You are on page 1of 88

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

TRẦN PHẠM VĨNH AN

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP LUẬT


ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN
THỊ XÃ GÒ CÔNG, TỈNH TIỀN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ


CHUYÊN NGÀNH LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

HÀ NỘI - 2019
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

TRẦN PHẠM VĨNH AN

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP LUẬT


ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN
THỊ XÃ GÒ CÔNG, TỈNH TIỀN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ


CHUYÊN NGÀNH LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Mã số: 8 38 01 06

Người hướng dẫn khoa học: PGS,TS PHẠM MINH TUẤN

HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu, trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy,
chính xác, trung thực và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

Tác giả

Trần Phạm Vĩnh An


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG
PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nước bằng pháp luật
đối với hoạt động tôn giáo 8
1.2. Nội dung quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động
tôn giáo 28
1.3. Các điều kiện bảo đảm quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt
động tôn giáo 30
Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO VÀ QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO
TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ GÒ CÔNG, TỈNH TIỀN GIANG 34
2.1. Thực trạng hoạt động tôn giáo trên địa bàn thị xã Gò Công, tỉnh
Tiền Giang 34
2.2. Thực trạng công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt
động tôn giáo ở thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang 43
Chương 3: DỰ BÁO, QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUẢN
LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN
GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ GÒ CÔNG, TỈNH TIỀN GIANG 62
3.1. Dự báo tình hình hoạt động tôn giáo trên địa bàn thị xã Gò Công,
tỉnh Tiền Giang 62
3.2. Quan điểm bảo đảm quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt
động tôn giáo hiện nay 64
3.3. Giải pháp nhằm đảm bảo quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với
hoạt động tôn giáo trên địa bàn thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang 65
KẾT LUẬN 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 81
1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn


Ngay từ khi Cánh mạng tháng Tám thành công, Đảng và Nhà nước ta
luôn quan tâm, từng bước hoàn thiện và tăng cường quản lý nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo bằng pháp luật; chú trọng về vấn đề tự do tín ngưỡng, tôn
giáo; phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo.
Tại Điều 24, Chương II, Hiến pháp 2013 quy định: “Mọi người có
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các
tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo
hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”.
Có thể thấy rằng, so với các bản Hiến pháp trước, Hiến pháp 2013 là
một bước tiến quan trọng trong thời kỳ đất nước ta đổi mới và hội nhập với
thế giới. Theo đó, Hiến pháp 2013 cho thấy thái độ cũng như chính sách dân
chủ của Nhà nước ta đối với quyền tự do tôn giáo, coi đó là một nhu cầu và là
một quyền tất yếu của người dân cần phải được tôn trọng, bảo vệ và tạo điều
kiện để họ thực hiện tốt nhất quyền đó.
Tuy nhiên, hiện nay tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp,
những mâu thuẫn, bất đồng giữa các dân tộc và tôn giáo diễn ra nhiều nơi. Ở
Việt Nam, tình hình tôn giáo thời gian qua có diễn biến phức tạp, hoạt động
của một số tôn giáo diễn ra vi phạm một số quy định của Nhà nước như cải
gia thành tự, in ấn, phát tán tài liệu; lợi dụng hoạt động từ thiện, nhân đạo để
mở rộng tín đồ, tăng cường quyên góp, thương mại hóa hoạt động tôn giáo.
Hoạt động truyền đạo trái phép của một số tôn giáo chưa được nhà nước thừa
nhận, các cơ sở cải gia thành tự càng gia tăng.
Về địa phương, nhìn chung các hoạt động tôn giáo diễn ra bình
thường, cơ bản tuân thủ pháp luật. Tăng cường công tác quản lý nhà nước
2

bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo. Đây là vấn đề có ý nghĩa quan
trọng về lý luận và thực tiễn. Góp phần xây dựng thị xã Gò Công văn minh,
xanh sạch đẹp, văn minh đô thị. Hướng dẫn các cơ sở tổ chức đúng quy định
của pháp luật các ngày lễ, tết cổ truyền dân tộc, lễ Giáng sinh, lễ Phục sinh,
Thưỡng Ngươn, Lễ Phật Đản Vesak, Lễ Vu Lan… Việc giải quyết chính
sách tôn giáo đúng quy định, đảm bảo thời gian, sinh hoạt tại cơ sở thờ tự,
tình hình an ninh, trật tự ổn định.
Nhưng gần đây, tại thị xã Gò Công đã xuất hiện những hiện tượng vi
phạm pháp luật về hoạt động tôn giáo. Tuy chưa có hoạt động cực đoan, chống
đối chính quyền vì mục đích chính trị của các tổ chức tôn giáo nhưng một số cơ
sở tôn giáo tự ý sữa sửa chữa nơi thờ tự, dựng tượng, đúc chuông không xin
phép chính quyền địa phương, xuất hiện vấn đề “cải gia thành tự”, xây dựng
nhà ở riêng lẻ sau đó dựng tượng Phật, tổ chức phát quà, phát cơm từ thiện,
tuyên truyền trong Nhân dân nói là “Chùa” tạo áp lực buộc chính quyền công
nhận là cơ sở thờ tự; am, cốc nổi lên; tranh chấp nội bộ bên trong một số cơ sở
tôn giáo; thương mại hóa hoạt động tôn giáo; người sinh hoạt ngoài cơ sở thờ
tự vẫn còn diễn biến. Mặc khác, hiện nay mặc dù đã có Luật tín ngưỡng, tôn
giáo, Nghị định hướng dẫn thi hành nhưng không có chế tài xử lý mà phải dùng
những quy định của Luật khác, hoặc sử dụng Hiến chương, Điều lệ của từng
tôn giáo để giải quyết, đa phần là vận động, thuyết phục nên việc xử lý không
đủ sức răn đe, chính quyền còn khó khăn, lúng túng trong giải quyết các vấn đề
phát sinh liên quan đến hoạt động của tôn giáo trên địa bàn. Năng lực chuyên
môn chưa bảo đảm. Cấp cơ sở còn e dè, ngán ngại khi tiếp xúc với các cơ sở
tôn giáo.
Một số cán bộ cấp uỷ Đảng, chính quyền cơ sở hiểu chưa đúng về
quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân; cứng nhắc trong giải quyết các
vấn đề liên quan đến tôn giáo. Công tác phối hợp giữa các ngành, các cấp
thiếu tập trung và đồng bộ; có sự đùn đẩy trách nhiệm cho nhau.
3

Từ thực tế nêu trên, việc tìm ra những nguyên nhân phát sinh hiện
tượng tiêu cực về tôn giáo và xây dựng phương hướng, giải pháp để nâng cao
hiệu quả quản lý nhà nước bằng pháp luật về tôn giáo trên địa bàn thị xã Gò
Công, tỉnh Tiền Giang nhằm vừa đáp ứng nhu cầu tôn giáo lành mạnh của
quần chúng, vừa đảm bảo cho luật tín ngưỡng, tôn giáo phát huy hiệu lực,
hiệu quả, đồng thời đấu tranh chống lại việc thương mại hóa hoạt động tôn
giáo để trục lợi. Do vậy, việc chọn đề tài: “Quản lý nhà nước bằng pháp luật
đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn thị xã Gò Công, Tỉnh Tiền Giang”
là hoàn toàn cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
Mặc khác, bản thân với cương vị là lãnh đạo, trực tiếp quản lý nhà
nước trên nhiều lĩnh vực trong đó có lĩnh vực hoạt động tôn giáo nên cần phải
có nghiên cứu sâu, hệ thống các nội dung có liên quan đến hoạt động tôn giáo
để đáp ứng yêu cầu công việc và xử lý, giải quyết bằng pháp luật các vấn đề
phát sinh trong hoạt động tôn giáo ở địa phương.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Các chủ trương, chính sách của Đảng Nhà nước gồm: Nghị quyết số
24/NQ-TW về công tác tôn giáo trong tình hình mới của Bộ Chính trị, ngày
16/10/1990; Nghị quyết số 25/NQ-TW về công tác tôn giáo, ngày 12/3/2003;
Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004; Nghị định số 22/2005/NĐ-CP về việc
thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, ngày 01/3/2005. Luật Tín ngưỡng, tôn
giáo 02/2016/QH14; Nghị định 162/2017/NĐ-CP của Chính Phủ về Quy định
chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo. Vấn đề tôn
giáo đã được nhiều nhà lý luận chính trị, luật học quan tâm, đã có nhiều đề tài
khoa học, sách chuyên khảo, luận án, luận văn, trong đó có một số công trình
tiêu biểu như:
- “Mối quan hệ giữa chính trị và tôn giáo trong thời kỳ mở rộng giao
lưu quốc tế và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay” của Trung tâm Khoa học về Tín ngưỡng và Tôn
giáo thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh [22].
4

- “Tôn giáo tín ngưỡng hiện nay - Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn
cấp thiết”, Trung tâm Thông tin - Tư liệu, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh [21].
- “Tôn giáo và công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo”, Trung tâm nghiên cứu bồi dưỡng nghiệp vụ tôn giáo - Ban Tôn giáo
Chính phủ [23].
- “Đảm bảo thực hiện pháp luật tôn giáo của các cơ quan quản lý nhà
nước ở Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Tài Tâm [17].
- “Hoàn thiện pháp luật về tôn giáo ở Việt Nam hiện nay” Nguyễn
Thị Định [7].
- “Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh
Ninh Bình” của Bùi Thị Kim Cúc [5].
Hiện nay trên địa bàn thị xã Gò Công chưa có công trình khoa học
nghiên cứu nội dung này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về quản lý Nhà nước
bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo với tất cả các ưu điểm và hạn chế,
luận văn đề xuất những giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả quản lý
nhà nước (QLNN) bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn thị
xã Gò Công trong thời gian tới. Để đạt mục đích nghiên cứu, luận văn cần
thực hiện những mục tiêu sau: Làm rõ những đặc điểm của tôn giáo ở thị xã
Gò Công, Tỉnh Tiền Giang; những kết quả đạt được và hạn chế trong quản
lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo ở thị xã Gò Công
những năm gần đây, nguyên nhân của thực trạng; nêu lên một số vấn đề cấp
bách đang đặt ra hiện nay có liên quan tới quản lý nhà nước bằng pháp luật
đối với tôn giáo ở thị xã Gò Công; đề xuất một số phương hướng và giải
5

pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt
động tôn giáo ở thị xã Gò Công trong tình hình mới.
- Nhiệm vụ phân tích làm rõ những nội dung sau:
+ Chương 1: Cơ sở lý luận của QLNN bằng pháp luật đối với hoạt
động tôn giáo
+ Chương 2: Thực trạng hoạt động tôn giáo và QLNN bằng pháp luật
đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang
+ Chương 3: Dự báo, quan điểm và giải pháp bảo đảm QLNN bằng
pháp luật đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn thị xã Gò Công, Tỉnh Tiền
Giang
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn về quản
lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn thị xã Gò
Công, tỉnh Tiền Giang hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ giới hạn trong việc nghiên cứu thực trạng công tác quản lý
nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn thị xã Gò
Công, tỉnh Tiền Giang trong giai đoạn từ 2013-2019 (chọn 5 năm để đánh giá);
chủ thể quản lý là Ủy ban Nhân dân thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang; đối
tượng quản lý là các tôn giáo trên địa bàn thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của học thuyết Mac-Lenin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước về vấn đề Nhà nước và pháp luật nói chung và về lĩnh vực quản lý Nhà
6

nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo nói riêng. Đồng thời luận văn
cũng tham khảo kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; trong đó
sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp phân tích,
tổng hợp, lịch sử, tổng kết thực tiễn… nhằm đạt mục đích và hoàn thành
những nhiệm vụ mà luận văn đặt ra.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn hệ thống hóa lại vấn đề lý luận về tôn giáo và quản lý Nhà
nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo. Bước đầu phát hiện, làm rõ
một số vấn đề tồn tại trong quản lý nhà nước bằng pháp luật về tôn giáo trên
địa bàn thị xã Gò Công. Đưa ra được một số phương hướng và giải pháp chủ
yếu nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên
địa bàn thị xã Gò Công trong giai đoạn hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Góp phần hoàn chỉnh, hoàn thiện chính sách, bất cập của pháp luật;
phục vụ công tác QLNN bằng pháp luật trên lĩnh vực hoạt động tôn giáo trên
địa bàn được tốt hơn.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo trong quá trình chỉ đạo, nâng cao hiệu quả QLNN đối với tôn giáo của
thị xã Gò Công. Đồng thời, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng
làm tài liệu tham khảo phục vụ trong chương trình bồi dưỡng một số chuyên
ngành liên quan đến công tác tôn giáo ở Trung tâm bồi dưỡng chính trị thị xã
Gò Công, tỉnh Tiền Giang.
7. Kết cấu của luận văn
7

