quan tâm khi thực hiện Hiệp định trị giá
GATT/WTO là tác động đến nguồn thu thuế và những vi phạm gian lận trong
quá trình làm thủ tục hải quan. Theo kinh nghiệm của Hải quan các nước Thái
Lan và Australia thì khi thực hiện Hiệp định GATT/WTO, số thu ngân sách từ
thuế hải quan giảm xuống so với trước. Ngược lại tại các nước Ấn Độ,
Bangladesh, Indonesia và Nepal thì số thu ngân sách từ thuế lại tăng lên.
Trong khi đó, tại Brunei, Hong Kong, Hàn Quốc, Malaysia, Mông Cổ,
Philipines và Singapore không có sự thay đổi lớn về số thu thuế. Có 3 nguyên
nhân chính được các quốc gia và lãnh thổ trên đưa ra để giải thích về sự thay
đổi số thu ngân sách, đó là: do việc thực hiện Hiệp định GATT/WTO; do thay
đổi thuế suất và do thay đổi khối lượng nhập khẩu. Chỉ có Thái Lan cho rằng
việc thực hiện Hiệp định là lý do dẫn đến giảm nguồn thu ngân sách.

Về thay đổi về vi phạm hải quan sau khi thực hiện Hiệp định
GATT/WTO, một số nước như Bangladesh, Indonesia, Hàn Quốc, Mông Cổ
và Thái Lan cho biết, các trường hợp vi phạm pháp luật hải quan tăng lên so
với trước, trong khi đó Australia có câu trả lời ngược lại. Các nơi khác lại cho
rằng không có sự thay đổi lớn về số vụ vi phạm pháp luật hải quan khi áp
dụng Hiệp định. Bên cạnh sự gia tăng về số lượng vụ vi phạm, Hàn Quốc, Ấn
Độ, Indonesia, Bangladesh và Thái Lan còn cho rằng trị giá các vụ vi phạm
cũng có xu hướng tăng lên, bởi một số nguyên nhân: việc thực hiện Hiệp
định; áp dụng một số quy định và luật có liên quan và Hải quan các nước này
cũng đã tăng cường kiểm soát chống gian lận thương mại.

Để thực hiện Hiệp định có hiệu quả, một số quốc gia và lãnh thổ trong
khu vực châu Á - Thái Bình Dương đã đề ra các biện pháp như: đào tạo cán

23
bộ chuyên môn trong lĩnh vực trị giá; thành lập một cơ quan chuyên trách về
trị giá; phát triển hệ thống tự động hóa và xây dựng thêm các văn bản pháp
luật và quy định cần thiết bên cạnh các văn bản pháp luật về trị giá; thiết lập
các kỹ thuật ngăn chặn gian lận qua giá thông qua kiểm tra sau thông quan;
xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin về trị giá...

Khó khăn mà các quốc gia này thường gặp phải cũng chính là khó
khăn chung của tất cả các quốc gia gia nhập và áp dụng ACV. Đó là vấn đề
kỹ thuật có tính chuyên sâu của Hiệp định nên hầu hết các nước thường gặp
khó khăn trong quá trình áp dụng. Yêu cầu nội luật hóa, sửa đổi Luật quốc gia
để phù hợp với Hiệp định và vấn đề cơ bản là thiếu kinh nghiệm thực hiện
Hiệp định này. Sau khi đã sửa đổi Luật quốc gia để phù hợp với Hiệp định thì
thực tế lại phát sinh không ít những khó khăn mới. Điều này, chúng ta đề cập
chi tiết hơn ở phần tiếp theo của Luận văn.

1.5.3. Việt Nam

Ngày 29 tháng 12 năm 2003, Hải quan Việt Nam bắt đầu thực hiện
việc xác định trị giá Hải quan theo Hiệp định Trị giá GATT của Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO). Cho đến nay, Hải quan Việt Nam đã triển khai
áp dụng phương pháp xác định trị giá hải quan theo GATT đối với hàng hóa
đến từ 51 Quốc gia trên toàn cầu.

Để gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, Việt Nam đã từng bước
thực hiện Hiệp định Trị giá Hải quan WTO, ban hành Nghị định 60/2002/NĐ-
CP ngày 06/6/2002 dựa trên tinh thần của Hiệp định Trị giá Hải quan WTO
và chính thức bãi bỏ bảng giá tối thiểu từ tháng 10 năm 2004. Từ 01/01/2006,
các quy định về xác định trị giá Hải quan của Việt Nam được nêu tại Nghị
định 155/2005/NĐ-CP đã được thay thế bằng Nghị định 40/2007/NĐ-CP
ngày 16/03/2007 và Thông tư 113/2005/TT-BTC đã được thay thế bằng
Thông tư 40/2008/TT-BTC ngày 21/05/2008.

24
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1

Việc áp dụng Hiệp định trị giá Hải quan (ACV) của Tổ chức Thương
mại thế giới WTO yêu cầu phải có sự thay đổi về nhận thức, sự nỗ lực của cả
cơ quan Hải quan cũng như cộng đồng doanh nghiệp. Theo các nguyên tắc
xác định trị giá hải quan của WTO, cộng đồng doanh nghiệp thương mại
mong đợi hàng hóa trao đổi quốc tế được thuận lợi và không bị gián đoạn.
Mặt khác, Hải quan các nước có quyền yêu cầu cộng đồng doanh nghiệp
thương mại phải hoàn toàn tuân thủ, tôn trọng Luật Hải quan quốc gia, trong
đó có nội dung về xác định trị giá.

Tiếp cận, nghiên cứu ACV dưới các phương diện khác nhau, giai đoạn
lịch sử phát triển khác nhau, đặt ACV trong mối tương quan với các Hiệp
định khác thuộc nhóm các Hiệp định của GATT 1994 để có được cái nhìn
tổng thể, toàn diện và chính xác. Đặc biệt, tiếp cận ACV theo tiêu chí xem
xét, đối chiếu kinh nghiệm áp dụng của một số nước (trong và ngoài khu vực)
có nền kinh tế không tương đồng nhau sẽ giúp chúng ta có được cái nhìn trực
quan, thiết thực hơn trong áp dụng ACV tại Việt Nam. Điều này sẽ tiếp tục
được nghiên cứu và làm rõ ở các phần tiếp theo của luận văn.

25
Chương 2

HIỆP ĐỊNH TRỊ GIÁ GATT - KINH NGHIỆM MỘT SỐ NƢỚC


VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM

2.1. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƢỚC TRONG QUÁ TRÌNH ÁP DỤNG
HIỆP ĐỊNH TRỊ GIÁ GATT/WTO 1994

Như ta đã trình bày ở trên, thế giới hiện nay vẫn song hành tồn tại 3 cơ
chế xác định trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu:

+ Cơ chế xác định trị giá tính thuế theo Định nghĩa Brusselle (BDV):
Chủ yếu áp dụng với các nước đang phát triển và chưa gia nhập WTO;

+ Cơ chế xác định trị giá tính thuế theo Hiệp định trị giá GATT/WTO
(ACV), áp dụng với tất cả các thành viên WTO và một số nước đang phát
triển khác.

+ Cơ chế xác định trị giá tính thuế riêng theo quốc gia: Chủ yếu áp
dụng đối với các nước kém phát triển, có nền thương mại quốc tế hạn hẹp.

Trong đó, cơ chế xác định trị giá tính thuế theo ACV là hiện đại và
tiên tiến nhất, mang tính rõ ràng, ổn định, minh bạch, khách quan và bình
đẳng nhất không chỉ giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp mà giữa doanh
nghiệp với cơ quan quản lý. ACV đã loại bỏ được việc xác định trị giá tính
thuế một cách áp đặt, tùy tiện của cơ quan quản lý, đảm bảo trị giá tính thuế
được xác định đúng đắn, sát thực với giá thực tế mua bán của hàng hóa nhập
khẩu. Đồng thời qui trình thủ tục xác định giá đơn giản, khách quan, ưu tiên
thế chủ động trong khai báo trị giá và tính thuế cho doanh nghiệp, tạo điều
kiện cho doanh nghiệp chủ động trong việc tính toán số thuế phải nộp, chủ
động trong phương án kinh doanh với những kế sách lâu dài, tạo thuận lợi
thu hút đầu tư, giao lưu thương mại quốc tế phát triển, đảm bảo nguồn thu
ổn định cho Ngân sách nhà nước. Mặt khác, áp dụng ACV còn là cầu nối

26
giao lưu, hợp tác quốc tế phát triển thông qua việc trao đổi thông tin trong xác
định trị giá.

2.1.1. Đối với các nƣớc công nghiệp phát triển

Theo qui định của WTO thì tất cả các thành viên WTO (đầu tiên chủ
yếu là các nước có nền công nghiệp phát triển) đều phải thực hiện toàn bộ các
Hiệp định của WTO, trong đó có Hiệp định trị giá GATT/WTO (ACV). Tuy
nhiên, tùy theo điều kiện của từng quốc gia mà có cam kết trì hoãn hay bảo
lưu một số điều khoản nhất định, đặc biệt ACV có qui định về đối xử đặc biệt
và đối xử khác biệt (STD).

Qua kinh nghiệm của các nước phát triển đã tham gia ACV từ GATT
1947 đến GATT 1994 nhất là từ thời gian thành lập WTO (1995) đến nay, các
nước phát triển đã có các qui trình xác định trị giá tính thuế với hải quan hiện
đại, hiệu quả cần đảm bảo đồng bộ và hoàn chỉnh gồm các yếu tố sau:

- Có tinh thần làm chủ từ cơ quan quản lý nhà nước đến mỗi công
chức, doanh nhân trong quá trình thực hiện ACV;

- Các chính sách thương mại và thuế quan đầy đủ, rõ ràng, minh bạch
và đồng bộ giữa chính sách nội thương và ngoại thương; giữa thuế xuất nhập
khẩu và thuế nội địa và phù hợp với sự phát triển hiện đại quốc tế, trong giao
dịch điện tử đang ngày càng chiếm ưu thế;

- Hệ thống chính sách tài chính và hệ thống chuẩn mực kế toán đầy
đủ, rõ ràng và phù hợp với thông lệ quốc tế;

- Cơ quan hải quan được hiện đại hóa, nhất là công nghệ thông tin và
các trang thiết bị kiểm soát đặc biệt, có thể khai thác, trao đổi thông tin giữa
các ngành liên quan trong công tác quản lý và trao đổi thông tin với các quốc
gia trên thế giới;

- Đội ngũ cán bộ có kinh nghiệm, trình độ và thường xuyên được đào
tạo kiến thức mới;

27
- Cơ sở hạ tầng kỹ thuật công nghệ đảm bảo đáp ứng yêu cầu trong
việc cập nhật, lưu trữ và kết xuất dữ liệu giá;

- Luôn chủ động, thường xuyên rà soát, nắm bắt thông tin giá, xây
dựng một cơ sở dữ liệu giá hoàn chỉnh;

- Hệ thống pháp luật với những chế tài xử lý nghiêm minh, ngăn ngừa
kịp thời những hành vi gian lận trốn thuế;

- Mối quan hệ với các Ủy ban xác định trị giá, Ủy ban kỹ thuật xác
định trị giá của WTO được giữ thường xuyên, hỗ trợ tích cực về kỹ thuật và
cung cấp các thông tin cần thiết, thông tin mới trong việc xác định trị giá;

Với các kinh nghiệm trên, chỉ qua một thời gian nhất định tham gia
ACV, nhiều nước đã tham gia đầy đủ và khẳng định tính tiên tiến hiện đại của
hệ thống ACV đồng thời là nòng cốt trong việc phát triển và truyền bá hệ
thống ACV đến các nước đang phát triển. Đến nay, hầu hết các nước phát
triển, trên 50% các nước đang phát triển đã tham gia đầy đủ ACV, số còn lại
xin trì hoãn và bảo lưu một số điều theo tiến trình 5 năm qui định.

2.1.2. Đối với các nƣớc đang phát triển và chậm phát triển

Với ưu thế tiến tiến, hiện đại của ACV và yêu cầu hội nhập, toàn cầu
hóa trong giao lưu thương mại quốc tế, các nước đang phát triển và chậm phát
triển đã từng bước tham gia áp dụng ACV trên nền tảng điều kiện kinh tế, luật
pháp và chính trị của quốc gia mình. Đến nay, theo lộ trình cam kết, đã có
trên 50% các nước đang phát triển thực hiện đầy đủ các điều khoản của ACV,
một số khác bảo lưu một số điều hoặc xin trì hoàn thời gian thi hành một số
qui định. Số các nước đang phát triển còn lại và các nước chậm phát triển đang
chuẩn bị các điều kiện để chuyển dần từ cơ chế xác định trị giá theo BDV và
cơ chế riêng quốc gia sang cơ chế xác định trị giá tính thuế theo ACV.

Theo đánh giá của Tổ chức Hải quan Thế giới WCO, thì việc thực
hiện ACV ở nhiều nước đang phát triển đang phải đối mặt với một số khó
khăn nhất định. Các khó khăn cơ bản, đó là: [23, tr. 309-313]

28
- Thiếu tinh thần làm chủ

Điều đó thể hiện cả ở các quan chức, công chức nhà nước đến các
doanh nhân trong quán trình thực hiện ACV. Bằng chứng thực nghiệm cho
thấy người ta vẫn chưa tính đến đầy đủ hay thậm chí hầu như đã bỏ qua
những quan ngại của các nước đang phát triển về việc áp dụng hệ thống xác
định trị giá ACV. Ví dụ, các cam kết về thực hiện ACV do Bộ trưởng Thương
mại các nước tham dự với tư cách là đại diện cho một nước tại WTO thường
ít được thông tin đầy đủ đến Bộ trưởng Tài chính trong khi Bộ Tài chính mới
là cơ quan những người chịu trách nhiệm ban hành các văn bản nội luật hóa
và thực hiện ACV tại quốc gia dẫn đến kết quả lả ACV thường không được
nội luật hóa một cách đầy đủ. Tuy STD (đối xử đặc biệt và khác biệt đối với
các nước đang phát triển) cho phép áp dụng khung thời gian linh hoạt đối với
việc thực hiện ACV song được coi là chưa đủ tính đến những khó khăn đặc
biệt mả các nước đang phát triển gặp phải. Hơn nữa, các quy định của ACV
được chuyển luật hóa tại những quốc gia này không đầy đủ và thiếu chính xác
vào các văn bán pháp luật trong nước khiến cho hệ thống xác định trị giá hải
quan của nước đó trở nên không tuân thủ các quy định của ACV, như trường
hợp bỏ qua việc cho phép doanh nghiệp nhập khẩu có quyền đệ đơn khiếu nại
lên WTO thông qua đại diện thương mại của họ.

- Thất thu thuế

Một quan ngại lớn cửa các nước đang phát triển là tình trạng thất thu
thuế. Mức độ tuân thủ thấp của các doanh nghiệp nộp thuế và các bất cập
trong quản lý hành chính hải quan gây ra nhiều khó khăn trong việc kiểm tra
các trường hợp ghi giá hóa đơn thấp hơn trị giá thực. Một lo ngại nữa là các
doanh nghiệp nhập khẩu ngày càng có động cơ lớn hơn trong việc thực hiện
hành vi gian lận trốn thuế qua giá với những mặt hàng nhập khẩu có mức thuế
suất cao. Cũng không dễ để xác định được các khoản thất thu thuế do giai
đoạn đầu áp dụng ACV vì các nước đã chính thức gia nhập ACV đều áp dụng

29
một số qui định khác biệt đáng kể so với những quy định trong ACV với mục
đích bảo đảm thu ngân sách. Đó là mối lo ngại của các lãnh đạo hải quan đối
với công tác đảm bảo thu ngân sách vì đây là một trong những trách nhiệm
chính của cơ quan hải quan. Mức độ phụ thuộc nặng nề vào số thu hải quan
chắc chắn sẽ có tác động đến những lo ngại rằng việc thực hiện ACV sẽ dẫn
đến thất thu thuế đáng kể. Một số ví dụ về thất thu thuế của các nước đang
phát triển trong thời gian đầu thực hiện ACV, đó là: Năm 1990, 17 nước khu
vực Thương mại ưu đãi (PTA) ước tính nếu thực hiện ACV sẽ làm giảm số
thu hải quan xuống gần 10%; năm 1996, Hải quan Ấn độ ước tính thực hiện
ACV thất thu thuế lên đến 100 tỉ Rubi (khoảng 2,8 tỉ USD) do xác định giá
thấp; Báo cáo về gian lận trị giá năm 2002 của Trung quốc đưa ra 12 trường
hợp gian lận dẫn đến tổng thất thu thuế là 1,5 tỉ USD. Tổ chức Hải quan Thế
giới cũng khảng định rằng, theo kinh nghiệm của họ thì việc làm giả hóa đơn
và khai báo trị giá thấp của hàng hóa tại các nước đang phát triển là một hiện
tượng diễn ra rất phổ biến.

Về mặt kỹ thuật, trị giá tính theo ACV thấp hơn trị giá tính theo BDV
khi loại hoa hồng mua hàng (do doanh nghiệp nhập khẩu trả) và chi phí quảng
cáo ra khỏi trị giá tính thuế và phải chấp nhận những khoản chiết khấu hợp
pháp dành cho các nhà phân phối và đại lý độc quyền.

- Thuế suất cao

Trong bối cảnh các hiệp định khu vực và đa phương, thuế suất tại nhiều
nước tuy đã được cắt giảm song mức thuế suất trưng bình ở các nước đang phát
triển vẫn cao hơn các nước công nghiệp phát triển. Dữ liệu năm 2001 cho thấy
tại các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), mức thuế
suất nhập khẩu trung bình lả 1,1% trong khi mức thuế suất trung bình tại các
nước không thuộc OECD là 11,8%. Ớ các nước đang phát triển, thuế suất nhập
khẩu trung bình dao động từ mức 7% đến 17%. Ngay cả khi thuế suất trung bình
của một nước nhất định là khá thấp thì các đỉnh thuế suất (tanff peaks) (các dòng

30
thuế cao thường là gấp ba lần các dòng thuế có mức thuế suất trung bình)
cũng tạo ra động cơ để khai báo thấp trị giá các loại hàng hóa nhập khẩu. Vì
việc tránh các thuế suất cao bằng cách ghi thấp giá trên hóa đơn nhằm gian
lận trốn thuế có xu hướng trở nên phổ biến hơn tại các nước đang phát triển.

- Môi trưởng Thương mại với độ tuân thủ pháp luật kém

Khối lượng hàng nhập khẩu trong khu vực không chính thức (ngoài
vòng kiểm soát của các cơ quan chức năng) chiếm một tỷ trọng lớn. Khu vực
này sử dụng các hóa đơn không đáng tin cậy, không áp dụng các chuẩn kế
toán và ghi chép sổ sách hoặc nếu có cũng là những chuẩn không đạt yêu cầu,
không có địa chi kinh doanh cố định hoặc thường thay đổi tên doanh nghiệp.
Trong những điều kiện như vậy, rất khó áp dụng kiềm soát định giá dựa trên
kiểm tra sau thông quan. Hải quan nhiều nước nhận thức được rằng, doanh
nghiệp không khó gì để làm giả hóa đơn nhập khẩu tại nơi xuất khẩu hoặc
thậm chí là làm giả ngay tại nước nhập khẩu. Một số hóa đơn giả mạo này rất
dễ bị phát hiện, tuy nhiên số khác lại được làm hết sức tinh vi. Số này thường
là các hóa đơn của các doanh nghiệp nhập khẩu quy mô vừa và lớn. Chỉ có
các cơ quan hải quan phát triển ở trình độ cao mới có cơ hội phát hiện ra
những gian lận kiểu đó. Phụ thuộc quá nhiều vào hóa đơn trong thẩm định giá
thường làm phức tạp thêm vấn đề ghi giá hóa đơn thấp đi.

- Hạn chế về qui chuẩn hành chính

Nhiều nước đang phát triển còn thiếu năng lực hành chính để áp dụng
có hiệu quả ACV. Công tác định giá chính xác đối với hàng nhập khẩu trở
nên phức tạp khi chủng loại hàng hóa nhập khẩu trở nên ngày càng đa dạng,
các mức giá cho hàng hóa nhập khẩu tương tự khác biệt nhau rất lớn cũng như
các giao dịch mua bán được thực hiện ở nhiều cấp độ thương mại và điều kiện
bán hàng khác nhau. Phần nhiều thông tin cần có cho công tác xác định giá
không có sẵn tại cơ quan hải quan do chúng được các nhà cung cấp nắm giữ,
không chịu cung cấp cho cơ quan hải quan. Thường việc tiến hành kiềm tra

31
chéo hóa đơn xuất ra của bên bán (nhà xuất khẩu) với hóa đơn nhập vào của
bên mua (nhà nhập khẩu) là không thể thực hiện được hay nếu được phải qua
các quy định, thủ tục rất rườm rà. Khi phát hiện ra gian lận trong xác định trị
giá, phải tiến hành điều tra gian lận thay vì xử lý như đối với một vấn đề định
giá thông thường. Điều này cũng tạo ra khó khăn trong thực thi ACV.

Việc áp dụng các phương pháp thay thế trong ACV theo đúng trình tự
nghiêm ngặt là rất phiền hà, tốn kém vả mất thời gian. Nó đòi hỏi cần có
thông tin cập nhật trị giá của hàng hóa tương tự và hàng hỏa giống hệt cũng
như các thông tin khác hoặc không sẵn có hoặc đã có nhưng cần phải tính
toán phức tạp. Để áp dụng phương pháp trị giá tính toán phải tiến hành điều
tra tại các nước xuất khẩu. Đây là một việc không khả thi ở hầu hết các nước
đang phát triển do thiếu kinh phí và nhân lực. Do vậy, áp dụng một cách cứng
nhắc các quy tắc xác định trị giá nêu trong ACV sẽ gây ra chậm trễ trong
thông quan hàng hỏa nhất là ở những nước chưa áp dụng nghiệp kiểm tra sau
thông quan. Và kết quả là nhiều nước đang phát triển phải dùng đến phương
pháp suy luận để định giá cho phần lớn hàng nhập khẩu. Rõ ràng, thực tế này
khác xa so với mô hình hay cơ chế lý tưởng về một hệ thống xác định trị giá
tính thuế hàng hóa nhập khẩu được coi là sẽ tạo thuận lợi cho thương mại.

Những hạn chế chủ yếu mà các nước đang phát triển và chậm phát
triển gặp phải bắt nguồn từ:

+ Thiếu dữ liệu trị giá và phương tiện thu thập, trao đổi thông tin
nghèo nàn khiến cho cơ quan hải quan ít hoặc không được tiếp cận với thông
tin về giá cũng như có ít phương tiện thẩm định lại trị giá khai báo;

+ Khó khăn lớn về hành chính như thiếu cán bộ có năng lực; trang
thiết bị cho đào tạo không có hoặc nghèo nàn, mức lương công chức thấp hơn
rất nhiều so với mức lương tại khu vực tư, thông thường mức lương công
chức không đủ để đảm bảo cuộc sống cho cán bộ hải quan hay không đủ để
lôi kéo các cán bộ giỏi;

32
+ Hiện đại hóa hải quan, đặc biệt là hệ thống tự động hóa còn hạn chế
và được quản lý yếu kém chỉ dừng lại ở mục đích chủ yếu là thống kê. Các
quy trình thông quan không được tự động hóa, có quá nhiều cung đoạn thủ công
tạo ra kẽ hở lớn cho cán bộ hải quan ra các quyết định chủ quan, tùy tiện;

+ Cơ cấu tổ chức không phù hợp và quản lý yếu kém kéo theo tình
trạng không có sẵn các sổ tay hoạt động, giám sát hệ thống yếu, không có hệ
thống kiểm toán nội bộ hoặc nếu có thì rất yếu, hệ thống thông tin quản lý
không đầy đủ cũng như thiếu các trang thiết bị thiết yếu;

+ Thủ tục kiểm tra, tham vấn xác định trị giá phức tạp, chẳng hạn như
trong trường hợp có nghi ngờ sự bất hợp lý vế trị giả khai báo, cơ quan hải
quan phải yêu cầu doanh nghiệp nhập khẩu bằng văn bản tiếp tục giải trình và
cung cấp chứng từ bổ sung để chứng minh cho trị giá khai báo, cho phép
doanh nghiệp nhập khẩu phúc đáp và sau đó thông báo quyết định cuối cùng
của mình bằng văn bản cho doanh nghiệp nhập khẩu.

Những bất cập này dẫn đến tình trạng một số nước đã không thực hiện
đúng hiệp định ACV. Bằng chứng thực tế khẳng định rằng hải quan thường
không tuân thủ quy định ràng buộc cơ quan hải quan phải thông báo cho
doanh nghiệp nhập khẩu cơ sở bác bỏ trị giá khai báo, cũng không giải thích
bằng văn bản vế các phán quyết định giá cuối cùng. Một số trường hợp khác,
hải quan theo một cách nào đó đã hướng dẫn sai cho doanh nghiệp nhập khẩu
làm cho doanh nghiệp nhập khẩu hiểu rằng nếu không tăng trị giá khai báo thì
sẽ không được giải phóng hàng. Điều này dẫn đến tình trạng doanh nghiệp
nhập khẩu phải chấp nhận giải phóng hàng có điều kiện (conditional release)
và thường gập khó khăn để có thể lấy lại số tiền đặt cọc. Nói chung, tại những
nước đang phát triển, tồn tại một mực tế là nhiều doanh nghiệp nhập khẩu có
động cơ khai báo thấp trị giá do nghĩ rằng kiểu gì trị giá khai báo của họ cũng
bị hải quan bác bỏ. Trong khi đó, hải quan lại coi rằng tất cả các doanh nghiệp
nhập khẩu đều khai báo thấp trị giá. Nó tạo thành một cái vòng luẩn quẩn cần

33
được phá bỏ song cho đến nay hầu như chưa có mấy nỗ lực được thực hiện để
làm điều đó. Mặt khác cơ chế xử phạt hành chính đối với việc khai báo sai trị
giá còn chưa được thực hiện đồng bộ và quyết liệt. Một sai lầm mà nhiều
nước hiện mắc phải là quan điểm cho rằng cần phải tiến hành kiểm hóa để
thẩm định trị giá. Trên thực tế, định giá rất ít vào kết quả kiếm hóa trừ số ít
trường hợp đặc điểm của hàng hóa không được mô tả đầy đủ và phù hợp
trong chứng từ, chẳng hạn khi một mã số thuế, một mức thuế suất lại tương
ứng với nhiều hàng hóa có giá trị khác biệt lớn. Điều này sẽ ảnh hưởng đến
việc áp dụng các biện pháp quản lý rủi ro của hải quan.

- Trao đổi thông tin dữ liệu giá giữa các thành viên ACV hạn chế

Các hoạt động hướng tới thay đổi ACV của các nước đang phát triển
vẫn đang diễn ra trong khuôn khổ WTO. Các nước này đã đệ trình đề xuất sửa
đổi ACV cho phù hợp hơn với môi trường thương mại và thực tế hành chính
của quốc gia mình lên Hội nghị bộ trưởng (HNBT) tại Doha (11/2001).HNBT
Doha đã ra quyết định và những vấn đề trao đổi liên quan đến thực thi ACV
(Deoision ơn Implementation-relateđ Issues and Concems) trong đó có vấn đề
trao đối thông tin trị giá xuất khẩu giữa nước xuất khẩu và nước nhập khẩu,
tăng cường sự hợp tác giữa hải quan các nước thành viên trong việc ngăn
ngừa gian lận hải quan., tức là đối với các trường hợp cơ quan hải quan có lý
do nghi ngờ tính trung thực hay chính xác của trị giá khai báo, thì hải quan
nước nhập khẩu có thể đề nghị hải quan nước xuất khẩu thành viên hỗ trợ
kiểm tra trị giá xuất khẩu của hàng hóa đó. Các nước thành viên phải hợp tác
và giúp đỡ phù hợp với qui định pháp luật và thủ tục nước đó. Hơn nữa, các
mối quản ngoại ngày càng tăng của một số nước đang phát triển về tính chính
xác của trị giá khai báo hàng nhập khẩu, Ủy ban định giá hải quan đã hướng
tới tìm kiếm và tiếp cận các phương tiện thực tiễn để giải quyết các mối quan
ngại đó, trong đó có trao đổi thông tin về giá xuất khẩu. Hiện các cơ quan liên
quan của WTO đang tiếp tục đàm phán và nghiên cứu việc thực hiện quyết
định này cùng đề xuất đã đệ trình.

34
2.1.3. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam trong quá trình thực
hiện ACV

Qua đánh giá những bước tiến đạt được của những quốc gia phát triển,
những khó khăn và quan ngại phải đối mặt của những quốc gia đang phát
triển và chậm phát triển đối với việc áp dụng ACV để xác định trị giá tính
thuế hàng nhập khẩu như đã trình bày ở trên, rút ra bài học vận dụng đối với
Việt Nam trong quá trình áp dụng Hiệp định như sau:

Một là, khẳng định cơ chế xác định trị giá tính thuế theo các nguyên
tắc của Hiệp định trị giá GATT/WTO là cơ chế xác định trị giá tiên tiến và
hiện đại, thể hiện sự minh bạch, chính xác, khách quan, bình đẳng và ổn định
trong việc xác định trị giá tính thuế đối với hàng hóa nhập khẩu. Điều này đã
được minh chứng là hầu hết các nước phát triển đã áp dụng đầy đủ Hiệp định
và ngày càng nhiều các nước đang áp dụng xác định trị giá tính thuế theo
Định nghĩa Brusselle và phương pháp quốc gia chuyển dần sang cơ chế xác
định trị giá tính thuế theo Hiệp định.

Hai là, xác định Việt Nam tham gia và áp dụng đầy đủ Hiệp định là
yêu cầu tất yếu khách quan và bắt buộc khi chúng ta đã là thành viên chính
thức của WTO. Qua đó tạo cầu nối để Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế
toàn cầu, thúc đẩy nhanh tốc độ giao lưu thương mại quốc tế, cân bằng cán
cân thương mại và thanh toán, thu hút đầu tư nước ngoài.

Ba là, khẳng định Việt Nam có đủ khả năng và tiền đề để tham gia và
áp dụng đầy đủ Hiệp định như: Môi trường pháp lý; nguồn nhân lực; cơ sở hạ
tầng kỹ thuật, công nghệ thông tin; nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp;
công tác đào tạo cán bộ làm công tác xác định giá tính thuế.

Bốn là, Việt Nam có điều kiện và cơ hội học tập, đúc kết, rút kinh
nghiệm quá trình áp dụng cơ chế ACV tại các nước trong khu vực và thế giới,
các nước phát triển, các nước đang phát triển có cùng điều kiện làm tiền đề,
chúng ta có những biện pháp thực hiện Hiệp định có hiệu quả, rút ngắn thời

35
gian bảo lưu thực hiện toàn phần Hiệp định. Bên cạnh đó chúng ta luôn có sự
hỗ trợ, giúp đỡ của Tổ chức hải quan quốc tế WCO, của hải quan các nước
trong khu vực và quốc tế về kinh nghiệm, về kỹ thuật xác định trị giá, về công
tác đào tạo cán bộ,...

Năm là, với một nước đang phát triển, nền kinh tế trải qua thời gian
dài khó khăn, lạc hậu, thời gian chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường chưa
lâu, kinh nghiệm giao lưu thương mại quốc tế chưa nhiều, nên ngoài những
đặc điểm chung về khó khăn, quan ngại mà các nước đang phát triển phải đối
mặt thì Việt Nam còn một số khó khăn, quan ngại khác do đặc điểm riêng của
nền kinh tế Việt Nam, đó là:

- Việc triển khai Hiệp định trị giá GATT/WTO trong điều kiện nền
kinh tế phát triển thấp, đang chuyển đổi dần từ cơ chế quản lý tập trung cao
độ sang cơ chế thị trường. Hệ thống pháp luật chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ,
thiếu minh bạch và chặt chẽ.

- Hệ thống kiểm soát, thống kê hoạt động kinh tế của quốc gia còn
chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý (trình độ quản lý thấp, không kiểm soát
được hết các giao dịch thanh toán tiền hàng, công tác hạch toán kế toán,
chứng từ tại nhiều doanh nghiệp còn thiếu trung thực, thanh toán bằng tiền
mặt còn phổ biến), việc phối hợp các ngành trong công tác quản lý chưa được
luật hóa mang tính thống nhất trong toàn quốc, sự phối hợp còn rời rạc, mang
tính cục bộ.