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 8 tiết.
8

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP LUẬT
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
BẰNG PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO
1.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt
động tôn giáo
1.1.1.1. Khái niệm quản lý và quản lý nhà nước
Quản lý “là sự tác động có tổ chức, có mục đích của chủ thể quản lý
lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu đã đặt ra từ trước”.
Quản lý nhà nước: “Hoạt động quản lý xuất hiện từ rất lâu và bao gồm
nhiều loại, trong đó có quản lý xã hội là một dạng quản lý đặc biệt. Quản lý
xã hội xuất hiện từ khi lao động của con người bắt đầu được xã hội hóa. Quản
lý xã hội là sự tác động có ý thức để chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá
trình xã hội và hành vi hoạt động của con người phù hợp với ý chí của nhà
quản lý và quy luật khách quan”. Hiện nay, khái niệm QLNN có thể hiểu theo
hai nghĩa:
- Về nghĩa rộng: “Là dạng quản lý xã hội của nhà nước, sử dụng quyền
lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội và các hành vi hoạt động của
con người do tất cả các cơ quan nhà nước (lập pháp, hành pháp, tư pháp) tiến
hành để thực hiện các chức năng nhà nước đối với xã hội”.
- Về nghĩa hẹp: “Là dạng quản lý xã hội mang tính quyền lực nhà nước
với chức năng chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật của các cơ
quan trong hệ thống hành pháp (Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp)”.
1.1.1.2. Khái niệm về tôn giáo và hoạt động tôn giáo
Khái niệm tôn giáo: Tôn giáo ra đời cách đây hơn 45.000 năm. Khái
niệm tôn giáo bắt nguồn từ thuật ngữ “Religion” (tiếng Anh) và “legere”
9

(tiếng Latinh) có nghĩa là thu lượm thêm sức mạnh siêu nhiên. Bởi lẽ, đương
thời những đạo khác Kitô đều bị coi là tà đạo. Đến thế kỷ XVI, với sự ra đời
của đạo Tin Lành, tách ra từ Công giáo, “Religion” trở thành một thuật ngữ
chỉ hai tôn giáo thờ cùng một chúa.
“Theo các nhà thần học tôn giáo là mối liên hệ giữa thần thánh và con
người”. “Theo một số nhà tâm lý học tôn giáo là sự sáng tạo của mỗi cá
nhân trong nỗi cô đơn của mình, tôn giáo là sự cô đơn, nếu anh chưa từng cô
đơn thì anh chưa bao giờ có tôn giáo”
Theo C.Mác, xét về khía cạnh bản chất xã hội “tôn giáo là tiếng thở
dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, nó là
tinh thần của trật tự không có tinh thần”
Theo Ph.Ăngghen, xét khía cạnh nguồn gốc của tôn giáo “tôn giáo là
sự phản ánh hoang đường vào đầu óc con người những lực lượng bên ngoài,
cái mà thống trị họ trong đời sống hàng ngày…”.
Nghiên cứu về tôn giáo, với quan điểm duy vật biện chứng, Ăngghen đã
kết luận một cách khoa học về tôn giáo như sau: Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua
chỉ là sự phản ánh hư ảo - vào trong đầu óc của con người - của những lực
lượng bên ngoài chi phối cuộc sống của họ, chỉ là sự phản ánh trong đó những
lực lượng trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu nhiên trần thế.
Ở phương Đông, đầu thế kỷ thứ XVIII, thuật ngữ “Religion” du nhập
vào Nhật Bản và được dịch thành “Tông giáo”, rồi từ đó du nhập sang Trung
Quốc. Nhưng ở Trung Quốc, thuật ngữ Tông giáo lại bao hàm một ý nghĩa
hoàn toàn khác, nó nhằm chỉ đạo Phật (Giáo: là lời thuyết giảng của Đức
Phật; Tông: lời của các đệ tử Đức Phật). “Thuật ngữ Tông giáo được du nhập
vào Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX, nhưng do kỵ húy của vua Thiệu Trị nên
được gọi là Tôn giáo”. Cho đến ngày nay, khái niệm này được quy định tại
khoản 5, Điều 2, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2018 như sau: “Tôn giáo là
10

niềm tin của con người tồn tại với hệ thống quan niệm và hoạt đông bao gồm
đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức” [16, tr.8].
Khái niệm sinh hoạt tôn giáo, hoạt động tôn giáo: Hoạt động là khái
niệm dùng để chỉ những việc làm cụ thể, có mục đích của một cá nhân hay
một tập thể nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất hoặc tinh thần của con người.
Khoản 10, 11, Điều 2, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo đã khẳng định: “Hoạt động
tôn giáo là việc truyền bá tôn giáo, sinh hoạt tôn giáo và quản lý tổ chức tôn
giáo. Sinh hoạt tôn giáo là việc bày tỏ niềm tin tôn giáo, thực hành giáo lý,
giáo luật, lễ nghi tôn giáo”.
1.1.1.3. Khái niệm quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt
động tôn giáo
Khái niệm QLNN bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo “là quá
trình nhà nước dùng quyền lực của mình thông qua pháp luật tác động, điều
chỉnh, hướng các quá trình tôn giáo và hành vi hoạt động tôn giáo của tổ
chức, cá nhân tôn giáo diễn ra phù hợp với pháp luật, đạt được mục tiêu cụ
thể của chủ thể quản lý”.
Học thuyết Mác - Lê nin khẳng định pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại và
phát triển trong xã hội có giai cấp. Pháp luật là một công cụ sắc bén để quản
lý xã hội, quản lý nhà nước, vì vậy, các nhà nước trong lịch sử luôn quan
tâm xây dựng những quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội
nhằm đảm bảo lợi ích của Nhà nước, của giai cấp thống trị và các chủ thể
khác. Ở nước ta, Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật là nguyên tắc
mang tính Hiến định, Điều 8, Hiến pháp 2013 khẳng định: “Nhà nước được
tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến
pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ”.
Để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình QLNN đối
với hoạt động tôn giáo, nhà nước cần ban hành pháp luật để điều chỉnh. Pháp
luật QLNN đối với hoạt động tôn giáo bao gồm tổng thể các văn bản quy phạm
11

pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành có chứa đựng các
quy phạm pháp luật về QLNN đối với tôn giáo. Như vậy, pháp luật về QLNN
đối với tôn giáo là tổng hợp các quy tắc xử sự chung do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ban hành và bảo đảm thực hiện, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã
hội phát sinh trong quá trình quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo.
Từ những lập luận trên, chúng ta có thể hiểu QLNN bằng pháp luật đối
với hoạt động tôn giáo như sau: QLNN bằng pháp luật đối với hoạt động tôn
giáo là quá trình tác động, điều hành, điều chỉnh có mục đích của các cơ quan
QLNN làm cho các quy phạm pháp luật về quản lý nhà nước đối với tôn giáo
đi vào cuộc sống, trở thành những hành động thực tế hợp pháp của các chủ thể
pháp luật nhằm phát huy tính tình chủ động trong thực hiện pháp luật, phòng
ngừa và xử lý nghiêm khắc các vi phạm pháp luật để tôn giáo hoạt động theo
đúng chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đáp
ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xa hội chủ nghĩa.
Điều 24, HP 2013 khẳng định “Mọi người đều có quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn
giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do
tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm
pháp luật”
Nội dung của quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn
giáo có thể chia làm ba nội dung lớn:
Thứ nhất, quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với các hoạt động có
tính chất quản lý tổ chức tôn giáo, bao gồm: “đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập
trung, đăng ký hoạt động tôn giáo, công nhận tổ chức tôn giáo; công nhân tổ
chức tôn giáo; thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực
thuộc; phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử, thuyên chuyển, cách chức, bãi
nhiệm chức sắc, chức việc, nhà tu hành; thành lập, giải thể cơ sở đào tạo tôn
12

giáo; trình tự thủ tục, thẩm quyền chấp thuận thành lập cơ sở đào tạo tôn giáo;
mở lớp bồi dưỡng về tôn giáo; hướng dẫn chương trình, nội dung giảng dạy
môn học về lịch sử Việt Nam và pháp luật Việt Nam”.
Hai là, QLNN bằng pháp luật đối với hoạt động mang tính lễ nghi tôn
giáo và các hoạt động xã hội khác của các tổ chức tôn giáo, bao gồm: “thông
báo danh mục hoạt động tôn giáo; hội nghị của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn
giáo trực thuộc; đại hội của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, tổ
chức được cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt đông tôn giáo; cuộc lễ, giảng
đạo ngoài cơ sở tôn giáo, địa điểm hợp pháp; sinh hoạt tôn giáo tập trung của
người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam; hoạt động tôn giáo, hoạt
động quan hệ quốc tế về tôn giáo của tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt
Nam; người nước ngoài học tại cơ sở đào tạo tôn giáo ở Việt Nam; tham gia
hoạt đông tôn giáo, đào tạo tôn giáo ở nước ngoài; phong phẩm, bổ nhiệm,
bầu cử, suy cử có yếu tố nước ngoài; hoạt động trong lĩnh vực xuất bản, giáo
dục, y tế, bảo trợ xã hội, từ thiện, nhân đạo; hoạt động quan hệ quốc tế của tổ
chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, chức sắc, chức việc, nhà tu hành,
tín đồ; gia nhập tổ chức tôn giáo nước ngoài; đất cơ sở tôn giáo; cải tạo, nâng
cấp, xây dựng mới công trình tôn giáo; di dời công trình tôn giáo”.
Ba là, quản lý về tôn giáo; trách nhiệm quản lý Nhà nước về tôn giáo;
thanh tra chuyên ngành về tôn giáo; “khiếu nại, tố cáo, khởi kiện về tôn giáo
và xử lý vi phạm trong lĩnh vực tôn giáo”.
1.1.2. Đặc điểm quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động
tôn giáo
Chủ thể quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo là
UBND từ thị xã đến xã, phường.
Đối tượng quản lý là các tôn giáo trên địa bàn thị xã Gò Công, Tỉnh
Tiền Giang.
13

Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo có những
đặc điểm của quản lý nhà nước nói chung, ngoài ra nó còn có những đặc điểm
mang tính chất đặc thù được quy định bởi vị trí, vai trò của nó trong đời sống
xã hội, bao gồm các đặc điểm sau:
1.1.2.1. Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo
mang tính quyền lực nhà nước
Nhà nước sử dụng quyền lực của mình để điều chỉnh các mối quan hệ
xã hội tất yếu và cần thiết của con người. Điểm khác nhau cơ bản giữa quản
lý nhà nước và các hình thức quản lý khác (quản lý của các tổ chức xã
hội,...) là tính quyền lực nhà nước gắn liền với cưỡng chế nhà nước khi cần
thiết. Quản lý nhà nước được thực hiện bởi toàn bộ hoạt động của các cơ
quan trong bộ máy nhà nước nhằm thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại
của nhà nước. Nhà nước khẳng định quyền lực của mình thông qua chức
năng quản lý nhà nước, nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước trong
các lĩnh vực đời sống xã hội.
Pháp luật về QLNN đối với hoạt động tôn giáo điều chỉnh các quan hệ
phát sinh trong lĩnh vực tôn giáo, trong đó có ít nhất một bên là các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền, cá nhân hay tổ chức được nhà nước trao quyền và
một bên là người đại diện của tổ chức tôn giáo “người đại diện là người thay
mặt và chịu trách nhiệm trước pháp luật về sinh hoạt tôn giáo tập trung, hoạt
động tôn giáo của nhóm người hoặc tổ chức mà mình đại diện” [16, tr.9].
Còn cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở đây hiểu là cơ quan được Chính phủ
ủy quyền tổ chức thực thi và chấp hành pháp luật về QLNN đối với hoạt động
tôn giáo. Các cơ quan này trực tiếp giải quyết các nhu cầu hoạt động tôn giáo
của tổ chức tôn giáo, cá nhân tín đồ, chức sắc, chức việc tôn giáo (bao gồm cả
tổ chức tôn giáo, cá nhân tín đồ, chức sắc tôn giáo nước ngoài).
Tính quyền lực nhà nước được thể hiện trong phương pháp điều chỉnh
các quan hệ pháp luật về QLNN đối với hoạt động tôn giáo là phương pháp
14

mệnh lệnh. Qua nghiên cứu các quy phạm pháp luật về quản lý nhà nước đối
với hoạt động tôn giáo, chúng ta thấy rằng đây là mối quan hệ phụ thuộc của
đối tượng bị quản lý “gồm giáo hội và cá nhân tín đồ, chức sắc, chức việc,
nhà tu hành” với người quản lý mà đại diện là Nhà nước. Cách thức tác động
của Nhà nước lên các quan hệ xã hội trong lĩnh vực hoạt động tôn giáo mang
tính quyền uy đơn phương áp đặt lên đối tượng quản lý.
Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo mang tính
quyền lực nhà nước, bởi vì: Thứ nhất, đây là hoạt động trực tiếp của các cơ
quan nhà nước được giao chức năng, nhiệm vụ trong lĩnh vực QLNN đối với
hoạt động tôn giáo. Thứ hai, đây là hoạt động được bảo đảm về tổ chức (bộ
máy) chuyên trách, mà tổ chức này được hình thành xuất phát từ nhu cầu
quản lý nhà nước và đòi hỏi phải mang tính khoa học để đảm bảo tính hiệu
quả của hoạt động. Đặc trưng này rất quan trọng cho thấy quản lý nhà nước
không chỉ đơn giản là sự “cai trị”, kiểm soát, hạn chế... mà nó là một quá trình
tổ chức điều hành và điều chỉnh các quá trình xã hội.
Tính chất quyền lực nhà nước, trong quản lý nhà nước bằng pháp luật
đối với hoạt động tôn giáo thể hiện ở chỗ, chủ thể quản lý trong thực thi
nhiệm vụ, quyền hạn đã thiết lập quan hệ “quyền uy” và sự “phục tùng” buộc
đối tượng bị quản lý phải tuân theo; có nghĩa là toàn bộ các tác động tổ chức
và điều chỉnh của quản lý được tiến hành dựa trên cơ sở quyền lực nhà nước.
Quyền lực đó được ghi nhận, củng cố bằng pháp luật và được bảo đảm bằng
các biện pháp cưỡng chế nhà nước.
Tóm lại, “các tổ chức, cá nhân tôn giáo là một bộ phận của xã hội,
được Nhà nước thừa nhận, đặt dưới sự quản lý của Nhà nước. Hoạt động tôn
giáo phải tuân thủ pháp luật. Mọi hành vi tác động các tổ chức tôn giáo thành
lực lượng đối trọng với Nhà nước, thoát ly khỏi sự QLNN đều vi phạm pháp
luật. Hoạt động tôn giáo nằm ngoài khuôn khổ pháp luật của Nhà nước đều
phải bị xử lý theo quy định của pháp luật. Để thực hiện tốt những nội dung
15

trên, một mặt vai trò QLNN đối với hoạt động tôn giáo được tăng cường,
ngoài ra phải đưa các hoạt động tôn giáo theo đúng quy định của pháp luật,
định hướng cho tín đồ, chức sắc, chức việc, tu sĩ tôn giáo đồng hành cùng
nhân dân cả nước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
1.1.2.2. Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo
liên quan đến các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội và an ninh, trật tự
Đặc điểm này xuất phát từ đặc điểm của pháp luật về QLNN đối với
hoạt động tôn giáo liên quan đến nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội và liên quan đến hoạt động thuộc chức năng của nhiều cơ quan nhà nước
từ Trung ương đến địa phương, như: Công an, Ngoại vụ, Tài nguyên và Môi
trường... Có thể thấy rằng, bên cạnh những hoạt động mang tính chất tôn giáo
thuần túy, một số hoạt động đã bị lợi dụng vào mục đích phi tôn giáo, hoặc vi
phạm các quy định pháp luật về những lĩnh vực khác như: xây dựng, đất đai,
xuất bản, xuất nhập cảnh, cải gia thành tự... xâm hại đến lợi ích cộng đồng, xã
hội. Vì vậy, đòi hỏi phải xác định rành mạch, cụ thể chức năng, thẩm quyền
của các cấp, các ngành trong nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với hoạt động
tôn giáo. Làm được như vậy, mới khắc phục được tình trạng “đùn đẩy”, né
tránh trách nhiệm hoặc “lấn sân” nhau khi giải quyết những vấn đề phức tạp
liên quan đến các tôn giáo.
Bên cạnh đó, tôn giáo còn là một hình thái ý thức xã hội, một phạm
trù tư tưởng có quan hệ đến văn hóa, đạo đức, truyền thống của dân tộc;
đồng thời tôn giáo là vấn đề chính trị, nhạy cảm và thường bị chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch, bọn phản động chống phá cách mạng Việt
Nam. Hiến pháp năm 2013 của nước ta khẳng định “Cấm phân biệt đối xử,
kỳ thị vì lý do tín ngưỡng tôn giáo. Cấm ép buộc, mua chuộc hoặc cản trở
người khác theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo. Cấm xúc phạm tín
ngưỡng, tôn giáo. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, theo hoặc
không theo một tôn giáo nào”
16

Lịch sử cận - hiện đại ở nước ta, các thế lực chính trị phản động trong
và ngoài nước thường lợi dụng các tôn giáo và vấn đề tôn giáo để thực hiện
mục đích chính trị, có lúc là chiến tranh vũ trang, có lúc là hoạt động từ
thiện… đã để lại hậu quả không tốt trong mối quan hệ giữa các tôn giáo, dân
tộc trên đất nước ta. Những năm gần đây, các thế lực thù địch, phản động rất
coi trọng việc lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc để phá hoại nước ta bằng các
phương thức, thủ đoạn rất thâm độc, tinh vi, xảo huyệt. Thế nên, quản lý nhà
nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo không những tạo điều kiện
cho sinh hoạt tôn giáo diễn ra đúng theo quy định của pháp luật, mà còn là
biện pháp đấu tranh, xử lý mọi âm mưu, hoạt động lợi dụng tôn giáo chống
lại chế độ, diễn biến hòa bình, xâm phạm an ninh, chủ quyền quốc gia.
1.1.2.3. Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo
của nước ta có liên quan đến nước ngoài
Các tôn giáo Việt Nam có mối quan hệ quốc tế rộng rãi như quan hệ
giữa giáo hội Công giáo Việt Nam với giáo triều Vatican, giữa Tin lành Việt
Nam với các hệ phái tin lành gốc (các tổ chức, hệ phái Tin lành ở Việt Nam
đều có nguồn gốc từ các tổ chức, hệ phái Tin lành ở Mỹ), Hồi giáo ở Việt
Nam quan hệ với Hồi giáo ở Malayxia. Các tôn giáo ở Việt Nam còn quan hệ
với các tổ chức phi Chính Phủ của người nước ngoài và người Việt Nam ở
nước ngoài qua nhiều hình thức.
Hoạt động tôn giáo ở nước ta chịu sự điều chỉnh không chỉ bằng hệ
thống pháp luật trong nước mà còn chịu sự điều chỉnh bằng các điều ước quốc
tế mà Nhà nước tham gia ký kết hoặc thừa nhận. Đặc điểm này xuất phát là
do trong 13 tôn giáo được thừa nhận ở nước ta hiện nay hiện nay thì có 4 tôn
giáo là Công giáo, Phật giáo, Tin Lành, Hồi giáo có nguồn gốc và mối quan
hệ với nước ngoài, trong đó:
Phật giáo: Phái Đại thừa du nhập vào Việt Nam thế kỷ thứ II trước
Công nguyên; phái Tiểu thừa du nhập vào Việt Nam thế kỷ thứ II sau Công
17

nguyên. Ở Việt Nam hiện nay, Phật giáo có hơn 10 triệu tín đồ, với hơn
20.000 chùa thờ Phật, gần 40.000 tăng, ni, nhiều trung tâm đào tạo chức sắc
tôn giáo. Phật giáo có quan hệ truyền thống với Phật giáo Ấn Độ, Thái Lan,
Hàn Quốc, Phật giáo Srilanca,... và có quan hệ với nhiều tổ chức Phật giáo
quốc tế và Phật giáo ở các nước như: tổ chức Phật giáo Châu Á vì hòa bình
(ABCP), liên đoàn Thân hữu thế giới (WEB).
Công giáo: Được các giáo sỹ phương Tây truyền vào Việt Nam thế kỷ
thứ XV. Công giáo đầu tiên được phổ biến trong các cư dân ven biển Thái
Bình, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An... Hiện nay có khoảng 6,1
triệu tín đồ, 6.000 nhà thờ và trên 15.000 chức sắc. Công giáo là một tôn giáo
có tổ chức chặt chẽ từ Tòa thánh Vatican đến các giáo hội ở các nước, trong
đó có Việt Nam. Về tổ chức tôn giáo, các Tòa giám mục ở Việt Nam trực tiếp
chịu sự chỉ đạo của Tòa thánh Vatican.
Tin Lành: Du nhập vào Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Tuy
nhiên, tới năm 1920 đạo Tin Lành mới bắt đầu được truyền giáo tại khắp các
vùng của Việt Nam và hiện có khoảng 1,5 triệu tín đồ, 500 nhà thờ Tin Lành.
Trong quá trình hoạt động có quan hệ và chịu sự tác động, chỉ đạo và tài trợ
từ các hệ phái Tin Lành ở nước ngoài.
Đạo Hồi: Truyền vào Việt Nam qua cộng đồng người Chăm vào thế kỷ
X-XI. Hiện nay đạo Hồi ở Việt Nam có khoảng hơn 100 nhà thờ Hồi giáo với
khoảng 100.000 tín đồ, gần 1.000 vị chức sắc tại các tỉnh Bình Thuận, Ninh
Thuận, An Giang, Tây Ninh, Đồng Nai và thành phố Hồ Chí Minh. Có hai
khối người Chăm theo Hồi giáo: Hồi giáo chính thống bao gồm những người
Chăm theo Hồi giáo ở Châu Đốc, thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Đồng
Nai; Hồi giáo không chính thống (hay còn gọi là Chăm Bà Ni) gồm những
người Chăm ở Bình Thuận, Ninh Thuận.
Thực hiện đường lối “đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa
dạng hóa”, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến hoạt động đối ngoại nhân
18