- Sự hiểu biết, nhận thức về xác định trị giá tính thuế theo các phương
pháp của Hiệp định của các doanh nhân chưa đầy đủ, ý thức chấp hành pháp luật
của một bộ phận không nhỏ doanh nghiệp chưa cao, chưa tự giác khai báo đúng
trị giá thực thanh toán. Tình trạng gian lận thương mại qua giá còn phổ biến.

- Các công cụ hỗ trợ cho công tác kiểm tra trị giá khai báo của doanh
nghiệp như hệ thống thông tin dữ liệu giá, công tác kiểm tra sau thông quan,
điều tra chống buôn lậu còn yếu, chưa đồng bộ.

36
- Đội ngũ cán bộ công chức Hải quan còn thiếu kinh nghiệm thực tế,
trình độ, năng lực còn hạn chế nhất là trình độ ngoại ngữ và năng lực ứng
dụng công nghệ hiện đại chưa đáp ứng yêu cầu của một hệ thống xác định trị
giá tính thuế đòi hỏi tính kỹ thuật cao như ACV.

2.2. HIỆP ĐỊNH TRỊ GIÁ GATT/WTO - THỰC TRẠNG ÁP DỤNG TẠI
VIỆT NAM

2.2.1. Quá trình hình thành và phát triển cơ chế xác định trị giá
tính thuế hàng hóa nhập khẩu của Việt Nam

Ở nước ta, trước thời điểm áp dụng xác định trị giá tính thuế hàng hóa
nhập khẩu theo Hiệp định trị giá GATT/WTO phân ra 3 giai đoạn sau đây:

* Giai đoạn 1 trước năm 2002: Cơ chế xác đánh giá tính thuế hàng
hóa nhập khẩu của Việt Nam trước khi thực hiện Luật hải quan

- Việt Nam chưa tham gia các cơ chế xác định trị giá tính thuế hiện đại
trên thế giới như: BDV, ACV,... Thời kỳ này, cơ chế xác định trị giá tính thuế
hàng hóa nhập khẩu dựa trên các bảng giá tối thiểu do Bộ Tài chính, Tổng cục
Hải quan ban hành và các Quyết định bổ sung giá tính thuế do các Cục Hải
quan địa phương ban hành.Cụ thể là:

+ Bộ tài chính ban hành Bảng giá tối thiểu đối với các nhóm mặt hàng
thuộc danh mục Nhà nước quản lý về giá (khoảng 9-16 nhóm mặt hàng);

+ Tổng cục Hải quan ban hành Bảng giá tối thiểu đối với các mặt hàng
không thuộc danh mục mặt hàng Nhà nước quản lý về giá;

+ Cục Hải quan địa phương ban hành giá tính thuế đối với những
mặt hàng mới phát sinh và áp dụng trong phạm vi của Cục Hải quan địa
phương đó.

- Cơ chế xác định trị giá tính thuế hàng nhập khẩu theo nguyên tắc rất
đơn giản cho 3 nhóm đối tượng hàng hóa nhập khẩu, đó là:

37
+ Nhóm đối tượng áp dụng trị giá tính thuế theo hợp đồng: Là tập hợp
hàng hóa nhập khẩu có mức giá hợp đồng cao hơn mức giá tối thiểu; là
nguyên liệu, vật tư trực tiếp đưa vào sản xuất, lắp ráp.

Qui định này áp dụng từ khi Thông tư 82/1997/TT-BTC ngày 11/11/1997


hiệu lực nhằm bảo hộ sản xuất sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu. Theo cơ
chế này thì đối với hàng hóa là nguyên liệu, vật tư trực tiếp đưa vào sản xuất,
lắp ráp tạo ra sản phẩm mới thì được áp giá tính thuế theo hợp đồng bất kể
hàng hóa đó có thuộc diện nhóm mặt hàng nhà nước quản lý giá hay không.

Do hạn chế nhiều mặt, cả khách quan, chủ quan, cả đối tượng kinh
doanh XNK nên cơ chế này chỉ được áp dụng từ 1997 đến 1998. Để hạn chế
tình trạng gian lận diễn ra ngày càng phổ biến này, từ đầu năm 1999, Tổng
cục Hải quan sau khi xin ý kiến Bộ Tài chính đã ban hành thêm qui định:
Hàng hóa nhập khẩu ngoài phải có đầy đủ các tiêu chí trên đây nhưng phải có
giá ghi trên hợp đồng đạt từ 70% giá ghi trên bảng giá tối thiểu trở lên thì mới
được áp dụng giá tính thuế theo hợp đồng.

+ Nhóm đối tượng áp dụng giá tính thuế theo giá qui định tại các
bảng giá tối thiểu: Là tập hợp hàng hóa nhập khẩu thuộc danh mục nhóm mặt
hàng Nhà nước quản lý về giá tính thuế, có giá hợp đồng nhỏ hơn giá tối thiểu
nhưng không phải là nguyên liệu, vật tư trực tiếp đưa vào sản xuất; là hàng
hóa nhập khẩu không thuộc diện Nhà nước quản lý về giá tính thuế, có hợp
đồng không hợp lệ, hoặc không phù hợp với điều 50 Luật thương mại hoặc
hợp đồng không phù hợp với các chứng từ có liên quan, hoặc không thanh
toán qua ngân hàng theo các phương thức thanh toán nêu trên. (trong thời
điểm từ 1997 đến 1998); hoặc có đầy đủ các điều kiện để áp giá hợp đồng
nhưng giá ghi trên hợp đồng nhỏ hơn 70% mức giá trong bảng giá tối thiểu
hay Bảng giá kiểm tra của Tổng cục Hải quan (đối với thời điểm từ 1999 về
sau); là hàng hóa nhập khẩu không có hợp đồng thương mại như hàng phi
mậu dịch, hàng tiểu ngạch biên giới, hàng quà biếu, quà tặng,... thì giá tính

38
thuế được xác định theo giá ghi tại bảng giá tối thiểu. Luật Thương mại qui
định hợp động ngoại thương được coi là hợp lệ phải thỏa mãn các nội dung:
Chủ thể hợp đồng, tên hàng, số lượng, qui cách, chất lượng, giá cả, phương
thức thanh toán, địa điểm, thời gian giao hàng [26, tr.10, 14-17].

+ Nhóm đối tượng hàng hóa nhập khẩu có giá tính thuế xác định theo
giá kê khai của nhà nhập khẩu: Là những hàng hóa mới phát sinh chưa được
qui định tại bảng giá tối thiểu hiện hành do Bộ Tài chính, Tổng cục hải quan
ban hành, không đủ điều kiện áp dụng theo giá ghi trên hợp đồng, không phân
biệt là hàng hóa đó có thuộc diện Nhà nước quản lý giá tính thuế hay không
thì xác định theo giá kê khai của nhà nhập khẩu. Giá kê khai có thể là giá hợp
đồng, giá hóa đơn hay mức giá nào đó mà người nhập khẩu có thể có được để
kê khai. Qui định này được áp dụng từ năm 1997 đến năm 2000. Từ năm
2001 những hàng hóa mới phát sinh thì lại giao cho Cục Hải quan địa phương
ban hành giá tính thuế bổ sung như giai đoạn trước năm 1997.

- Về xử lý vi phạm hành chính: Xuất phát từ nguyên tắc trên, cơ chế


xác định trị giá tính thuế thời kỳ này hầu như không đề cập đến việc xử lý vi
phạm pháp luật về giá tính thuế. Từ 1997 về sau có qui định chế tài đối với
trường hợp doanh nghiệp vi phạm pháp luật về giá tính thuế hàng nhập khẩu,
đó là nếu doanh nghiệp có sự gian dối trong hợp đồng ngoại thương; không
khai báo với cơ quan Hải quan khi có sự thay đổi mục đích sử dụng nguyên
liệu, vật tư đã được tính thuế theo giá ghi trên hợp đồng ngoại thương thì
ngoài việc truy thu đủ số thuế nhập khẩu, sẽ bị xử phạt về hành vi trốn lậu
thuế theo quy định của Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu hiện hành.

- Về Tranh chấp, khiếu nại, khiếu kiện về trị giá tính thuế thời kỳ này
tồn tại dưới 02 dạng:

+ Tranh chấp về việc xây dựng giá tính thuế của các Cục Hải quan địa
phương là quá cao so với giá mua bán trung bình tại cửa khẩu;

39
+ Tranh chấp về mức giá quy định tại các Bảng giá tối thiểu của Bộ
Tài chính và Tổng cục Hải quan là cao so với giá thực tế mua bán.

Việc khiếu kiện, khiếu nại thực hiện theo trình tự qui định của Luật
thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, tức là trình tự theo các cấp từ Chi cục Hải
quan đến Cục Hải quan địa phương, Tổng cục Hải quan và đến Bộ Tài chính
là cơ quan giải quyết cuối cùng.

Tóm lại: Có thể đánh giá hệ thống xác định giá tính thuế thời kỳ này
về cơ bản hoàn toàn dựa trên các Bảng giá tối thiểu. Lợi ích lớn nhất mà hệ
thống này mang lại là việc xác định giá tính thuế khá đơn giản, có khả năng
thất thu về thuế thấp. Tuy nhiên, hệ thống cũng bộc lộ những yếu kém mà bất
kỳ quốc gia nào sử dụng bảng giá tối thiểu cũng gặp phải, đó là:

+ Sự cào bằng về thuế khi giá tối thiểu cao hơn mức giá ghi trên các
hợp đồng thương mại và nó trở thành bình phong hợp pháp cho gian lận
thương mại khi giá tối thiểu không kịp điều chỉnh đáp ứng với biến động giá
cả thị trường.

+ Vấn đề xây dựng bảng giá tối thiểu và giá tính thuế bổ sung rất dễ
tạo điều kiện cho các tiêu cực nảy sinh (như việc mặc cả giữa nhóm người
chịu trách nhiệm xây dựng giá và doanh nghiệp, xây dựng mức giá tính thuế
không thống nhất và tùy tiện của các Cục Hải quan địa phương).

+ Áp dụng xác định trị giá tính thuế theo bảng giá tối thiểu tức là
không dựa trên trị giá thực được chấp nhận thanh toán của hàng hóa, bởi vậy
rất khó khăn cho việc tự chủ trong hạch toán kinh doanh của doanh nghiệp,
bởi họ mua hàng theo một giá, về đến cửa khẩu Việt Nam lại tính theo một
mức giá khác.

+ Hàng hóa xuất nhập khẩu, nhất là hàng hóa nhập khẩu trên toàn
cầu là vô cùng đa dạng, phong phú và thường xuyên thay đổi về chất lượng,
mẫu mã, kiểu dáng, model,... trong khi đó bảng giá tối thiểu thì giới hạn về
chủng loại mặt hàng và mức giá thường cứng nhắc, không thích ứng được

40
với cơ chế thị trường, dẫn đến sự bất đồng, gây ra khiếu nại kéo dài của các
doanh nghiệp.

* Giai đoạn 2: Cơ chế xác định giá tính thuế từ khi có Luật Hải quan
(năm 2002) đến trước năm 2004 (hiệu lực của Thông tư 118/2003/TT-BTC)

Sự ra đời của Luật hải quan tạo tiền đề để Việt Nam hội nhập kinh tế
quốc tế, trở thành thành viên của WTO và việc áp dụng Hiệp định trị giá
GATT/WTO trong xác định giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu là một tất yếu
trong dòng chảy của tự do hóa thương mại toàn cầu.

Là giai đoạn quá độ từ cơ chế xác định giá tính thuế theo các bảng giá
tối thiểu sang cơ chế xác định giá tính thuế phù hợp với tự do hóa thương mại
và hội nhập kinh tế quốc tế. Quá trình chuyển đổi được đánh dấu bằng Nghị
định số 60/2002/NĐ-CP ngày 06/06/2002 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/07/2002, quy định việc xác định trị giá tính thuế đối với hàng hóa nhập
khẩu theo nguyên tắc của Hiệp định thực hiện Điều VII Hiệp định chung về
thuế quan và thương mại.

- Về cơ chế xác định trị giá tính thuế: Do chưa có đủ thời gian để
chuẩn bị các điều kiện về con người, về cơ sở vật chất, môi trường pháp lý,...
để thực thi có hiệu quả Nghị định, vì vậy cơ chế xác định trị giá tính thuế thời
kỳ này vẫn thực hiện theo như cơ chế giai đoạn trước 2002, tức là vẫn còn tồn
tại bảng giá tối thiểu và giá tính thuế được xác định theo hướng giá cao hơn
giữa giá ghi trong hợp đồng với mức giá tối thiểu. Đồng thời thực hiện áp giá
tính thuế theo hợp đồng đối với một số trường hợp cụ thể sau:

+ Hàng hóa nhập khẩu là vật tư, nguyên liệu trực tiếp đưa vào sản
xuất lắp ráp nhằm bảo hộ sản xuất, thay thế hàng nhập khẩu.

+ Hàng hóa không thuộc các nhóm mặt hàng Nhà nước quản lý về giá
tính thuế có hợp đồng hợp lệ, phù hợp với các chứng từ có liên quan và có giá
hợp đồng đạt từ 70% mức giá tối thiểu.

41
+ Hàng hóa nhập khẩu theo hợp đồng thương mại của các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo Luật Đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam bất kể hàng hóa đó thuộc diện Nhà nước quản lý giá hay không
quản lý giá [7, tr.12].

* Giai đoạn 3: Cơ chế xác định giá tính thuế thời kỳ từ năm 2004
(hiệu lực của Thông tư 118/2003/TT-BTC) đến nay

Đánh dấu từ sự ra đời của Thông tư số 118/2003/TT-BTC của Bộ Tài


chính ban hành ngày 8/12/2003, có hiệu lực từ 01/01/2004 hướng dẫn thi
hành Nghị định 60/2002/NĐ-CP ngày 6/6/2002 qui định xác định trị giá tính
thuế theo các nguyên tắc của Hiệp định trị giá GATT/WTO. Cơ chế xác định
giá tính thuế theo qui định này chia hàng hóa nhập khẩu cần xác định trị giá
tính thuế thành hai nhóm:

+ Nhóm áp dụng cơ chế xác định giá tính thuế theo ACV

Nhóm này bao gồm: Hàng hóa nhập khẩu theo hợp đồng thương mại của
các doanh nghiệp và các bên hợp doanh thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật đầu
tư nước ngoài tại Việt Nam, hàng hóa nhập khẩu theo hợp đồng thương mại có
xuất xứ từ các nước, vùng lãnh thổ, khối liên minh quốc gia mà Việt Nam đã ký
kết thực hiện xác định trị giá tính thuế theo nguyên tắc của ACV. Tuy nhiên do
hạn chế về điều kiện và cơ sở áp dụng nên Việt Nam xin bảo lưu 2 phương
pháp là phương pháp xác định trị giá khấu trừ và phương pháp tính toán đến
31/12/2005. Từ 1/10/2006 chúng ta mới áp dụng đầy đủ Hiệp định.

(Phụ lục 7: Danh sách các nước, vùng lãnh thổ khối liên minh quốc
gia thuộc đối tượng áp dụng Thông tư 118/2003/TT-BTC (xác định trị giá
GATT/WTO) đến 31/12/2004).

+ Nhóm hàng hóa nhập khẩu áp dụng cơ chế xác định trị giá tính thuế
theo phương pháp quốc gia

Nhóm này bao gồm: Hàng hóa nhập không có giao dịch mua bán theo
hợp đồng thương mại, hàng chuyển mục đích sử dụng phải truy thu thuế, hàng

42
hóa phi mậu dịch, tiểu ngạch biên giới,... Đối với các loại hàng hóa nhập khẩu
theo những loại hình này có cơ chế riêng để xác định, về cơ bản đã bỏ hẳn
bảng giá tối thiểu và các cơ chế xác định trị giá tính thuế theo sự áp đặt của cơ
quan hải quan.

- Cơ chế xử lý hành chính: Đối với hành vi vi phạm pháp luật trong
lĩnh vực trị giá tính thuế, việc chế tài cũng được quy định cụ thể, rõ ràng tại
các văn bản có tính pháp lý cao như Luật quản lý thuế; Nghị định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực Hải quan; Nghị định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực Thuế,...

- Vấn đề giải quyết tranh chấp, khiếu kiện, khiếu nại về trị giá tính
thuế trong cơ chế xác định định giá tính thuế hiện hành được thực hiện dựa
trên nguyên tắc: Doanh nghiệp khiếu nại lần đầu tại cơ quan Hải quan nơi xác
định trị giá tính thuế, nếu doanh nghiệp không đồng ý với kết quả giải quyết
của hải quan thì có quyền khiếu nại lên hải quan cấp trên hoặc có thể khiếu kiện
ra Tòa hành chính. Điều này hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật về
khiếu nại, khiếu hiện, tuy nhiên tại các văn bản pháp luật hiện hành về việc xác
định trị giá tính thuế chưa qui định việc doanh nghiệp có thể khiếu nại lên Tổ
chức hải quan thế giới WCO để giúp đỡ, hỗ trợ và giải quyết tranh chấp.

2.2.2. Thực trạng về cơ sở pháp lý xác định trị giá tính thuế hàng
hóa nhập khẩu theo ACV tại Việt Nam

- Điều 22 phần IV Hiệp định trị giá GATT/WTO qui định về "Luật
pháp quốc gia" khi tham gia Hiệp định như sau: "kể từ ngày áp dụng các qui
định của Hiệp định này tại nước mình, mỗi nước thành viên phải đảm bảo các
văn bản pháp luật, các qui định cùng các thủ tục hành chính của nước mình
phù hợp với các qui định của Hiệp định này" [40, tr.162].

Trên tinh thần Hiệp định, để tiếp cận, áp dụng có bảo lưu và tiến tới áp
dụng đầy đủ Hiệp định, ngay từ khi cam kết tham gia, Việt Nam đã luật hóa
các qui định của Hiệp định, đưa vào điều luật, văn bản luật các qui định về

43
xác định trị giá theo các phương pháp của Hiệp định để áp dụng trong phạm
vi quốc gia.

- Cơ sở pháp lý quốc gia hiện nay được thể hiện qua các văn bản qui
phạm pháp luật sau:

+ Điều 9 Luật Thuế xuất khẩu thuế nhập khẩu số 45/2005/QH11 ngày
14/6/2005 qui định: "Giá tính thuế đối với hàng hóa nhập khẩu là giá thực tế
phải trả tính đến cửa khẩu nhập đầu tiên theo hợp đồng, phù hợp với cam kết
quốc tế" và qui định "Chính phủ qui định cụ thể việc xác định trị giá tính thuế
theo qui định tại Điều này" [5, tr.11].

+ Điều 71 Luật Hải quan số 29/2001/QH10 ngày 29/6/2001 [25, tr.9]


và Điều Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hải quan số
42/2005/QH11 ngày 14/6/2005 qui định "Trị giá tính thuế đối với hàng hóa
xuất khẩu, nhập khẩu được xác định theo qui định của pháp luật về thuế và
các qui định khác của pháp luật. Chính phủ qui định cụ thể việc xác định trị
giá tính thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu" [5, tr.124].

+ Khoản 2 Điều 7 Nghị định 149/2005/NĐ-CP ngày 08/12/2005 qui


định chi tiết thi hành Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu qui định "Giá tính
thuế đối với hàng hóa nhập khẩu là giá thực tế phải trả đến cửa khẩu nhập đầu
tiên theo hợp đồng được xác định theo qui định của pháp luật về trị giá hải
quan đối với hàng nhập khẩu" [5, tr.25].

(Phụ lục 8: Danh mục các văn bản Luật và các văn bản khác về xác
định trị giá tính thuế hàng nhập khẩu tại Việt Nam).

Nhìn chung việc nội luật hóa các qui định về xác định trị giá tính thuế
hàng nhập khẩu, tạo một hành lang pháp lý rõ ràng, cởi mở, minh bạch, tạo
tiền đề cho việc áp dụng đầy đủ Hiệp định trị giá GATT/WTO đã được Chính
phủ và các cơ quan có thẩm quyền Việt Nam hết sức qua tâm, chú trọng. Ban
đầu nội dung việc nội luật hóa còn chưa sát với nội dung Hiệp định, tính pháp
lý chưa cao, một phần còn mang tính áp đặt của cơ quan quản lý nhất là việc

44
xác định trị giá tính thuế đối với hàng hóa nhập khẩu không theo hợp đồng
thương mại hoặc không phải là đối tượng xác định trị giá tính thuế theo ACV,...
cơ chế giải quyết tranh chấp, khiếu kiện, khiếu nại, cơ chế xử lý vi phạm về giá
tính thuế còn nhiều bất cập, chưa rõ ràng, chặt chẽ. Qua hơn 5 năm thực hiện,
với sự nỗ lực không ngừng học hỏi các quốc gia phát triển trong khu vực và thế
giới, vượt những thử nghiệm ban đầu, những cơ chế bất cập trên đã không
ngừng được hoàn thiện, luật hóa một cách chặt chẽ và có hệ thống.

2.2.3. Thực trạng cơ chế xác định trị giá tính thuế hàng hóa nhập
khẩu tại Việt Nam

2.2.3.1. Nhóm cơ chế xác định trị giá tính thuế theo ACV

Thực hiện xác định trị giá tính thuế tuần tự theo các phương pháp xác
định trị giá hải quan của Hiệp định và được luật hóa tại Nghị định
40/2007/NĐ-CP và Thông tư 40/2008/TT-BTC. Theo đó, trị giá tính thuế của
hàng hóa nhập khẩu được xác định theo 6 phương pháp, với một trình tự bắt
buộc từ phương pháp 1 đến phương pháp 6, tức là trước hết ưu tiên áp dụng
phương pháp 1 (trị giá giao dịch của hàng hóa nhập khẩu), nếu không áp dụng
được phương pháp 1 thì chuyển áp dụng phương pháp 2… cứ như vậy đến
phương pháp cuối cùng. Khi xác định được trị giá tính thuế ở phương pháp
nào thì dừng ngay lại ở phương pháp đó. Tuy nhiên Hiệp định cũng qui định
có thể hoán đổi phương pháp 4 (trị giá khấu trừ) và phương pháp 5 (trị giá
tính toán) cho nhau, nhưng việc hoán đổi chỉ thực hiện được khi doanh nghiệp
yêu cầu và được cơ quan hải quan chấp nhận.

Các phương pháp xác định như sau:

Một, phương pháp xác định trị giá tính thuế theo trị giá giao dịch của
hàng hóa nhập khẩu (The Transaction Value)

Đây là phương pháp đầu tiên, quan trọng nhất, theo tổ chức Hải quan
thế giới WCO thì có trên 90% tờ khai hàng hóa nhập khẩu tại các nước đã áp

45
dụng đầy đủ ACV được xác định trị giá tính thuế theo phương pháp này (biểu
đồ 2.1).
%
98
96
94
92
90
88
EU NhËt Mü N- í c kh¸ c

Biểu đồ 2.1: Tỷ lệ sử dụng phƣơng pháp trị giá giao dịch


tại các nƣớc phát triển
Nguồn: Tổ chức Hải quan thế giới (1998), - WCO/1998 [27, tr.54]

 Các khái niệm

- Trị giá tính thuế của hàng hóa nhập khẩu trước hết phải trị giá giao
dịch, đó là giá đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán của hàng hóa nhập khẩu
đó khi được bán để xuất khẩu đến nước nhập khẩu sau khi đã được điều chỉnh
theo qui định và các điều kiện. Trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu xác định
theo công thức sau:

Trị giá tính Giá thực tế đã


Trị giá Các khoản điều
thuế hàng = = thanh toán hay sẽ +
giao dịch chính theo Điều 8
nhập khẩu phải thanh toán

- "Trị giá giao dịch" là giá mà người mua thực tế đã thanh toán hay sẽ
phải thanh toán cho người bán để mua hàng hóa nhập khẩu, sau khi đã được
điều chỉnh các chi phí theo quy định [8, tr.1].

- "Giá thực tế đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán" được xác định
bằng tổng số tiền mà người mua đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán, trực
tiếp hoặc gián tiếp cho người bán để mua hàng hóa nhập khẩu [8, tr.1].

46
- "Giao dịch bán hàng xuất khẩu" là giao dịch trong đó có sự chuyển
nhượng quốc tế về quyền sở hữu hàng hóa, tức là quyền sở hữu hàng hóa
được dịch chuyển từ nước xuất khẩu về Việt Nam, qua lãnh thổ hải quan của
Việt Nam. Yếu tố quan trọng hàng đầu khi xem xét để áp dụng phương pháp
này là bản chất của giao dịch đó có phải có sự chuyển nhượng quốc tế về
quyền sở hữu hàng hóa. Những giao dịch sau không được coi là giao dịch bán
hàng xuất khẩu, không xác định trị giá tính thuế theo phương pháp trị giá giao
dịch, gồm: (i) giáo dịch hàng đổi hàng; (ii) giao dịch gửi hàng để bán; (iii)
giao dịch hàng quà tặng, quà biếu, hàng mẫu, hàng quảng cáo; (iv) giao dịch
hàng hóa nhập khẩu của các đơn vị là văn phòng đại diện, chi nhánh không
phải là pháp nhân độc lập; (v) giao dịch hàng hóa thuê mượn [8, tr.2].

 Điều kiện để áp dụng trị giá giao dịch

Trị giá giao dịch được áp dụng nếu thỏa mãn đủ các điều kiện sau:

Điều kiện thứ nhất: Người mua không bị hạn chế quyền định đoạt
hoặc sử dụng hàng hóa sau khi nhập khẩu, trừ một số hạn chế theo qui định
như: việc dán nhãn mác bằng tiếng của nước nhập khẩu, hàng hóa nhập khẩu
phải có giấy phép bán hàng tại nước nhập khẩu, hoặc hàng hóa phải chịu một
hình thức kiểm tra, kiểm định trước khi được thông quan, hàng hóa bị hạn chế
về nơi tiêu thụ,...

Điều kiện thứ hai: Giá cả hoặc hoạt động bán hàng không phụ thuộc
vào những điều kiện hay các khoản thanh toán mà vì chúng không xác định
được trị giá của hàng hóa cần xác định trị giá tính thuế.

Điều kiện thứ ba: Sau khi bán lại, chuyển nhượng hoặc sử dụng hàng
hóa nhập khẩu, người mua không phải trả thêm bất kỳ khoản tiền nào từ
doanh thu mà họ đạt được cho người bán dù trực tiếp hay gián tiếp do việc
định đoạt hàng hóa nhập khẩu mang lại, không kể khoản chi phí điều chỉnh
cộng theo quy định của Hiệp định.

47
Điều kiện thứ tư: Người mua và người bán không có mối quan hệ đặc
biệt hoặc nếu có thì mối quan hệ đó không ảnh hưởng đến trị giá giao dịch.

 Các yếu tố cấu thành trị giá giao dịch

Trị giá giao dịch bao gồm các khoản sau đây:

- Giá thực tế đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán, gồm có:

+ Giá ghi trên hóa đơn.

+ Các khoản thanh toán gián tiếp.

Khoản thanh toán gián tiếp là khoản tiền thường không trực tiếp thể
hiện trên hóa đơn thương mại và không trực tiếp liên quan đến lô hàng được
thanh toán. Các khoản thanh toán gián tiếp này là một phần của giá thực tế
thanh toán hay sẽ phải thanh toán cho hàng hóa nhập khẩu thường biểu hiện ở
các hình thức khác nhau như: Các khoản trả trước hay đặt cọc trước cho
người bán; các khoản tiền thừa của các lô hàng trước khẩu trừ cho lô hàng
đang xác định trị giá; các khoản trả cho bên thứ 3 trong quan hệ thương mại 3
bên; các khoản bù trừ cho hàng hóa xuất khẩu.

+ Các khoản chiết khấu giảm giá.

Có 3 loại chiết khấu giảm giá theo qui định bao gồm: Chiết khấu
thương mại; chiết khấu số lượng; chiết khấu thanh toán.

- Các khoản chi phí điều chỉnh

Điều 13 Nghị định 40 qui định cụ thể những khoản chi phí nào thuộc
vào (nằm trong) trị giá giao dịch thì phải cộng vào trị giá hóa đơn và những
khoản chi phí nào không thuộc về trị giá giao dịch thì điều chỉnh trừ ra nếu
chúng đã nằm trong giá hóa đơn. Chi phí điều chỉnh có [8, tr.11]: (i) Các
khoản điều chỉnh bắt buộc: Là những khoản điều chỉnh pháp luật các quốc gia
tham gia Hiệp định đều phải qui định bắt buộc cộng vào giá thực tế đã thanh
toán hãy sẽ phải thanh toán. (ii) Các khoản điều chỉnh không bắt buộc: Là
những khoản điều chỉnh mà tùy theo Pháp luật từng quốc gia tham gia Hiệp

48
định mà có thể cộng hoặc loại trừ ra khỏi trị giá tính thuế. (iii) Các khoản điều
chỉnh khác: Là những khoản điều chỉnh được loại trừ ra khỏi trị giá tính thuế
nếu giá hóa đơn có phản ảnh các chi phí này và do người mua phải chịu (gọi
là các khoản phải trừ).

(Phụ lục 1: Sơ đồ xác định trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu theo
phương pháp trị giá giao dịch).

Hai, phương pháp xác định trị giá tính thuế theo trị giá giao dịch của
hàng hóa giống hệt

Hàng hóa nhập khẩu trước hết được xem xét xác định trị giá tính thuế
theo phương pháp trị giá giao dịch, tuy nhiên trong một số trường hợp trị giá
tính thuế không thể xác định theo trị giá giao dịch, khi đó phải áp dụng
phương pháp trị giá giao dịch của hàng hóa giống hệt.

Điều 2 Nghị định 40/2007/NĐ-CP định nghĩa: "Hàng hóa nhập khẩu
giống hệt là những hàng hóa giống nhau về mọi phương diện, kể cả đặc điểm
vật lý, chất lượng và danh tiếng được sản xuất ở cùng một nước, bởi cùng một
nhà sản xuất hoặc nhà sản xuất khác theo sự ủy quyền của nhà sản xuất đó,
được nhập khẩu vào Việt Nam" [8. tr.2].

Như vậy, hàng hóa giống hệt phải thỏa mãn yêu cầu giống nhau về:

- Tính chất vật lý của hàng hóa như tiêu chuẩn bề mặt, vật liệu cấu
thành, phương pháp chế tạo, tính năng và mục đích sử dụng,... của hàng hóa.

- Chất lượng hàng hóa.

- Danh tiếng của hàng hóa, chủ yếu là danh tiếng nhãn hiệu hàng hóa.

Khi xác định trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu theo phương pháp
trị giá giao dịch của hàng hóa giống hệt, trường hợp tìm được nhiều lô hàng
giống hệt thỏa mãn các điều kiện đặt ra nhưng có trị giá giao dịch đã xác
định khác nhau, sau khi điều chỉnh về cùng cấp độ thương mại và cấp độ số
lượng với lô hàng đang cần xác định trị giá tính thuế thì trị giá giao dịch

49
thấp nhất của hàng hóa giống hệt sẽ được dùng làm trị giá tính thuế của lô
hàng nhập khẩu.

(Phụ lục 2: Sơ đồ xác định trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu theo
phương pháp trị giá giao dịch của hàng hóa giống hệt).

Ba, phương pháp xác định trị giá tính thuế theo trị giá giao dịch của
hàng hóa tương tự

Điều 2 Nghị định 40/2007/NĐ-CP định nghĩa:

Hàng hóa tương tự là những hàng hóa dù không giống nhau


về mọi phương diện nhưng có các đặc điểm giống nhau, được làm
từ các nguyên liệu giống nhau, thực hiện các chức năng giống nhau
và có thể thay thế cho nhau về mặt thương mại được sản xuất ở
cùng một nước, bởi cùng một nhà sản xuất hoặc nhà sản xuất khác
theo sự ủy quyền của nhà sản xuất đó, được nhập khẩu vào Việt
Nam [8, tr. 2].

Thông tư 40/2008/TT-BTC qui định:

Nếu không xác định được trị giá tính thuế theo các phương
pháp trị giá giao dịch của hàng nhập khẩu hoặc phương pháp trị giá
giao dịch của hàng giống hệt thì trị giá tính thuế của hàng hóa nhập
khẩu được xác định theo trị giá giao dịch của hàng hóa nhập khẩu
tương tự, với điều kiện hàng hóa nhập khẩu tương tự đã được cơ quan
hải quan chấp nhận xác định trị giá tính thuế theo trị giá giao dịch, và
có cùng các điều kiện mua bán, điều kiện về thời gian xuất khẩu với
hàng hóa nhập khẩu đang xác định trị giá tính thuế [6, tr. 8].