dân nói chung, hoạt động quan hệ quốc tế của các tôn giáo nói riêng. Căn cứ
vào các quy định pháp luật hiện nay thì các tổ chức tôn giáo, tín đồ, nhà tu
hành, chức sắc có quyền thực hiện các hoạt động quan hệ quốc tế theo quy
định của hiến chương, điều lệ hoặc giáo luật của tổ chức tôn giáo phù hợp với
pháp luật Việt Nam. Khi thực hiện các hoạt động quan hệ quốc tế, tổ chức tôn
giáo, tín đồ, nhà tu hành, chức sắc phải bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, tôn
trọng độc lập, chủ quyền và công việc nội bộ của các quốc gia với nhau.
Mặt khác, Nhà nước ta cũng cho phép chức sắc, chức việc, nhà tu hành
là người nước ngoài được giảng đạo tại cơ sở tôn giáo của Việt Nam sau khi
được sự chấp thuận của cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo ở Trung ương
chấp thuận,
Điều 52, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo quy định “Thực hiện các hoạt
động quan hệ quốc tế theo Hiến chương của tổ chức tôn giáo phù
hợp với pháp luật Việt Nam. Khi thực hiện các hoạt động quan hệ
quốc tế, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, chức sắc,
chức việc, nhà tu hành, tín đồ phải tuân thủ pháp luật Việt Nam và
pháp luật của quốc gia có liên quan”.
Có thể thấy, pháp luật Việt Nam cho phép hoạt động tôn giáo của nước
ta được quan hệ với tổ chức, cá nhân tôn giáo nước ngoài, trên cơ sở tuân thủ
nguyên tắc đảm bảo tôn trọng độc lập, chủ quyền đất nước và phù hợp với
chủ trương của Đảng và Nhà nước về mở rộng giao lưu, hợp tác với các nước.
1.1.3. Vai trò của quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt
động tôn giáo
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi
xướng và lãnh đạo, một trong những điều kiện đảm bảo sự thành công của
việc “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân” là phải tôn trọng tính tối cao của Hiến pháp và pháp
luật, việc thực hiện nghiêm chỉnh những quy định của Hiến pháp và pháp luật
19

của các cơ quan nhà nước, các tổ chức và mọi công dân là yêu cầu bắt buộc
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Nhận thức vấn đề này, Đảng ta đã khẳng định “Nhà nước quản lý xã
hội bằng pháp luật, mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân
có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật”. Quan điểm, tư tưởng trên
của Đảng ta đã được thể chế hóa tại Điều 8 và Điều 11 trong Hiến pháp năm
2013 là “Nhà nước tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản
lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật; mọi hành vi chống lại độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc đều bị nghiêm trị”.
Vai trò của pháp luật trong QLNN đối với hoạt động tôn giáo được thể
hiện ở những nội dung sau đây:
“Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo đảm bảo
cho các hoạt động tôn giáo được diễn ra bình thường, đưa tôn giáo phát triển
đúng quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước”.
Đảng Cộng sản Việt Nam là một đảng cầm quyền, là lực lượng lãnh
đạo Nhà nước và xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc nói chung, đối với công tác tôn giáo nói riêng được thể hiện
bằng các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng. Song, các chỉ thị, nghị quyết đó
không thể tự tạo ra được môi trường pháp lý cho QLNN đối với hoạt động tôn
giáo. Chỉ khi đường lối, chính sách tôn giáo của Đảng được thể chế hóa thành
pháp luật thì nó trở thành phương tiện của Nhà nước, có sức mạnh bắt buộc
mọi tổ chức, cá nhân phải tuân theo.
Tuy nhiên, hệ thống pháp luật dù có hoàn chỉnh đến bao nhiêu cũng
không phát huy được vai trò, hiệu quả điều chỉnh các quan hệ xã hội nếu
không được tổ chức thực hiện trong thực tiễn. Để pháp luật về quản lý nhà
nước đối với hoạt động tôn giáo được đảm bảo thực thi trong thực tiễn đời
sống xã hội, cần phải nắm vững các nguyên tắc trong quản lý nhà nước đối
20

với hoạt động tôn giáo là: “đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
công dân trên cơ sở sự thống nhất, hài hòa lợi ích cá nhân, cộng đồng và lợi
ích quốc gia, xã hội”. Tôn trọng, bảo tồn các giá trị văn hóa, đạo đức, truyền
thống tốt đẹp của dân tộc. “Mọi hành vi vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo, lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân, phá hoại sự
đoàn kết toàn dân, làm phương hại đến nền văn hóa lành mạnh của dân tộc
và hoạt động mê tín dị đoan, lợi dụng hoạt động tôn giáo để trục lợi đều bị
lên án và xử lý theo luật định”.
Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo là biện
pháp quan trọng nhất để thực hiện QLNN đối với hoạt động tôn giáo.
Trong QLNN bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo, Nhà nước có
nhiều phương thức, biện pháp khác nhau như: quản lý bằng pháp luật, bằng
tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, bằng các chính sách kinh tế, xã hội...
Trong đó quản lý bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo là công cụ hữu
hiệu nhất, do pháp luật có tính cưỡng chế, bắt buộc mọi người phải tuân theo,
“mọi tổ chức, cá nhân đều bình đẳng trước pháp luật”. Với những đặc điểm
riêng của mình, pháp luật có khả năng triển khai những chủ trương, chính
sách của Nhà nước một cách nhanh chóng, đồng bộ và hiệu quả nhất trên quy
mô rộng lớn nhất. Song song đó, Nhà nước cũng dựa vào pháp luật để phát
huy quyền lực và kiểm tra, kiểm soát các cơ quan nhà nước và công dân trong
việc tổ chức thực hiện pháp luật về QLNN đối với hoạt động tôn giáo.
Bên cạnh đó, để khẳng định quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với
hoạt động tôn giáo là biện pháp quan trọng nhất trong quản lý nhà nước với
hoạt động tôn giáo, bởi vì chỉ có pháp luật mới tạo được hành lang pháp lý
cho các pháp nhân, thể nhân tôn giáo, quần chúng tín đồ thực hiện các hoạt
động tôn giáo. Với tư cách là chủ thể quản lý, Nhà nước đã sử dụng pháp luật
21

để đưa ra các chuẩn mực pháp lý cho các hoạt động tôn giáo. Các hoạt động
tôn giáo vi phạm pháp luật sẽ bị nhà nước ngăn chặn và xử lý nghiêm minh.
Những năm gần đây, các tôn giáo ở Việt Nam xuất hiện khuynh hướng
lấn lướt chính quyền, cải gia thành tự, tìm cách tách hoạt động tôn giáo ra
khỏi sự quản lý của Nhà nước. Một trong những nguyên nhân dẫn tới tình
trạng trên là do thực hiện pháp luật về QLNN đối với hoạt động tôn giáo chưa
nghiêm. Để tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên lĩnh vực này,
cần quy định rõ những hoạt động tôn giáo không phải xin phép; những hoạt
động phải xin phép chính quyền và thủ tục phải xin phép; những hoạt động
tôn giáo bị cấm và biện pháp chế tài... Một hệ thống các quy phạm pháp luật
hoàn thiện về QLNN đối với hoạt động tôn giáo là công cụ hữu hiệu nhất để
thực hiện chức năng QLNN trên lĩnh vực tôn giáo.
Thông qua quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo
góp phần “phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng thói quen, ý thức của công
dân sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”.
“Giáo dục pháp luật có vị trí, ý nghĩa rất quan trọng. Nó bắt nguồn
từ giá trị xã hội của pháp luật, từ sự nhận thức và thực hiện
nghiêm túc của các chủ thể pháp luật. Nếu pháp luật là công cụ
quan trọng để Nhà nước quản lý đất nước, quản lý xã hội, là
phương tiện để công dân thực thi nghĩa vụ và bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình thì giáo dục pháp luật giúp cho Nhà nước
và công dân biết sử dụng phương tiện đó. Tăng cường phổ biến,
giáo dục pháp luật góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả trong
QLNN và quản lý xã hội. Vì những tri thức pháp lý đúng đắn sẽ
định hướng cho hành vi hợp pháp, là những yếu tố quan trọng
trong việc sử dụng quyền lực nhà nước, tăng cường pháp chế, phát
huy dân chủ, mở rộng quyền tự do công dân” [3, tr.17-18].
22

Việc phổ biến, giáo dục pháp luật về QLNN đối với hoạt động tôn giáo
là một khâu trong quy trình QLNN bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo,
có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đưa pháp luật về QLNN đối với hoạt
động tôn giáo vào cuộc sống.
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và dân chủ hóa đời sống xã hội, thì việc phổ biến, giáo dục pháp luật về
QLNN đối với hoạt động tôn giáo không chỉ dừng lại ở mức cung cấp, phổ
biến các thông tin pháp luật cho mọi đối tượng mà giáo dục pháp luật còn phải
đáp ứng các nhu cầu hiểu biết của người dân. “Để đảm bảo cho người dân thi
hành pháp luật cần tăng cường công tác giải thích pháp luật về quản lý nhà
nước đối với hoạt động tôn giáo để làm sáng tỏ nội dung và ý nghĩa của các
quy định pháp luật làm cơ sở cho việc phổ biến, giáo dục pháp luật đạt kết quả.
Đẩy mạnh công tác phổ biến và giáo dục pháp luật về quản lý nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo nhằm làm cho nhân dân hiểu biết pháp luật, từ đó nâng cao
ý thức pháp luật của nhân dân, xây dựng thói quen sống, làm việc theo Hiến
pháp và pháp luật”.
Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo là góp
phần bảo vệ các “quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân và hoạt
động bình thường của các tôn giáo”.
Pháp luật bao giờ cũng thể hiện ý chí của giai cấp thống trị. Pháp luật
xã hội chủ nghĩa thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động,
là số đông, chiếm tuyệt đại đa số trong xã hội. Pháp luật được nhà nước bảo
đảm thực hiện, các hành vi vi phạm quy định của pháp luật, tùy theo mức độ
khác nhau, nhà nước sẽ áp dụng các biện pháp chế tài cần thiết để đảm bảo
cho pháp luật được thực hiện nghiêm minh.
Đối với quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, Đảng và Nhà
nước luôn luôn coi trọng và xác định đó là một nhu cầu tinh thần của một bộ
phận quần chúng nhân dân. Đây là một trong những quyền cơ bản của công
23

dân, được ghi nhận trong các Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992, 2013 và
nhiều văn bản pháp luật khác, như: Bộ luật dân sự 2015; Luật Tín ngưỡng,
tôn giáo 2018… Những quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong
các văn bản pháp luật của Nhà nước đều khẳng định: mọi công dân Việt Nam
đều có quyền tự do theo hoặc không theo một tôn giáo nào, được quyền thay
đổi tôn giáo; cá nhân không chỉ có quyền được tin mà họ có quyền được theo,
được thay đổi tôn giáo; các tôn giáo có tư cách pháp nhân, được Nhà nước
bảo hộ và đảm bảo hoạt động bình thường trong khuôn khổ pháp luật. Mọi
hành vi vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, cản trở các hoạt động tôn
giáo hợp pháp đều vi phạm pháp luật và bị xử lý nghiêm minh. Những quyền
này chỉ trở thành hiện thực khi được các cơ quan quản lý nhà nước về tôn
giáo tổ chức thực thi trong thực tiễn.
Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo là biện
pháp đấu tranh, ngăn chặn các hoạt động lợi dụng tôn giáo “xâm phạm an
ninh quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Đảng và Nhà nước ta rong quá trình lãnh đạo cách mạng đã nhận thức
rõ: tôn giáo là hình thái ý thức xã hội, một phạm trù tư tưởng có quan hệ đến
văn hóa, đạo đức, truyền thống của dân tộc; đồng thời tôn giáo là vấn đề
chính trị, nhạy cảm và thường bị “chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động” lợi
dụng phá hoại cách mạng Việt Nam. Nghị quyết số 24/NQ/TW ngày
16/10/1990 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI) đã
chỉ rõ: “Tôn giáo là lĩnh vực mà kẻ địch đặc biệt chú trọng lợi dụng để phá
hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”.
Ở nước ta, khuynh hướng chính trị tiến bộ trong các tôn giáo chiếm ưu
thế; xu hướng phát triển chủ đạo của tôn giáo là đồng hành với dân tộc, chịu
sự quản lý của Nhà nước, nhưng vẫn còn một bộ phận cực đoan, phản động
trong các giáo hội, do quyền lợi gắn với giai cấp thống trị trước đây bị mất
sau khi cách mạng thành công nên nảy sinh hận thù với cách mạng đã tìm
24

cách lợi dụng tôn giáo để tiến hành những hoạt động công khai hoặc ngấm
ngầm chống đối chế độ.
Hiện nay, “bên ngoài các thế lực thù địch đang tiến hành thủ đoạn diễn
biến hòa bình chống Việt Nam, nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế
độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta”. Chúng luôn xác định tôn giáo là một lĩnh vực
nhạy cảm và tìm cách lợi dụng để chống lại Nhà nước Việt Nam. Thời gian
qua, các thế lực thù địch đã tìm mọi cách xuyên tạc chủ trương, đường lối,
chính sách, pháp luật về tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta, vu cáo ta vi phạm
dân chủ, nhân quyền, đàn áp tôn giáo; kích động chống đối hòng gây mất ổn
định an ninh, chính trị, xã hội ở các vùng tôn giáo; tìm cách quốc tế hóa vấn
đề tôn giáo để tạo cớ can thiệp, gây sức ép với Việt Nam về các vấn đề kinh tế
- xã hội. Ở trong nước, các phần tử phản động, cực đoan trong các tôn giáo
được sự chỉ đạo, tài trợ từ bên ngoài đã tăng cường các hoạt động chống đối
chế độ và “công cuộc đổi mới đất nước”, gây ảnh hưởng xấu tới tình hình an
ninh, trật tự ở một số địa phương.
Vì vậy, vai trò quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn
giáo có ý nghĩa rất quan trọng. Nó không chỉ “đảm bảo quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của nhân dân” mà còn là biện pháp hữu hiệu trong đấu
tranh, xử lý mọi âm mưu, hoạt động lợi dụng tôn giáo chống lại chế độ, xâm
phạm an ninh, chủ quyền quốc gia.