Trường hợp không tìm được lô hàng nhập khẩu tương tự có


cùng điều kiện mua bán với lô hàng nhập khẩu đang được xác định trị giá tính
thuế thì lựa chọn lô hàng nhập khẩu tương tự khác về điều kiện mua bán,
nhưng phải được điều chỉnh về cùng điều kiện mua bán.

50
Để xem xét hàng hóa có được xem là hàng hóa tương tự hay không
người ta đưa ra các đặc điểm để nhận biết, theo đó 2 loại hàng hóa được xem
là tương tự nếu chúng giống nhau về: Cùng tính chất vật lý của hàng hóa,
mức độ công dụng; phương pháp chế tạo ra hàng hóa; cùng chức năng và
cách sử dụng; cùng vật liệu cấu thành hay hợp thành hàng hóa; có thể thay thế
cho nhau về mặt thương mại.

(Phụ lục 3: Sơ đồ xác định trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu theo
phương pháp trị giá giao dịch của hàng hóa tương tự).

Bốn, phương pháp xác định trị giá tính thuế theo trị giá khấu trừ

Nếu không xác định được trị giá tính thuế theo 3 phương pháp trên
đây thì trị giá tính thuế của hàng hóa nhập khẩu được xác định theo trị giá
khấu trừ. Nội dung cơ bản của phương pháp này là căn cứ vào đơn giá bán
hàng hóa nhập khẩu, hàng hóa nhập khẩu giống hệt hoặc hàng hóa nhập khẩu
tương tự trên thị trường nội địa nước nhập khẩu và trừ (-) các chi phí hợp lý,
lợi nhuận thu được sau khi bán hàng nhập khẩu.

* Điều kiện lựa chọn đơn giá bán trên thị trường nước nhập khẩu

- Đơn giá bán trên thị trường nước nhập khẩu phải là đơn giá bán của
hàng hóa nhập khẩu đang được xác định trị giá tính thuế, hàng hóa nhập khẩu
giống hệt hoặc hàng hóa nhập khẩu tương tự, được bán nguyên trạng (không
làm thay đổi bản chất hàng hóa như việc chế biến, gia công, tháo dỡ các chi
tiết,...) như khi nhập khẩu.

- Lượng hàng hóa được bán ra với số lượng lũy kế lớn nhất ở mức đủ
để hình thành đơn giá.

- Hàng hóa được bán ra vào cùng thời điểm hay cùng kỳ với lô hàng nhập
khẩu, ngay sau khi nhập khẩu nhưng không quá 90 ngày sau ngày nhập khẩu;

- Giao dịch bán hàng cho người mua không có quan hệ đặc biệt với nhau.

51
Không áp dụng phương pháp này nếu hàng hóa được lựa chọn để xác
định đơn giá bán thuộc một trong các trường hợp: (i) Chưa được bán trên thị
trường nội địa nước nhập khẩu hoặc việc bán hàng chưa được hạch toán trên
chứng từ, sổ sách kế toán theo quy định của pháp luật về kế toán nước nhập
khẩu; (ii) Có liên quan đến khoản trợ giúp do bất kỳ người nào cung cấp;

* Nguyên tắc khấu trừ

Việc xác định các khoản khấu trừ dựa trên cơ sở các số liệu kế toán,
chứng từ hợp pháp, hợp lệ có sẵn và được ghi chép, phản ánh theo các quy
định, chuẩn mực của kế toán nước nhập khẩu. Các khoản được khấu trừ là
những khoản được phép hạch toán vào chi phí hợp lý, hợp lệ của doanh
nghiệp theo pháp luật về kế toán nước nhập khẩu.

* Các khoản được khấu trừ khỏi đơn giá bán hàng: (i) chi phí vận
chuyển, phí bảo hiểm và chi phí cho các hoạt động khác liên quan đến việc
vận chuyển hàng hóa sau khi nhập khẩu tại nước nhập khẩu; (ii) các khoản thuế,
phí và lệ phí phải nộp tại nước nhập khẩu khi nhập khẩu và bán hàng hóa nhập
khẩu trên thị trường nội địa nước nhập khẩu; (iii) hoa hồng hoặc chi phí chung
liên quan đến các hoạt động bán hàng hóa nhập khẩu tại nước nhập khẩu.

Căn cứ để xác định các khoản khấu trừ là số liệu được ghi chép và
phản ánh trên chứng từ, sổ sách kế toán của người nhập khẩu, phù hợp với
quy định, chuẩn mực của kế toán tại nước nhập khẩu. Số liệu này phải tương
ứng với những số liệu thu được từ những hoạt động mua bán hàng hóa nhập
khẩu cùng phẩm cấp hoặc cùng chủng loại tại nước nhập khẩu.

* Đối với hàng hóa được bán không còn nguyên trạng như khi nhập khẩu

Trường hợp không tìm được đơn giá bán của hàng hóa được bán nguyên
trạng như khi nhập khẩu thì lấy đơn giá bán hàng hóa nhập khẩu đã qua quá
trình gia công, chế biến thêm ở trong nước và trừ đi các chi phí gia công, chế
biến làm tăng thêm giá trị của hàng hóa, với điều kiện có thể định lượng được
các chi phí gia tăng do quá trình gia công, chế biến thêm ở trong nước.

52
(Phụ lục 4: Sơ đồ xác định trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu theo
phương pháp khấu trừ).

Năm, phương pháp xác định trị giá tính thuế theo trị giá tính toán

Nếu không xác định được trị giá tính thuế theo các phương pháp trên
thì trị giá tính thuế của hàng hóa nhập khẩu được xác định theo trị giá tính toán.

* Phương pháp trị giá tính toán là phương pháp xác định trị giá tính
thuế của hàng hóa dựa trên các chi phí liên quan đến việc sản xuất và bán
hàng để xuất khẩu đến nước nhập khẩu. Khi sử dụng phương pháp này phải
dựa trên các yếu tố cấu thành trị giá tính toán của hàng hóa cùng với các
thông tin có sẵn, khách quan vè định lượng được ở nước nhập khẩu.

Thông tư 40 qui định, trị giá tính toán của hàng hóa nhập khẩu bao
gồm các khoản: (i) chi phí trực tiếp để sản xuất ra hàng hóa nhập khẩu; (ii)
chi phí chung và lợi nhuận phát sinh trong hoạt động bán hàng hóa cùng phẩm
cấp hoặc cùng chủng loại với hàng hóa nhập khẩu đang xác định trị giá, được
sản xuất ở nước xuất khẩu để bán hàng đến nước nhập khẩu; (iii) các chi phí
vận chuyển, bảo hiểm và các chi phí có liên quan đến việc vận chuyển hàng
hóa nhập khẩu [6, tr. 12-13].

* Căn cứ để xác định trị giá tính toán

Là số liệu được ghi chép và phản ánh trên chứng từ, sổ sách kế toán
của người sản xuất trừ khi các số liệu này không phù hợp các số liệu thu thập
được tại nước nhập khẩu. Số liệu này phải tương ứng với những số liệu thu
được từ những hoạt động sản xuất, mua bán hàng hóa nhập khẩu cùng phẩm
cấp hoặc cùng chủng loại do người sản xuất tại nước xuất khẩu sản xuất ra để
xuất khẩu đến nước nhập khẩu.

(Phụ lục 5: Sơ đồ xác định trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu theo
phương pháp tính toán).

53
Sáu, phương pháp xác định trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu theo
suy luận (Phương pháp suy luận hay phương pháp dự phòng)

Nếu không xác định được trị giá tính thuế theo thứ tự các phương
pháp trên thì trị giá tính thuế được xác định theo phương pháp suy luận.

Phương pháp này cho phép sử dụng cách thức xác định trị giá hợp lý,
nhất quán với nguyên tắc và qui định của Hiệp định trên cơ sở các tài liệu,
số liệu khách quan, có sẵn ở nước nhập khẩu tại thời điểm xác định trị giá
tính thuế.

* Điều kiện để xác định trị giá tính thuế hàng nhập khẩu theo phương
pháp suy luận

- Không có giao dịch bán hàng để xuất khẩu hoặc có giao dịch nhưng
không đủ điều kiện để xác định trị giá tính thuế theo trị giá giao dịch của hàng
nhập khẩu.

- Không có hàng hóa giống hệt hoặc hàng hóa tương tự đã nhập khẩu
hoặc sẽ nhập khẩu trong vòng 60 ngày.

- Không có hàng hóa nguyên trạng hoặc gia công một số bộ phận được
bán tại nước nhập khẩu.

- Nhà sản xuất không biết hoặc từ chối cung cấp số liệu về chi phí liên
quan đến sản xuất và bán hàng hóa xuất khẩu.

* Phương thức xác định trị giá theo phương pháp suy luận

Trị giá tính thuế xác định theo phương pháp suy luận được xác định
bằng cách áp dụng tuần tự và linh hoạt các phương pháp xác định trị giá tính
thuế qui định từ phương pháp 1 đến phương pháp 6 của Hiệp định và dừng
ngay tại phương pháp xác định được trị giá tính thuế.

(Phụ lục 6: Sơ đồ xác định trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu theo
phương pháp suy luận).

54
2.2.3.2. Nhóm cơ chế xác định trị giá theo phương pháp quốc gia

Xác định trị giá theo phương pháp quốc gia là tập hợp hàng hóa nhập
khẩu không có giao dịch mua bán theo hợp đồng hoặc có giao dịch nhưng
không thuộc đối tượng xác định trị giá theo ACV.

Những trường hợp xác định trị giá tính thuế theo phương pháp quốc
gia thì tùy theo từng đối tượng hàng hóa nhập khẩu cụ thể mà qui định của
Việt Nam có các phương pháp xác định trị giá khác nhau để vừa phù hợp với
qui định của Hiệp định, vừa phù hợp với điều kiện quốc gia đảm bảo thu
đúng, thu đủ, hạn chế thấp nhất trình trạng gian lận thương mại qua giá, thất
thu cho NSNN. Cụ thể như sau:

1. Đối với hàng hóa nhập khẩu đã được miễn thuế, xét miễn thuế
nhưng sau đó sử dụng vào mục đích khác với mục đích đã được miễn thuế,
xét miễn thuế thì phải kê khai nộp thuế. Trong đó, trị giá tính thuế nhập khẩu
được xác định trên cơ sở giá trị sử dụng còn lại của hàng hóa, tính theo thời
gian sử dụng và lưu lại tại Việt Nam (tính từ thời điểm nhập khẩu theo tờ khai
hải quan đến thời điểm tính lại thuế) và được xác định cụ thể như sau:

Bảng 2.1: Xác định trị giá tính thuế hàng hóa miễn thuế
chuyển mục đích sử dụng
Thời gian sử dụng và lƣu lại Trị giá tính thuế nhập khẩu = (%) trị giá khai báo
tại Việt Nam tại thời điểm đăng ký tờ khai hải quan ban đầu
Từ 6 tháng trở xuống
90%
(được tính tròn là 183 ngày)
Từ trên 6 tháng đến 1 năm
80%
(được tính tròn là 365 ngày)
Từ trên 1 năm đến 2 năm 70%
Từ trên 2 năm đến 3 năm 60%
Từ trên 3 năm đến 5 năm 50%
Từ trên 5 năm đến 7 năm 40%
Từ trên 7 năm đến 9 năm 30%
Từ trên 9 năm đến 10 năm 15%
Trên 10 năm 0%

Nguồn: [6, tr. 20].

55
2. Đối với phế liệu thu được trong quá trình sản xuất hàng gia công
cho phía nước ngoài mà bên thuê gia công bán lại cho phía Việt Nam, thì trị
giá tính thuế được xác định như sau:

+ Trường hợp có hợp đồng mua bán hàng hóa thì áp dụng các nguyên
tắc và phương pháp xác định trị giá tính thuế theo các phương pháp của ACV
để xác định trị giá tính thuế.

+ Trường hợp không có hợp đồng mua bán thì trị giá tính thuế được
xác định như quy định trường hợp hàng hóa nhập khẩu không có hợp đồng
mua bán (điểm 7 phần này).

3. Đối với hàng hóa nhập khẩu là hàng đi thuê mượn thì trị giá tính
thuế là giá thực trả theo hợp đồng đã ký với nước ngoài, phù hợp với các
chứng từ hợp pháp hợp lệ có liên quan đến việc đi thuê mượn hàng hóa.

4. Đối với hàng hóa nhập khẩu là hàng đem ra nước ngoài sửa chữa,
gia công thì trị giá tính thuế là chi phí thực trả theo hợp đồng ký kết với phía
nước ngoài, phù hợp với các chứng từ hợp pháp, hợp lệ liên quan đến việc sửa
chữa, gia công hàng hóa, tức là trị giá tính thuế sẽ là phần trị giá tăng thêm so
với khi xuất khẩu.

5. Hàng bảo hành: Trường hợp hàng hóa nhập khẩu có bao gồm hàng
hóa bảo hành, theo hợp đồng mua bán (kể cả trường hợp hàng gửi sau), thì trị
giá tính thuế là trị giá thực trả cho hàng hóa nhập khẩu bao gồm cả trị giá của
hàng hóa bảo hành. Trị giá, số lượng của hàng hóa bảo hành, điều kiện và thời
hạn bảo hành phải được quy định cụ thể trên hợp đồng.

6. Hàng khuyến mại: Trường hợp hàng hóa nhập khẩu có bao gồm
hàng hóa khuyến mại theo hợp đồng mua bán hàng hóa (kể cả trường hợp gửi
sau), thì trị giá tính thuế được xác định như sau:

- Trường hợp trị giá hàng khuyến mại được quy định cụ thể trên hợp
đồng mua bán, nhưng không quá 10% trị giá hàng nhập khẩu, thì trị giá tính

56
thuế của hàng hóa nhập khẩu (bao gồm cả hàng khuyến mại) là trị giá thực trả
cho toàn bộ lô hàng nhập khẩu.

- Trường hợp trị giá hàng khuyến mại không tách được khỏi trị giá
hàng hóa nhập khẩu hoặc vượt quá 10% trị giá hàng nhập khẩu, thì trị giá tính
thuế cho toàn bộ lô hàng nhập khẩu (trị giá tính thuế của hàng hóa nhập khẩu
và trị giá tính thuế của hàng hóa khuyến mại) không được xác định theo trị
giá giao dịch và phải chuyển sang phương pháp tiếp theo.

7. Hàng hóa nhập khẩu không có hợp đồng mua bán hàng hóa như:
Hàng hóa mua bán trao đổi của cư dân biên giới; hàng hóa nhập khẩu của
hành khách nhập cảnh, trong và ngoài tiêu chuẩn miễn thuế; hàng hóa là quà
biếu, quà tặng, trong và ngoài định mức miễn thuế; hàng nhập khẩu của các
doanh nghiệp cung cấp dịch vụ bưu chính, dịch vụ phát chuyển nhanh; và các
loại hình khác không có hợp đồng mua bán hàng hóa, thì trị giá tính thuế
được xác định theo qui định đối với từng trường hợp: (i) hàng hóa đơn lẻ; (ii)
không phải là hàng đơn lẻ.

8. Hàng hóa nhập khẩu thừa so với hợp đồng mua bán hàng hóa đã ký
với phía nước ngoài:

- Hàng nhập khẩu thừa giống hệt hoặc tương tự với hàng hóa nhập
khẩu ghi trên hợp đồng thì trị giá tính thuế của hàng nhập khẩu thừa được xác
định theo phương pháp xác định trị giá tính thuế của số hàng hóa nhập khẩu
ghi trên hợp đồng.

- Hàng nhập khẩu thừa lkhác với hàng hóa nhập khẩu ghi trên hợp
đồng, nếu được phép nhập khẩu thì trị giá tính thuế được xác định trên
nguyên tắc áp dụng tuần tự các phương pháp xác định trị giá tính thuế theo
qui định của ACV nhưng không xác định theo phương pháp trị giá giao dịch.

9. Hàng hóa nhập khẩu chưa phù hợp so với hợp đồng mua bán hàng
hóa đã ký với phía nước ngoài:

57
- Hàng hóa nhập khẩu chưa phù hợp về qui cách, nếu được phép nhập
khẩu, thì trị giá tính thuế là trị giá thực thanh toán cho hàng hóa nhập khẩu.

- Hàng hóa nhập khẩu không đúng với hợp đồng mua bán, nếu được
phép nhập khẩu, thì trị giá tính thuế được xác định trên nguyên tắc áp dụng
tuần tự các phương pháp xác định trị giá tính thuế quy định của ACV nhưng
không xác định theo phương pháp trị giá giao dịch.

10. Hàng hóa nhập khẩu bị hư hỏng, tổn thất hoặc mất mát có lý do
xác đáng trong quá trình vận chuyển, bốc xếp:

- Đối với số hàng hóa không bị hư hỏng, tổn thất hoặc mất mát, thì trị
giá tính thuế là trị giá thực trả cho hàng hóa nhập khẩu (phần không bị hư
hỏng, tổn thất, mất mát).

- Đối với phần hàng hóa bị hư hỏng, tổn thất thì trị giá tính thuế được
tính theo trị giá tính thuế của số hàng nhập khẩu còn nguyên vẹn và được
giảm phù hợp với mức độ tổn thất, hư hỏng hoặc mất mát, phù hợp với kết
quả giám định và hồ sơ có liên quan.

11. Hàng hóa nhập khẩu để bù đắp cho các tổn thất nêu tại điểm 10 thì trị
giá tính thuế được xác định theo các phương pháp xác định qui định của ACV.

12. Hàng nhập khẩu thực tế có sự chênh lệch về số lượng so với hóa
đơn thương mại do tính chất của hàng hóa, phù hợp với điều kiện giao hàng
và điều kiện thanh toán trong hợp đồng mua bán thì số tiền thuế nhập khẩu
được xác định như sau:

- Về xác định số lượng hàng thực xuất, thực nhập: Khi đã thực hiện
giám định thì căn cứ kết quả giám định để xác định lượng hàng thực xuất,
thực nhập.

- Khi xác định trị giá tính thuế phải căn cứ vào hóa đơn thương mại và
hợp đồng mua bán (điều kiện giao hàng, tỷ lệ dung sai, đặc tính tự nhiên của
hàng hóa và điều kiện thanh toán). Trị giá tính thuế không được thấp hơn trị
giá thực thanh toán ghi trên hóa đơn thương mại và các chứng từ có liên quan.

58
2.2.4. Thực trạng về khai báo và kiểm tra trị giá tính thuế hàng
nhập khẩu ở Việt Nam

Kiểm tra, xác định trị giá tính thuế hàng nhập khẩu là một trong những
biện pháp ngành Hải quan Việt Nam đã và đang triển khai mạnh mẽ, nhằm
chống thất thu, tăng thu cho ngân sách nhà nước.

2.2.4.1. Cơ chế khai báo trị giá, tờ khai trị giá

Áp dụng ACV, cơ chế khai báo trị giá là việc người nhập khẩu phải
hoàn thành tờ khai trị giá và nộp cho cơ quan hải quan cùng với thời điểm nộp
tờ khai hải quan.

Tờ khai trị giá là một mẫu khai báo do cơ quan hải quan ban hành áp
dụng thống nhất cho cho quốc gia nước nhập khẩu, trong đó chứa đựng các
thông tin cần thiết để xác định trị giá hải quan theo các phương pháp của Hiệp
định trị giá GATT/WTO và đi kèm với tờ khai hải quan dưới dạng phụ lục
hoặc tờ khai riêng biệt, chi tiết như:

- Về tư cách pháp nhân: Họ tên, địa chỉ người bán, người mua, người
nhập khẩu ủy thác hoặc khai thuê.

- Về điều kiện mua bán hàng hóa bao gồm: Điều kiện giao hàng
(FOB, CIF,C&F, CIP...); Số, ngày tháng lập hóa đơn thương mại; Số, ngày
tháng ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa;

- Phương pháp xác định trị giá: Người nhập khẩu phải khai báo
phương pháp xác định trị giá của mình từ phương pháp 1 đến phương pháp 6.

- Các điều kiện để áp dụng trị giá giao dịch: Đó là các điều kiện áp
dụng trị giá giao dịch theo Điều 1.1 của Hiệp định.

- Khai báo về trị giá, gồm: (i) giá hóa đơn, các khoản thanh toán gián
tiếp, tỷ giá; (iii) các chi phí phải cộng; (iii) các chi phí được trừ.

- Trị giá hải quan được xác định: Phần nhà nhập khẩu khai báo, cam
kết, ký tên,....

59
Mẫu tờ khai trị giá của Việt Nam ban hành theo Quyết định số
30/2008/QĐ-BTC ngày 21/5/2008 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc ban
hành mẫu tờ khai trị giá hải quan và hướng dẫn khai báo.

(Phụ lục 9: Mẫu tờ khai trị giá hải quan).

2.2.4.2. Cơ chế kiểm tra trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu ở
Việt Nam

- Qui trình kiểm tra trị giá: Thực hiện theo Quyết định 1636/QĐ-
TCHQ ngày 4/8/2008 của Tổng cục Hải quan ban hành qui trình kiểm tra, xác
định trị giá tính thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu [49, tr.1].

Theo qui trình này thì kiểm tra trị giá tính thuế được thực hiện ở 2 khâu:

- Khâu thông quan: Tức là kiểm tra trong quá trình làm thủ tục hải
quan đối với hàng hóa nhập khẩu ngay sau khi người khai hải quan nộp tờ
khai cho cơ quan hải quan.

- Khâu sau thông quan: Tức là kiểm tra trị giá khi đã kết thúc thủ tục
hải quan, hàng hóa nhập khẩu đã được giải phóng.

Về nguyên tắc, toàn bộ hàng hóa nhập khẩu thuộc đối tượng phải
đánh thuế thì đều phải kiểm tra về trị giá, vì vậy việc kiểm tra ngay tại khâu
thông quan là hết sức quan trọng vì một mặt vừa phải đảm bảo độ chính xác,
vừa phải đảm bảo thời gian hoàn thành công việc. Kiểm tra trị giá tại khâu
sau thông quan chỉ thực hiện trong trường hợp giá khai báo là thấp so với dữ
liệu giá do cơ quan hải quan thu thập được nhưng qua kiểm tra, tham vấn cơ
quan hải quan không đủ căn cứ để bác bỏ trị giá khai báo của lô hàng nhập
khẩu đó thì phải chuyển kiểm tra sau thông quan để kiểm tra tiếp; hoặc cơ
quan kiểm tra sau thông quan, cơ quan điều tra chống buôn lậu phát hiện có
dấu hiệu gian lận thương mại qua trị giá mà cần phải kiểm tra kịp thời để
ngăn chặn.

60
(Phụ lục 10: Sơ đồ qui trình kiểm tra, xác định trị giá tính thuế hàng
hóa nhập khẩu).

2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG

2.3.1. Kết quả thực hiện cơ chế xác định trị giá tính thuế hàng hóa
nhập khẩu ở Việt Nam

Qua thời gian hơn 6 năm triển khai và trên 4 năm áp dụng thực tiễn
ACV trong việc xác định trị giá tính thuế đối với hàng hóa nhập khẩu tại Việt
Nam, đã thu được một số kết quả sau:

Thứ nhất, từng bước ngày càng hoàn thiện cơ sở pháp lý cơ chế xác
định trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu tại Việt Nam theo Hiệp định trị giá
GATT/WTO gồm các Luật, Pháp lệnh và các văn bản pháp lý khác.

(Phụ lục 8: Danh mục các văn bản Luật và các văn bản khác về xác
định trị giá tính thuế hàng nhập khẩu tại Việt Nam).

Thứ hai, cơ chế xác định trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu hiện
hành đã góp phần đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế, thể hiện được quyết
tâm của Chính phủ Việt Nam trong việc thực hiện các điều ước quốc tế mà
Việt Nam đã tham gia ký kết tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình đàm phán
gia nhập WTO.

Thứ ba, rút ngắn thời gian thông quan hàng hóa, tạo thuận lợi cho hoạt
động xuất nhập khẩu nhờ cơ chế cho phép người nhập khẩu tự khai báo, tự
xác định trị giá tính thuế dựa trên các nguyên tắc và phương pháp của
GATT/WTO. Qua đó, góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm của doanh
nghiệp trong việc kê khai trị giá giao dịch đối với hàng hóa nhập khẩu, tăng
cường hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về Hải quan, nâng cao tính tự chủ
của doanh nghiệp trong việc chủ động hạch toán về thuế, phí và các hoạt động
sản xuất kinh doanh của mình.

61
Qui trình nghiệp vụ được hoàn thiện từng bước dần phù hợp và đầy
đủ hơn với các nguyên tắc của Hiệp định GATT/WTO. Theo số liệu thống kê
của ngành Hải quan thì đối tượng được áp dụng hệ thống xác định giá tính
thuế dựa trên các nguyên tắc và phương pháp của GATT/WTO chiếm 90%
tổng kim ngạch nhập khẩu vào Việt Nam [47, tr.3]. Trong đó khoảng 99% các
lô hàng nhập khẩu được xác định trị giá tính thuế theo phương pháp trị giá
giao dịch [47, tr.4], do vậy đã rút ngắn được thời thông quan hàng hóa, tạo
thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu đồng thời nâng cao trách nhiệm khai
báo của doanh nghiệp.

Đối với công tác kiểm tra, tham vấn xác định trị giá: Đã và đang hoàn
thiện các qui trình xác định trị giá theo quyết định 1361/QĐ-TCHQ đến quyết
định 640/QĐ-TCHQ bằng qui trình kiểm tra, xác định trị giá kèm theo quyết
định 1636/QĐ-TCHQ phù hợp với qui trình thủ tục hải quan và nâng cao tính
pháp lý về công tác kiểm tra trị giá của cơ quan hải quan.

Bảng 2.2: Số hồ sơ tham vấn và điều chỉnh trị giá hải quan

Tổng số hồ sơ Số thuế truy thu


Tổng số hồ sơ
Năm điều chỉnh sau TØ lÖ sau tham vấn
tham vấn
tham vấn (Tỷ VND)
2005 3.034 546 18% 75
2006 5.769 734 13% 127
2007 4.593 1.042 23% 351
10 tháng 2008 3.840 1.252 33% 850
Tổng cộng 17.236 3.574 21% 1.403

Nguồn: Cục Hải quan Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng.

Đảm bảo thông tin về doanh nghiệp ngày càng đầy đủ, xác thực hơn.
Hiện tại, ngành Hải quan đã xây dựng được hệ thống thông tin về doanh
nghiệp như: Danh bạ doanh nghiệp, thông tin doanh nghiệp về vi phạm pháp

62
luật hải quan, doanh nghiệp bị cưỡng chế làm thủ tục; thông tin về các doanh
nghiệp đối tác nước ngoài.

Thứ tư, bước đầu xây dựng và hiện đại hóa cơ sở vật chất cho quản lý
hải quan đáp ứng yêu cầu của thương mại quốc tế và xu thế hội nhập.

Phương pháp xác định trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu theo ACV
là một phương pháp quản lý hiện đại dựa trên nền tảng cao về kỹ thuật, công
nghệ đồng thời tuân thủ các thông lệ thương mại quốc tế. Để thực hiện tốt
phương pháp trị giá hải quan đòi hỏi cơ quan hải quan phải xây dựng một hệ
thống cơ sở dữ liệu và thông tin phong phú được cập nhật thường xuyên, kịp
thời về tình hình thương mại đang diễn ra trên toàn cầu.

Nhận thức được tầm quan trọng về cơ sở hạ tầng và kỹ thuật - công


nghệ, Tổng cục Hải quan đã chỉ đạo đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ
thuật - công nghệ nhằm đáp ứng tốt yêu cầu của công việc, bao gồm:

Văn phòng, trụ sở làm việc, các phương tiện hỗ trợ và điều kiện làm
việc của cán bộ, công chức hải quan, với số lượng máy tính, hệ thống thông
tin liên lạc, phương tiện đi lại và làm việc đảm bảo phục vụ công tác
nghiệp vụ, các chương trình phần mềm đa chức năng và mạng diện rộng
WAN đang được phát huy hiệu quả, đảm bảo kết xuất dữ liệu nhanh, kịp
thời, chính xác.

Hiện tại Hải quan Việt Nam đã trang bị được khoảng 250 máy chủ,
4.800 máy tính cá nhân hoạt động trên hai hệ thống mạng LAN và mạng
WAN. Nếu tính theo đầu người thì tỷ lệ máy vi tính được trang bị hiện nay
khoảng 1,6 người/máy. Hệ thống mạng máy tính cục bộ (LAN- Local Area
Network) được xây dựng ở hầu hết các văn phòng Cục Hải quan tỉnh, thành
phố, Chi cục hải quan và các dây chuyền làm thủ tục hải quan. đến thời điểm
hiện nay, 33 Cục Hải quan tỉnh và các đơn vị thuộc cơ quan Tổng cục và hầu
hết các Chi cục (nơi có Internet) đều đã được trang bị mạng LAN.

63
Bộ
Bộ Tài
chính Tổng
Tổng cục
Tài
Router
Router
cục
Chính Hải
Hải quan
quan
Router
Router
MPLS
MPLS

Thuế
Thuế
HTTT ngành
Router
Router tài chính cấp
TTM TTM
MPLS
Kho
Kho
Bạc
Bạc MPLS Hạtầng
Hạ tầnghải
hảiquan
quan
Router
Router

MPLS
Cục
Cục hải
hải quan
quan
HTTT ngành Router
Router tỉnh,
tỉnh, thành phố
thành phố
tài chính cấp
TTTTTT

Hạ tầng
Hạ tầng hải
hải quan
quan Hạ tầng hải quan

Chi cục
Router hải quan Chi cục
Router HQ điện tử
VAN

Internet
Các doanh nghiệp

Sơ đồ 2.1: Mạng WAN ngành hải quan

64
Ngành Hải quan cũng đã xây dựng và triển khai được một số "Hệ
thống phần mềm ứng dụng" phục vụ công tác quản lý, điều hành các mặt
nghiệp vụ hải quan nói chung, trị giá hải quan nói riêng như: cho công tác trị
giá, hiện nay ngành hải quan triển khai các hệ thống sau:

Chương trình khai hải quan điện tử cho phép các doanh nghiệp có thể
thực hiện thủ tục khai báo điện tử nhằm đơn giản hóa thủ tục hải quan, loại bỏ
hồ sơ giấy và nâng cao tính tuân thủ pháp luật của các doanh nghiệp. Hiện
nay, việc khai báo điện tử đang được áp dụng thí điểm tại 2 Cục Hải quan là
Hải phòng và T.P Hồ Chí Minh.

Chương trình tin học quản lý hành chính (Selap net office) cho phép
thực hiện chỉ đạo, điều hành qua mạng máy tính, đảm bảo tính kịp thời và
hiệu quả của công việc.

Chương trình quản lý tờ khai hải quan có nhiệm vụ thu nhập dữ liệu
thông tin trên tờ khai hải quan về hàng hóa xuất nhập khẩu trên phạm vi toàn
quốc. Trên cơ sở dữ liệu hàng hóa xuất nhập khẩu, có thể phân tích, dự báo,
xây dựng kho dữ liệu điện tử hỗ trợ công tác trị giá hải quan.

Chương trình dữ liệu trị giá tính thuế (GTT22): Là phần mềm chủ đạo
để áp dụng phương pháp xác định trị giá hải quan từ khâu kiểm tra trị giá khai
báo đến xác định trị giá tính thuế hàng hóa xuất nhập khẩu..

Chương trình thông tin vi phạm pháp luật hải quan: Thu thập, xử lý
thông tin về tình hình vi phạm pháp luật hải quan của các tổ chức, cá nhân.

Chương trình danh bạ doanh nghiệp đang trong quá trình xây dựng.
Với thông tin liên tục được cập nhật thì cơ quan hải quan sẽ có được bản lý
lịch trích ngang của mỗi doanh nghiệp. Thông tin này rất có ích cho việc
Kiểm tra sau thông quan trong lĩnh vực trị giá.

Ngoài ra, còn các chương trình: Quản lý Cưỡng chế thuế (CTT22), Kế
toán thuế 559, thông tin quản lý rủi ro,...

65
Các chương trình này được thiết kế liên kết, tích hợp với nhau trên
nền tảng của qui trình thủ tục hải quan, kiểm tra, xác định trị giá tính thuế.

Thứ năm, hạn chế căn bản việc áp đặt giá tính thuế, tạo sự công bằng
trong kinh doanh thương mại, tôn trọng trị giá đàm phán giao dịch giữa người
mua và người bán, khuyến khích thương mại quốc tế phát triển.

Thứ sáu, kiện toàn tổ chức xác định trị giá hải quan và từng bước nâng
cao trình đội đội ngũ cán bộ Hải quan, tạo tiền đề cho công tác cải cách hành
chính và hiện đại hóa quản lý Hải quan nước ta.