1.2. NỘI DUNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO
Nội dung QLNN bằng pháp luật đối với các hoạt động tôn giáo căn cứ
vào pháp luật hiện hành và hoạt động cụ thể của các tổ chức tôn giáo, bao
gồm các nội dung chính sau:
- Quản lý “việc công nhận các pháp nhân tôn giáo”: Tổ chức giáo hội
từ cơ sở trở lên phải được Nhà nước công nhận. Các tổ chức tôn giáo thuộc
25

nhóm các tổ chức, đoàn thể xã hội, vì vậy việc thành lập các tổ chức mới ở
các cấp khác nhau, theo pháp luật phải đảm bảo các thủ tục pháp lý cần thiết
và phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép, cụ thể: Theo quy
định của “Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo”, một số nội dung thuộc thẩm
quyền của Thủ tướng Chính phủ, nay Luật Tín ngưỡng, tôn giáo phân cấp cho
cơ quan quản lý nhà nước về “tín ngưỡng, tôn giáo” ở Trung ương: công nhận
tổ chức tôn giáo có địa bàn hoạt động ở nhiều tỉnh; “thành lập, chia, tách, sáp
nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc có địa bàn hoạt động ở nhiều tỉnh;
thành lập cơ sở đào tạo tôn giáo; giải thể cơ sở đào tạo tôn giáo”. Việc thay
đổi này sẽ góp phần giảm tải công việc cho Thủ tướng Chính phủ, tăng thẩm
quyền, trách nhiệm cho cơ quan chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc
tham mưu “quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo”, giải quyết nhanh gọn,
kịp thời, hiệu quả nhu cầu về tín ngưỡng, tôn giáo của các tổ chức, cá nhân có
liên quan. Điều 30, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo quy định: “tổ chức tôn giáo là
pháp nhân phi thương mại kể từ ngày được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
công nhận. Đối với tổ chức tôn giáo được công nhận trước ngày Luật Tín
ngưỡng, tôn giáo có hiệu lực (ngày 01 tháng 01 năm 2018) là pháp nhân phi
thương mại kể từ ngày Luật này có hiệu lực”. “Các tổ chức tôn giáo này có
trách nhiệm điều chỉnh hiến chương tại đại hội gần nhất theo quy định tại
Điều 23 và đăng ký hiến chương sửa đổi theo quy định tại Điều 24 của Luật.
Đối với tổ chức tôn giáo trực thuộc, ngoài việc đáp ứng các điều kiện quy
định tại các Khoản 4, 5, 6 Điều 21 của Luật Tín ngưỡng, tôn giáo còn phải
được tổ chức tôn giáo đề nghị và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp
đăng ký mới trở thành pháp nhân phi thương mại”.
Đối với việc đăng ký, nếu tổ chức tôn giáo có phạm vi một tỉnh, thành
phố thì cơ quan quản lý tôn giáo cấp tỉnh, thành phố xem xét giải quyết; đối
26

với việc công nhận tổ chức tôn giáo, nếu tổ chức tôn giáo có phạm vi một
tỉnh, thành phố thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố xem xét giải quyết.
- Quản lý việc xét duyệt chương trình sinh hoạt thường xuyên và đột
xuất: Hàng năm, các tổ chức tôn giáo hợp pháp đăng ký chương trình hoạt
động tôn giáo với chính quyền các cấp và được chính quyền các cấp xem
xét tạo điều kiện để sinh hoạt tôn giáo diễn ra bình thường tại nơi thờ tự.
Những hoạt động tôn giáo thuần túy được bảo đảm tự do hành đạo, bên
cạnh đó có những hoạt động trái phép với tập quán tôn giáo đôi khi cũng
diễn ra cần phải được nhắc nhở, ngăn chặn hoặc giải quyết bằng phương
pháp hành chính như: các hoạt động mê tín, dị đoan, “lên đồng”, bói toán…
hoặc có những hoạt động có tính tập quán tôn giáo nhưng bỏ qua các thủ
tục pháp lý cần thiết có liên quan như: làm lễ thành hôn không có giấy kết
hôn, không được quyền ly dị theo luật…thì các tôn giáo phải đảm bảo luật
pháp, đảm bảo lợi ích của toàn dân. Ngoài những sinh hoạt thông thường,
còn có những hoạt động bất thường, đó là: những hoạt động không có trong
chương trình đăng ký hàng năm, hoặc có đăng ký nhưng quy mô lớn hơn so
với thường lệ thì phải thông báo với chính quyền, khi chính quyền cho
phép mới tiến hành.
Như vậy, các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành phải làm việc với
các tôn giáo để xây dựng nội dung hoạt động thông thường của sinh hoạt tôn
giáo; phải nắm được các nội dung, phạm vi giữa các loại hình sinh hoạt tôn
giáo thông thường và các sinh hoạt biểu hiện xa lạ với tín ngưỡng, văn hóa.
- Quản lý việc xét duyệt một số việc thuộc hành chính đạo: Việc
“phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử, thuyên chuyển, cách chức, bãi
nhiệm các chức sắc, chức việc, nhà tu hành” thuộc hình thức hoạt động của
giáo hội các tôn giáo, nhưng phải có sự thỏa thuận và chấp thuận của Nhà
nước. Đây là cơ sở để đảm bảo sinh hoạt xã hội phát triển bình thường, vừa
27

đảm bảo cơ sở pháp lý của những biến động tôn giáo trong điều kiện của
Nhà nước pháp quyền. Ngoài ra, những việc đăng ký con dấu, làm mới con
dấu; tách, nhập họ đạo; điều chỉnh chức sắc trung, cao cấp; các hội đoàn tôn
giáo… phải tuân thủ theo pháp luật.
- Quản lý việc “đào tạo, bồi dưỡng chức sắc, nhà tu hành”: Việc đào
tạo chức sắc, nhà tu hành tôn giáo trong các trường đặc biệt của tôn giáo là
đảm bảo sự phát triển bình thường của các tôn giáo, bảo đảm tính kế thừa các
thế hệ, các nhà chức sắc. Người đứng đầu “các cơ sở đào tạo chức sắc, nhà tu
hành” tôn giáo chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động. Giảng viên
phải chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, người học phải hoàn thành nghĩa vụ
công dân, lý lịch rõ ràng. Mở trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành tôn giáo
phải được phép của Thủ tướng Chính phủ. Tổ chức và hoạt động của các
trường này thực hiện theo quy định của Ban Tôn giáo Chính phủ và của Bộ
Giáo dục và Đào tạo. Việc bồi dưỡng hàng năm, kèm cặp tại chỗ, đi tu nghiệp
nước ngoài… thực hiện theo quy định của pháp luật.
- Quản lý việc xét duyệt quá trình “xây dựng và sửa chữa nơi thờ tự”:
Cơ sở thờ tự của tổ chức tôn giáo là sở hữu chung của cộng đồng tín đồ được
Nhà nước bảo hộ. Việc tu bổ và sửa chữa nhỏ không ảnh hưởng đến kết cấu
công trình các nhà lân cận và bộ mặt đường phố được miễn giấy phép xây
dựng. Tuy nhiên, trước khi sửa chữa nhỏ phải thông báo cho Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp sở tại biết. Việc sửa chữa lớn; khôi phục công trình thờ tự bị
hoang phế, bị hủy hoại do chiến tranh, thiên tai; việc “tạo lập cơ sở thờ tự,
xây dựng công trình thờ tự”, người chủ trì cơ sở thờ tự phải làm đơn xin phép
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
- Quản lý việc xét duyệt chương trình sản xuất, lưu thông đồ dùng việc
đạo: Tôn giáo cũng có những tài liệu, kinh sách, giáo lý, luật lệ thành văn như:
Tam Tạng kinh điển, Kinh Thánh, Kinh Coran… Ngoài ra còn có những dụng
28

cụ phục vụ cho việc thực hiện các nghi lễ tôn giáo như: mõ, chiêng, trống,
kèn… Những sản phẩm vật chất này cần được bảo quản, giữ gìn cho nhu cầu
thiết yếu của việc đạo. Ngoài ra, chúng còn là tài sản văn hóa của nhân dân cần
được tái tạo, sửa chữa và bảo quản. Sản phẩm xuất - nhập có nội dung tôn giáo
do Bộ Văn hóa - Thông tin và Ban Tôn giáo Chính phủ xem xét.
- Quản lý việc xét duyệt các hoạt động “từ thiện xã hội”: Hoạt động từ
thiện là một trong những nội dung có trong hầu hết các giáo lý của các tổ chức
tôn giáo. Ngoài giá trị từ thiện, ý nghĩa nhân văn, những việc làm này có giá trị
mở rộng và tuyên truyền tôn giáo mạnh mẽ. Ngày nay, các hoạt động từ thiện
của các tổ chức tôn giáo được khuyến khích đối với các giáo hội trong nước mà
còn đối với các tôn giáo ở nước ngoài mong muốn làm công việc từ thiện tại
Việt Nam. Nội dung này cần được hướng dẫn cụ thể trong các văn bản của Ban
Tôn giáo Chính phủ và các cơ quan chức năng quản lý nhà nước.
- Quản lý việc xét duyệt các hoạt động quốc tế và đối ngoại tôn giáo:
“Hoạt động quốc tế của tổ chức, cá nhân tôn giáo phải tuân thủ và phù hợp
với chính sách đối ngoại của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền quốc gia, vì hòa bình, ổn định, hợp tác
và hữu nghị”.
- Quản lý việc xử lý các khiếu tố, khiếu nại liên quan đến tôn giáo và vi
phạm chính sách tôn giáo: Căn cứ vào Luật khiếu nại, tố cáo và các văn bản
quy phạm pháp luật có liên quan, các cơ quan QLNN phải giải quyết ngay từ
cơ sở và đúng thẩm quyền pháp lý của từng cấp quản lý các khiếu nại, tố cáo
liên quan đến tôn giáo; xử lý vi phạm chính sách tôn giáo, theo các văn bản
pháp luật hiện hành của Nhà nước như: Luật Hình sự, Luật Tố tụng hình sự,
Luật Dân sự…
- Đấu tranh chống lợi dụng tôn giáo: “Làm tốt công tác tôn giáo là
trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, phối hợp chặt chẽ với nhau dưới sự
29

lãnh đạo của Đảng, chính quyền phải thực hiện đấu tranh chống lợi dụng tôn
giáo, cần tập trung bài trừ mê tín dị đoan, chống thủ đoạn lợi dụng tôn giáo để
hoạt động chính trị phản động”.