- Về nguồn lực con người: Đội ngũ cán bộ ngành Hải quan hiện tại có
khoảng 8.000 người trong đó 1% có trình độ sau đại học, 60% tốt nghiệp đại
học, 24% cao đẳng và trung cấp, 15% sơ cấp. Hệ thống tổ chức bao gồm:

+ Các Vụ, Cục nghiệp vụ thuộc Tổng cục Hải quan có nhiệm vụ tham
mưu giúp Tổng cục trưởng quản lý chỉ đạo hoạt động trong toàn ngành về các
mảng chuyên môn, nghiệp vụ đối với các Cục Hải quan địa phương.

+ Cục Hải quan các địa phương được tổ chức theo mô hình gồm các
phòng, ban tham mưu, các Chi cục Hải quan cửa khẩu và tương đương Đội
Kiểm soát hải quan.

+ Các Chi cục Hải quan là đơn vị thực hiện thủ tục hải quan gồm các
đội thủ tục, đội văn phòng.

Nguồn lực cán bộ làm công tác thuế - trị giá chiếm khoảng 10% quân
số và được lựa chọn ở mức tiêu chuẩn cao của ngành (tốt nghiệp đại học các
ngành kinh tế, tài chính). Số cán bộ này được bố trí làm việc trực tiếp tại các
Chi cục Hải quan và phòng trị giá Cục Hải quan các tỉnh, thành phố. Trong
thực tế thì số cán bộ có khả năng đảm đương được việc chỉ chiếm khoảng 70%.

Công tác giá trước đây chỉ yêu cầu rà soát bảng giá một cách thủ công,
nhưng ngày nay đòi hỏi cán bộ trị giá phải áp dụng kỹ năng tin học để tìm
kiếm, thu thập thông tin, sau đó so sánh, phân tích để đưa ra quyết định.
Nguyên tắc của công tác trị giá hải quan theo ACV đòi hỏi cán bộ hải quan

66
phải tự tìm tòi nguồn tư liệu để chứng minh giá một cách khách quan. Với đòi
hỏi như vậy, có thể nói một phần không nhỏ cán bộ hải quan chưa đáp ứng
được yêu cầu công việc. Để hỗ trợ công tác trị giá hải quan, hàng năm Tổng
cục Hải quan phối hợp với Tổ chức Hải quan thế giới WCO mở các lớp đào
tạo ngắn hạn về chuyên đề trị giá hải quan cho Hải quan Việt Nam.

BỘ TÀI CHÍNH

TỔNG CỤC HẢI QUAN

CÁC VỤ, CỤC Đơn vị sự nghiệp Cục Hải quan


Địa phƣơng

Vụ Giám sát Cục điều tra Viện nghiên cứu


quản lý chống buôn lậu Hải quan Chi cục Hải quan
cửa khẩu và
Vụ kiểm tra ngoài cửa khẩu
thu thuế XNK
Cục Kiểm tra 03 Trung tâm
sau thông quan PTPL hàng hoá
Vụ hợp tác
XNK
quốc tế
Bắc - Trung -
Nam Chi cục kiểm tra
Vụ kế hoạch sau thông quan
tài chính Cục CNTT
và thống kê Trung tâm đào
Hải quan tạo cán bộ Hải
Vụ Pháp chế
quan
Đội kiểm soát
Vụ tổ chức cán Hải quan và đơn
bộ Báo Hải quan vị tương đương
Thanh tra

Văn Phòng

Sơ đồ 2.2: Mô hình tổ chức Hải quan Việt Nam

67
- Về mô hình tổ chức hệ thống quản lý trị giá

Mô hình tổ chức hệ thống quản lý trị giá tính thuế của ngành Hải quan
hiện nay được tổ chức thành 3 cấp:

- Cấp Hải quan trung ương: Tại cơ quan Tổng cục Hải quan không có
phòng, ban riêng về trị giá mà chỉ có một tổ chuyên trách khoảng 17 cán bộ
nằm trong Vụ kiểm tra thu thuế xuất nhập khẩu. Chức năng chủ yếu là hướng
dẫn nghiệp vụ, cung cấp thông tin vĩ mô cho hải quan địa phương. Bộ phận
giá được bố trí, phân công theo hướng chuyên sâu theo chương, nhóm mặt
hàng để dần dần hình thành đội ngũ cán bộ giá có trình độ chuyên môn cao.
Cán bộ, công chức làm công tác giá tại Tổng cục Hải quan mang tính ổn định
cao và đều có thời gian công tác trong lĩnh vực trị giá từ 5 năm trở lên. Công
tác đào tạo bồi dưỡng cũng được chú trọng, hiện đang đào tạo các giáo viên
chuyên trách trong lĩnh vực trị giá.

- Cấp Cục Hải quan tỉnh, thành phố: Có 08 Cục Hải quan địa phương
lớn được thành lập phòng trị giá tính thuế là: Cục Hải quan Hà Nội, Lạng
Sơn, Quảng Ninh, Hải Phòng, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Vũng
Tàu. Các Cục Hải quan địa phương khác không có phòng trị giá mà chỉ bố trí
bộ phận trị giá riêng (khoảng 2-3 người) trực thuộc phòng Nghiệp vụ, ngoài
công tác trị giá còn kiêm nhiệm một số công tác khác.

Nhiệm vụ chủ yếu của phòng trị giá hoặc bộ phận trị giá thuộc phòng
Nghiệp vụ theo qui định tại Thông tư 40/2008/TT-BTC ngày 21/5/2008 là
tham mưu cho Cục trưởng về các công tác:

+ Hướng dẫn, tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác, kiểm tra
xác định trị giá tại các Chi cục. Tổ chức tuyên truyền về xác định trị giá tính
thuế theo nội dung của Hiệp định trị giá GATT/WTO

+ Tổ chức kiểm tra, tham vấn, xác định trị giá tính thuế đối với các lô
hàng có nghi vấn về giá khai báo thấp, mà chủ yếu là hàng hóa nhập khẩu
thuộc "danh mục dữ liệu giá hàng hóa QLRR" do Tổng cục ban hành, đó là

68
những hàng hóa có thuế suất cao, trị giá lớn như ô tô, xe máy, hàng điện tử,
điện lạnh... (các hàng hóa khác thường phân cấp cho các Chi cục tự kiểm tra,
tham vấn và xác định trị giá);

+ Rà soát, kiểm tra, thẩm định lại giá do các Chi cục thực hiện. Rà
soát các hàng hóa thường xuyên làm thủ tục nhập khẩu tại các Chi cục trực
thuộc để ban hành "danh mục dữ liệu giá các mặt hàng trọng điểm" thực hiện
chung trong toàn Cục.

- Cấp Chi cục Hải quan: Tại các Chi cục Hải quan có các tổ giá nằm
trong Đội nghiệp vụ (đối với các Chi cục thành lập đội) hoặc cán bộ làm công
tác giá (kiêm nhiệm một số công tác khác). Các tổ giá (hoặc cán bộ giá) là lực
lượng trực tiếp thực hiện kiểm tra, xác định trị giá tính thuế cho các lô hàng
nhập khẩu.

2.3.2. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân chủ yếu

2.3.2.1. Những khó khăn, hạn chế của cơ chế xác định trị giá tính
thuế hiện hành

 Hạn chế về cơ sở pháp lý

- Trước hết, việc ban hành văn bản hướng dẫn của ngành hải quan
còn chậm, không kịp thời và thiếu đồng bộ: Nghị định 60/2002/NĐ-CP ngày
6/6/2002 qui định áp dụng ACV từ năm 2002 nhưng đến năm 2004 khi Thông
tư 118/2003/TT-BTC ngày 8/12/2003 ra đời mới qui định áp dụng phương
pháp trị giá hải quan theo ACV từ ngày 01/01/2004. Tuy nhiên, đến giữa năm
2004 các văn bản qui định các quốc gia được áp dụng ACV mới ban hành
(nhưng lại cho áp dụng đối với các tờ khai từ 9/1/2004 trở về sau) và đến cuối
năm hướng dẫn về quy trình xác định giá, quy trình tham vấn giá mới được
ban hành. Tương tự như vậy Nghị định 40/2007/NĐ-CP ngày 16/3/2007 hiệu
lực từ 15/04/2007 nhưng đến 21/5/2008 mới có Thông tư 40/2008/TT-BTC
hướng dẫn và 04/08/2008 mới có QĐ 1636/QĐ-TCHQ của Tổng cục Hải
quan hướng dẫn về qui trình kiểm tra, xác định trị giá. Ngay văn bản hướng

69
dẫn nghiệp vụ kiểm tra, xác định trị giá và văn bản qui định về tổ chức hệ
thống xác định trị giá cũng thiếu đồng bộ, chẳng hạn như việc xây dựng, ban
hành qui trình xác định trị giá tính thuế nhưng gần nửa năm sau mới ban hành
văn bản qui định về con người thực hiện: ai làm, trình độ thế nào, đã được đào
tạo các khóa tập huấn về công tác xác định trị giá hay chưa?... Hoặc có qui
định nhưng không rõ ràng và thực hiện thiếu dứt khoát, chẳng hạn qui định
của Ngành hải quan đối với công chức thừa hành là 3 năm phải đảo đổi,
thuyên chuyển công tác một lần nên nhiều khi khó bố trí cán bộ có chuyên
môn sâu về kiểm tra, xác định trị giá.

Sự thiếu đồng bộ còn thể hiện giữa văn bản ban hành của cơ quan hải
quan, của Bộ Tài chính và các văn bản do các ngành khác hướng dẫn liên
quan đến công tác xác định trị giá. chẳng hạn:

+ Qui định Thông tư 118/2003/TT-BTC hiệu lực từ 1/1/2004 nhưng


mãi 15/1/2004 Bộ Thương mại mới công bố một số nước ký kết thực hiện
ACV với Việt Nam để áp dụng và việc công bố các nước áp dụng ACV với
Việt Nam này kéo dài đến 01/01/2006 mới chấm dứt dẫn đến việc thiếu bình
đẳng trong xác định trị giá đối với hàng hóa nhập khẩu cùng loại nhưng có
xuất xứ khác nhau.

+ Ngành Hải quan thực hiện khai báo điện tử thí điểm ở TP Hồ Chí
Minh và Hải phòng khi chưa có qui định của Chính phủ và các ngành liên
quan về cơ chế thương mại điện tử dẫn đến việc doanh nghiệp vẫn khai từ xa
qua mạng và vẫn phải mang hồ sơ đến nộp cho cơ quan hải quan.

- Thứ hai, nhiều thời điểm thiếu căn cứ pháp lý dẫn đến tồn tại song
song nhiều phương pháp xác định trị giá: Từ ngày 1/1/2004 đến 31/12/2005
tồn tại 2 phương pháp tính thuế: Phương pháp xác định giá tính thuế theo
ACV đối với hàng hóa nhập khẩu từ những nước đã ký kết với Việt Nam về
thực hiện xác định trị giá hải quan theo ACV; Xác định trị giá tính thuế theo
phương pháp quốc gia đối với hàng hóa nhập khẩu từ những nước chưa ký kết

70
với Việt Nam về thực hiện xác định trị giá hải quan theo ACV và một số hàng
hóa khác nhập khẩu không có hợp đồng, hàng đã qua sử dụng, hàng chuyển
đổi mục đích sử dụng,… Tuy từ 1/1/2006 đến nay tuy vẫn tồn tại song song 2
phương pháp xác định trị giá như đã nêu ở trên nhưng phương pháp áp dụng
ACV đã được mở rộng cho hàng hóa nhập khẩu của tất cả các nước trên thế
giới, không phân biệt xuất xứ, và chiếm đa số hàng hóa nhập khẩu vào Việt
Nam. Phương pháp xác định giá quốc gia chỉ còn sử dụng để xác định giá tính
thuế đối với một số hàng hóa nhỏ hẹp mang tính áp đặt của Nhà nước như mặt
hàng ô tô đã qua sử dụng (áp dụng thuế tuyệt đối), hàng hóa đã được miễn
thuế, sau đó chuyển mục đích sử dụng thì không áp dụng giá tính thuế theo
thực tế mua bán mà căn cứ trên cơ sở thời gian đã sử dụng hàng hóa đó tại
Việt Nam,…

- Thứ ba, nội dung các văn bản hướng dẫn của cơ quan hải quan có
lúc còn chưa phù hợp với quy định của Luật, Thông tư, Hiệp định và chậm
được thay đổi: Công văn 5782/TCHQ-KTTT ngày 29/11/2004 quy định khi
lựa chọn được nhiều trị giá giao dịch của hàng hóa giống hệt, tương tự trong
danh mục dữ liệu giá, trong hệ thống GTT22 thì lựa chọn giá cao nhất để so
sánh (trong khi ACV tại tiết 2.3 và 3.3 qui định lựa chọn mức giá thấp nhất để
so sánh). Việc áp dụng "khoản đảm bảo" trong việc trì hoãn xác định giá" là
việc hết sức quan trọng nhằm đảm bảo thu đủ thuế cho NSNN, Hiệp định qui
định rõ ràng, thực tế thực hiện không mấy khó khăn nhưng chỉ đến Nghị định
40 và Thông tư 40 (từ tháng 5 năm 2008) mới qui định và bắt đầu thực hiện,
do đó trên thực tế rất nhiều trường hợp truy thu thuế do xác định lại trị giá gặp
nhiều khó khăn mà phần lớn là không thu được khoản chênh lệch thuế do xác
định lại trị giá tính thuế cao hơn giá khai báo, gây ra khiếu nại, khiếu kiện kéo
dài mà thuế thì vần không thu được.

- Thứ tư, ban hành một số văn bản pháp lý còn thiếu tính thực tế do đó
cán bộ hải quan và doanh nghiệp gặp nhiều vướng mắc trong thực hiện: Quy
định thẩm quyền tham vấn giá chủ yếu tập trung tại Cục Hải quan tỉnh, thành

71
phố (do phòng Trị giá hoặc bộ phận giá thuộc phòng Nghiệp vụ thực hiện)
dẫn đến tình trạng làm việc quá tải dẫn đến hậu quả là: (i) cán bộ trị giá hải
quan làm việc qua loa, không chính xác, nhiều khi ra quyết định trị giá mang
tính áp đặt; (ii) do công việc quá nhiều nên các thông báo tham vấn gửi đi
doanh nghiệp chậm hàng vài tháng kể từ ngày thông quan hàng hóa.

- Thứ năm, các chế tài qui định về xử phạt VPHC do khai báo không
trung thực về giá tính thuế còn thiếu hoặc có qui định nhưng chung chung,
không có hướng dẫn cụ thể nên không thực hiện được

Điều 18 Chương IV Nghị định 40 qui định xử lý vi phạm đối với đối
tượng nộp thuế như sau:

1. Đối tượng nộp thuế có trách nhiệm nộp thuế truy thu theo quyết
định của cơ quan hải quan, khi cơ quan hải quan hoặc cơ quan có thẩm quyền
khác kiểm tra phát hiện có hành vi gian lận, trốn thuế, trong thời hạn năm
năm trở về trước, tính từ ngày kiểm tra, phát hiện việc gian lận, trốn thuế.

2. Tổ chức, cá nhân vi phạm quy định của Nghị định này thi tùy theo
tính chất và mức độ vi phạm sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy
cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật [8, tr.15].

Nghị định 97/2007/NĐ-CP ngày 07/06/2007 qui định về xử lý VPHC


và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính trong lĩnh vực hải quan, khoản 4
Điều 9 qui định: "Xử phạt đối với hành vi khai sai dẫn đến thiếu số thuế phải nộp
hoặc tăng số tiền thuế được miến, giảm, được hoàn, ngoài việc phải nộp đủ số
tiền thuế theo qui định, người nộp thuế còn phải bị phạt10% số tiền thuế khai
thiếu hoặc số tiền thuế được miễn, giảm, được hoàn khai tăng" [48, tr. 165].

Tuy nhiên, tại điểm 2 mục II phần V Thông tư 40 hướng dẫn thực hiện
Nghị định 40 chỉ qui định: "Đối tượng nộp thuế có trách nhiệm nộp thuế truy
thu khi cơ quan hải quan hoặc cơ quan có thẩm quyền khác kiểm tra phát hiện
có hành vi gian lận, trốn thuế’ [6, tr.35]. Tức là chỉ qui định về việc truy thu
thuế chứ không qui định việc xử phạt VPHC đối với trường hợp doanh nghiệp

72
khai báo không trung thực. Rõ ràng là chưa phù hợp với qui định tại NĐ 40
và Nghị định 97.

- Thứ sáu, một số vấn đề thiếu cơ sở pháp lý cho một số hoạt động hỗ
trợ việc kiểm tra và xác định trị giá như: Chi phí thẩm định, giám định giá
trong trường hợp doanh nghiệp xuất trình hóa đơn không phù hợp với giá bán
thực tế trên thị trường nội địa, chi phí trưng cầu chuyên gia thẩm định giá, vấn đề
sử dụng các thông tin giá do các cơ quan thương vụ, đại sứ quán, tình báo hải
quan,... tại các nước cung cấp, chi phí giám định chứng từ nghi ngờ giá mạo,...

- Thứ bảy, cơ chế về quản lý tài chính, quản lý tiền tệ còn lỏng lẻo,
thiếu đồng bộ: Việc kiểm tra các nguồn thanh toán của doanh nghiệp qua các
kênh thanh toán còn rất khó khăn, đặc biệt hiện tượng sử dụng tiền mặt để
thanh toán trong thương mại (cả nội địa lẫn quốc tế) còn diễn ra phổ biến rất
khó khăn cho việc kiểm soát các khoản thanh toán của doanh nghiệp.

 Những hạn chế trong hệ thống tổ chức và sử dụng nguồn lực con người

Chưa xây dựng được một đội ngũ cán bộ xác định trị giá đồng đều từ
Tổng cục Hải quan xuống các Chi cục, mô hình tổ chức còn nhiều bất cập,
chưa thống nhất trong toàn ngành Hải quan [47, tr.8].

Trình độ cán bộ giá còn yếu, còn thiếu về số lượng, nguồn tuyển dụng
chưa hợp lý, chưa có kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ giá lâu dài
hoặc có đào tạo nhưng lại sử dụng chưa hợp lý.

Thiếu cán bộ giá chuyên sâu, có khả năng đào tạo, tập huấn và hướng
dẫn nghiệp vụ xác định trị giá tính thuế ở tầm chuyên gia trong lĩnh vực này.

Công tác bố trí, điều động, luân chuyển cán bộ giá trong toàn Ngành
Hải quan còn chưa phù hợp, chưa mang tính chuyên sâu. Việc phối hợp trong
công tác quản lý giá giữa 03 cấp: Tổng cục Hải quan, Cục Hải quan địa
phương và các Chi cục Hải quan chưa được thực hiện hoặc được thực hiện
nhưng mang tính sự vụ, manh mún, chưa có tính hệ thống [47, tr.9].

73
 Những hạn chế về quy trình nghiệp vụ xác định giá tính thuế

Qui trình kiểm tra xác định trị giá tính thuế ban hành tại Quyết định
1636/QĐ-TCHQ đã được sửa đổi, bổ sung phù hợp hơn so với các qui trình
trước đây, tuy nhiên qui trình này vẫn còn một số hạn chế sau:

Thứ nhất, hầu như chỉ chú trọng việc kiểm tra, xác định trị giá tại khâu
thông quan và tập trung hướng dẫn các bước kiểm tra, xác định trị giá thực
hiện tại Chi cục Hải quan cửa khẩu. Việc kiểm tra từ xa tại Cục Hải quan tỉnh
được đề cập không nhiều, không cụ thể. Đặc biệt việc kiểm tra của bộ phận
giá của Vụ Kiểm tra thu thuế - Tổng cục hải quan hầu như không được đề cập
trong qui trình này.

Thứ hai, mối quan hệ phối hợp trong việc kiểm tra, xác định trị giá
giữa khâu thông quan và khâu sau thông quan (Chi cục kiểm tra sau thông
quan, đội kiểm soát chống buôn lậu, phòng tham mưu điều tra, thanh tra)
được qui định trong qui trình đã được đề cập nhưng chưa rõ nét, chưa qui
định rõ các trường hợp nào chuyển hồ sơ về bộ phận kiểm tra sau, chuyển
những hồ sơ nào, qui trình luân chuyển hồ sơ thế nào, nhất là khâu cung cấp
các thông tin nghi ngờ. Trường hợp nào bộ phận kiểm tra sau thông quan có
thể yêu cầu cung cấp hồ sơ để kiểm tra nếu có thông tin về dấu hiệu vi phạm
của doanh nghiệp về giá mà không cần phải chờ Chi cục hay phòng giá
chuyển theo phiếu chuyển nghiệp vụ.

Thứ ba, qui định về thẩm định hồ sơ, thẩm định về giá chưa được qui
định trong qui trình như: Trường hợp nào phải thẩm định, thẩm định ở đâu,
chi phí thẩm định do cơ quan hải quan hay doanh nghiệp chịu và chịu trong
trường hợp nào (chẳng hạn, nếu doanh nghiệp sai thì doanh nghiệp phải chịu
chi phí, doanh nghiệp đúng thì hải quan phải chịu)

Thứ tư, qui định về thời gian kiểm tra tham vấn trong khâu thông quan
là 30 ngày (ngày theo lịch) kể từ ngày mở tờ khai hải quan là chưa phù hợp vì
tại Hiệp định, Nghị định 40 và Thông tư 40 qui định có thể lấy dữ liệu hàng

74
hóa giống hệt, tương tự với hàng hóa nhập khẩu đang cần xác định trị giá
trong khoảng thời gian trước và sau 60 ngày kể từ ngày mở tờ khai hải quan
cho lô hàng nhập khẩu, trong trường hợp phức tạp có thể mở rộng đến 90
ngày. Như vậy, nếu dữ liệu có sau ngày thứ 30 (từ ngày thứ 31 về sau) mà cơ
quan hải quan đã xác định trị giá cho doanh nghiệp (hoặc chấp nhận trị giá)
thì phải xác định thế nào?

Thứ năm, cũng như Thông tư 40, qui trình chưa đề cập đến việc xử
phạt hành chính khi doanh nghiệp vi phạm khai báo giá thấp hơn thực tế mua
bán dẫn đến việc tham vấn nhiều, ùn tắc hồ sơ.

Thứ sáu, qui trình hiện hành phân chia hàng hóa nhập khẩu làm 3 loại
để tiến hành các bước kiểm tra, xác định trị giá khác nhau là bất cập: Hàng
hóa thuộc diện QLRR về giá (dữ liệu giá do Tổng cục Hải quan ban hành);
hàng hóa trọng điểm (do Cục hải quan địa phương rà soát và ban hành) và
hàng hóa khác. Trong đó qui định hàng hóa khác này không phải tham vấn, kể
cả trường hợp có nghi ngờ về mức giá khai báo. Mức giá dữ liệu của hàng hóa
QLRR và hàng hóa trọng điểm cũng được ban hành theo dạng giá "chuẩn" để
làm cơ sở xác định nghi vấn về giá. Điều này dễ dẫn đến tình trạng doanh
nghiệp cố tình khai sai tên hàng, model, sai xuất xứ… để được xếp vào loại
hàng khác nhằm tránh tham vấn của cơ quan hải quan.

Thứ bảy, qui định về phương pháp tham vấn chưa được đổi mới, chủ
yếu theo ba rem định sẵn, không phát huy được tính sáng tạo của cán bộ làm
công tác tham vấn, vì vậy hồ sơ tham vấn nhiều mà đạt hiệu quả công tác
tham vấn còn rất thấp. Việc tham vấn phần lớn mang tính chất chiếu lệ, năng
lực nghiên cứu hồ sơ, kỹ năng thu thập thông tin, phân tích, đánh giá của công
chức Hải quan làm công tác tham vấn giá còn nhiều hạn chế, thiếu tính chủ
động và sáng tạo trong quá trình tham vấn, chưa làm nổi bật được những mâu
thuẫn, những nghi ngờ của cơ quan Hải quan đối với trị giá khai báo của
doanh nghiệp. Do vậy, hiện nay đa phần chấp nhận trị giá khai báo sau tham

75
vấn (chiếm tỷ lệ từ 70 đến 80% trên tổng số lô hàng phải tham vấn giá), việc
bác bỏ trị giá khai báo sau tham vấn chiếm tỷ lệ rất thấp chỉ đạt từ 20 đến
30% trên tổng số lô hàng tham vấn [47, tr.7].

 Những hạn chế về hệ thống thông tin dữ liệu giá

Hệ thống thông tin dữ liệu giá bước đầu đã đem lại hiệu quả nhưng
chưa đáp ứng được yêu cầu công tác quản lý giá hiện nay. Cụ thể là:

- Đối với nguồn thông tin theo cơ sở dữ liệu giá GTT22: Còn có
những bất cập về mặt hạ tầng thông tin, bao gồm: Trang thiết bị phần cứng,
hệ thống phần mềm, kỹ năng khai thác,….

+ Thiết bị, máy móc của ngành hải quan hiện nay chưa đáp ứng kịp
đòi hỏi của công tác xác định trị giá. Tỷ lệ máy vi tính được trang bị phục vụ
công tác còn thấp, trang thiết bị hỗ trợ còn chủ yếu mang tính thủ công.

+ Các phần mềm kỹ thuật phục vụ công tác trị giá hiện nay chưa đồng
bộ, mang tính chắp vá gây nhiều khó khăn cho cán bộ hải quan trong việc cập
nhật và khai thác dữ liệu. Các phần mềm quản lý đăng ký tờ khai, quản lý trị
giá GTT22, thống kê số liệu hải quan, kê khai hải quan điện tử, cưỡng chế
thuế, kế toán thuế xuất nhập khẩu v.v.. hoạt động chưa hoàn toàn tương thích
và tích hợp được với nhau.

+ Thông tin dữ liệu giá trong hệ thống GTT22 thiếu độ tin cậy cao, đa
số mức giá khai báo của doanh nghiệp ở trạng thái "nghi ngờ" (dòng đỏ), dữ
liệu giá ở trạng thái "dòng đen" hay "đã kiểm tra" có khoảng thời gian đến
ngày tra cứu trong vòng 60 ngày là rất ít. Chưa tổ chức thu thập và cập nhật từ
các nguồn thông tin khác như: giá bán trên các tạp chí, sách báo, giá trên
internet, giá thị trường,... cũng như mức giá đã điều chỉnh sau tham vấn để hỗ
trợ ngăn chặn xu hướng doanh nghiệp hạ thấp dần mức giá khai báo.

Việc đánh giá, phân loại các lô hàng nghi ngờ sau khi chấp nhận trị
giá khai báo còn chưa chính xác, nhiều lô hàng nhập khẩu giống hệt tại cùng

76
một Chi cục Hải quan trong cùng một thời điểm nhưng lô hàng có trị giá khai
báo thấp hơn lại không xác định dấu hiệu nghi ngờ vào hệ thống. Nhiều đơn
vị cập nhật dữ liệu giá như: Cục Hải quan Quảng Nam, Cục Hải quan Nghệ
An, Cục Hải quan Bình Dương,....[47, tr.10].

- Nguồn thông tin dữ liệu giá hàng hóa QLRR do Tổng cục ban hành và
danh mực dữ liệu giá hàng trọng điểm do Cục Hải quan địa phương ban hành

Thứ nhất: Danh mục mặt hàng còn hạn chế, mức giá ban hành chưa
nhiều và chưa sát giá thực, phải chỉnh sửa nhiều lần.

Thứ hai: Qui chế áp dụng dữ liệu chưa phù hợp với qui định của Hiệp
định, như qui định thời điểm áp dụng dữ liệu cho tờ khai hải quan kể từ thời
điểm nào đó về sau, tức là nếu tờ khai chỉ mở sau một vài ngày kể từ ngày
hiệu lực của văn bản dữ liệu thì không được lấy dữ liệu của văn bản dữ liệu
để so sánh, kiểm tra trị giá cho tờ khai đó, trong khi Hiệp định cho phép lấy
dữ liệu trước thời điểm mở tờ khai 60 ngày, thậm chí đến 90 ngày.

Thứ ba: Danh mục và mức giá hàng trọng điểm chỉ được xây dựng và
áp dụng trong phạm vi Cục Hải quan địa phương dẫn đến tình trạng cùng mặt
hàng nhập khẩu nhưng mỗi Cục Hải quan xác định một mức giá khác nhau
gây thiếu công bằng cho doanh nghiệp. Đặc biệt đối với những đơn vị hải
quan làm thủ tục trong nội địa thường xác định mức giá thấp để thu hút các
doanh nghiệp về làm thủ tục nhằm mang lợi ích cho địa phương mình.

- Nguồn thông tin giá nội địa như giá chào bán trên internet, thông tin
nhanh thị trường hoặc khảo sát giá thực tế thị trường không chính xác

Nguồn thông tin này thường không chính xác vì nhiều khi doanh
nghiệp nhập khẩu lại chính là người đưa giá chào bán trên mạng với mức giá
chào bán tương ứng với giá khai báo cộng thêm các khoản thuế, phí và một
chút lợi nhuận để đánh lừa cơ quan hải quan nhất là những mặt hàng nhập
khẩu do một hoặc một vài doanh nghiệp, cá nhân độc quyền phân phối và chi
phối thị trường.

77
 Hạn chế trong quan hệ phối hợp của hệ thống kiểm tra, kiểm soát
trị giá tính thuế

- Sự phối hợp giữa các khâu nghiệp vụ trong nội bộ cơ quan hải quan
chưa đáp ứng được yêu cầu cả về cơ chế phối hợp và thực tiễn thực hiện: Như
sự phối giữa các Chi cục, phòng giá với bộ phận kiểm tra sau thông quan, bộ
phận kiểm soát, điều tra chống buôn lậu trong việc trao đổi thông tin nghi
vấn, cung cấp hồ sơ xác định trị giá; Sự phối hợp giữ các Cục Hải quan địa
phương với nhau trong việc tham khảo mức giá xác định, học tập kinh nghiệm
về kỹ năng, kỹ thuật tham vấn, xác định trị giá; về xác minh hồ sơ,… Sự chỉ
đạo của bộ phận giá Tổng cục đến Cục Hải quan địa phương có nhiều trường
hợp chưa sát và thiếu tính kịp thời.

- Công tác phối kết hợp với các ngành khác trong việc xác định trị giá
tính thuế cũng chưa áp ứng yêu cầu:

+ Sự phối hợp giữa các ngành Kho bạc - Hải quan - Thuế nội địa đã
được Bộ Tài Chính quy định lại Quyết định số 1081/QĐ-BTC ngày 6/4/2004.
Tuy nhiên, sự phối hợp cũng chỉ dừng ở phạm vi trao đổi thông tin thu đòi
nợ thuế, cưỡng chế làm thủ tục hải quan, trong khi nhu cầu cần nâng sự phối
hợp lên tầm cao như xác minh sự chấp hành chế độ kế toán tài chính, giá bán
hàng nội địa, sự tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp,… mới là phối hợp
trong thực hiện nghiệp vụ chuyên môn nhằm ngăn chặn các hành vi gian lận
của doanh nghiệp.

+ Sự phối hợp giữa cơ quan hải quan với Ngân hàng trong việc cung
cấp thông tin các khoản tiền thanh toán của doanh nghiệp tuy đã có qui chế
phối hợp theo Thông tư 01/2006/TTLT/BTC-NHNN ngày 04/01/2006 của
Liên bộ Tài chính - Ngân hàng Nhà nước, nhưng việc xác minh cũng rất khó
khăn vì cơ chế quản lý tiền tệ của Việt Nam còn quá lỏng lẻo, doanh nghiệp
có thể mở một lúc nhiều tài khoản ở các Ngân hàng khác nhau mà cơ quan hải
quan không thể kiểm soát được. Hơn nữa Ngân hàng được quyền bảo vệ bí

78
mật các khoản tiền gửi của doanh nghiệp qua Ngân hàng, khi đi xác minh,
nhiều ngân hàng yêu cầu cơ quan hải quan phải cung cấp Quyết định kiểm tra,
thanh tra đối với doanh nghiệp thì mới cung cấp thông tin, thời gian xác minh
kéo dài. Mặt khác việc chuyển tiền mặt ngoại tệ qua hệ thống "chợ đen" diễn
ra thường xuyên và chiếm tỉ trọng lớn, đây chính là những khoản tiền trả
trước hoặc trả sau ngoài hóa đơn mà cơ quan hải quan không kiểm soát được.