1.3. CÁC ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP
LUẬT ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO
Để đảm bảo QLNN bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo có các
điều kiện sau đây
- Hoàn thiện các văn bản pháp luật: Để quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo được thực hiện đầy đủ thì quyền này phải được luật hóa. Văn bản Luật
quan trọng nhất là Hiến pháp, ngay trong văn bản này, quyền tự do tín
ngưỡng đã trở thành quyền Hiến định. Tiếp đến là Luật Tín ngưỡng, tôn giáo
có hiệu lực ngày ngày 01/01/2018 và Nghị định số 162/2017/NĐ-CP ngày
30/12/2017… là những “văn bản quy định và đảm bảo quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo cho nhân dân, làm cho các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo
ngày một phong phú, đa dạng” với phương châm “nước sáng, đạo vinh”,
“sống tốt đời đẹp đạo”… Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân đảm bảo các hình
thức thực hiện pháp luật: tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng
pháp luật và áp dụng pháp luật về tín ngưỡng tôn giáo, đảm bảo và thực hiện
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
- Xây dựng chính sách tôn giáo: Chính sách tôn giáo của Đảng và
Nhà nước ta được khẳng định: “tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
của nhân dân”; các tôn giáo được hoạt động tự do trong khuôn khổ Hiến
pháp và pháp luật. Chương 2 của Luật Tín ngưỡng, tôn giáo đã làm rõ
quyền tự do tín ngưỡng của mọi người, đã phản ánh rõ hơn phạm vi điều
chỉnh của Luật cũng như thể hiện một cách cơ bản nhất chính sách nhất
quán của Đảng và Nhà nước ta trong việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo
đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo Hiến pháp và pháp luật. Một tôn
30

giáo ở Việt Nam muốn hoạt động hợp pháp phải đáp ứng đủ những điều
kiện cơ bản như:
Điều 18, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo quy định “Có tôn chỉ mục
đích quy chế hoạt động không trái với quy định của pháp luật; có
giáo lý, giáo luật, lễ nghi; địa điểm hợp pháp để đặt trụ sở; tên
của tổ chức không trùng với tên tổ chức tôn giáo hoặc tổ chức đã
được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo, tên tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội hoặc tên danh nhân, anh hùng
dân tộc; người đại diện, người lãnh đạo tổ chức là công dân Việt
Nam thường trú tại Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
không trong thời gian bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính
trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo; không có án tích hoặc không
phải là người đang bị buộc tội theo quy định của pháp luật về tố
tụng hình sự”.
Những tổ chức tôn giáo không đáp ứng đủ các yêu cầu cơ bản trên đều
không được hoạt động. Đây là những quy định đối với tổ chức tôn giáo, còn
tín đồ hoàn toàn tự do sinh hoạt tín ngưỡng tại gia đình và nơi thờ tự hợp
pháp. Mọi công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, Nhà nước Việt
Nam xử lý bằng pháp luật đối với bất kỳ một công dân Việt Nam nào vi phạm
pháp luật, bất kể công dân đó theo hay không theo tôn giáo nào và xử lý bằng
pháp luật mọi hành vi lợi dụng tôn giáo để gây rối trật tự xã hội, làm phương
hại đến an ninh quốc gia, tổn hại tinh thần, vật chất, văn hóa, sức khỏe của
công dân.
- Xây dựng tổ chức bộ máy và cán bộ: Ban Tôn giáo Chính phủ là cơ
quan thuộc Chính phủ có chức năng quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo
trong phạm vi cả nước, là đầu mối phối hợp với các ngành về công tác và liên
hệ với các tổ chức tôn giáo. Ban Tôn giáo tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương, Ban Tôn giáo cấp huyện, thành phố, thị xã là cơ quan chuyên môn
31

thuộc Sở Nội vụ, thực hiện chức năng QLNN về các hoạt động tôn giáo theo
pháp luật của nhà nước trong phạm vi địa phương. Còn ở cấp xã, hiện nay
mới chỉ có cán bộ kiêm nhiệm làm công tác tham mưu cho Ủy ban nhân dân
(UBND) cùng cấp giải quyết các vấn đề có “liên quan” đến tôn giáo.
- Tăng cường công tác giáo dục, thuyết phục, vận động quần chúng:
Xuất phát từ luận điểm nội dung chủ yếu của công tác tôn giáo là công tác
vận động quần chúng. Vì vậy, trong QLNN về hoạt động tôn giáo không chỉ
đúng pháp luật mà còn phải được sự đồng tình của đông đảo quần chúng
nhân dân, vận động giải thích cho nhân dân hiểu rõ nội dung trọng tâm vấn
đề cùng tham gia đấu tranh chống các biểu hiện sai trái đó cũng là việc quan
trọng trong QLNN về tôn giáo. Nội dung cơ bản của phương pháp này là
tuyên truyền, phổ biến, quán triệt chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng
và Nhà nước để mọi người (người có đạo và không có đạo) hiểu và thực hiện
đúng. QLNN bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo là một trong những
hoạt động của Nhà nước đối với bộ phận dân số chiếm tỷ lệ lớn trong nhân
dân, nhằm đảm bảo sự hài hòa giữa các mặt: tôn trọng pháp luật, đời sống
tín ngưỡng của đồng bào có đạo phát triển bình thường cùng với các hoạt
động kinh tế, văn hóa, xã hội khác.
- Tăng cường “công tác phối hợp” giữa cơ quan quản lý nhà nước với
các cơ quan nhà nước khác, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể xã hội trong
việc thực hiện công tác tôn giáo. Mục đích này là để thực hiện tốt công tác
QLNN đối với hoạt động tôn giáo và công tác vận động quần chúng tín đồ,
chức sắc tôn giáo chấp hành tốt chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước gắn với nhiệm vụ chăm lo phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội cho
đồng bào vùng tôn giáo. Làm tốt công tác tôn giáo là “trách nhiệm của toàn bộ
hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo”. Để thực hiện tốt công tác này thì việc
phối hợp giữa các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể trong việc quản lý những hoạt
32

động tôn giáo trên địa bàn phải thường xuyên, chặt chẽ và dựa trên cơ sở nhất
quán quan điểm chỉ đạo chung của Đảng bộ địa phương. Với phương châm
hướng về cơ sở thì hoạt động của cơ quan nhà nước, mặt trận và đoàn thể các
cấp phải gần gũi, tiếp xúc để kịp thời xử lý, uốn nắn những sai phạm ngay từ
cơ sở, không để, trường hợp đặt cơ quan quản lý vào sự việc đã rồi. Vì, khi sai
phạm trong QLNN đã xảy ra rất khó khắc phục do tài sản, vật tư, cơ sở thờ tự
tôn giáo (kể cả con người hoạt động tôn giáo) là tài sản chung của cộng đồng
tôn giáo dựa vào tính tập thể, không quy trách nhiệm cá nhân.
Ngoài ra, cần tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở nhằm thực hiện
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo; đẩy mạnh phong trào
xây dựng gia đình văn hóa, “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống mới ở khu
dân cư” trong vùng đồng bào theo đạo; tăng cường cơ sở vật chất và chăm sóc
sức khỏe cho đồng bào... Qua các hoạt động trên góp phần nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần cho đồng bào các dân tộc, đặc biệt là đồng bào các tôn
giáo, làm cho đồng bào chấp hành tốt chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, yên tâm xây dựng cuộc sống “tốt đời, đẹp đạo”.

Tiểu kết chương 1


33

Pháp luật về “quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là một bộ
phận của hệ thống pháp luật Việt Nam. Hiện nay, hệ thống pháp luật điều
chỉnh các hoạt động tôn giáo ở nước ta có những bước phát triển đáng kể,
ngày càng hoàn thiện, cơ bản đáp ứng được yêu cầu bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo được ban hành, có
hiệu lực ngày 01/01/2018, đây là văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất
về quản lý và điều chỉnh mọi hoạt động trong lĩnh vực tôn giáo”. Song song
đó, “những quy định pháp lý liên quan đến quản lý hoạt động tôn giáo còn
nằm trong những quy định của văn bản pháp luật về dân sự, đất đai, về bảo
tồn, bảo tàng, về xây dựng…Đây là những cơ sở pháp lý để Nhà nước ta thực
hiện chức năng quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo
và cũng là cơ sở để đấu tranh với các thế lực thù địch vu cáo Nhà nước ta vi
phạm tự do tôn giáo, vi phạm nhân quyền, góp phần ngăn chặn hành vi lợi
dụng tôn giáo”.
Để QLNN bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo đạt những kết
quả hữu hiệu trên thực tế, yêu cầu các chủ thể thực hiện phải nhận thức đầy
đủ về đặc điểm, vị trí, vai trò, nội dung cũng như xác định đúng đắn những
yếu tố ảnh hưởng, tác động để từ đó chủ động có các biện pháp thích hợp
trong quá trình QLNN bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo, góp phần
ổn định xã hội, ổn định nền kinh tế, đẩy mạnh hội nhập quốc tế và tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
34

Chương 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
BẰNG PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO TRÊN
ĐỊA BÀN THỊ XÃ GÒ CÔNG, TỈNH TIỀN GIANG

2.1. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ GÒ
CÔNG, TỈNH TIỀN GIANG
2.1.1. Khái quát về thị xã Gò Công, Tỉnh Tiền Giang
“Thị xã Gò Công là trung tâm kinh tế đô thị hạt nhân phía Đông của
Tỉnh Tiền Giang. Diện tích tự nhiên 101,98 km 2. Dân số 101.066 người (năm
2016). Mật độ dân số 945 người/km2. Phân bố địa bàn cư trú: Khu vực nội thị:
29.058 người. Nông thôn: 67.294 người”.
“Thị xã Gò Công có 12 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 5 phường
(1, 2, 3, 4 và 5) và 7 xã (Long Chánh, Long Hòa, Long Hưng, Long Thuận,
Tân Trung, Bình Đông và Bình Xuân), có đường Quốc lộ 50 đi qua, nối với
thành phố Hồ Chí Minh cách 60 km về phía Bắc, nối với thành phố Mỹ Tho
cách 35 km về phía Tây, và có các đường tỉnh lộ đi về các thị trấn ven biển
cách biển Tân Thành 15 km về phía Đông. Rạch Gò Công bắt nhánh từ sông
Vàm Cỏ, bao quanh phía Bắc thị xã và chảy qua nội thị theo hướng Bắc -
Nam nối với các kênh rạch khác đi ra sông Tiền. Với vị trí địa lý và hệ thống
giao thông thủy bộ thuận tiện, thị xã Gò Công ngày càng phát huy vị trí đô thị
trung tâm phía Đông của tỉnh Tiền Giang”.
Từ năm 1987, thị xã Gò Công đã được xác định cơ cấu kinh tế “thương
mại - dịch vụ - công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp - nông nghiệp”. Việc chỉnh
trang đô thị đã tạo nên những nét đổi mới ở nội thị, hoạt động thương mại,
dịch vụ được thuận lợi hơn. Các ngành công nghiệp được chú trọng, ngành
35