Khâu thanh toán nội địa cũng hầu như dùng tiền mặt là chủ yếu, đặc
biệt những khoản thanh toán "ngoài sổ sách’’ chính là khó khăn lớn trong việc
kiểm tra giá bán nội địa của doanh nghiệp để xác định mức giá áp dụng
phương pháp khấu trừ hay so sánh nghi vấn về giá khai báo.

+ Ngoài ra, sự phối hợp giữa cơ quan hải quan với cơ quan bảo hiểm,
vận tải, giám định cũng gặp nhiều khó khăn. Mặc dù qui định các cơ quan liên
quan phải có trách nhiệm cung cấp đầy đủ các thông tin liên quan đến việc
xác định trị giá cho cơ quan hải quan nhưng thực tế thường rất chậm vì không
qui định hình thức, mức độ, thời gian cung cấp cũng như chế tài xử phạt nếu
những cơ quan này không cung cấp hoặc cung cấp chậm làm trì hoãn việc xác
định trị giá tính thuế.

+ Mối quan hệ giữa cơ quan hải quan trung ương với các tổ chức quốc
tế trong việc thẩm tra, tìm kiếm thông tin giá còn hạn chế như quan hệ với các
lãnh sự quán, cơ quan tình báo hải quan khu vực và quốc tế, Ủy ban định giá
hải quan thuộc WCO. Cơ quan Hải quan trung ương chưa xây dựng được hệ
thống đặc tình (tình báo hải quan) ở các quốc gia, vùng lãnh thổ thường xuyên
có quan hệ thương mại với Việt Nam để nắm bắt các nguồn thông tin phục vụ
kiểm tra, xác định trị giá.

2.3.2.2. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, trở ngại của cơ chế
xác định giá tính thuế hiện hành

Một, nhóm các nguyên nhân liên quan đến việc ban hành hệ thống văn
bản pháp quy điều chỉnh về trị giá tính thuế hàng nhập khẩu

79
- Giai đoạn đầu thực hiện việc chuyển đổi từ cơ chế xác định giá tính
thuế chủ yếu dựa trên bảng giá tối thiểu sang áp dụng các cơ chế xác định giá
tính thuế hiện đại trên thế giới, chúng ta chưa có nhiều kinh nghiệm lập quy
nhằm nội luật hóa các điều ước quốc tế liên quan đến lĩnh vực trị giá tính thuế
hàng nhập khẩu, nhiều văn bản pháp quy ban hành trong thời gian qua chưa
tiên liệu hết các tình huống phát sinh trong thực tế dẫn đến tình trạng bất cập
giữa quy định hiện hành và công tác thực tiễn tại các đơn vị Hải quan.

- Hải quan là cơ quan đang phải thực hiện rất nhiều loại văn bản liên
quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều ngành khác nhau. Tính hệ thống và tính đồng
bộ của các loại văn bản này chưa cao, thậm chí còn chồng chéo lẫn nhau, rất
khó khăn cho việc thực hiện.
- Đồng thời vẫn tiếp tục áp dụng (trong phạm vi hạn chế) giá tính thuế
tối thiểu đối với một số mặt hàng nhập khẩu để bảo vệ lợi ích của Nhà nước
và sản xuất trong nước như thuế tuyệt đối (không phụ thuộc vào giá khai báo
là bao nhiêu) đối với xe ô tô đã qua sử dụng nhập khẩu.

Hai, nhóm các nguyên nhân liên quan đến công tác tổ chức cán bộ và
đào tạo nguồn lực con người

- Lãnh đạo nhiều đơn vị từ cấp Cục trở xuống chưa quan tâm đúng
mức đến việc đào tạo, bố trí và sử dụng cán bộ trong lĩnh vực xác định trị giá.
Việc đào tạo vẫn còn thụ động trông chờ vào kế hoạch của cấp trên. Việc bố
trí cán bộ không đúng chuyên môn đào tạo, cán bộ làm công tác giá không có
trình độ kiến thức về kinh tế, tài chính, kế toán hoặc ngoại thương nên năng
lực xử lý nghiệp vụ bị hạn chế; Công tác tuyển dụng, đề bạt và luân chuyển,
thuyên chuyển cán bộ không mang tính kế thừa, không gắn với mục đích
chuyên sâu, cán bộ làm công tác giá tại một số địa phương chưa qua các khóa
đào tạo về xác định trị giá tính thuế hoặc đã qua đào tạo nhưng thiếu kinh
nghiệm thực tiễn; cán bộ làm công tác giá một số nơi còn kiêm nhiệm các
công tác khác nên không đủ thời gian nghiên cứu, xử lý chuyên sâu những
vấn đề liên quan đến công tác xác định trị giá tính thuế.

80
- Hệ thống tổ chức trong công tác quản lý giá tính thuế còn chưa đồng
bộ và chưa được chú trọng đúng mức, chưa xây dựng được mối liên kết giữa
các cấp Hải quan (Tổng Cục - Cục - Chi Cục). Lực lượng làm công tác xác
định trị giá còn mỏng (tại Tổng cục khoảng 17 người, tại Cục Hải quan địa
phương nơi có phòng trị giá khoảng 6-8 người, nơi không có phòng giá
khoảng 1-2 người), cán bộ giá tại Chi cục còn kiêm nhiệm nhiều việc khác.

- Trình độ, năng lực của một bộ phận không nhỏ cán bộ làm công tác
trị giá còn nhiều hạn chế, chưa am hiểu và thực hiện đúng các quy trình
nghiệp vụ xác định giá tính thuế hiện hành.

- Tính liêm chính Hải quan chưa được thực hiện triệt để. Những năm
gần đây, ngành hải quan đã ban hành nhiều văn bản qui định về liêm chính
hải quan như: Đề ra phương châm hoạt động của ngành hải quan là "thuận
lợi, tận tụy, chính xác", ban hành nhiều văn bản, đề ra nhiều giải pháp ngăn
chặn và chấm dứt tệ gây phiền hà, sách nhiễu, tiêu cực trong cán bộ, công
chức hải quan,... Tuy nhiên hiện tượng phiền hà, tham nhũng, tiêu cực thậm
chí thông đồng, tiếp tay cho doanh nghiệp khai báo sai tên hàng, xuất xứ để
hưởng giá tính thuế, thuế suất thấp nhằm gian lận trốn thuế, thu lợi bất chính
vẫn còn diễn ra ở một số bộ phận cán bộ công chức hải quan, nhất là những
địa bàn có lưu lượng hàng hóa xuất nhập khẩu lớn và những vị trí công tác
nhạy cảm.

Ba, nhóm các nguyên nhân liên quan đến quy trình nghiệp vụ và cơ
chế xử lý hành chính

- Việc triển khai thực hiện các quy trình nghiệp vụ xác định trị giá tính
thuế tại một số Cục Hải quan địa phương chưa tốt, chưa đầy đủ. Còn xuất
hiện tư tưởng làm việc "cầm chừng, nghe ngóng" tình hình thực hiện tại các
địa phương khác, xuất hiện tư tưởng "buông xuôi" không tổ chức hoạt động
tham vấn giá hoặc chỉ tổ chức mang tính hình thức sau đó vẫn chấp nhận trị
giá khai báo để "hút hàng" về địa phương mình làm thủ tục nhập khẩu.

81
- Chưa xây dựng được mối liên kết giữa các Cục Hải quan địa phương
trong việc trao đổi thông tin, kinh nghiệm khi tham vấn và đấu tranh bác bỏ
trị giá khai báo đối với các lô hàng có nghi ngờ nên đã xuất hiện xu hướng
các doanh nghiệp "chạy" từ địa phương này sang địa phương khác để khai báo
trị giá thấp làm thất thu cho ngân sách Nhà nước.

- Công tác tuyên truyền về trị giá hải quan đến doanh nghiệp chưa
được quan tâm đúng mức, chưa có hệ thống và hiệu quả không cao dẫn đến
nhiều doanh nghiệp chưa am hiểu một cách đầy đủ, tường tận quy trình xác
định trị giá tính thuế hiện hành nên nhận thức về quyền và nghĩa vụ còn hạn
chế. Đa số các doanh nghiệp chỉ nhận thức về mặt quyền lợi (được áp giá tính
thuế theo trị giá giao dịch thực tế, không bị áp đặt theo trị giá tối thiểu như
trước kia) nhưng chưa tự giác thực hiện các nghĩa vụ như: Khai báo trung
thực trị giá, cung cấp các thông tin về giá và trả lời các câu hỏi nghi vấn của
cơ quan Hải quan trong quá trình tham vấn...

- Ý thức chấp hành pháp luật của doanh nghiệp chưa cao, có hiện
tượng doanh nghiệp lợi dụng sự lỏng lẻo của chính sách giá để khai báo trị giá
thấp nhằm mục đích trốn thuế gây thất thu cho ngân sách.

- Chế tài về xử lý hành chính trong việc doanh nghiệp khai thiếu thuế
do giá khai báo thấp hơn giá thực tế mua bán chưa được qui định rõ ràng và
trên thực tế toàn ngành Hải quan chưa xử phạt hành chính đối với doanh
nghiệp nào với hành vi khai báo giá thấp hơn thực tế mặc dù đã tiến hành bác
bỏ trị giá khai báo, xác định lại trị giá tính thuế, ấn định số thuế phải nộp cao
hơn mức thuế khai báo và doanh nghiệp đã chấp nhận nộp phần thuế chênh
lệch này. Điều đó dẫn đến việc doanh nghiệp mặc sức khai báo trị giá thấp
hơn thực tế, nếu cơ quan hải quan kiểm tra phát hiện, có bằng chứng bác bỏ
mà doanh nghiệp không còn biện pháp nào phản biện thì chấp nhận trị giá do
hải quan xác định, mà mức giá xác định này chỉ bằng hoặc thấp hơn mức giá
thực tế mà doanh nghiệp đã mua bán, doanh nghiệp cũng không bị xâm hại gì

82
đến lợi ích do không bị xử lý hành chính, còn nếu cơ quan hải quan không đủ
dữ liệu, căn cứ bác bỏ, phải chấp nhận trị giá khai báo thì đương nhiên doanh
nghiệp được hưởng một khoản lợi bất chính do khai báo giá thấp hơn thực tế
mang lại.

Bốn, nhóm các nguyên nhân liên quan đến nguồn thông tin dữ liệu giá
và hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin

* Nguyên nhân về nguồn thông tin dữ liệu giá

- Nguồn thông tin dữ liệu phục vụ công tác tham vấn giá còn thiếu và
yếu. Nguồn thông tin trong nước về giá hàng hóa bán ra hạn chế và không
chính xác, thậm chí bị bưng bít nhất là đối với hàng hóa có thuế suất cao, trị
giá lớn như ô tô, xe máy, hàng điện tử, điện lạnh,… Điều đó là do:

+ Những loại hàng hóa này thường do một vài chủ đầu nậu kết nối,
hiệp tác với nhau chi phối, khống chế việc nhập khẩu và bán hàng, giá bán
hàng thường được thống nhất trên thị trường cả nước.

+ Cơ chế quản lý hóa đơn của cơ quan thuế nội địa còn lỏng, việc
doanh nghiệp bán hàng viết hóa đơn thấp hơn nhiều (thường chỉ bằng 60-
70%) so với giá thực tế mua bán diễn ra phổ biến trên thị trường nội địa
(thường giá bán ghi trên hóa đơn bán hàng nội địa chỉ xấp xỉ cao hơn giá
thành hàng hóa nhập khẩu, tức là giá nhập khẩu + thuế các loại + chi phí quản
lý). Cơ quan thuế nội địa cũng đã có những chế tài quản lý chẳng hạn qui định
nếu doanh nghiệp ghi giá hóa đơn thấp hơn 10% giá bán thực tế thì áp giá bán
thực tế để xác định thu nhập doanh nghiệp nhưng với gần 350.000 doanh
nghiệp trong cả nước với nhiều thủ đoạn mua bán vòng vèo, việc thanh tra,
kiểm tra chỉ đủ sức làm đại diện khoảng 7-10% thì việc kiểm soát giá của cơ
quan thuế nội địa cũng không thể nào kiểm soát hết được.

+ Chính sách thương mại điện tử cũng đã được luật hóa theo Luật
Giao dịch điện tử số 51/2005/QH11 ngày 29/11/2005 nhưng hiệu ứng thực tế

83
chưa cao. Việc Doanh nghiệp đưa "giá bán ma" tức là giá bán thấp hơn thực
tế chào trên các trang Web thông dụng trong nước, thậm chí cả những trang
Web nước ngoài hoặc trang Web của chính doanh nghiệp nhằm đối phó với
cơ quan hải quan cũng đã diễn ra nhiều mà chưa có chế tài quản lý cũng như
biện pháp ngăn chặn.

- Nguồn thông tin giá thu thập từ nước xuất khẩu và từ các hãng sản
xuất hạn chế nhiều do Việt Nam chưa có các tùy viên hải quan, tình báo hải
quan, cơ sở hay đặc tình của hải quan,… tại các nước xuất khẩu, chưa có cơ
chế về việc cung cấp thông tin giá và thẩm định chứng từ, thẩm định doanh
nghiệp xuất khẩu nước ngoài từ các đại sứ quán, từ các tùy viên thương mại,
từ cơ quan tình báo hải quan khu vực, từ Ủy ban định giá hải quan của
WCO,… cho Hải quan Việt Nam. Nguồn dữ liệu giá xuất khẩu chủ yếu dựa
vào thông tin trên các trang Web của các hãng sản xuất. Việc xác định các chi
phí sản xuất, lưu thông phát sinh tại nước xuất khẩu làm căn cứ xác định trị
giá tính thuế theo phương pháp tính toán đã được qui định tại Thông tư
40/2008/TT-BTC nhưng thực tế hầu như chưa thực hiện được vì không thu
thập được những thông tin về các loại chi phí này.

- Nguồn dữ giá liệu hiện nay chủ yếu dựa trên các mức giá khai báo và
giá tính thuế đã xác định được tổng hợp từ các Chi cục theo chương trình
quản lý giá GTT22. Theo đánh giá hiện nay có tới 70% mức giá trong dữ liệu
giá này là thấp hơn giá thực thế mua bán.

* Nguyên nhân về cơ sở hạ tầng và kỹ thuật công nghệ thông tin

- Việc đầu tư hệ thống mạng cục bộ (LAN), mạng diện rộng (WAN)
của Ngành Hải quan thời gian qua được chú trọng nhưng chưa đồng bộ. Tình
trạng "nghẽn mạch", "rớt mạng" trong quá trình truyền, nhận thông tin về giá
tính thuế giữa các cấp hải quan vẫn còn xảy ra khá phổ biến trong thời gian qua.

- Hệ thống phần mềm quản lý giá tính thuế GTT22 còn nhiều bất cập,
chưa đáp ứng được nhu cầu tác nghiệp thực tế như: Thiếu thông tin từ các

84
nguồn thông tin thu thập từ trị giá khai báo của doanh nghiệp để phục vụ công
tác kiểm tra, xác định trị giá của cơ quan Hải quan; danh mục dữ liệu giá
GTT22 không được cập nhật, bổ sung kịp thời trên hệ thống để phục vụ công
tác tra cứu, thực hiện; việc kết xuất thông thông tin phục vụ công tác thống
kê, báo cáo chưa được tiện ích. Mạng dữ liệu giá GTT22 còn gặp nhiều trục
trặc trong khâu kết xuất và truyền dẫn dữ liệu, hiện tượng các dòng bản ghi về
giá trong chương trình GTT22 khi truyền dữ liệu từ Chi cục đến Cục và từ
Cục đến Tổng cục chênh lệch thấp hơn nhiều so với các dòng bản ghi trong
các chương trình chức năng khác (thống kê tờ khai hải quan) diễn ra thường
xuyên dẫn đến khâu kiểm soát về giá không kịp thời.

- Về mặt chủ quan còn do ý thức trách nhiệm của một bộ phần cán bộ
công chức còn chưa cao, chưa thấy được tầm quan trọng của việc cập nhật
đầy đủ, chính xác thông tin về trị giá vào hệ thống dữ liệu giá tính thuế của
toàn Ngành. Việc cập nhật thông tin chưa thực hiện nghiêm túc theo qui trình
thủ tục hải quan và qui trình xác định giá bởi vậy dữ liệu thường không đồng
bộ và độ chính xác của dữ liệu không cao.

Năm, nhóm các nguyên nhân liên quan đến hệ thống kiểm tra, kiểm soát

Ngành Hải quan chưa xây dựng quy chế phối hợp trong công tác kiểm
tra, kiểm soát giá tính thuế cả theo chiều dọc lẫn chiều ngang.

Theo chiều dọc:

- Chưa xây dựng quy chế phối hợp giữa lực lượng làm công tác giá
thuộc Hải quan các cấp (giữa Tổng cục Hải quan - các Cục Hải quan địa
phương - các Chi cục Hải quan, giữa các cục Hải quan địa phương và giữa
các Chi cục Hải quan với nhau). Phần mềm quản lý thông tin trị giá tính thuế
của ngành Hải quan hiện nay chưa có chức năng cung cấp thông tin về tình
hình tham vấn, kết quả xác định giá tính thuế, bác bỏ giá tính thuế, điều chỉnh
giá tính thuế, tình hình gian lận thương mại giữa các địa phương với nhau,
giữa Tổng Cục Hải quan với Hải quan địa phương để hỗ trợ đắc lực cho công

85
tác kiểm tra, kiểm soát trị giá khai báo. Chưa xây dựng được "Sổ tay (hay cẩm
nang) công tác kiểm tra, tham vấn xác định trị giá" làm kinh nghiệm chung
cho toàn ngành.

- Chúng ta chưa thiết lập tốt mối quan hệ giữa Ủy ban định giá Hải
quan thuộc WCO và hải quan Việt Nam để được hỗ trợ về kỹ thuật tham vấn,
thẩm định giá tại nước xuất khẩu, thẩm định chứng từ,…

Theo chiều ngang:

Chưa xây dựng quy chế phối hợp giữa lực lượng làm công tác xác
định trị giá Hải quan với lực lượng kiểm tra sau thông quan trong việc kiểm
tra các lô hàng sau tham vấn nhưng vẫn còn nghi ngờ về tính trung trực của trị
giá khai báo; giữa lực lượng làm công tác xác định trị giá Hải quan với lực
lượng điều tra chống buôn lậu để kịp thời phát hiện hình thức, phương thức
thủ đoạn gian lận thương mại qua giá; giữa lực lượng làm công tác xác định
trị giá Hải quan với các cơ quan như: Thuế nội địa, công an, ngân hàng, cơ
quan thương vụ Việt Nam ở nước ngoài,... để xác minh trị giá khai báo đối
với những trường hợp phức tạp có dấu hiệu gian lận thương mại lớn, tổ chức
kiểm tra sau thông quan đối với các lô hàng sau tham vấn nhưng vẫn còn nghi
ngờ về tính trung thực của trị giá khai báo.

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2

Nghiên cứu, áp dụng và nội luât hóa các Điều ước Quốc tế mà quốc
gia đã ký kết, tham gia là một trong những nội dung có ý nghĩa thiết thực
đồng thời cũng đặt ra các yêu cầu, thách thức cho hệ thống pháp luật của các
quốc gia thành viên.

Hiệp định trị giá hải quan (ACV) là một trong những hiệp định trọng
tâm của GATT/WTO 1994. Với nội dung căn bản của mình, các đặc tính đặc
trưng, mang tính kỹ thuật, chuyên sâu, các đòi hỏi, yêu cầu, ràng buộc khi áp
dụng, thực hiện các nội dung của Hiệp định đã nói lên tính hiện đại và ưu việt

86
của ACV. Từ đó tiếp tục mở ra các hướng nghiên cứu khác nhau. Từ kinh
nghiệm của một số nước có tính tương đồng với Việt Nam và một số nước
phát triển, chúng ta đã chỉ ra được những bài học kinh nghiệm cụ thể cho việc
áp dụng Hiệp định của Việt Nam.

Hơn 5 năm thực hiện ACV, chúng ta đã đạt được những thành quả
nhất định, những bài học kinh nghiệm cần thiết. Tuy nhiên, thực tế đã và đang
tiếp tục tồn tại những bất cập, vướng mắc và khó khăn. Mục đích của ACV
chưa đạt được một cách trọn vẹn vì Doanh nghiệp thì phần lớn luôn bất tán
thành, tuân thủ, kêu ca vì lý do bị gián đoạn thương vụ, phát sinh nhiều thủ
tục, và thiếu cơ sở pháp lý. Trong khi cơ quan Hải quan vẫn thất thu thuế với
con số thống kê hàng năm, hàng quý, hàng tháng thậm chí là hàng tuần… là
một con số không nhỏ.

Từ việc tham chiếu luật pháp, kinh nghiệm, thực tiễn một số nước
trong khu vực và trên thế giới, điểm lại tình hình, thực trạng áp dụng Hiệp
định trị giá GATTGA tại Việt Nam trong thời gian qua, chỉ ra các khó khăn,
thuận lợi, các nguyên nhân…từ đó định hướng, tiếp tục nghiên cứu cũng như
việc đề xuất một số giải pháp để thực hiện ACV đạt hiệu quả cao hơn, góp
phần tích cực vào quản lý nhà nước đối với các hoạt động xuất khẩu, nhập
khẩu, đưa pháp luật Việt Nam tiến dần tới pháp luật và thông lệ quốc tế là
một phần quan trọng của luận văn sẽ được trình bày tại phần Chương 3.

87
Chương 3

MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG HIỆU QUẢ ÁP DỤNG


HIỆP ĐỊNH TRỊ GIÁ GATT/WTO 1994 TRONG ĐIỀU KIỆN
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM

3.1. BỐI CẢNH CHUYỂN ĐỔI CƠ CHẾ XÁC ĐỊNH TRỊ GIÁ TÍNH THUẾ
THEO PHƢƠNG PHÁP QUỐC GIA SANG PHƢƠNG PHÁP TRỊ GIÁ GATT/WTO

 Bối cảnh nền thương mại quốc tế của nước ta hiện nay liên quan
đến việc chuyển đổi cơ chế xác định trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu

Để đưa ra các giải pháp hoàn thiện cơ chế xác định trị giá hải quan nói
chung và đặc biệt là tăng cường hiệu quả áp dụng Hiệp định trị giá GATT/WTO
1994, cần thiết phải nghiên cứu những tác động của bối cảnh thương mại
quốc tế ở nước ta hiện nay ảnh hưởng đến yêu cầu quản lý hải quan trong lĩnh
vực trị giá cũng như yêu cầu đổi mới trong hiện đại hoá quản lý hải quan.

- Bối cảnh môi trường kinh doanh xuất nhập khẩu

Trong lĩnh vực hải quan, một trong những nguyên tắc chúng ta phải
thực hiện đó là xác định trị giá hàng nhập khẩu theo Hiệp định trị giá WTO.
Để triển khai tốt nguyên tắc này nhưng vẫn bảo vệ được môi trường kinh
doanh bình đẳng, từng bước tăng cường khả năng cạnh tranh thương mại cho
hàng hóa và doanh nghiệp Việt Nam, đòi hỏi Chính phủ và ngành hải quan
phải nội luật hóa một cách linh hoạt các nội dung của Hiệp định.

Có thể nói trong thời gian tới môi trường kinh doanh của Việt Nam sẽ
có những biến đổi căn bản theo những chiều hướng xuất hiện các loại hình
hoạt động kinh tế, nhiều loại hình kinh tế mang tính đặc trưng:

Hình thành nên nhiều doanh nghiệp có vốn nước ngoài có qui mô ngày
càng mở rộng: Về cơ bản, đối tác nước ngoài lựa chọn loại hình doanh nghiệp
này nhằm giảm bớt rủi do về mặt chính sách. Về lâu dài, thuế quan không phải

88
là trở ngại vì các sắc thuế sẽ phải giảm dần theo lộ trình hội nhập, nhưng những
hàng rào phi thuế quan như văn hóa tiêu dùng, điều kiện về kỹ thuật v.v.. sẽ là
những vấn đề lớn. Hình thức đầu tư liên doanh này sẽ phát triển mang tính đột
phá vì thị trường Việt Nam là thị trường tiềm năng để các công ty nước ngoài
tìm đến. Tình trạng nhập khẩu nguyên liệu, thành phẩm sẽ trở nên phức tạp hơn
bởi các mối quan hệ phức tạp giữa các đối tác kinh doanh. Đây là một thách
thức lớn trong xác định trị giá giao dịch thực tế của các hoạt động ngoại thương
vì các điều kiện thương mại đa dạng hơn, phương thức thanh toán linh hoạt
hơn. Thực tế này đòi hỏi phải hoàn thiện, nâng cao tầm hiểu biết của cán bộ trị
giá hải quan về lĩnh vực thương mại và thanh toán ngân hàng.

Với tiềm lực và thế lực lớn mạnh, các tập đoàn kinh tế thông qua việc
tài trợ một khoản ưu đãi cho nước chủ nhà để tạo sức ép với Chính phủ can
thiệp vào công việc của các công ty thành viên nhằm có được lợi thế cạnh
tranh. Hình thức này thể hiện rất rõ đối với các tập đoàn kinh tế của Nhật Bản
tại Việt Nam như Honda, Cannon v.v.. Họ có mối quan hệ cổ đông với các ngân
hàng lớn của Nhật Bản mà những ngân hàng này tài trợ cho Việt Nam dưới các
dạng vốn ODA, vốn vay ưu đãi JIBIC. Thời gian qua, các công ty này luôn đàm
phán với Chính phủ để được hưởng mức ưu đãi lớn về mặt thủ tục, chính sách,
thuế các loại v.v.. Với cách xâm nhập thị trường như vậy có khả năng dẫn tới các
gian lận về chuyển giá nhằm trốn thuế thu nhập doanh nghiệp hoặc khai tăng
giá làm tăng giá trị khấu hao tài sản cố định v.v.. Áp lực với cơ quan hải quan
là phải hoàn thiện cơ sở đảm bảo thông tin giá cả thị trường nước xuất khẩu,
về mối quan hệ kinh tế giữa các công ty trong các tập đoàn kinh tế.

Lộ trình nội địa hóa theo kế hoạch: Về bản chất, nội địa hóa là một
quá trình dần dần mở rộng sự tham gia của các thể nhân và pháp nhân thuộc
Việt Nam vào trong mọi công đoạn hoạt động của công ty. Nội địa hóa theo
kế hoạch có thể giúp sinh lời và rất thiết thực với các nhà đầu tư, tạo thêm
nhiều việc làm cho nhân công trong nước, sử dụng được nhiều nguồn lực
quốc nội, mang lại giá trị gia tăng và đóng thuế nhiều hơn cho Nhà nước.

89
Tuy nhiên, sản xuất nội địa hóa dễ bị lợi dụng để tránh hàng rào thuế
quan cao như hiện tượng xé lẻ, tháo rời sản phẩm nguyên chiếc có thuế suất
cao thành linh kiện rời nhập khẩu với mức thuế suất thấp. Với những trường
hợp tỷ lệ nội địa hóa được xác định trên cơ sở tỷ lệ giữa giá phần linh kiện
nhập khẩu và giá thành sản phẩm thì khả năng gian lận qua giá sẽ xảy ra bằng
cách giảm giá linh kiện đầu vào, tăng giá phần linh kiện sản xuất. Làm như vậy
doanh nghiệp sẽ tăng được tỷ lệ nội địa hóa từ đó giảm thuế suất thuế nhập khẩu.
Thực trạng này đặt ra yêu cầu phải xây dựng cơ sở thông tin về doanh nghiệp,
bám sát hoạt động của doanh nghiệp, hoàn thiện các phương pháp kiểm tra sau
thông quan trong lĩnh vực giá, đặc biệt là phương pháp kế toán, kiểm toán.
Các hình thức kinh doanh theo kiểu gia công, nhập nguyên liệu sản
xuất hàng xuất khẩu sẽ phát triển mạnh mẽ: Lợi thế của hình thức này là khai
thác được vốn từ nước ngoài đồng thời tận dụng được nguồn nhân công giá rẻ
trong nước. Lợi dụng chính sách miễn thuế khi nhập khẩu nguyên liệu đối
với loại hình gia công bằng cách khai thấp trị giá, nên khi chuyển đổi mục
đích sử dụng doanh nghiệp thường được hưởng mức giá tính thuế thấp. Trước
thực trạng này đòi hỏi phải hoàn thiện cơ sở pháp lý về qui trình xác định giá
riêng cho loại hình gia công, nhập sản xuất hàng xuất khẩu.
- Bối cảnh hiện đại hóa công tác quản lý hải quan
Hải quan Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi từ "tư duy quản
lý" với những "đặc quyền, đặc ân" của cơ quan công quyền sang "tư duy phục
vụ", xem đối tượng phục vụ là đối tác trong cộng đồng Doanh nghiệp - Hải
quan nhằm đáp ứng sự phát triển kinh tế quốc tế và hài hòa với phương thức
hoạt động của tổ chức hải quan thế giới. Yêu cầu cấp bách là phải cải cách,
đổi mới phương thức quản lý của cơ quan hải quan theo hướng hiện đại hóa,
đặc biệt là trong lĩnh vực xác định trị giá. Mọi sự đổi mới đều nhằm phục vụ
yêu cầu khả năng giải phóng hàng nhanh; thủ tục hải quan gọn nhẹ, linh hoạt;
nghiêm túc trong thực thi cơ chế chính sách phù hợp pháp luật quốc gia và
thông lệ quốc tế; xác định thuế chính xác, đảm bảo nguồn thu cho NSNN;
đảm bảo thực thi các điều ước quốc tế đã cam kết.

90
Để đạt được những yêu cầu trên, Hải quan Việt Nam đã thiết lập cơ
chế tự khai, tự tính thuế. Hỗ trợ cho hệ thống này, cần tiếp tục đẩy mạnh triển
khai các mô hình quản lý hiện đại dựa trên các cam kết quốc tế. Những mô
hình hiện đại đang được triển khai và tiếp tục hoàn hiện, gồm:

Một là, mô hình thông quan điện tử

Thông quan điện tử là mô hình hoạt động theo đó sự trao đổi giao dịch
giữa doanh nghiệp và cơ quan hải quan hầu như dựa trên dữ liệu điện tử. Đây
là hình thức thông quan tiên tiến thực hiện dưới dạng "thủ tục phi giấy tờ" đ-
ược áp dụng ở hầu hết các nước phát triển và đang phát triển. Bản chất của
mô hình này là dựa trên cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại.

Việc triển khai mô hình thông quan điện tử làm gọn nhẹ, linh hoạt các
khâu thủ tục hải quan, góp phần giảm thời gian đi lại của doanh nghiệp; rút
ngắn thời gian thông quan hàng hóa; giảm chi phí hành chính cho cả doanh
nghiệp lẫn cơ quan hải quan; tạo ra môi trường làm việc văn minh, hiệu quả,
tính minh bạch cao, nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp và
cơ quan hải quan; giảm tối đa rủi ro gian lận thương mại do hạn chế môi
trường tiếp xúc trực tiếp giữa doanh nghiệp và cán bộ hải quan; thúc đẩy
thương mại quốc tế phát triển.

Đại lý khai thuê Hệ thống xử lý dữ Hệ thống Đăng


Hải quan liệu / bảo mật xử lý thông tin nhập hệ Quyết định
của Hải quan thống phân luồng
Điện tử quản lý tờ
kiểm tra
khai
Doanh nghiệp
XNK

Hệ thống
quản lý
rủi ro

Sơ đồ 3.1: Mô hình hệ thống khai hải quan điện tử

91
Hiện tại có hai cách thực hiện việc khai báo hải quan đó là: Đại lý hải
quan (trước đây gọi là đại lý khai thuê) thực hiện dịch vụ làm thủ tục hải quan
và trực tiếp các doanh nghiệp tiến hành thủ tục với cơ quan hải quan.

Hai là, thực hiện quản lý rủi ro

Kỹ thuật quản lý rủi ro (QLRR) là một khái niệm mới, một nội dung
nghiệp vụ mới khó cả về khía cạnh nhận thức và tổ chức áp dụng. Quản lý rủi
ro là vấn đề cấp thiết phải triển khai trong mô hình quản lý hải quan hiện đại.

"Quản lý rủi ro" là một quy trình được xác định nhằm hỗ trợ cho quá trình
ra quyết định trên cơ sở nhận thức được các rủi ro tiềm tàng và những tác động
của nó. Quản lý rủi ro gắn liền với việc xác định các cơ hội xảy ra rủi ro và việc
đề ra các giải pháp đối phó với các thiệt hại do rủi ro gây ra. Nhờ đó có thể cải
tiến được chất lượng, hiệu quả công việc và đảm bảo an toàn trong hoạt động.