điện tập trung ưu tiên cho sản xuất và phục vụ sinh hoạt. Các hợp tác xã thủ
công nghiệp được khuyến khích, đã thu hút hàng trăm lao động. Sản xuất
nông nghiệp đã phát huy hiệu quả chương trình “Ngọt hóa Gò Công”, đưa đời
sống kinh tế ở nông thôn ngày càng được cải thiện. Đến cuối năm 2000, kinh
tế thị xã luôn ở mức tăng trưởng khá và ổn định, tạo tiền đề cho việc chuyển
dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Định hướng phát triển đến năm 2020 là “đẩy mạnh phát triển kinh tế
toàn diện, ổn định, tăng trưởng nhanh và bền vững theo cơ cấu kinh tế
“Thương mại - dịch vụ - du lịch, công nghiệp và nông nghiệp”, xây dựng thị
xã Gò Công thành một trung tâm thương mại - dịch vụ và phát triển công
nghiệp chế biến, trung tâm văn hoá, giáo dục - đào tạo vùng phía Đông của
tỉnh Tiền Giang. Đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hóa, thu hút đầu tư phát
triển các khu, cụm công nghiệp; phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật công
trình; hoàn chỉnh mạng lưới giao thông nội, ngoại thị, giao thông đối ngoại;
hoàn chỉnh mạng lưới điện, thông tin liên lạc cấp thoát nước… đảm bảo cho
thị xã Gò Công phát triển nhanh và bền vững theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, văn minh tiến bộ” vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”. Đến năm 2027 xây dựng được Thành phố Gò Công
trực thuộc Tỉnh Tiền Giang.
“Thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang có số đồng bào theo đạo chiếm
13,96% dân số, tỷ lệ hộ nghèo bình quân toàn thị xã 4%. Do vậy, việc phát
triển ổn định và phát triển đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội của đồng bào
nói chung, đồng bào các tôn giáo nói riêng, làm cho đồng bào an tâm, đoàn
kết, chấp hành tốt chủ trương chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước,
xây dựng đời sống “tốt đời, đẹp đạo” là một nhiệm vụ rất quan trọng của các
cấp, các ngành ở thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang”.
Các cấp, các ngành ở thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang, khi xây dựng
định hướng quy hoạch, kế hoạch và cơ chế chính sách phát triển kinh tế - xã
36

hội của thị xã đều đã gắn với chính sách phát triển kinh tế - xã hội đối với vùng
sâu, vùng xa, vùng đồng bào có đạo; đẩy mạnh việc thực hiện các chương trình
“xóa đói, giảm nghèo”. Do đó, “đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân” nói
chung, đồng bào có đạo nói riêng từng bước được nâng lên. Đến nay tỷ lệ hộ
nghèo đã giảm đáng kể (từ 18% năm 2005 xuống còn 4% năm 2018), đời sống
của đại bộ phận người dân được cải thiện về nhà ở, điện, nước sinh hoạt, đi lại,
đời sống tinh thần được nâng lên, tiếp nhận được nhiều kênh thông tin chính
thống khác nhau, công tác giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khỏe được quan
tâm, “văn hóa truyền thống” của các dân tộc được phát huy...
Hiệu quả từ sự đầu tư này đã làm cho nhân dân, trong đó có tín đồ các
tôn giáo ngày càng hiểu rõ hơn về chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước đối với vấn đề dân tộc, tôn giáo; góp phần củng cố và tăng
cường lòng tin của quần chúng nhân dân với sự lãnh đạo của Đảng. Từ đó tự
giác chấp hành chủ trương, chính sách, pháp luật, đồng thời nâng cao “cảnh
giác” và tích cực đấu tranh với luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc của các thế
lực thù địch, lợi dụng, đội lốt tôn giáo.
Mặc dù có nhiều nỗ lực, cố gắng trong công tác phối hợp giữa các
ngành về thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, nhưng tình hình kinh tế -
xã hội vùng đồng bào có đạo vẫn còn nhiều hạn chế, mức sống vẫn còn thấp,
kết quả xóa đói giảm nghèo chưa vững chắc, tỷ lệ tái nghèo cao, tỷ lệ hộ
nghèo giảm ở các địa phương không đồng đều... Vì vậy, trong thời gian tới,
việc thực hiện kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với đảm bảo an ninh quốc
phòng, ngăn chặn việc lợi dụng tôn giáo để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, làm mất ổn định xã hội trên địa bàn thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang vẫn
còn là một nhiệm vụ quan trọng. Do đó, cần phải đẩy nhanh tiến độ thực hiện
chương trình, dự án và các chính sách “phát triển kinh tế - xã hội” ở vùng có
đông đồng bào theo đạo, thực hiện tốt việc lồng ghép các chương trình, chính
sách, dự án trên địa bàn thị xã; đồng thời, tập trung nguồn lực để phát huy thế
37

mạnh của từng địa phương và vận động mỗi người dân phát huy tính tự lực,
tự cường, phát huy nội lực phát triển sản xuất, xóa đói giảm nghèo bền vững.
Ngoài ra, tăng cường hơn nữa sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, các
địa phương trong việc tham mưu cho thị xã trong việc quy hoạch, xây dựng
kế hoạch và triển khai thực hiện chính sách dân tộc - tôn giáo, các chương
trình dự án tác động đến vùng đồng bào tôn giáo.
2.1.2. Tình hình hoạt động tôn giáo trên địa bàn thị xã Gò Công,
tỉnh Tiền Giang
Trên địa bàn thị xã có 05 tôn giáo chính: Thiên chúa, Tin lành, Phật
giáo, Tịnh độ cư sĩ phật hội, đạo Cao đài các phái (Tây ninh, Ban chỉnh
Bến Tre, Tiên thiên), được Nhà nước ta công nhận. Có 78 chức sắc, 234
chức việc, nhà tu hành, với 13.461 tín đồ các tôn giáo chiếm 13,96% dân
số, sinh hoạt thường xuyên tại 36 cơ sở thờ tự trên địa bàn thị xã, nhưng
nếu tính số lượng người có cảm tình đến tín ngưỡng tôn giáo thường đến
các cơ sở thờ tự chiếm khoảng 30% dân số thị xã. So với trước năm 2013
số lượng chức sắc tăng 47 vị; chức việc, nhà tu hành tăng 135; số lượng tín
đồ tăng 7.179 người.
Các tổ chức tôn giáo sinh hoạt cơ bản ổn định và ngày càng gắn bó hơn
với chính quyền, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, làm cho lòng
tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước được nâng lên, góp phần “phát
triển kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân”; thị
xã tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật vào
cộng đồng dân cư, trong đó có “chức sắc, chức việc và tín đồ các tôn giáo”;
thống kê chức sắc, cơ sở thờ tự trên địa bàn thị xã. Ngoài ra, sẽ hướng dẫn và
tạo điều kiện cho đại hội tôn giáo diễn ra thuận lợi và đúng quy định của luật
pháp và luật đạo; giải quyết tốt các nhu cầu chính đáng của tôn giáo theo quy
định của pháp luật và hiến chương của giáo hội.
Cụ thể:
38

- Công giáo: 03 cơ sở (Nhà thờ Thánh Tâm, nhà thờ thánh Jiuse và
Dòng nữ tu thánh Phaolo), 03 chức sắc, 31 chức việc, 5 Soeur (nhà tu hành),
tín đồ: 1850 người. Giáo xứ Thánh Tâm thành lập 01 Ban Đoàn kết công giáo
có 19 vị (NK IV 2015-2020), 02 hội đồng Mục vụ, 01 tốp thánh ca; nữ tu 03
vị. Gia đình phạt tạ Hội Bà mẹ Công giáo. Diện tích 03 cơ sở là 14.595 m2.
- Tin lành Việt Nam (Miền nam): 01 cơ sở, 02 chức sắc, 12 chức việc,
tín hữu đã Báptem: 700/1600 và 01 Ban Chấp sự 12 vị (Văn phòng cấp tỉnh
đạo đặt tại Phường 5 thị xã). Diện tích là 367 m2.
- Điểm, nhóm Tin lành: 01 điểm, nhóm hệ phái Tin lành Yêu thương tại
xã Bình Đông có 26 tín hữu và 1 điểm nhóm Hội thánh đấng Chúa trời tại
Phường 5 có 29 tín hữu.
- Phật Giáo: 23 cơ sở 27 chức sắc và 60 nhà tu hành; với 5.666 phật tử,
có 01 Ban Trị sự Phật giáo 12 vị. Tổng diện tích của 23 cơ sở 37.635,4 m2
- Hệ phái Tịnh Độ cư sĩ phật hội: 01 cơ sở 03 chức sắc; chức việc 09 và
230 tín đồ (Văn phòng cấp tỉnh đạo đặt tại Hội quán Hưng Thành Tự, phường
2 thị xã).
Trước khi có Nghị quyết 25-NQ/TW Hội nghị Ban Chấp hành Trung
Ương Đảng (khóa IX) ngày 12/3/2003 “về công tác tôn giáo”, Hội quán Hưng
Thành Tự, hệ phái Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam tham gia sinh hoạt tôn
giáo cùng Ban Trị sự Phật giáo, nay tách ra theo hệ thống Giáo hội đã được
Chính phủ cho phép. Số lượng cơ sở thờ tự tôn giáo năm 2013 tăng 12 cơ sở
thờ tự tôn giáo so với năm 2003 (lý do là sáp nhập 03 xã của huyện Gò Công
Đông và một phần của xã Thành Công huyện Gò Công Tây).
- Đạo Cao đài:
+ Cao đài Tây Ninh: 2 cơ sở (Thánh thất Phường 4 và Điện thờ phật
mẫu) 03 chức sắc; 44 chức việc; 4.465 tín đồ (trong đó nam 1943, nữ 2522).
+ Cao đài Tiên Thiên 01 cơ sở 10 chức sắc; Tín đồ 45 người.
39

+ Cao đài Ban chỉnh Bến Tre: 05 cơ sở (Trong đó 3 cơ sở chưa hoàn


nguyên do đó chưa được nhà nước công nhận), có 21 chức sắc, 44 chức việc;
505 tín đồ. Trong đó: tín đồ Thánh thất Tân Trung 87 tín đồ (Văn Phòng cấp
tỉnh đạo đặt tại xã Tân Trung); Thánh thất Thành Công, xã Bình Xuân 70
người; Thánh thất Long Thuận 35 tín đồ; Thánh thất Bình Đông 48 tín đồ và
Thánh thất Bình Xuân 165 tín đồ.
Nhìn chung, công tác tôn giáo được sự lãnh đạo của Thị ủy, Ủy ban
nhân dân thị xã và sự phối hợp chặt chẽ của các ngành, đoàn thể, quan tâm
lãnh đạo, chỉ đạo cả về xây dựng cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo.
Ban Chỉ đạo công tác Tôn giáo thị xã đã tham mưu cho chính quyền nắm tình
hình diễn biến hoạt động của các tôn giáo, đồng thời giúp cho công tác quản
lý, chỉ đạo các hoạt động tôn giáo theo đúng chính sách, pháp luật.

2.2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP LUẬT
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO Ở THỊ XÃ GÒ CÔNG, TỈNH TIỀN GIANG
2.2.1. Cơ cấu, tổ chức bộ máy, cán bộ làm công tác quản lý nhà
nước về tôn giáo thị xã Gò Công
Xác định “công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, vì
vậy trước khi có Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban chấp
hành Trung ương Đảng (khóa IX) về công tác tôn giáo” Thị ủy Gò Công đã
chỉ đạo kiện toàn Ban chỉ đạo công tác tôn giáo cấp thị xã do đồng chí Bí thư
cấp ủy - Chủ tịch UBND thị xã làm Trưởng Ban chỉ đạo, đồng chí Trưởng
Ban Dân vận, đồng chí Phó Chủ tịch UBND thị xã làm phó ban, đồng chí
trưởng các ban, ngành: Công an, Nội vụ, Tuyên giáo, Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc (MTTQ), Tài nguyên - Môi trường, Văn hóa là thành viên Ban chỉ đạo.
Trong công tác phối hợp cùng các đoàn thể, trên cơ sở nội dung chương
trình và tình hình thực trạng tôn giáo tại địa phương, luôn phát huy trách nhiệm
trong công tác tôn giáo là tuyên truyền vận động chức sắc, nhà tu hành, tín đồ,
người có tín ngưỡng và nhân dân “chấp hành tốt các chủ trương, chính sách
40

của Đảng, pháp luật Nhà nước”, đồng thời nâng cao nhận thức chính sách tôn
giáo góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy phong trào thi
đua yêu nước, “sống tốt đời đẹp đạo” xây dựng đoàn viên, hội viên gương
mẫu, hộ gia đình văn hóa nhằm tăng cường xây dựng các tổ chức hội vững
mạnh và tổ chức lực lượng nồng cốt trong khu vực có đông đồng bào theo đạo.
Sau khi tiếp thu “Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban
chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về công tác tôn giáo”, bộ máy làm
công tác tôn giáo ở các cấp tiếp tục được củng cố theo từng giai đoạn, nâng
cao vai trò, vị trí của bộ máy nhằm đáp ứng trong tình hình mới phù hợp theo
Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo số 21/2004/PL-UBTVQH 11 ngày 18/6/2004;
Chỉ thị 01/2005/CT-TTg ngày 4/2/2005 của Thủ tướng Chính phủ về một số
công tác đối với đạo Tin lành; Nghị định 22/2004/NĐ-CP ngày 12/1/2004 của
Chính phủ về kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác tôn giáo thuộc Ủy ban
nhân dân các cấp; Nghị định số 92/2012/NĐ-CP ngày 8/11/2012 của Chính
phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo;
Thông tư 25/2004/TT-BNV ngày 19/4/2004 của Bộ Nội vụ, Hướng dẫn chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức cơ quan chuyên môn giúp Ủy
ban nhân dân quản lý nhà nước về công tác tôn giáo ở địa phương. Thị xã tiếp
tục duy trì Ban Tôn giáo (Ban Tư vấn) và tổ chức ký kết chương trình liên
ngành số 447/CTr-LN về việc phối hợp giữa Ban Tôn giáo và các đoàn thể
chính trị về vận động đồng bào tín đồ tôn giáo thực hiện chủ trương, chính
sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước. Thị xã thành lập Ban Chỉ đạo về công
tác tôn giáo theo Quyết định số 856-QĐ/TU ngày 25/6/2013 có 15 đ/c do
đồng chí Phó Bí thư Thường trực, Chủ tịch Hội đồng nhân dân làm Trưởng
ban, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã làm Phó ban Thường trực, Trưởng
Ban Dân vận Thị ủy làm Phó ban và các ngành, đoàn thể làm thành viên;
đồng thời thành lập tổ giúp việc Ban Chỉ đạo về công tác tôn giáo có 5 đồng
chí nhằm thực hiện lãnh, chỉ đạo tổ chức triển khai, hướng dẫn kiểm tra, đôn
41