Ngày 31/12/2005 Tổng cục Hải quan đã ban hành quyết định số
2148/QĐ-TCHQ về "Quy chế áp dụng quản lý rủi ro trong quy trình thủ tục hải
quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu thương mại". Quyết định cũng quy
định về bộ tiêu chí quản lý, đánh giá và thẩm quyền thực hiện của các cấp hải quan.
Bộ tiêu chí QLRR gồm: Các nhóm tiêu chí ưu tiên, nhóm tiêu chí đánh giá phân loại
doanh nghiệp, nhóm tiêu chí phân loại hàng hóa, nhóm tiêu chí về xuất xứ v.v..

Kiểm tra
Tham hàng hoá Kiểm
Tham Kiểm tra tra sau
số chi tiết hồ sơ
số
động hồ sơ thông
tĩnh quan
Lựa chọn Miễn kiểm
tra hàng hoá
xác suất
không quá
5%

Sơ đồ 3.2: Quy trình ra quyết định quản lý rủi ro


Nguồn: Tổng cục Hải quan.

92
Áp dụng qui trình QLRR, doanh nghiệp tự khai báo, tính thuế. Hình
3.2 cho thấy sau khi dữ liệu về tờ khai nhập khẩu được nhập máy, phần mềm
QLRR sẽ phân tích tự động trên cơ sở các tham số động, tham số tĩnh thu thập
được. Kết quả của việc phân tích là máy tính sẽ tự động phân loại lô hàng
nhập khẩu vào một trong ba luồng: xanh, vàng, đỏ. Nếu vào luồng xanh, hàng
hóa sẽ được thông quan ngay mà không cần kiểm tra thực tế hàng hóa. Nếu
vào luồng vàng, cán bộ hải quan sẽ kiểm tra chi tiết hồ sơ và miễn kiểm tra
hàng hóa. Nếu vào luồng đỏ thì cần thiết phải kiểm tra chi tiết hồ sơ cũng như
hàng hóa nhập khẩu.

Phải nói rằng quy trình quản lý rủi ro được áp dụng là một bước tiến
quan trọng của Hải quan Việt Nam. QLRR góp phần quan trọng trong việc rút
ngắn thời gian thông quan hàng hóa, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thương
mại, mặt khác cũng khuyến khích sự tuân thủ pháp luật của các doanh nghiệp.

Phân luồng thông quan hàng hóa theo nguyên tắc QLRR đặt ra vấn đề
lớn đối với việc áp dụng các phương pháp xác định trị giá tính thuế hàng hóa
nhập khẩu. Với gần 80% lô hàng nhập khẩu được phân loại vào luồng xanh,
cần thiết phải hoàn thiện cơ sở để quản lý trị giá đối với những lô hàng thông
quan theo luồng xanh.

Ba là, thực hiện quản lý sự tuân thủ

Cùng với việc thực hiện kỹ thuật quản lý rủi ro, thì cơ quan hải quan áp
dụng mô hình quản lý sự tuân thủ. Theo nghĩa chung nhất thì "quản lý sự tuân
thủ" là việc cơ quan hải quan áp dụng các nguyên tắc quản lý rủi ro để thực
hiện vai trò, trách nhiệm và quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật.

Mục tiêu quản lý sự tuân thủ là đảm bảo sự tuân thủ pháp luật Hải
quan của các doanh nghiệp, sự hoàn thành vai trò, trách nhiệm của cơ quan
hải quan.

Để áp dụng thành công các phương pháp xác định trị giá tính thuế
hàng hóa nhập khẩu theo Hiệp định trị giá GATT/WTO thì các đối tượng liên

93
quan phải thực hiện tuân thủ đúng quy trình xác định trị giá hải quan, qui
trình tham vấn giá, qui trình KTSTQ trong lĩnh vực giá và các quy định khác
của pháp luật. Nếu không tuân thủ theo quy định sẽ dẫn đến phá vỡ hệ thống
và không đạt được mục tiêu quản lý.

Nguyên tắc quản lý sự tuân thủ là sử dụng các nguyên lý quản lý rủi
ro làm nền tảng cơ bản, kiểm tra sau thông quan là công cụ hiệu quả để rà
soát, đánh giá sự tuân thủ của các đối tượng trong hoạt động hải quan.

Hiện nay Hải quan Việt Nam đang bước đầu áp dụng mô hình quản lý
sự tuân thủ. Ngày 19/12/2005 Tổng cục Hải quan ban hành quyết định số
1952/QĐ-TCHQ về việc cấp thẻ ưu tiên thủ tục hải quan cho các doanh
nghiệp. Theo đó, cơ quan hải quan đánh giá việc tuân thủ của các doanh
nghiệp trong thời gian tối thiểu là 365 ngày. Những doanh nghiệp được cấp
thẻ ưu tiên sẽ có được các lợi ích như:

- Được giảm tỷ lệ hoặc miễn kiểm tra hàng hóa, chứng từ liên quan.

- Được thông quan trước hoặc thông quan nhanh đối với hàng hóa
nhập khẩu.

- Được hưởng các ưu đãi như ân hạn nộp thuế v.v..

Có thể nói quản lý sự tuân thủ kết hợp với mô hình quản lý rủi ro đã
tạo ra môi trường làm việc hoàn toàn mới, theo đó những đối tượng chấp hành
tốt pháp luật sẽ được hưởng rất nhiều ưu đãi còn những đối tượng thường
xuyên vi phạm hoặc cố tình vi phạm sẽ bị phân biệt đối xử với các chế tài áp
dụng nghiêm khắc.

Trong lĩnh vực trị giá hải quan, việc tuân thủ pháp luật của doanh
nghiệp cũng như cán bộ hải quan có ý nghĩa rất lớn. Do vậy cần thiết phải
hoàn thiện cơ sở pháp lý về trị giá hải quan theo hướng tạo điều kiện tối đa
cho các doanh nghiệp có ý thức tuân thủ pháp luật.

94
Bốn là, thực hiện các cam kết quốc tế trong lĩnh vực hải quan

Song song với việc triển khai ứng dụng các mô hình quản lý mới thì
Hải quan Việt Nam cũng cần phải thực hiện các điều ước, cam kết quốc tế mà
chính phủ đã ký trong khuôn khổ WTO, WCO, ASEAN, APEC, Hiệp định
thương mại Việt - Mỹ, các Hiệp định song phương với các nước. Trên cơ sở
đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật về hải quan, nhằm nội luật hóa các
cam kết quốc tế vào các văn bản pháp luật của hải quan. Có thể kể các cam
kết quốc tế trong lĩnh vực hải quan bao gồm:

Trong khuôn khổ ASEAN có Hiệp định Hải quan ASEAN, Hiệp định
quá cảnh ASEAN.

Trong khuôn khổ APEC: Tiểu ban thủ tục hải quan của APEC bắt đầu
thực hiện việc xây dựng các cam kết nhằm hài hòa thủ tục Hải quan giữa các
nền kinh tế dựa trên các chuẩn mực của WCO.

Trong khuôn khổ WCO: Là một thành viên WCO, Hải quan Việt Nam
phải thực hiện các cam kết cụ thể sau:

- Công ước KYOTO là Công ước quan trọng nhất về thủ tục hải quan và
kiểm tra giám sát hải quan nhằm đơn giản hóa và làm hài hòa thủ tục hải quan.

- Công ước quốc tế về giúp đỡ hành chính lẫn nhau nhằm ngăn ngừa
và trấn áp các vi phạm hải quan (Công ước Nairobi), nhằm thiết lập quan hệ
hợp tác đa phương giữa các nước thành viên WCO trên cơ sở hỗ trợ hành
chính trong việc trao đổi thông tin về kiểm soát hải quan nói chung, đặc biệt
là về buôn lậu ma túy, các chất hướng thần và tài sản văn hóa.

- Công ước về tạm quản hàng hóa liên quan đến việc cho hàng hóa đư-
ợc đưa vào một lãnh thổ hải quan theo chế độ tạm quản nhằm tạo thuận lợi
cho việc tạm nhập, tạm xuất hàng hóa không phải nộp thuế hoặc các thủ tục
liên quan khác thông qua việc ban hành và sử dụng bộ chứng từ mang tính
quốc tế và các biện pháp đảm bảo tương ứng.

95
Trong khuôn khổ WTO: Các cam kết liên quan đến hoạt động kiểm tra như:
Hiệp định quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS); Hiệp định về chống bán phá giá (ADP).

Thực tế cho thấy việc xây dựng các cơ chế xác định giá tính thuế hàng
nhập khẩu theo ACV chưa tính đến các nội dung mà Việt Nam đã cam kết
như: qui trình thủ tục theo Công ước KYOTO, các vấn đề về bán phá giá v.v..
trong các phương án hoàn thiện, bổ sung cơ sở áp dụng phương pháp trị giá
hải quan thời gian tới phải xem xét đến các yếu tố trên. Có thể nói, để thực thi
các điều ước quốc tế, trình độ Hải quan Việt Nam phải nâng lên một tầm cao
mới, có như vậy mới đáp ứng được khối lượng công việc khổng lồ và theo kịp
hải quan các nước trên thế giới.

3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG HIỆU QUẢ ÁP DỤNG HIỆP
ĐỊNH TRỊ GIÁ GATT/WTO 1994 TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM

Tại các phần trên, đã phân tích thực trạng áp dụng ACV của GATT
1994 đối với hàng hóa nhập khẩu, cũng như đã nêu bật được những khó khăn,
hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế. Căn cứ vào kết quả phân tích đó,
trong thời gian tới, để từng bước hoàn thiện, tiến tới xây dựng một cơ chế xác
định trị giá tính thuế hàng nhập khẩu phù hợp với hội nhập kinh tế quốc tế và
điều kiện hiện tại của đất nước, cần tập trung thực hiện đồng bộ những giải
pháp sau đây.

3.2.1. Nhóm giải pháp về hoàn thiện cơ sở pháp lý

Pháp luật hải quan chính là tổng thể các quy phạm pháp luật điều
chỉnh một nhóm quan hệ xã hội trong lĩnh vực quản lý nhà nước về hải quan.
Do tính đặc thù riêng mà các quy phạm pháp luật hải quan có mối quan hệ
chặt chẽ với các quy phạm pháp luật khác như hành chính, hình sự, kinh tế,
môi trường cũng như các điều ước quốc tế có liên quan đến hải quan. Với các
quan điểm trên, xin đưa ra một số nội dung cần hoàn thiện về cơ sở pháp lý
đối với cơ chế xác định trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu như sau:

96
3.2.1.1. Hoàn thiện cơ sở pháp lý qui định về kiểm tra, xác định trị giá

Nghiên cứu qui định về cơ chế kiểm tra, xác định trị giá theo những
văn bản hiện hành, qua thực tế áp dụng và những hạn chế như đã phân tích,
xin nêu ra một số nội dung cần phải tiếp tục hoàn thiện như sau:

Thứ nhất, cần qui định nhiệm vụ hướng dẫn, kiểm tra, kiểm soát của
bộ phận giá của Vụ Kiểm tra thu thuế - Tổng cục Hải quan vào qui trình kiểm
tra xác định trị giá để gắn kết trách nhiệm của các cấp trong hệ thống giá tính
thuế toàn ngành.

Thứ hai, có các qui định làm rõ mối quan hệ phối hợp trong việc kiểm
tra, xác định trị giá giữa khâu thông quan và khâu sau thông quan, đồng thời
qui định cụ thể trách nhiệm, quyền hạn của lực lượng kiểm tra sau thông
quan, lực lượng kiểm soát, điều tra chống buôn lậu, thanh tra trong cơ chế
phối hợp của qui trình 1636: Lực lượng nào làm gì, làm vào lúc nào, trách
nhiệm đến đâu? Qui trình luân chuyển hồ sơ từ khâu thông quan sang khâu
sau thông quan như thế nào, nhất là việc cung cấp các thông tin nghi ngờ.

Thứ ba, cần qui định về việc thẩm định hồ sơ, thẩm định về giá khai
báo trong qui trình như: Trường hợp nào phải thẩm định, thẩm định ở đâu, chi
phí thẩm định do cơ quan hải quan hay doanh nghiệp chịu và chịu trong
trường hợp nào, "trưng mua" hàng hóa nhập khẩu trong trường hợp trị giá
khai báo thấp nhưng hải quan không đủ cơ sở bác bỏ.

Thứ tư, phải đồng nhất qui định về lượng thời gian kiểm tra tham vấn
trong khâu thông quan (hiện tại là 30 ngày) và thời hiệu của dữ liệu tham
chiếu của hàng hóa giống hệt, tượng tự (lấy dữ liệu trước và sau 60 ngày kể từ
ngày mở tờ khai hải quan cho lô hàng nhập khẩu, trong trường hợp phức tạp
có thể mở rộng đến 90 ngày) để tránh tình trạng không có dữ liệu trong thời
hạn 30 ngày, hải quan kết thức tham vấn, đã thông báo trị giá thì ngày thứ 31
lại tìm được dữ liệu dẫn đến việc truy thu thuế khó khăn.

97
Thứ năm, có cơ chế phân cấp tham vấn trị giá phù hợp theo hướng
giao việc kiểm tra, tham vấn cho Chi cục gắn với trách nhiệm hành chính,
Cục Hải quan tỉnh (phòng giá hoặc phòng nghiệp vụ) chịu trách nhiệm chỉ
đạo, kiểm soát, đôn đốc, nhắc nhở và hỗ trợ các biện pháp kỹ thuật, cung cấp
thông tin giá cho các Chi cục, không nên tập trung tham vấn toàn bộ hồ sơ tại
Cục Hải quan tỉnh (Cơ chế phân cấp này trước thời điểm quyết định
640/TCHQ-QĐ đã áp dụng) gây ra hiện tượng ôm đồm, ùn tắc hồ sơ tham
vấn, việc tham vấn sơ sài, qua loa, chiếu lệ hiệu quả tham vấn thấp. Cục chỉ
tham vấn trong trường hợp những lô hàng có số lượng, trị giá lớn, thuế suất
cao mà doanh nghiệp nhập khẩu đồng thời tại nhiều cửa khẩu, nhiều Chi cục
khác nhau.

Thứ sáu, có qui định đảm bảo tham vấn trị giá nhanh chóng, kịp thời
dựa trên kỹ năng thu thập, phân tích, đánh giá thông tin, phát huy tính sáng
tạo, tính chủ động của cán bộ làm công tác tham vấn. Trong thực tế hiện nay,
việc doanh nghiệp khai báo trị giá thấp nhằm gian lận trốn thuế là hiện tượng
hết sức phổ biến, vì vậy cần mở rộng áp dụng phương pháp suy luận vì đó là
biện pháp tổng hợp của các phương pháp khác và rất hiệu quả. Xác định giá
sau tham vấn đối với các trường hợp hải quan không có cơ sở dữ liệu phải vận
dụng linh hoạt tuần tự 6 phương pháp xác định trị giá của ACV. Việc quy
định tỷ lệ khấu trừ cụ thể cho hàng nhập khẩu bán tại thị trường nội địa sẽ tạo
ra một cơ chế cứng nhắc vừa khó cho cơ quan hải quan, vừa không phù hợp
với thông lệ thương mại quốc tế. Quy định này cần phải xóa bỏ.

3.2.1.2. Hoàn thiện cơ sở pháp lý có liên quan đến kiểm tra, kiểm
soát xác định trị giá như: Quản lý tài chính, tiền tệ, quản lý thuế, hạch toán
kế toán, kiểm tra sau thông quan, điều tra chống buôn lậu, xử lý vi phạm
hành chính

Để nâng cao hiệu quả kiểm tra, tham vấn, xác định trị giá tính thuế
hàng nhập khẩu thì phải hoàn thiện đồng bộ các cơ chế liên quan sau:

98
- Một là, hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính, tiền tệ phù hợp nhất là
đối với quản lý tài chính doanh nghiệp. Đây là nhiệm vụ hết sức quan trong,
giúp cơ quan hải quan kiểm soát được nguồn tiền thanh toán của doanh
nghiệp trong các thương vụ XNK làm căn cứ xác định chính xác các khoản
tiền đã thanh toán của doanh nghiệp cho lô hàng nhập khẩu đang xác định trị
giá. Để hoàn thiện cơ chế quản lý tiền tệ cần thêm các giải pháp sau:

+ Sửa đổi bổ sung Thông tư 01/2006/TTLT-BTC-NHNN theo hướng


quản lý hiện đại là cơ quan hải quan có đường link tới tất cả các ngân hàng
thương mại để khi cần thiết có nhu cầu xác minh số tiền thanh toán của doanh
nghiệp cho hợp đồng hay thương vụ nào đó hay trong một khoảng thời gian
nhất định thì gửi yêu cầu (theo đường link hoặc bằng văn bản cụ thể) đến
Ngân hàng Nhà nước trung ương. Trong thẩm quyền của mình Ngân hàng
Nhà nước trung ương yêu cầu các Ngân hàng thương mại báo tất cả số liệu
phát sinh của tất cả các tài khoản mà doanh nghiệp đang mở tại các ngân hàng
thương mại khác nhau, sau đó tổng hợp chuyển cho cơ quan hải quan. Có như
vậy mới quét hết được các khoản thanh toán của doanh nghiệp cho lô hàng
đang cần xác định trị giá. Hiện nay hải quan chỉ kiểm tra, xác minh được
nguồn tiền thanh toán trên tài khoản của doanh nghiệp ghi trên hợp đồng,
những tài khoản khác ở những Ngân hàng thương mại khác, cơ quan hải quan
không biết được.

+ Cơ chế xác minh tiền thanh toán của doanh nghiệp qua ngân hàng
cũng cần điều chỉnh cụ thể và phù hợp. Qui định hiện nay tại Thông tư liên
tịch số 01/2006/TTLT-BTC-NHNN "khi doanh nghiệp có dấu hiệu vi phạm bị
cơ quan hải quan kiểm tra", dẫn đến nhiều Ngân hàng thương mại hiểu rằng
chỉ khi có quyết định kiểm tra của cơ quan hải quan mới cung cấp số liệu xác
minh bởi vậy việc xác minh còn gặp nhiều khó khăn.

+ Cơ chế quản lý tiền tệ trong khâu lưu thông nội địa cũng cần có cơ
chế quản lý chặt chẽ theo hướng qui định toàn bộ các khoản thanh toán giữa

99
các tổ chức, doanh nghiệp với nhau (thậm chí đến cá nhân nếu sử dụng thẻ tín
dụng) phải qua ngân hàng. Như thế Nhà nước vừa kiểm soát được lượng tiền
mặt lưu thông trên thị trường, vừa thuận lợi cho các cơ quan chức năng trong
quá trình kiểm tra.

Hai là, cơ quan Thuế, quản lý thị trường tăng cường công tác kiểm tra
việc sử dụng hóa đơn, việc ghi giá hóa đơn thấp hơn giá bán thực tế. Việc
kiểm tra chế độ kế toán hạch toán, sổ sách chứng từ của doanh nghiệp cần
phải được làm thường xuyên và dứt điểm. Theo qui định, chậm nhất hết quý 1
năm sau, doanh nghiệp vẫn phải nộp báo cáo quyết toán cho cơ quan thuế nội
địa và cơ quan thuế phải tiến hành kiểm tra, đánh giá, xác nhận việc tuân thủ
pháp luật của doanh nghiệp, việc tuân thủ chế độ sổ sách kế toán của doanh
nghiệp. Tuy nhiên, thực tế có doanh nghiệp 2, 3 năm chưa được cơ quan thuế
kiểm tra lần nào.

- Ba là, sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật liên quan đến công tác
kiểm tra sau thông quan, đưa thẩm quyền kiểm toán và điều tra vào Luật trong
nghiệp vụ Kiểm tra sau thông quan nhằm tăng cường chức năng kiểm soát trị
giá hải quan. Cần bổ sung cơ sở pháp lý qui định về quy chế phối hợp giữa
lực lượng kiểm tra sau thông quan với lực lượng kiểm soát chống buôn lậu để
tiến hành điều tra, xác minh đối tượng vi phạm pháp luật. Nội dung quy chế
phải làm rõ trách nhiệm trao đổi thông tin, phối hợp nghiệp vụ giữa hai lực
lượng này.Ban hành quy chế sử dụng "đặc tình" phục vụ nghiệp vụ trị giá hải
quan nói riêng, nghiệp vụ hải quan nói chung. Về lâu dài cần thiết phải xây
dựng và phát triển lực lượng tình báo hải quan. Điểm nổi trội của lực lượng
tình báo là khả năng tổng hợp và phân tích thông tin. Với các khả năng như
vậy, thông tin tình báo thường có độ chính xác cao rất thuận lợi để làm cơ sở
đấu tranh với doanh nghiệp.

- Bốn là, phải qui định cụ thể và áp dụng nghiêm túc, triệt để chế tài
về xử phạt hành chính khi doanh nghiệp vi phạm khai báo giá thấp hơn thực

100
tế mua bán dẫn đến thiếu thuế phải nộp cho NSNN. Cơ chế quản lý này hết
sức quan trọng vì đảm bảo tính tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp, tạo sự
minh bạch, cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp với nhau, nâng cao
uy tín của ngành Hải quan và sự nghiêm minh của Pháp luật. Hiện tại Nghị
định 40 có qui định việc xử lý này nhưng rất chung chung, Thông tư 40 và qui
trình kiểm tra trị giá kèm theo Quyết định 1636 thì không có dòng nào qui
định. Thực tế hiện nay, hiện tượng doanh nghiệp khai báo trị giá thấp hơn
thực tế diễn ra hết sức phổ biến, hải quan kiểm tra bác bỏ, xác định lại trị giá
và ấn định thuế, doanh nghiệp chấp nhận nộp khoản chênh lệch thuế này
nhưng chưa xử phạt trường hợp nào.

- Năm là, xây dựng và ban hành cơ sở pháp lý về mua thông tin giá, về
thẩm định giá đối với: Giá cả thực tế giao dịch, mối quan hệ giữa hai bên mua
và bán v.v... của một số lô hàng nhập khẩu từ các công ty thẩm định giá tại
nước ngoài. Trong đó xác định rõ những trường hợp nào, qui mô nào, cấp nào
thì được phép sử dụng cơ chế mua thông tin.

- Sáu là, xây dựng và từng bước hoàn thiện các qui định về chống bán
phá giá, chống trợ giá để thực hiện đầy đủ Hiệp định trị giá GATT/WTO ngay
cả trong trường hợp hàng nhập khẩu được bán phá giá, được trợ giá vẫn xác
định được trị giá tính thuế. Trường hợp như vậy cần bổ sung cơ sở pháp lý để
cơ quan hải quan có thể áp dụng cơ chế "trưng mua hàng hóa" nhằm răn đe,
ngăn chặn việc gian lận thương mại qua giá tính thuế ở một số mặt hàng nhạy
cảm, tức là nếu doanh nghiệp khai báo trị giá hàng hóa nhập khẩu quá thấp
mà cơ quan hải quan chưa thể có đủ căn cứ để đấu tranh thì có thể trưng mua
hàng hóa đó theo giá khai báo sau khi đã bù đắp một số chi phí hợp lý cho
doanh nghiệp.

- Bảy là, hoàn thiện thêm một bước cơ chế về ấn định thuế trong
trường hợp có cơ sở chứng minh giá khai báo không trung thực hoặc hồ sơ,
chứng từ không hợp pháp, hợp lệ hoặc điều kiện, phương pháp xác định trị

101
giá do doanh nghiệp khai báo không đúng; về bảo lãnh thuế trong trường hợp
trì hoãn xác định trị giá hoặc giữ một bộ phận hàng hóa, hay giấy tờ pháp lý
của hàng hóa nhập khẩu (trường hợp không được bảo lãnh hay ký quĩ về thuế)

- Tám là, xây dựng và từng bước hoàn thiện cơ chế về giao dịch điện tử
giữa các doanh nghiệp với cơ quan hải quan, giữa cơ quan hải quan với Nhà
nước, Chính phủ và các ngành hữu quan liên quan đến quản lý Nhà nước về hải
quan theo Luật giao dịch điện tử ngày 29/11/2005. Tăng cường và mở rộng tính
pháp lý về chứng từ điện tử, chữ ký điện tử, dữ liệu điện tử thông tin điện tử,...

Đối với doanh nghiệp phải xây dựng cơ sở pháp lý đồng bộ cho triển
khai mô hình thông quan điện tử vì hiện đại hóa các khâu nghiệp vụ sẽ tạo
thuận lợi rất lớn cho áp dụng phương pháp trị giá hải quan. Để phát triển mô
hình này cần thiết phải:

+ Xây dựng qui định về bộ hồ sơ điện tử trong đó các vấn đề như chữ
ký điện tử, trách nhiệm, thời gian lưu trữ hồ sơ, giá trị pháp lý của hồ sơ phải
được qui định rõ. Hạn chế tối đa việc doanh nghiệp sau khi khai điện tử vẫn
phải nộp hồ sơ giấy cho cơ quan hải quan.

+ Xây dựng qui chế hỗ trợ, khuyến khích phát triển hệ thống khai báo
điện tử nhất là các đại lý thủ tục hải quan như hỗ trợ về phần mềm khai báo
điện tử, đào tạo cán bộ chuyên trách, ưu tiên thông quan nhanh đối với các
doanh nghiệp chấp hành tốt pháp luật hải quan...

- Chín là, phải xây dựng qui chế hợp tác giữa cơ quan hải quan với
cộng đồng doanh nghiệp trong việc tuyên truyền phổ biến quy định pháp luật
về trị giá tính thuế để doanh nghiệp hiểu, tự giác thực hiện và hỗ trợ hải quan
trong kiểm tra, xác định trị giá theo hướng cơ quan hải quan cung cấp thông
tin, hỗ trợ kỹ thuật và đào tạo cho doanh nghiệp kiến thức về trị giá, doanh
nghiệp cung cấp cho hải quan thông tin về các hành vi gian lận của doanh
nghiệp khác, cơ quan hải quan phải có trách nhiệm xác minh, trả lời và đảm
bảo tính bảo mật thông tin.

102
3.2.2. Hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin trong
thực hiện xác định trị giá tính thuế hàng nhập khẩu

3.2.2.1. Hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật công nghệ

Cơ sở hạ tầng kỹ thuật - công nghệ hỗ trợ công tác trị giá hải quan
theo WTO gồm có 3 phần chính đó là phần cơ sở hạ tầng, phần cứng và phần
mềm về công nghệ thông tin. Các nội dung hoàn thiện dưới đây cũng tập
trung theo 3 nội dung đó:

Thứ nhất, thiết lập hệ thống công nghệ thông tin đồng bộ thống nhất
trong toàn ngành hải quan nằm trong tổng thể chung của ngành Tài chính và
đạt được các yêu cầu:

- Đảm bảo hệ thống xử lý dữ liệu tập trung tại trung tâm dữ liệu Tổng
cục Hải quan;

- Thiết lập hệ thống trao đổi dữ liệu điện tử theo chuẩn mực quốc tế
giữa cơ quan hải quan với các cơ quan trong Bộ Tài chính, Chính phủ và các
cơ quan liên quan khác như Ngân hàng, Kho bạc Nhà nước, Bộ Công thương,
phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam,... nhằm mục đích lâu dài là
thực hiện toàn bộ thủ tục hải quan trên mạng.

- Đảm bảo hạ tầng mạng kết nối các đơn vị hải quan trong toàn ngành
theo mô hình mạng WAN trên cơ sở tận dụng tối đa hạ tầng truyền thông có
sẵn của Bộ Tài chính.

Thứ hai, rà soát lại hiện trạng trang thiết bị công nghệ thông tin trong
toàn ngành từ đó lên kế hoạch đầu tư đủ trang thiết bị cho các đơn vị trong
ngành. Đầu tư trang thiết bị chuyên dụng cho trung tâm dữ liệu của Tổng cục
Hải quan để đảm bảo năng lực xử lý thông tin theo mô hình tập trung.

Thứ ba, xây dựng kho dữ liệu giá có đầy đủ các tiêu chí theo yêu cầu
lưu trữ, cập nhật và khai thác. Để triển khai tốt xác định trị giá tính thuế hàng
nhập khẩu theo các phương pháp của ACV, cơ quan hải quan phải xây dựng

103
được một kho dữ liệu về trị giá tổng hợp bao gồm dữ liệu giá khai báo, giá đã
kiểm tra, giá đã xác định và các mức giá "chuẩn" có thể được lưu trữ, xử lý
theo những nguyên tắc bảo mật. Sau hơn 4 năm triển khai, thực hiện Hải quan
Việt Nam đã xây dựng được hệ thống dữ liệu trị giá GTT22, tuy nhiên trên
thực tế dữ liệu GTT22 còn tồn tại nhiều điều bất cập, cần được hoàn thiện cả
về hệ thống xử lý và cơ sở dữ liệu. Trước mắt cần phải hoàn chỉnh chương
trình phần mềm quản lý giá tính thuế trên cơ sở nâng cấp chương trình
GTT22 hiện tại. Bổ sung một số tiêu chí cho hệ thống GTT22 để đảm bảo
tính hiệu quả và thực dụng trong khai thác nhằm xác định chính xác trị giá
hàng nhập khẩu như:

- Bổ sung tiêu chí dữ liệu giá chuẩn phục vụ công tác kiểm tra trị giá
bao gồm dữ liệu QLRR (thay cho dữ liệu giá ban hành kèm theo công văn
4046 do Tổng cục Hải quan ban hành hiện nay) và dữ liệu giá hàng trọng
điểm (do các Cục Hải quan địa phương xây dựng) để các Cục Hải quan địa
phương khác nhau có thể tham khảo lẫn nhau trong quá trình xác định trị giá.

- Bổ sung thêm các tiêu thức rút ra từ nguyên tắc quản lý rủi ro như:
hình thức giao dịch, đàm phán hợp đồng, các cấp bậc giao dịch,... Hiện nay,
chỉ cập nhật vào hệ thống GTT22 các tiêu thức có sẵn trên tờ khai trị giá và tờ
khai hàng hóa nhập khẩu do đó việc lợi dụng các thông tin của hệ thống này
để đánh giá độ rủi ro là rất hạn chế.

- Tăng cường thêm các tiêu chí có thể khai thác cũng như các tiện ích
với chức năng tìm kiếm. Chẳng hạn tiêu chí nước xuất khẩu, nhà xuất khẩu,
nước xuất xứ v.v.. điều này giúp tìm kiếm, sàng lọc đối với các mặt hàng
giống hệt, tương tự.

Các tiêu chí xây dựng trong chương trình GTT22 phải thể hiện tính
chuẩn, thống nhất với các tiêu chí trong các phần mềm hệ thống khác từ đơn
vị tính, cách thể hiện tên hàng hóa, đơn vị tiền tệ v.v.. tránh lỗi kỹ thuật do sự
không đồng bộ giữa các phần mềm có thể gây ra. Đồng thời phải mang tính

104
phù hợp nhất với các phần khác của các ngành hữu quan và các nước có lưu
lượng hàng hóa nhập khẩu về Việt Nam (viết trên cùng loại ngôn ngữ), thể
hiện được tính tương thích, thuận tiện trong truy cập và tích hợp dữ liệu.

Thứ tư, Tổng Cục Hải quan cần xây dựng cuốn "cẩm nang trị giá hải
quan" ghi chép tất cả các tình huống thực tế phát sinh về trị giá và cách thức
giải quyết của cơ quan hải quan.Việc tích lũy các tình huống sẽ là kinh
nghiệm quý báu cho cán bộ hải quan tham khảo trong thực tiễn công việc
hàng ngày.

3.2.2.2. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ trong việc kiểm
tra, xác định trị giá tính thuế hàng nhập khẩu

Để hoàn thiện hệ thống thông tin phục vụ công tác kiểm tra, xác định
trị giá tính thuế hàng nhập khẩu cần thiết phải xây dựng, thường xuyên bổ
sung các cơ sở thông tin về khách hàng, mặt hàng, giá cả.

- Về hệ thống thông tin khách hàng. Hiện nay đã được xây dựng và
đang trong quá trình hoàn chỉnh (gọi là danh bạ doanh nghiệp xuất nhập
khẩu), tuy nhiên lượng thông tin, qui mô và tính tự động hóa của chương trình
còn hạn chế do vậy, ngoài việc đẩy nhanh tiến độ xây dựng còn phải nghiên
cứu, phân tích tiếp các tiêu chí thông tin cần khai thác. Hiện tại Tổng cục thuế
đang có số liệu về tất cả các doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh, nhưng số
liệu đó chủ yếu có liên quan đến thuế nội địa như báo cáo kế toán thuế, tình
trạng thu nộp thuế. Kết hợp với Tổng cục thuế, Tổng cục Hải quan phải xây
dựng bộ tiêu chí về khách hàng đảm bảo tiêu chuẩn sau:

+ Đầy đủ các tiêu chí thông tin như: Tên doanh nghiệp, mã số thuế,
địa chỉ doanh nghiệp, số điện thoại và fax liên hệ, thông tin về các tài khoản
đăng ký tại ngân hàng, vốn pháp định, tình hình vi phạm pháp luật về Thuế,
Hải quan trong các năm, kim ngạch xuất nhập khẩu theo giai đoạn, tổng số
thuế đã nộp, tên, địa chỉ các thành viên hội đồng quản trị, các chi nhánh hoặc
các liên doanh, liên kết.

105
+ Phần mềm thông tin về khách hàng phải thiết kế để các đơn vị hải
quan nơi làm việc trực tiếp với doanh nghiệp cập nhật, khai thác thông tin
hàng ngày do vậy phần mềm phải tương thích và tích hợp được với các
chương trình khác để có thể kết xuất được dữ liệu từ các chương trình khác
như chương trình quản lý tờ khai, kế toán thuế, quản lý giá tính thuế, thông
tin vi phạm doanh nghiệp,...

+ Phần mềm thông tin về khách hàng phải kết nối tự động với cơ quan
thuế nội địa, thương mại, Kho bạc, ngân hàng,... để cập nhật thêm thông tin.

- Về hệ thống thông tin mặt hàng: Hiện tại chưa được xây dựng. Thực
tế thực hiện công việc này rất khó khăn vì hiện tại có tới hàng trăm ngàn mặt
hàng khác nhau hàng năm nhập khẩu vào Việt Nam với phẩm cấp, chất lượng,
ký mã hiệu, model,... khác nhau. Tuy nhiên, đối với trị giá hải quan thì thông tin
về mặt hàng có vai trò rất quan trọng, vì vậy cần thiết phải xây dựng cơ sở thông
tin này. Có thể xây dựng mô hình hệ thống thông tin về mặt hàng như sau:

+ Cải tiến phần mềm tra cứu mã hàng hóa hiện có theo hướng có thể
bổ sung thêm thông tin vào từng mã hàng (tối thiểu phải đạt tới mã 6 số) để
sử dụng cho mục đích xác định trị giá hải quan.

+ Các tiêu chí bổ sung thông tin bao gồm: Tên hàng theo cách gọi
thương mại và kỹ thuật, tính năng sử dụng, thành phần cấu tạo, phương pháp
chế tạo, đặc điểm kỹ thuật v.v..

+ Phần mềm phải có khả năng cập nhật thêm số liệu và khi khai thác
có thể khai thác theo tên hàng và mã số HS.

- Về hệ thống thông tin giá cả: Hiện tại đã có một số nguồn thu thập
thông tin về giá cả như hệ thống GTT22, Internet v.v.. thời gian tới cần xây
dựng thêm nguồn cung cấp thông tin để làm giàu thêm dữ liệu giá. Có thể
khai thác từ các nguồn sau: Tin từ cơ quan thuế, Công an, từ các đại sứ quán
của Việt Nam ở nước ngoài, tin tình báo hoặc tin từ trao đổi với cơ quan hải
quan các nước. Để chuyển hóa các thông tin này phục vụ cho công tác trị giá

106
hải quan cần phải xây dựng một cơ chế trao đổi, cung cấp thông tin cũng như
chuyển đổi thông tin từ các nguồn trên thành dữ liệu mang tính pháp lý.

Hệ thống giá "chuẩn" dùng để kiểm tra trị giá còn nhiều bất cập trong
áp dụng thực tế như không linh hoạt trong việc loại bỏ các mức giá cũ cũng
như cập nhật các mức giá mới, vì vậy phải thường xuyên cập nhật các mức
giá mới, đồng thời hệ thống giá chuẩn này phải kết nối trong hệ thống GTT22.

3.2.3. Hoàn thiện mô hình tổ chức kết hợp với việc đào tạo nâng
cao năng lực cán bộ làm công tác quản lý trị giá tính thuế

3.2.3.1. Hoàn thiện mô hình tổ chức với các chức năng quản lý trị
giá phù hợp với Hiệp định và thực tiễn

Có thể nói, bộ máy tổ chức, quản lý đóng vai trò hết sức quan trọng,
quyết định tới sự thành công trong áp dụng phương pháp trị giá hải quan. Vì
vậy, trong hiện tại và thời gian tới, cần phải hoàn thiện mô hình tổ chức quản
lý công tác trị giá theo 3 cấp với chức năng cụ thể như sau:

- Cấp Tổng cục Hải quan cần xây dựng trung tâm trị giá hải quan.
Hiện nay, Việt Nam đã là thành viên chính thức gia nhập WTO, theo nhận
định của các nhà phân tích cũng như tham khảo kinh nghiệm quốc tế thì trị
giá hải quan sẽ là một lĩnh vực quan trọng chiếm phần lớn công việc của
nghiệp vụ kiểm tra thu thuế. Với khối lượng công việc lớn như vậy nếu chỉ
phân công một số cán bộ chuyên trách sẽ không đáp ứng được yêu cầu. Hơn
nữa, làm công tác trị giá hải quan bằng cách thu thập số liệu về giá cung cấp
cho hải quan địa phương rồi yêu cầu tham vấn, bác bỏ, áp lại giá như hiện nay
là chưa đủ. Thành lập trung tâm trị giá hải quan sẽ hình thành nên các bộ phận
chuyên sâu về phân tích, dự báo các vấn đề liên quan đến trị giá hải quan, về
thương phẩm hàng hóa, về giá cả, thị trường v.v.. Khi đó sẽ hỗ trợ được hải
quan địa phương kỹ năng tham vấn, kỹ năng phân tích bộ hồ sơ, chứng từ
cũng như cung cấp thông tin phục vụ xác định trị giá hải quan.

Chức năng của trung tâm chủ yếu bao gồm:

107
+ Luật hóa các qui định của ACV trong xác định trị giá thành các
chuẩn mực chung về kiểm tra, xác định trị giá trong phạm vi quốc gia. Phối
hợp với các Bộ, ngành trong việc chuẩn bị và duy trì pháp luật về trị giá.

+ Tổ chức tiếp thu, học tập kinh nghiệm của WCO, của các nước trên
thế giới để đào tạo, xây dựng, triển khai thủ tục, chính sách tác nghiệp chuẩn
mực cho các công chức làm công tác xác định trị giá trong phạm vi toàn ngành.

+ Xử lý các trường hợp xác định trị giá khó do hải quan địa phương
đề nghị trợ giúp, hoặc các trường hợp doanh nghiệp nhập khẩu có qui mô lớn
tại các Cục Hải quan địa phương khác nhau.

+ Tổ chức thu thập dữ liệu giá từ các nguồn khác nhau, đánh giá, phân
tích, tổng hợp để xây dựng kho dữ liệu giá (đặc biệt là đối với hàng hóa QLRR
có trị giá lớn, thuế suất cao) chia sẻ cho các Cục Hải quan địa phương sử dụng.

+ Thực hiện kiểm tra công tác trị giá tại các Cục hải quan địa phương,
đôn đốc, nhắc nhở kịp thời những hành vi sai lệch trong xác định trị giá tại địa
phương. Xem xét và giải quyết các kháng nghị cấp Tổng cục theo Luật khiếu
nại tố cáo hiện hành.

+ Nghiên cứu, phân tích, triển khai các tiêu chí rủi ro để đưa vào các
hệ thống tự động.

- Cấp Cục hải quan tỉnh, thành phố là các phòng trị giá hải quan. Đây
là cấp trung gian tiếp nhận thông tin từ Tổng cục để chỉ đạo các Chi cục. Cơ chế
quản lý hành chính cũng như qui mô công việc không cho phép thực hiện quan
hệ nghiệp vụ trực tiếp giữa Tổng cục và Chi cục. Do vậy cần thiết phải thành lập
phòng trị giá hải quan thuộc Cục hải quan tỉnh, thành phố (hiện nay mới có 8
Cục hải quan tỉnh thành lập phòng trị giá) thực hiện các chức năng sau:

+ Thẩm định sau (Post Entry Verification) các tờ khai được lựa chọn
trên cơ sở đánh giá rủi ro. Trực tiếp tham vấn trị giá đối với những lô hàng
thuộc diện QLRR có trị giá lớn, thuế suất cao.

108
+ Tổ chức tiếp thu nghiệp vụ, chính sách, qui trình kiểm tra, xác định
trị giá, theo dõi, hướng dẫn, đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ xác định trị giá tại
các Chi cục. Với những Chi cục hải quan có lưu lượng hàng hóa lớn cần bố trí
các chuyên gia của phòng thường xuyên, trực tiếp trợ giúp.

+ Phối hợp với bộ phận kiểm tra sau thông quan trong việc kiểm tra
doanh nghiệp.

- Cấp Chi cục hải quan là nhóm công chức chuyên trách trực thuộc
lãnh đạo Chi cục. Về mặt chức năng, nhóm này trực tiếp làm công tác kiểm
tra, xác định trị giá và chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn trực tiếp từ lãnh đạo Chi cục.

3.2.3.2. Đẩy mạnh đào tạo và nâng cao năng lực cán bộ làm công
tác kiểm tra xác định trị giá

Song song với việc hoàn thiện mô hình tổ chức quản lý thì vấn đề xây
dựng nguồn nhân lực cho mô hình đó cũng cần phải được quan tâm đúng
mức. Việc thiết lập một mô hình tổ chức quản lý khoa học, hiệu quả là điều có
thể làm được, tuy nhiên, để đào tạo được một lớp cán bộ vận hành mô hình đó
còn khó hơn nhiều. Theo kết quả đánh giá của ngành hải quan năm 2007 thì
hiện tại cán bộ liên quan đến công tác trị giá mới chỉ đáp ứng được yêu cầu về
mặt số lượng, về mặt chất lượng vẫn còn nhiều hạn chế. Với nguồn lực khan
hiếm (xét trên tiêu chí giữa yêu cầu công tác trị giá hải quan và chất lượng
nguồn nhân lực hiện có) cần tập trung hoàn thiện các nội dung sau:

- Cần phải tiến hành đánh giá lại cán bộ và phân tích công việc có
liên quan đến xác định trị giá hải quan. Trước đây việc bố trí cán bộ chưa căn
cứ vào đầu việc cụ thể mà chủ yếu dựa vào lưu lượng tờ khai nhập khẩu, gây
lãng phí nguồn nhân lực. Muốn vậy, đơn vị hải quan các cấp phải chỉ ra cụ thể
nghiệp vụ trị giá tại đơn vị mình bao gồm những công việc gì, yêu cầu năng lực
cán bộ đối với công việc đó, cần bao nhiêu người để thực hiện công việc đó.
Trên cơ sở số liệu phân tích sẽ lập kế hoạch bố trí cán bộ phù hợp để thực hiện.

109
- Xây dựng kế hoạch đào tạo cán bộ trị giá hải quan theo hướng
chuyên sâu về nhóm hàng, ngành hàng. Căn cứ vào khả năng của từng cán bộ
và lĩnh vực của khóa đào tạo để cử cán bộ tham gia cho phù hợp. Các kỹ năng
về các chuyên đề có liên quan cần chú trọng đào tạo như:

+ Chuyên đề về các dấu hiệu, hình thức và thủ đoạn gian lận thương
mại qua giá diễn ra phổ biến trong giai đoạn chuyển tiếp.

+ Chuyên đề kiểm tra trị giá khai báo của doanh nghiệp và các biện
pháp nghiệp vụ để phát hiện gian lận trị giá từ khâu đăng ký tờ khai, khâu
kiểm hóa, khâu xác định trị giá tính thuế,...).

+ Chuyên đề về công tác tham vấn giá bao gồm: Chuẩn bị tham vấn; nội
dung, hình thức tham vấn; cách lập biên bản tham vấn; kết luận sau tham vấn,...).

+ Chuyên đề về thu thập, cập nhật, khai thác, sử dụng thông tin phục
vụ công tác kiểm tra, xác định trị giá.

+ Chuyên đề về phương pháp xác định lại giá tính thuế sau tham vấn
bao gồm trình tự áp dụng các phương pháp xác định trị giá; nguồn thông tin
sử dụng để xác định lại giá; cách thức xác định trị giá; cách thức xác định lại
trị giá...).

+ Chuyên đề về kỹ thuật quản lý rủi ro, chuyên đề kiểm tra sau thông
quan, kiểm toán Hải quan.

- Cải cách cơ chế tuyển dụng và phân công cán bộ mới tuyển dụng.
Tuyển dụng cán bộ làm công tác trị giá phải căn cứ vào yêu cầu của các công
việc cụ thể. Số cán bộ mới này phải được đưa đi đào tạo trực tiếp tại các Chi cục
trong khoảng thời gian tối thiểu là 2 năm - khoảng thời gian cần thiết để họ nắm
bắt kinh nghiệm thực tế, kiến thức chung về nghiệp vụ hải quan. Một số trường
hợp, có thể nhận cán bộ có năng lực, kinh nghiệm về quản lý giá nhất là kinh
nghiệm thực tiễn chuyên về ngành Hải quan từ những cơ quan chuyên trách
quản lý giá như Ủy ban vật giá (nay là Cục quản lý giá - Bộ Tài chính).

110
- Xây dựng cơ chế luân chuyển cán bộ trị giá trong ngành hải quan
cần phải đảm bảo tính chuyên sâu và khả năng đào tạo thay thế, tránh hiện
tượng bố trí cán bộ không đúng với chuyên môn của họ. Để khuyến khích sự
phấn đấu, rèn luyện của cán bộ, thường xuyên có sự đánh giá dựa trên các tiêu
chí về chất lượng công việc, tính tích cực, sáng tạo và khả năng phối hợp
trong thực hiện nhiệm vụ.

- Xây dựng "Văn hóa" ngành Hải quan. Nhìn vào những yếu tố văn
hóa, người ta có thể đánh giá được tính chuyên nghiệp cao hay thấp của mỗi
tổ chức, cá nhân. Về cơ sở vật chất, "văn hóa" thể hiện ở cơ sở vật chất, công
nghệ phục vụ như: Công sở, bàn ghế, máy móc, trang thiết bị và sự ngăn nắp
trong việc sắp xếp các thiết bị đó. Về mặt tinh thần, "văn hóa" chính là sự lịch
thiệp trong giao tiếp (thông qua lời nói, cử chỉ) là tinh thần trách nhiệm, là
khả năng chuyên môn, nghiệp vụ v.v..

- Cuối cùng Ngành Hải quan cần tăng cường, bổ sung đủ biên chế
làm công tác giá tại các đơn vị cơ sở, đảm bảo lực lượng này đủ về số lượng,
mạnh về chất lượng để thực thi nhiệm vụ có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu công
tác khi triển khai áp dụng đầy đủ Hiệp định trị giá GATT/WTO trong thời
gian tới.

3.2.4. Hoàn thiện cơ chế, tăng cƣờng hiệu lực và hiệu quả của các
công cụ kiểm tra, kiểm soát trị giá khai báo

Thứ nhất, xây dựng hệ thống kiểm tra sau thông quan đủ mạnh cả về
thể chế, cơ sở vật chất kỹ thuật và lực lượng để hỗ trợ kiểm tra các lô hàng
sau tham vấn nhưng không đủ cơ sở để bác bỏ trị giá khai báo, vẫn còn nghi
ngờ về tính trung trực của trị giá khai báo.

Theo Tổ chức Hải quan thế giới (WCO) thì "kiểm tra sau giải phóng
hàng là quá trình các công chức Hải quan kiểm tra tính chính xác của tờ khai
hải quan, thông qua việc kiểm tra sổ sách kế toán, hệ thống kinh doanh và mọi
dữ liệu thương mại của doanh nghiệp" [44, tr. 5].

111
Kiểm tra sau thông quan là một nghiệp vụ quan trọng của Hải quan
hiện đại, nhằm kiểm tra tính tuân thủ pháp luật, tính chính xác của các nội
dung khai báo hải quan. Kiểm tra tại doanh nghiệp là công việc rất quen thuộc
đối với các cơ quan quản lý như Thuế, Thanh tra,... nhưng đây là hoạt động
khá mới mẻ đối với Hải quan Việt Nam.

Kiểm tra sau thông quan không chỉ được coi là biện pháp đảm bảo
thực thi ACV mà có thể xem như môi trường để tồn tại và phát triển ACV
trong khuôn khổ quốc gia, bởi lẽ:

- ACV đưa ra các điều kiện về xác định trị giá dựa trên nguyên tắc
tuân thủ tự nguyện của cộng đồng doanh nghiệp và trao cho cơ quan Hải quan
quyền nghi ngờ, kiểm tra các lô hàng nhập khẩu mà họ cho là có vấn đề về trị
giá. Rõ ràng để thông quan nhanh chóng, việc kiểm tra trị giá vốn dĩ khá phức
tạp không thể tiến hành ngay tại cửa khẩu mà phải thực hiện ở doanh nghiệp
hoặc tại cơ quan Hải quan sau khi hàng hóa đã được thông quan.

- Trong môi trường hoạt động của Hải quan hiện đại vẫn phải tiếp tục
cuộc đấu tranh với các hiện tượng gian lận thương mại, trong đó có gian lận
về trị giá là hiện tượng hết sức phổ biến nhất là đối với những nước đang phát
triển và chậm phát triển. Nhưng với nguồn lực có hạn cơ quan Hải quan
không thể tiến hành kiểm tra toàn bộ hàng hóa nhập khẩu mà phải chọn lọc ra
những lô hàng có nghi vấn để kiểm tra thông qua kỹ thuật quản lý rủi ro. Vấn
đề cần phải giải quyết ở đây là phải tách được những lô hàng gian lận ra khỏi
những lô hàng khai báo trung thực để đảm bảo tính công bằng, trong sáng,
chính xác và minh bạch của các nguyên tắc xác định trị giá theo ACV.

Chính vì lẽ đó mà hệ thống kiểm tra sau thông quan phải đủ mạnh để


tạo tiền đề cho việc thực hiện một cách đầy đủ ACV tại Việt Nam.

Thứ hai, ứng dụng kỹ thuật quản lý rủi ro trong công tác quản lý giá
tính thuế hàng nhập khẩu.

112
Để đáp ứng yêu cầu thông quan nhanh chóng hàng hóa xuất nhập khẩu
theo cơ chế quản lý hải quan hiện đại, cơ quan Hải quan không thể tiến hành
kiểm tra trị giá một cách tràn lan mà phải xác định trọng tâm, trọng điểm
kiểm tra thông qua việc phân loại doanh nghiệp và mặt hàng dựa trên mức độ
rủi ro được ứng dụng rộng rãi ở hầu hết các khâu nghiệp vụ, riêng trong công
tác quản lý giá tính thuế, nó giúp cơ quan tập trung nguồn lực kiểm tra, kiểm
soát những doanh nghiệp, những mặt hàng có độ rủi ro cao nhằm ngăn chặn
hiện tượng gian lận giá, chống thất thu cho ngân sách Nhà nước.

Doanh nghiệp trọng điểm là những doanh nghiệp thường xuyên vi


phạm pháp luật Hải quan, những doanh nghiệp từng bị xử lý về hành vi gian
lận thương mại qua giá.

Mặt hàng trọng điểm cần tập trung quản lý giá tính thuế bao gồm:
Những mặt hàng, nhóm hàng có nguy cơ gian lận giá cao; những mặt hàng có
thuế suất cao, trị giá lớn, mặt hàng nhạy cảm; mặt hàng có xuất xứ từ một số
quốc gia hoặc khu vực có hiện tượng gian lận giá nhiều hơn quốc gia hoặc
khu vực khác; mặt hàng có nguy cơ chuyển giá cao.

Thứ ba, thiết lập một hàng rào kỹ thuật thương mại nhằm bảo vệ một
cách hữu hiệu nền sản xuất trong nước trước tình trạng cạnh tranh không
lành mạnh của hàng hóa nhập khẩu được bán phá giá, trợ giá từ các nước.

Theo các nguyên tắc xác định trị giá của ACV, khi hàng hóa nhập
khẩu có trị giá giao dịch thực tế thấp hơn trị giá thông thường của hàng hóa
đó thì vẫn được chấp nhận trị giá giao dịch là trị giá tính thuế. Tuy nhiên, nếu
có đủ căn cứ để xác định hàng hóa đó được bán phá giá hoặc được trợ giá từ
nước xuất khẩu thì để bảo hộ nền sản xuất trong nước trước tình trạng cạnh
tranh không lành mạnh, đồng thời đảm bảo thu đúng thuế cho NSNN, Chính
phủ và các ngành hữu quan cần tiếp tục hoàn thiện các quy định về căn cứ
pháp lý, quy trình kiểm tra, điều tra xác định hàng hóa được bán phá giá, trợ
giá đến Việt Nam để áp dụng hữu hiệu các biện pháp chống bán phá giá, trợ giá.

113
3.2.5. Phát huy tối đa và đồng bộ các nguồn lực

3.2.5.1. Phát huy các nguồn nội lực

- Nguồn lực tài chính đóng vai trò quan trọng để thực hiện mọi nội
dung cần hoàn thiện. Xây dựng cơ sở thông tin về mặt hàng, khách hàng phải
có nguồn tài chính, trang bị cơ sở hạ tầng kỹ thuật - công nghệ v.v.. đòi hỏi
phải có nguồn tài chính. Huy động đủ nguồn tài chính theo đúng yêu cầu là
rất khó khăn. Do vậy, sử dụng nguồn tài chính một cách tiết kiệm, hợp lý,
hiệu quả là rất quan trọng. Với thực tế hiện nay, ngành hải quan có thể khai
thác từ các nguồn sau:

+ Đề nghị Chính phủ cho giữ lại phần thu thuế xuất nhập khẩu vượt
chỉ tiêu kế hoạch hoặc trích một phần số thuế thu được để triển khai hiện đại
hóa ngành hải quan, trong đó có việc xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật nhằm
hiện đại hóa công tác kiểm tra, xác định trị giá.

+ Đề nghị Bộ Tài Chính cho giữ lại toàn bộ số thu lệ phí làm thủ tục
hải quan để nâng cấp cơ sở hạ tầng như trụ sở làm việc, thiết bị, máy móc phụ
trợ v.v.. đảm bảo điều kiện làm việc của cơ quan hải quan (khoảng 150 tỷ
đồng hàng năm).

+ Sử dụng nguồn vốn ngân sách từ chương trình xây dựng Chính phủ
điện tử. Theo chương trình này, Chính phủ sẽ thiết lập mạng lưới tin học đến
tất cả các Bộ, ngành, đồng thời đào tạo đội ngũ cán bộ vận hành để quản lý và
điều hành qua mạng. Có thể sử dụng nguồn vốn này cho nâng cấp cơ sở hạ
tầng kỹ thuật phục vụ công tác trị giá hải quan.

+ Nguồn Tài chính do Ngân hàng thế giới tài trợ (cho dự án hiện đại
hóa hải quan với số tiền là 70 triệu USD); do tổ chức JICA - Nhật Bản tài trợ
(2 máy soi container). Tổng cục hải quan cần đẩy nhanh tiến trình giải ngân
dự án này. Đây là nguồn tài chính cơ bản để triển khai mở rộng mô hình
thông quan điện tử. Nguồn tài chính này chủ yếu sử dụng để trang bị hệ thống
máy tính, xây dựng mạng WAN.

114
- Nguồn lực con người luôn là đề tài nóng bỏng và được sự quan tâm
hàng đầu. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật, công nghệ và đời sống xã hội
đã khiến cho công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực trở nên cấp thiết.
Yêu cầu phát triển nguồn nhân lực phải tập trung vào duy trì, nâng cao trình
độ nguồn nhân lực hiện có, mở rộng, thu hút, bổ sung nguồn nhân lực mới.

Thực hiện phương pháp trị giá hải quan không thể thiếu một đội ngũ
cán bộ trẻ, được đào tạo cơ bản, năng động, sáng tạo, có khả năng ngoại ngữ
và tin học tốt bên cạnh một đội ngũ cán bộ dày dạn kinh nghiệm, nắm vững
nghiệp vụ hải quan. Việc điều phối tốt hai đội ngũ này sẽ bổ sung, hỗ trợ cho
nhau rất hiệu quả trong quá trình thực thi nhiệm vụ. Để có một nguồn cán bộ
tốt đáp ứng được yêu cầu công việc, Ngành Hải quan cần tập trung vào một
số việc:

+ Lên kế hoạch đào tạo theo các chuyên đề ngắn hạn về các lĩnh vực
liên quan đến nghiệp vụ trị giá hải quan như: Nghiệp vụ trị giá, chứng từ
thanh toán, chứng từ vận tải, thương phẩm hàng hóa, thương mại quốc tế v.v..
Các lớp đào tạo này không chỉ giảng dạy lý thuyết mà phải rèn luyện kỹ năng
áp dụng trong thực tế. Thông thường, để trở thành một chuyên gia trong lĩnh
vực trị giá hải quan, mỗi cán bộ cần phải được đào tạo trong một khoảng thời
gian liên tục từ 7 đến 10 năm. Đối với số cán bộ trẻ có trình độ, tâm huyết với
ngành cần có chương trình đào tạo họ trở thành những chuyên gia về trị giá để
sử dụng trong tương lai.

+ Tổng cục Hải quan phải không ngừng tạo ra môi trường làm việc tốt
nhất cho cán bộ trị giá hải quan. Tạo điều kiện cho những cán bộ này có thể
tiếp cận, học hỏi được những kiến thức mới nhất nhằm phục vụ công việc của
mình. Phải tạo ra cơ chế đánh giá, phân loại, cơ hội thăng tiến của cán bộ dựa
trên công việc. Ngoài ra thường xuyên mở các buổi thuyết trình, hội thảo
khoa học về kinh nghiệm, kỹ năng trong công tác trị giá của các nước nhằm
hoàn thiện hơn kiến thức của cán bộ trị giá hải quan. Đồng thời, tổ chức các

115
buổi thảo luận giữa các cán bộ trị giá của các Chi cục, Cục hải quan khác
nhau để bổ sung kinh nghiệm, kiến thức giúp những cán bộ này có cái nhìn
tổng hợp hơn về trị giá hải quan.

+ Song song với việc đưa các nội dung xây dựng nét "văn hóa công
sở" ngành hải quan vào quy chế của ngành, các đơn vị hải quan cần thường
xuyên tổ chức các buổi nói chuyện nhằm giáo dục tư tưởng, khuyến khích sự
tự giác phấn đấu của cán bộ hải quan. Vấn đề văn hóa là một trong những vấn
đề rất nhạy cảm vì nó liên quan trực tiếp đến quyền lợi và sự tự do cá nhân
v.v.. Thay đổi thói quen đòi hỏi phải có thời gian, sự tự giác và nỗ lực cá
nhân. Chính vì vậy mỗi cán bộ lãnh đạo và cán bộ đảng viên phải là những
người tiên phong, gương mẫu thực hiện.

Có thể nói, một môi trường làm việc cởi mở, năng động, được trang bị
đầy đủ các kỹ năng cần thiết sẽ là nguồn nuôi dưỡng sự lao động nhiệt tình, sáng
tạo và hiệu quả. Quan tâm thường xuyên đến phát triển nguồn nhân lực sẽ đem
lại sự thành công trong việc áp dụng phương pháp trị giá hải quan theo ACV.

3.2.5.2. Huy động các nguồn lực hỗ trợ bên ngoài khác

Nguồn lực bên ngoài cũng là yếu tố cần thiết góp phần vào sự thành
công của ngành hải quan nói chung, lĩnh vực trị giá hải quan nói riêng. Các
lĩnh vực liên quan đến trị giá hải quan rất rộng, không chỉ bao gồm trong
ngành hải quan mà liên quan đến cả những ngành khác. Thực tế cho thấy,
nhiều khi sự thành công không chỉ do nỗ lực của ngành hải quan mà còn do
sự tác động của các yếu tố bên ngoài. Tổng cục hải quan cần huy động các
nguồn lực bên ngoài phục vụ cho nghiệp vụ trị giá hải quan. Cụ thể là:

- Hiện tại việc mua bán biên lai, ghi giá bán hàng trên biên lai không
đúng thực tế giao dịch đang diễn ra phổ biến, công khai. Việc làm sai lệch giá
hóa đơn mua bán nội địa sẽ gây khó khăn cho cơ quan hải quan trong việc
truy tìm giá nhập khẩu thực tế. Bộ Tài Chính cần tăng cường quản lý chặt chẽ
hơn việc phát hành và quản lý sử dụng các loại biên lai, ấn chỉ. Hoàn thiện

116
chế độ hạch toán kế toán tại các doanh nghiệp và các tổ chức có hoạt động
kinh tế.

- Tranh thủ sự ủng hộ của các cơ quan như Kho bạc và thuế nội địa.
Thuế xuất nhập khẩu và các loại thuế khác có quá trình hình thành, phương
pháp hạch toán khác nhau nhưng cùng tồn tại trong một chủ thể là các doanh
nghiệp. Do vậy, mỗi doanh nghiệp đều có thể là đối tượng quản lý của hai cơ
quan thuế nội địa và hải quan. Để xác minh, kiểm tra trị giá một lô hàng nhập
khẩu cần phải kiểm tra toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp trong một khoảng
thời gian nhất định. Tuy nhiên, do chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan khác
nhau nên thẩm quyền làm việc cũng khác nhau và đều có giới hạn. Sự trợ
giúp, phối hợp của cơ quan thuế sẽ rất thuận lợi cho cơ quan hải quan, nhất là
trong lĩnh vực trị giá hải quan. Cần sớm xây dựng quy chế phối hợp về nghiệp
vụ giữa hai cơ quan.

- Với các cơ quan như báo chí, truyền hình v.v.. ngành hải quan cần
tìm kiếm sự thông cảm, chia sẻ trong công việc. Báo chí và các phương tiện
thông tin đại chúng là các cơ quan tuyên truyền rất có hiệu quả đối với hoạt
động trị giá hải quan. Do hiệu ứng lan truyền, chỉ một bài viết hay một phóng
sự cũng sẽ phổ cập thông tin đến hàng triệu người. Với việc gây tiếng vang
trong dư luận, báo chí tạo nên sức ép lớn để giải quyết các vấn đề nóng bỏng,
mang tính thời sự. Do vậy, Tổng cục Hải quan cần thường xuyên phối hợp
với báo chí và các cơ quan khác tổ chức đánh giá kết quả thực hiện công tác
trị giá, đưa ra những khó khăn vướng mắc, những vấn đề còn bất cập v.v.. có
như vậy, các nguồn lực bên ngoài như báo chí, truyền hình v.v.. mới trở thành
nguồn lực cho áp dụng phương pháp trị giá hải quan.

- Nguồn lực từ hệ thống các ngân hàng cũng rất quan trọng. Hầu hết
nghiệp vụ thanh toán ngoại thương đều phải thông qua hệ thống ngân hàng.
Nếu các Ngân hàng tăng cường kiểm soát chặt chẽ việc chuyển tiền ra nước
ngoài sẽ hạn chế được thủ đoạn gian lận qua trị giá giao dịch hàng hóa nhập

117
khẩu. Hiện tại Việt Nam vẫn chưa kiểm soát được việc thanh toán, chi tiêu
bằng tiền mặt. Nếu các ngân hàng và hệ thống tín dụng tập trung đầu tư, đưa
ra được nhiều hình thức dịch vụ khách hàng hấp dẫn, tiện lợi như thanh toán
thẻ v.v.. sẽ thu hút được đông đảo người dân tham gia. Đó chính là một trong
những cơ sở để tạo lập nên cơ chế kiểm soát chi tiêu tiền mặt. Có thể nói, nếu
kiểm soát được chi tiêu tiền mặt thì kiểm tra sau thông quan trong lĩnh vực trị
giá hải quan sẽ dễ dàng hơn rất nhiều. Quy chế phối hợp cung cấp thông tin
giữa cơ quan thuế với ngân hàng và các tổ chức tín dụng đã được qui định tại
Thông tư liên tịch số 01/2006/TTLT-BTC-NHNN ngày 4/1/2006 giữa liên Bộ
Tài chính và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Trên cơ sở này, ngành Hải quan
cần xây dựng cách thức trao đổi thông tin linh hoạt, thuận tiện cho việc xác
minh các hoạt động kinh tế của doanh nghiệp.

- Nguồn lực từ các tổ chức khác trong nền kinh tế bao gồm các cơ
quan chính phủ, các ngành công nghiệp, thương mại, công an, viện kiểm sát
v.v.. Tổng cục Hải quan cần phải tổ chức những buổi thuyết trình, làm việc
với các cơ quan này nhằm giới thiệu, cung cấp thông tin về trị giá hải quan,
những khó khăn khi thực hiện v.v.. Qua đó đưa ra thông điệp rằng thực hiện
Hiệp định trị giá hải quan theo WTO không chỉ cần sự nỗ lực của ngành hải
quan mà có cả trách nhiệm trợ giúp của các cơ quan khác. Chẳng hạn các cơ
quan thương mại, ban vật giá chính phủ, viện nghiên cứu giá cả có thể giúp cơ
quan hải quan củng cố cơ sở thông tin về giá cả hàng hóa, thị trường; các
ngành công nghiệp có thể giúp thông tin về mặt hàng có liên quan; các cơ
quan tư pháp có thể giúp củng cố cơ sở pháp lý v.v.. Có thể nói, việc tận dụng
các nguồn lực này sẽ làm tăng thêm sức mạnh cho ngành hải quan trong thực
thi nhiệm vụ.

Tóm lại, nguồn lực bên ngoài là yếu tố rất cần thiết, đôi khi đóng vai
trò quan trọng hơn nguồn lực bên trong. Nếu ngành Hải quan thường xuyên
quan tâm khai thác sẽ tạo ra được hiệu ứng tác động rất thuận lợi cho công tác
trị giá hải quan.

118
3.2.6. Nâng cao năng lực nhận thức của hải quan và cộng đồng
doanh nghiệp. Xây dựng chiến lƣợc tự nguyện chấp hành pháp luật của
doanh nghiệp

- Nhận thức của toàn ngành hải quan về áp dụng phương pháp trị giá
hải quan hàng nhập khẩu theo ACV: Có thể nói, phương pháp trị giá hải quan
là một nghiệp vụ hoàn toàn mới đối với ngành hải quan nói chung. Các điều
kiện áp dụng, kỹ năng thực hiện hoàn toàn mới và gần như không kế thừa gì
từ hệ thống trị giá trước đây. Do vậy, ngành Hải quan cần phải nhận thức rằng
mục đích của việc áp dụng phương pháp trị giá hải quan không phải là nhằm
tăng thu thuế mà là đưa ra phương pháp xác định trị giá chính xác, minh bạch
tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc chủ động tự khai báo tính thuế và
hạch toán kinh doanh, tạo điều kiện phát triển thương mại quốc tế.

Vì là nghiệp vụ mới và khó nên việc các cán bộ ở các khâu nghiệp vụ
khác chưa có sự hiểu biết rõ ràng cũng là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, áp dụng
phương pháp trị giá hải quan đều ít nhiều liên quan đến các nghiệp vụ khác.
Sự hiểu biết một cách hạn chế về trị giá hải quan của các khâu nghiệp vụ sẽ
tác động không tốt đến sự hoàn thành nghiệp vụ trị giá hải quan. Chẳng hạn
việc cán bộ kiểm hóa nhập liệu không đầy đủ thông tin về hàng hóa sẽ gây
khó khăn cho cán bộ trị giá tìm kiếm thông tin về mặt hàng tương tự v.v..
Chính vì vậy,Tổng cục Hải quan cần có kế hoạch đào tạo, phổ cập kiến thức
trị giá hải quan cho các cán bộ hải quan không chỉ là cán bộ chuyên trách về
giá mà ở tất cả các khâu nghiệp vụ khác nhằm trang bị kiến thức tối thiểu và
nâng cao nhận thức về kiểm tra, xác định trị giá theo ACV, đặc biệt là đi sâu
rèn luyện kỹ năng, phân tích mối liên hệ giữa từng mảng nghiệp vụ với trị giá
hải quan. Làm được như vậy, mỗi cán bộ hải quan sẽ có ý thức và kỹ năng
thành thạo về những việc cần phải làm, nhờ đó tạo ra một dây chuyền liên
hoàn, thống nhất trong thực thi trị giá hải quan.

- Nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân
trong xã hội đóng vai trò rất quan trọng, vì đây là những đối tượng trực tiếp

119
tham gia xác định trị giá hải quan. Sự nhận thức và hành động của họ sẽ trực
tiếp ảnh hưởng đến ngành hải quan.

Thực tế hiện nay, nhận thức của các doanh nghiệp về trị giá hải quan
nhìn chung còn thiếu và yếu. Thực tế cho thấy các doanh nghiệp không có
hoạt động xuất nhập khẩu gần như đứng ngoài cuộc, họ không quan tâm đến
trị giá hải quan hàng nhập khẩu, mặc dù việc áp dụng phương pháp này phần
nào tác động đến công việc kinh doanh của họ. Với đối tượng này, hải quan
cần đưa ra một thông điệp rõ ràng rằng việc áp dụng phương pháp trị giá hải
quan theo ACV là để đánh giá đúng thực tế giao dịch thương mại, góp phần
tạo lập một môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Kêu gọi
các doanh nghiệp hợp tác với cơ quan hải quan vì lợi ích của cộng đồng và
của chính họ. Nếu có được sự hợp tác của các doanh nghiệp, hiệp hội các
ngành hàng v.v.. cơ quan hải quan sẽ có thêm nguồn thông tin và sự hỗ trợ
đắc lực trong thực thi nhiệm vụ.

Người tiêu dùng cũng gần như không cảm nhận được việc áp dụng
phương pháp trị giá hải quan đã, đang tác động tới họ: giá cả hàng hóa đang
có xu hướng giảm xuống, chất lượng hàng hóa ngày một nâng cao v.v.. Người
dân đang được hưởng lợi ích từ chính sách trị giá hải quan nhưng họ chưa có
trách nhiệm, ý thức ủng hộ nó mà nói cho cùng là bảo vệ quyền lợi của chính
họ. Chỉ cần mỗi người dân khi đi mua hàng đều lấy hóa đơn thuế giá trị gia
tăng và yêu cầu ghi đúng giá trị mua bán, chỉ cần như vậy thôi cũng đã giúp
cơ quan hải quan, thuế nội địa giảm được đáng kể công việc phải làm.

Để tạo ra nhận thức cho các tầng lớp dân cư trong xã hội, chúng ta
phải tuyên truyền bằng nhiều hình thức như mở các cược thi tìm hiểu, các bài
viết trên báo chí, làm các phóng sự truyền hình v.v... qua đó phân tích truyền
đạt rõ cho mọi người biết họ phải làm gì để giúp cơ quan hải quan. Cách nói,
viết phải cụ thể, đơn giản, dân dã và dễ hiểu. Có như vậy các thông điệp đưa
ra dễ nhớ và ăn sâu vào tiềm thức của mọi người.

120
- Xây dựng chiến lược tự nguyện chấp hành pháp luật của hải quan và
doanh nghiệp.

Cơ quan Hải quan và doanh nghiệp đều phải nhận thức rằng họ là bạn
đồng hành với nhau. Mối quan hệ đó dựa trên các quy định của pháp luật và
sự tin tưởng lẫn nhau trong quá trình thực thi pháp luật.

Để giúp cơ quan Hải quan có thể tập trung nguồn lực vào việc kiểm
soát những rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động của mình và giúp doanh nghiệp ý
thức được điều đó, rất cần đến tác động của các biện pháp chế tài hành chính
nhằm giáo dục, động viên, điều chỉnh một bộ phận thiểu số các doanh nghiệp
có ý thức chấp hành kém phải tuân thủ pháp luật, từ đó hình thành nên ý thức
tự giác chung của cộng đồng doanh nghiệp.

Hướng tới mục tiêu đó, các cơ quan quản lý cùng với cộng đồng
doanh nghiệp cần đưa ra các chương trình hành động cụ thể như:

1. Xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật về giá tính thuế
và công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng.

2. Đưa ra các hình thứ khen thưởng động viên kịp thời cho các doanh
nghiệp có truyền thống chấp hành tốt các quy định của pháp luật, kể cả việc
giành cho họ những ưu tiên thủ tục hải quan, chế độ kiểm tra, giám sát Hải
quan thuận lợi nhất.

3. Khuyến khích doanh nghiệp tham gia hỗ trợ một số công việc của
cơ quan Hải quan, nhất là động viên họ hợp tác với cơ quan Hải quan thực
hiện giám sát lẫn nhau trong quá trình thực thi pháp luật.

4. Cơ quan Hải quan thường xuyên tổ chức các chuyên đề nâng cao
trình độ hiểu biết pháp luật về hải quan nói chung và pháp luật về trị giá Hải
quan nói riêng cho cộng đồng doanh nghiệp.

121
KẾT LUẬN

Trong công cuộc đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
hiện nay, yêu cầu đơn giản hóa và hài hòa hóa thủ tục hải quan đang là vấn đề
mang một ý nghĩa vô cùng quan trọng và cần thiết, đặc biệt khi Việt Nam đã
trở thành thành viên chính thức thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới
WTO. Thời gian qua Hải quan Việt nam đã có nhiều cố gắng trong việc cải
cách hành chính và hiện đại hóa qui trình thủ tục hải quan theo tiêu chuẩn của
hải quan thế giới. Một trong những hoạt động cụ thể đó là triển khai áp dụng
phương pháp xác định trị giá tính thuế hàng nhập khẩu theo Hiệp định trị giá
GATT/WTO. Tuy nhiên, thực tế triển khai cho thấy còn tồn tại nhiều bất cập,
khó khăn liên quan đến kinh nghiệm, năng lực, cơ chế xác định trị giá tính
thuế hàng hóa nhập khẩu theo qui định của Hiệp định trị giá GATT/WTO. Đó
là những vấn đề về cơ chế kiểm tra, xác định trị giá; cơ chế phối hợp giữa cơ
quan hải quan với các cơ quan hữu quan và cộng đồng doanh nghiệp trong
kiểm tra, xác định trị giá; về cơ sở pháp lý, cơ sở kỹ thuật, công nghệ và
thông tin và vấn đề con người v.v.

Với mục đích, mong muốn tiếp cận, nghiên cứu ACV, kinh nghiệm
của một số nước và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam nhằm hoàn thiện một
bước cơ chế xác định trị giá tính thuế đối với hàng hóa nhập khẩu trong điều
kiện riêng của Việt nam, Luận văn tập trung giải quyết một số vấn đề sau:

1. Trình bày những vấn đề lý luận, khái quát về lịch sử hình thành của
Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT 1947/1994, khái niệm,
lịch sử của trị giá tính thuế, cơ chế xác định trị giá tính thuế đối với hàng nhập
khẩu trên cơ sở các qui định cụ thể của Hiệp định trị giá GATT/WTO.

2. Phân tích, đánh giá kinh nghiệm, bài học từ việc áp dụng ACV của
một số nước và thực tiễn áp dụng Hiệp định của Việt Nam hiện nay.

122
3. Đề xuất một số nội dung và giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả áp
dụng Hiệp định trị giá GATT/WTO 1994, tiến tới hoàn thiện cơ chế xác định
trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu ở Việt Nam trong giai đoạn hiện tại và
tương lai.

Xác định trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay
đang có những bước đi đầu tiên trên cả phương diện lý luận và thực tiễn theo
hướng quản lý hiện đại, phù hợp với xu hướng phát triển của thế giới. Trước
sức ép của hội nhập kinh tế quốc tế, việc tiếp tục nghiên cứu Hiệp định trị giá
Hải quan (GATT/WTO 1994) nói riêng, các Hiệp định khác có liên quan và
các Điều ước quốc tế nói chung vẫn hết sức cần thiết và ý nghĩa. Điều này
được quyết định bởi Xu hướng hội nhập và nhất là khi chúng ta đã chính thức
là thành viên của WTO. Việc tuân thủ, tôn trọng, áp dụng hiệu quả hơn nữa các
Điều ước quốc tế song phương và đa phương mà Việt Nam chúng ta đã tham
gia, sẽ đồng thời và chứng tỏ rằng chúng ta đã và đang tiến gần hơn với Luật
pháp và thông lệ quốc tế. Điều này là nền móng căn bản và cũng sẽ là động
lực căn bản giúp chúng ta dần khẳng định vị thế của mình một cách vững chắc
trong giao lưu thương mại quốc tế nói riêng trên trường quốc tế nói chung.

Với tư cách là một học viên cao học chuyên ngành Luật Quốc tế, và
với tư cách là một cán bộ công chức Hải quan Việt Nam, Tôi đã lựa chọn và
hoàn thành luận văn này với mong muốn được đóng góp một phần kiến thức
nhỏ bé của mình về chuyên ngành Luật Quốc tế và vào công cuộc cải cách
hiện đại hóa Hải quan Việt Nam.

123
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Vũ Ngọc Anh (1996), Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về Hải quan ở
nước ta hiện nay, Luật án Tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
2. Lê Thanh Bình (1998), Chống buôn lậu và gian lận thương mại, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. Bộ Thương mại (2000), Kết quả vòng đàm phán U-ru-guay và Hệ
thống thương mại đa biên, NXB Thống kê, Hà Nội.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2001), Triết học, tập 3, NXB Chính trị Quốc
gia Hà Nội.
5. Bộ Tài chính (2006), Hệ thống các văn bản pháp luật về thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng và thuế tiêu thụ đặc biệt đối với
hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; thủ tục hải quan, kiểm tra giám sát
hải quan, Hà Nội.
6. Bộ Tài chính (2008), Thông tư số 40/2008/TT-BTC ngày 21/5/2005 hướng
dẫn thi hành Nghị định số 40/2007/NĐ-CP ngày 16/3/2007 của
Chính phủ.
7. Chính phủ (2000), Nghị định 24/2000/NĐ-CP ngày 31-7-2000 quy định chi
tiết chi hàng loạt ĐTNN tại Việt Nam.
8. Chính phủ (2007), Nghị định số 40/2007/NĐ-CP ngày 16/3/2007 quy định
về việc xác định trị giá hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập
khẩu, Hà Nội.
9. Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) - Đại học Kinh tế quốc dân
(NEU) (2004), Chính sách công nghiệp và thương mại của Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập, tập I & II, NXB Thanh Hóa, Hà Nội.
10. Cục Kiểm tra sau thông quan (2006), Giải pháp hoàn thiện hệ thống kiểm
tra sau thông quan, Hà Nội.

124
11. Hoàng Việt Cường (2006), Hoàn thiện hoạt động kiểm tra sau thông
quan ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ kinh
doanh và quản lý, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội.
12. Đại học Ngoại thương (1999), Các công ước quốc tế về vận tải và
hàng hóa, NXB Giao thông vận tải, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, NXB, Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
14. Vương Thị Thu Hiền (2002), "Đi tìm giải pháp cho vấn đề gian lận
thương mại trong thu thuế xuất nhập khẩu", Tạp chí Tài chính
(8), trang 33-35.
15. Nguyễn Thương Huyền, Bùi Nhật Tân (2008), "Những vấn đề cơ bản
về hóa đơn theo pháp luật thuế", Tạp chí Nghiên cứu tài chính kế
toán, số 2 (55), Hà Nội.
16. Khoa Quản lý kinh tế (2000), Giáo trình khoa học quản lý, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
17. Khối Liên hiệp thịnh vượng chung và Phòng Thương mại quốc tế
(1994), Hướng dẫn kinh doanh thực hiện các kết quả của vòng
đàm phán U-ru-guay, Geneve.
18. Kiểm toán Nhà nước (2000) Cẩm nang kiểm toán viên Nhà nước,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nôi.
19. Đặng Ngọc Lợi (1995), Chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế trong
quá trình chuyển sang kinh tế thị trường ở nước ta, Luận án PTS
kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
20. Ngọc Lợi (2005), "Hướng dẫn của WCO về xây dựng và sử dụng hiệu quả
cơ sở dữ liệu về trị giá hải quan trong quản lý rủi ro", Tạp chí Nghiên
cứu Hải quan, (4), tr.24-25.
21. Các Mác (1984), Tư bản, tập I, phần I, NXB Tiến bộ, Mát-xcơ-va,
NXB Sự thật, Hà Nội.

125
22. J.Mark Siegist (1999), Báo cáo xác định trị giá Hải quan ở Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội.
23. Lỗ Thị Nhụ (2003), Hoàn thiện pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
24. Ngân hàng Thế giới (2008), Sổ tay hiện đại hóa Hải quan, Hà Nội.
25. Quốc hội (2001), Luật Hải quan số 29/2001/QH10 ngày 29/6/2001,
Hà Nội.
26. Quốc hội (2005), Luật Thương mại số 26/2005/QH11 ngày 14/5/2005.
27. Suhei Uneo (1998), Giáo trình trị giá Hải quan, tổ chức hải quan Thế
giới (VCO) - Brussels.
28. Trần Thành Tô (2006), Đổi mới quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
của ngành Hải quan hiện nay, Luận văn thạc sĩ kinh doanh và quản lý,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
29. Tổ chức Hải quan Thế giới (1997), Các bài giảng về Hiệp định trị giá
Hải quan, Hà Nội.
30. Tổ chức Hải quan Thế giới (1997), Công ước quốc tế về hệ thống điều
hòa mô tả và mã hóa hàng hóa, (công ước HS), Hà Nội.
31. Tổ chức Hải quan Thế giới (1998), Trị giá Hải quan WTO, Brussels.
32. Tổ chức Hải quan Thế giới (1998), Sổ tay về chống gian lận thương
mại, Hà Nội.
33. Tổ chức Hải quan Thế giới (1999), Hiệp định trị giá Hải quan
GATT/WTO Và các Văn kiện của Ủy ban kỹ thuật về xác đinh trị
giá, Hải quan Brussels.
34. Tổng cục Hải quan (1999), Trị giá hải quan Newzeland - Tài liệu tham
khảo cho Hải quan Việt nam, Lào, Myama, Hà Nội.
35. Tổng cục Hải quan (1999), Hiệp định chung về thực hiện Điều VII Hiệp
định chung về Thuế quan và Thương mại (Hiệp định trị giá
GATT/WTO 1994), Hà Nội.

126
36. Tổng cục Hải quan (2000), Xác định lộ trình tiến tới thực hiện Hiệp
định trị giá GATT/WTO.
37. Tổng cục Hải quan (2000), Công ước quốc tế về hài hòa và đơn giản
hóa thủ tục Hải quan (Công ước Kyoto), Hà Nội.
38. Tổng cục Hải quan (2000), Hội thảo quốc tế về chống buôn lậu và
gian lận thương mại, Hà Nội.
39. Tổng cục Hải quan (2001), Cộng đồng doanh nghiệp - cơ quan Hải quan
và Hiệp định trị giá GATT/WTO, Hà Nội.
40. Tổng Cục Hải quan (2002), Hệ thống quản lý thông tin giá tính thuế,
Hà Nội.
41. Tổng cục Hải quan (2003), Những vấn đề chung về quy định nghiệp vụ
Hải quan, Hà Nội.
42. Tổng cục Hải quan (2003) Tin học ứng dụng Hải quan, Hà Nội.
43. Tổng cục Hải quan (2003), Nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan, Hà Nội.
44. Tổng cục Hải quan (2004), Hiệp định trị giá GATT/WTO và các chuẩn mực
thực tiễn dành cho cộng đồng doanh nghiệp và Hải quan, Hà Nội.
45. Tổng Cục Hải quan (2004), Hướng dẫn xác định trị giá Hải quan
ASEAN (ACVG), Hà Nội.
46. Tổng cục Hải quan (2005), Báo cáo sơ kết triển khai thực hiện Thông tư
118/2003/TT-BTC, Hà Nội.
47. Tổng cục thuế (2007), Luật Quản lý thuế và các văn bản hướng dẫn thi
hành, Nxb Tài chính, Hà Nội.
48. Tổng cục Hải quan (2008), Quyết định số 1636/QĐ-TCHQ ngày 4/8/2008
về việc ban hành quy trình kiểm tra, xác định trị giá tính thuế đối với
hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
49. Lê Thanh Thủy (2005), Những cơ sở để áp dụng phương pháp xác
định trị giá hải quan hàng hóa nhập khẩu ở Hải quan Việt Nam,
Luận văn thạc sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội.

127
50. Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng công chức Hải quan - Tổng cục Hải quan
(2006), Giáo trình thuế và trị giá Hải quan, Hà Nội.
51. UNCTAD (1994), Báo cáo về thương mại và phát triển, New York.
52. Ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế (NCIEC) - Tổng Cục Hải
quan(GDC) - Chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP)
(2000), Hội thảo về thực hiện Hiệp định trị giá GATT/WTO ở
Việt Nam, Hà Nội.
53. Viện Nghiên cứu quản lý Trung ương (2003), Hội nhập kinh tế áp lực
cạnh tranh trên thị trường và đối sách của một số nước, NXB Giao
thông vận tải, Hà Nội
54. Viện Nghiên cứu tài chính (2001), Định giá chuyển giao và thủ thuật
chuyển giá của các công ty đa quốc gia ở Việt Nam, NXB Tài
chính Hà Nội.

TRANG WEB

55. http://www.customs.gov.vn (Tổng cục Hải quan).


56. http://www.mot.gov.vn (Bộ Thương mại).
57. http://www.mof.gov.vn (Bộ Tài chính).
58. http://www.wcoomd.org (Hải quan thế giới).
59. http://www.cbp.gov (Hải quan Mỹ).
60. http://www.customs.go.jp (Hải quan Nhật Bản).

128
PHỤ LỤC

129
Phụ lục 1
Sơ đồ xác định trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu
theo phương pháp trị giá giao dịch

Trị giá giao dịch


theo khai báo

Giao dịch bán hàng Không


để xuất khẩu đến
Việt Nam

Giá thực tế đã hay
sẽ thanh toán cho Không
hàng hoá nhập khẩu


Các bằng chứng
Các khoản điều Có Có Điều chỉnh cộng,
chứng từ về các
chỉnh trừ theo quy định
khoản điều chỉnh

Không Không

Hạn chế và quyền (I) Hạn chế do luật pháp Việt Nam
định đoạt, sử dụng (II) Hạn chế về nơi bán lại hàng ở Việt Không
hàng hoá của người Có Nam
nhập khẩu (III) Hạn chế khác không ảnh hưởng
đến trị giá hàng hoá
Không

Các thoả thuận ràng buộc trong


giao dịch, làm cho không xác Có
định được trị giá
Không

Khoản tiền do người nhập khẩu trả cho người xuất khẩu lấy từ số Có
tiền bán lại hàng hoá, không thuộc trị giá giao dịch

Không
Người nhập khẩu và Có Trị giá giao dịch xấp xỉ Không
người xuất khẩu có
với trị giá chuẩn
quan hệ đặc biệt

Không

Trị giá tính thuế là


Phương pháp thứ hai
trị giá giao dịch
Phụ lục 2
Sơ đồ xác định trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu
theo phương pháp trị giá giao dịch của hàng hóa giống hệt
Hàng hoá giống hệt được nhập Không
khẩuBiểu
vào cùng
3: thời gian với lô
hàng xác định trị giá tính thuế

Hàng hoá giống Không Hàng hoá giống


hệt do cùng một hệt do nhà sản xuất Không
nhà sản xuất khác sản xuất ra
Có Có
Trị giá hải quan của lô Trị giá hải quan được
hàng giống hệt được xác Không xác định theo phương Không
định theo phương pháp pháp thứ nhất
thứ nhất
Có Không Có

Hàng hoá giống Bằng chứng đề điều Hàng hoá giống


hệt được bán với Không chỉnh những khác hệt được bán với Không
cùng cấp độ biệt về cấp độ cùng cấp độ
thương mại thương mại và/hoặc thương mại
và/hoặc số lượng số lượng và/hoặc số lượng

Có Có

Bằng chứng để điều


Điều chỉnh về cùng chỉnh những khác biệt Không
cấp độ thương mại về cấp độ thương mại
và/hoặc số lượng và/hoặc số lượng

Điều chỉnh về cùng
cấp độ thương mại
và/hoặc số lượng

Chênh lệch về chi phí vận tải


Có Điều chỉnh
và bảo hiểm do khoảng cách
chênh lệch
và phương thức vận chuyển

Không

Có hai hay nhiều Có Lựa chọn mức giá


giá giao dịch thoả thấp nhất trong sổ các
mãn điều kiện giá xác định được

Không

Trị giá tính thuế là trị giáo giao Phương pháp


dịch của lô hàng giống hệt thứ ba
Phụ lục 3
Sơ đồ xác định trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu
theo phương pháp trị giá giao dịch của hàng hóa tương tự
Hàng hoá tương tự được nhập khẩu Không
vào cùng thời gian với lô hàng đang
xác định giá tính thuế

Hàng hoá tương Không Hàng hoá tương tự do nhà Không


tự do cùng một
sản xuất khác sản xuất ra
nhà sản xuất

Trị giá hải quan của lô hàng Không Trị giá hải quan được xác Không
tương tự được xác định theo định theo phương pháp
phương pháp thứ nhất thứ nhất

Có Không Có
Hàng hoá
Hàng hoá tương tự Bằng chứng để điều Hàng
được bánhoá tương tự
được bán với cùng Không chỉnh những khác biệt cho với cùng cấp
bán Không
cấp độ thương mại và cấp độ thương mại độ thương mại
người
và/hoặc số lượng và/hoặc số lượng và/hoặc
không có số lượng
quan hệ
Có Có đặc biệt

Bằng chứng về điều chỉnh Không


Điều chỉnh về cung NACC
những khác biệt về cấp độ
cấp độ thương mại S thương mại và/hoặc
và/hoặc số lượng
số lượng

Điều chỉnh về cùng cấp độ
thương mại và/hoặc
số lượng

Chênh lệch về phí vận tải và Có Điều chỉnh


bảo hiểm do khoảng cách và
chênh lệch
phương thức vận chuyển

Không

Có hai hay nhiều Lựa chọn mức giá


Có thấp nhất trong số
giá trị giao dịch
thoả mãn điều kiện các trị giá xác
định được

Không

Trị giá tính thuế là trị giá giao Phương pháp


dịch của lô hàng tương tự thứ tư
Phụ lục 4
Sơ đồ xác định trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu
theo phương pháp khấu trừ
Hàng nhập khẩu, hàng giống hệt,
hàng tương tự (hàng hoá) được bán
nguyên trạng như khi nhập khẩu
Không Hàng hoá đã được gia công,
Có chế biến thêm sau khi nhập khẩu

Không Không Hàng hoá được bán cho người


Hàng hoá được bán cho người
không có quan hệ đặc biệt
không có quan hệ đặc biệt

Có Xác định được phần giá trị tăng
Không
thêm do gia công, chế biến thêm
sau khi nhập khẩu

Hàng hoá được bán trong vòng Không Không Hàng hoá được bán trong
Phương pháp thứ năm
90 ngày tính đến ngày áp dụng vòng 90 ngày tính đến
(Điều 6) ngày áp dụng phương
phương pháp này
pháp này
Có Có

Mức giá bán có số lượng hàng hoá Mức giá bán có số lượng hàng hoá
luỹ tiến lớn nhất luỹ tiến lớn nhất

Có Khấu trừ phần giá trị tăng


Khấu trừ khoản hoa Có bằng chứng về khoản hoa hồng thêm do gia công, chế
hồng hoặc lợi nhuận và hoặc lợi nhuận và chi phí chung biến thêm
chi phí chung
Không

Có bằng chứng về các khoản cước


Khấu trừ khoản cước vận tải và Có
phí bảo hiểm phát sinh sau khi vận tải và phí bảo hiểm phát sinh
sau khi nhập khẩu
nhập khẩu
Không

Khấu trừ các khoản thuế, phí, lệ Có Có bằng chứng về các khoản
phí phải nộp do nhập khẩu và bán thuế, phí, lệ phí phải nộp do
hàng hoá nhập khẩu và bán hàng hoá
Không

Trị giá hải quan


Phụ lục 5
Sơ đồ xác định trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu
theo phương pháp tính toán

Người nhập khẩu sẵn sàng cung cấp Không


các dữ liệu để tính toán

Nhà sản xuất hàng hoá có xác nhận Không


về các dữ liệu cung cấp

Xác định trị giá của


Có Có các dữ liệu về các khoản
các khoản điều chỉnh
điều chỉnh theo Điều 8.1 và 8.2
nêu trên

Không

Cộng thêm Xác định tổng chi phí Có Có các dữ liệu về sản xuất và
chi phí sản xuất đã sản xuất theo các dữ chi phí sản xuất, trừ các khoản
xác định được liệu đã có điều chỉnh nêu trên

Không

Có thêm phần lợi Xác định phần lợi Có các dữ liệu về lợi nhuận và
nhuận và chi phí nhuận và chI phí chi phí chung liên quan đến
chung xác định được chung sản xuất hàng hoá

Trị giá hải quan Phương pháp thứ


sáu (Điều 7)
Phụ lục 6
Sơ đồ xác định trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu
theo phương pháp suy luận

Hàng hoá nhập khẩu có Có


hợp đồng ngoại thương

Không thể xác định trị


Không giá tính thuế theo các
phương pháp từ 1 đến
5 (Điều 1 đến 6)

Không thể xác định trị


giá tính thuế theo
phương pháp áp dụng
linh hoạt các phương
pháp từ 1 đến 5

Xác định trị giá tính


thuế theo bất cứ cách Các phương pháp bị
nào phù hợp, trên cơ sở cấm sử dụng, theo
dữ liệu sẵn có của Điều 7.2
hải quan

Trị giá hải quan


Phụ lục 7

Danh mục các văn bản luật và các văn bản khác
về xác định trị giá tính thuế hàng nhập khẩu tại Việt Nam

Hiệp định trị giá GATT/WTO (ACV) bản tiếng Anh và tiếng Việt gồm 4
phần chia làm 24 điều và 3 phụ lục.
Các văn bản Luật gồm:
1. Luật Hải quan số 29/2001/QH10 ngày 29/6/2001;
2. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hải quan số 42/2005/QH11
ngày 14/6/2005;
3. Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 45/2005/QH11 ngày 14/6/2005;
4. Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006;
5. Luật Thương mại số 36/2005/QH11 ngày 14/6/2005;
6. Luật Giao dịch điện tử số 51/2005/QH11 ngày 29/11/2005;
7. Luật Kế toán số 03/2003/QH11 ngày 17/6/2003.
Các Nghị định của Chính phủ:
8. Nghị định số 149/2005/NĐ-CP ngày 8/12/2005 của Chính phủ qui định
chi tiết thi hành Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu;
9. Nghị định số 60/2002/NĐ-CP ngày 6/6/2002;
10. Nghị định số 155/2005/NĐ-CP ngày 15/12/2005 (thay thế Nghị định
60/2002/NĐ-CP)
11. Nghị định 40/2007/NĐ-CP ngày 16/3/2007 (thay thế Nghị định
155/2005/NĐ-CP) của Chính phủ về việc xác định trị giá hải quan đối với
hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu.
12. Nghị định số 85/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ qui định chi
tiết thi hành Luật Quản lý thuế;...
Các Thông tư, Quyết định của các Bộ chuyên ngành:

13. Thông tư số 59/2007/TT-BTC ngày 14/6/2007 của Bộ Tài chính hướng


dẫn thi hành thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, quản lý thuế đối với hàng
hoá xuất khẩu, nhập khẩu;

14. Thông tư số 118/2003/TT-BTC ngày 8/12/2003 hướng dẫn xác định trị giá
tính thuế hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu;

15. Thông tư số 113/2005/TT-BTC ngày 15/12/2005 (thay thế Thông tư


118/2003/TT-BTC) hướng dẫn thuế xuất khẩu, nhập khẩu;

16. Thông tư số 40/2008/TT-BTC ngày 21/5/2008 (thay thế Thông tư số


113/2005/TT-BTC - phần xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu)
của Bộ Tài chính hướng dẫn xác định trị giá tính thuế đối với hàng hoá
xuất khẩu, nhập khẩu;

17. Quyết định số 30/2008/QĐ-BTC ngày 21/5/2008 về việc ban hành tờ khai
trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu và hướng dẫn khai báo;
18. Quyết định 1102/QĐ-BTC ngày 21/5/2008 ban hành qui chế xây dựng,
quản lý, sử dụng cơ sở dữ liệu giá.

Văn bản của Tổng cục Hải quan:

19. Quyết định 874/QĐ-TCHQ ngày 15/5/2006 ban hành qui trình hải quan
đối với hàng hoá xuất khẩu nhập khẩu;

20. Quyết định 640/QĐ-TCHQ ngày 03/0402006;

21. Quyết định 1636/QĐ-TCHQ ngày 4/8/2008 (thay thế Quyết định 640/QĐ-
TCHQ) ban hành qui trình kiểm tra, xác định trị giá tính thuế đối với
hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu;

22. Công văn số 4046/TCHQ-KTTT ngày 21/8/2008 ban hành danh mục hàng
hoá QLRR về giá và danh mục dữ liệu giá kèm theo.

You might also like