đốc xây dựng cốt cán đặc thù trong công tác tôn giáo. Hàng năm, Ban Chỉ đạo
tổ chức sơ, tổng kết việc thực hiện quan điểm, chủ trương của Đảng, chính
sách pháp luật Nhà nước về tín ngưỡng tôn giáo.
Tổ giúp việc đặt tại Phòng Nội vụ thị xã, cơ sở vật chất, biên chế và
kinh phí hoạt động do Ủy ban nhân dân thị xã bố trí. Đối với cấp xã, phường
thành lập 12/12 Tổ liên ngành về công tác tôn giáo, có từ 8 đến 12 đồng chí
do cấp ủy phụ trách và 01 đồng chí Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân kiêm nhiệm
làm công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo địa phương.
Những năm qua, sinh hoạt tôn giáo trên địa bàn thị xã sôi động hơn,
nhiều địa phương trên địa bàn có đông người theo đạo được sự tạo điều kiện,
giúp đỡ của chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân đã tạo dựng được
phong trào thi đua yêu nước, phong trào xây dựng cơ sở thờ tự văn hóa gắn
với xây dựng văn hóa ở khu dân cư. Trong xử lý công việc có liên quan đến
tôn giáo, thể hiện quan điểm đồng thuận thống nhất chung, trong phối hợp
luôn bám sát sự chỉ đạo của Thị ủy nên khi xử lý vụ, việc về tôn giáo khách
quan, chính xác, đúng quy định pháp luật.
Đa số cán bộ làm công tác tôn giáo đã được tập huấn, đào tạo, có nhiều
cố gắng tự học, tìm hiểu để làm tròn nhiệm vụ. Từ đó, việc giải quyết vấn đề
tôn giáo hợp lý, hợp tình, có sự đồng thuận cao giữa các ngành, các cấp, luôn
có sự tập trung giải quyết các vấn đề thực chất có liên quan, hiểu và nắm được
tâm tư nguyện vọng, những bức xúc của quần chúng đặc biệt trên lĩnh vực đời
sống, đất đai, tôn giáo.
2.2.2. Kết quả và nguyên nhân của kết quả công tác quản lý nhà
nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn thị xã Gò
Công, tỉnh Tiền Giang
2.2.2.1. Kết quả đạt được
Từ năm 2013 đến nay, việc thực hiện công tác quản lý nhà nước bằng
pháp luật đối với hoạt động tôn giáo của thị xã Gò Công chủ yếu thực hiện theo
42

Nghị quyết số 25/NQ-TW năm 2003 của Ban chấp hành Trung ương khóa IX
về tôn giáo, Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm
2018, “Nghị định số 162/2017/NĐ-CP hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật Tín ngưỡng, tôn giáo”. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Thị ủy, Ủy ban
nhân dân thị xã, trong thời gian qua, Phòng Nội vụ (cơ quan Thường trực được
phân công theo dõi hoạt động tôn giáo trên địa bàn) đã phối hợp với các cơ
quan, ban ngành, đoàn thể, an ninh thị xã nắm chắc diễn biến tình hình hoạt
động tôn giáo trên địa bàn, tham mưu, đề xuất với UBND tỉnh, thị xã chỉ đạo
giải quyết kịp thời các vụ việc tôn giáo phát sinh trên địa bàn (nhất là những vụ
việc có diễn biến phức tạp xảy như tranh chấp bên trong nội bộ, việc cải gia
thành tự, xây dựng, sữa chữa không xin phép, không để xảy ra “điểm nóng” về
tôn giáo, giữ vững ổn định an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội ở địa
phương. Nhìn chung, tình hình tôn giáo trên địa bàn cơ bản ổn định, hoạt động
tôn giáo tuân thủ các quy định của pháp luật. Kết quả cụ thể như sau:
Một là, trong công tác chỉ đạo, điều hành xây dựng, ban hành văn bản
về quản lý hoạt động tôn giáo.
Thực hiện “Pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo” và ngay sau khi Luật Tín
ngưỡng, tôn giáo và Nghị định số 162/2015/NĐ-CP của Chính phủ về hướng
dẫn thực hiện Luật được ban hành. Để cụ thể hóa các “quy định của pháp luật
về quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo” cho phù hợp với thực tiễn
địa phương, đồng thời để có sực chỉ đạo thống nhất trong việc triển khai thực
hiện chính sách, pháp luật về quản lý nhà nước đối với tôn giáo trên địa bàn
thị xã, UBND thị xã đã chỉ đạo Phòng Tư pháp, Phòng Nội vụ phối hợp với
các cơ quan liên quan xây dựng dự thảo và trình Ủy ban nhân dân thị xã ban
hành Quyết định số 96/2013/QĐ-UBND ngày 03-9-2013 về việc hướng dẫn
thực hiện một số điều của Luật và Nghị định, nhằm cụ thể hoá các quy định
của pháp luật, giúp cho công tác quản lý nhà nước ở địa phương có hiệu lực,
hiệu quả hơn. Ngày 18-3-2014, Ban Thường vụ Thị ủy ra Chỉ thị số
43

27-CT/TU về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo “thực hiện công tác tôn giáo trong
tình hình mới”; tham mưu cho Ban Thường vụ Thị ủy ban hành thông báo số
29-TB/TU ngày 04-4-2014 về công tác tôn giáo; kế hoạch số 36-KH/TU ngày
03-7-2014 về nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị
về công tác tôn giáo; Thông báo số 56-TB/TU ngày 19-2-2015 về đất đai liên
quan đến tôn giáo trên địa bàn.
Trên cơ sở các Thông báo, kế hoạch của Thị uỷ, Uỷ ban nhân dân thị
xã đã xây dựng kế hoạch, chương trình công tác cụ thể để chỉ đạo các cấp, các
ngành tổ chức thực hiện, giải quyết nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật
những vấn đề phát sinh trong công tác tôn giáo và hoạt động tôn giáo, không
để các vụ việc diễn biến phức tạp, làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội ở
địa phương. Ngoài ra, hàng năm các ngành chức năng đã tham mưu ban hành
nhiều văn bản để giải quyết các vấn đề liên quan đến hoạt động tôn giáo cụ
thể như: thuyên chuyển, bổ nhiệm, xuất, nhập cảnh của các chức sắc tôn giáo,
xây dựng, nhà đất, khiếu kiện… liên quan đến tôn giáo.
Qua xem xét đánh giá cho thấy, đa phần các văn bản ban hành về
QLNN đối với hoạt động tôn giáo trong các năm từ 2013 - 2019 bảo đảm
được tính thống nhất, tính cụ thể, phù hợp với quy định của pháp luật, có giá
trị thực tiễn trong quản lý hoạt động tôn giáo tại địa phương. Việc ban hành
các văn quy phạm pháp luật đúng thể thức, đúng thẩm quyền, góp phần nêu
cao được hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt
động tôn giáo trên địa bàn.
Hai là, trong tập trung chỉ đạo, hướng dẫn các ngành thực hiện công
tác quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động cụ thể của các tôn
giáo, đảm bảo đúng thẩm quyền
Thực hiện nguyên tắc: nội bộ của các tôn giáo do các tổ chức tôn giáo
chủ động giải quyết theo “hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo và quy
định của pháp luật”. Xác định rõ trách nhiệm, thẩm quyền và thời gian giải
44

quyết của các cơ quan QLNN đối với những đề nghị về hoạt động tôn giáo
của các tổ chức, cá nhân tôn giáo theo hướng cải cách hành chính, tạo điều
kiện thuận lợi hơn cho các tổ chức tôn giáo, đảm bảo cho các sinh hoạt tôn
giáo của chức sắc, chức việc, nhà tu hành, các lễ nghi tôn giáo tại các cơ sở
thờ tự diễn tuân thủ pháp luật.
Thực hiện tốt việc phối hợp với các ngành, thẩm định hồ sơ đề nghị của
các tổ chức tôn giáo, tham mưu với các cấp chính quyền giải quyết kịp thời,
đúng trình tự, đúng pháp luật.
Ba là, “quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với việc công nhận tổ
chức tôn giáo; thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất và đăng ký sinh hoạt
của các tổ chức tôn giáo”.
Ở nước ta là một quốc gia có nhiều tôn giáo, tổ chức của các tôn giáo
cũng rất phức tạp, có giáo hội hay tổ chức tôn giáo tuy không được Nhà nước
thừa nhận nhưng vẫn tồn tại, hoạt động, như: một số điểm nhóm Tin lành,
giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất, Hội thánh Đức chúa trời Cha, Hội
thánh Đức chúa trời Mẹ… Vì vậy, để tạo điều kiện cho các tôn giáo được
hoạt động thuận lợi và phù hợp với pháp luật thì việc xem xét, công nhận tư
cách pháp nhân của các tổ chức tôn giáo là một vấn đề cần thiết.
Từ năm 2013-2019, nhìn chung, công tác quản lý nhà nước bằng
pháp luật đối với việc đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung, đăng ký sinh
hoạt tôn giáo, thực hiện đúng quy định pháp luật. Đến nay thị xã Gò Công
không có, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo nào, chỉ vừa
thống nhấn cho sinh hoạt một điểm nhóm Hội thánh đấng Chúa trời
Phường 5 đầu năm 2019.
Bốn là tăng cường công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với
hoạt động tôn giáo
Việc đăng ký hoạt động tôn giáo hàng năm của các tổ chức giáo hội cơ
sở đã được quy định trong Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2018, việc hướng
45

dẫn, triển khai quy định này được tiến hành đồng bộ chặt chẽ. Đa số, các cơ
sở tôn giáo đều thực hiện đúng quy định, có đăng ký hàng năm kể cả khi có
hoạt động đột xuất. Đồng thời, để đảm bảo thực hiện đúng pháp luật, UBND
thị xã đã chỉ đạo UBND các xã, phường phối hợp với Phòng Nội vụ thị xã,
các tổ chức tôn giáo xây dựng văn bản quy định về chương trình hoạt động
hàng năm và đột xuất, gửi các giáo hội cơ sở thống nhất các nội dung sau:
+ Người phụ trách giáo hội cơ sở thực hiện đăng ký chương trình hoạt
động hàng năm với UBND các xã, phường nơi có cơ sở thờ tự. Thực hiện
việc đăng ký từ ngày 01 đến ngày 15 tháng 10 hàng năm. “Đối với hoạt động
tôn giáo không có trong danh mục đã thông báo thì tổ chức tôn giáo thông báo
bổ sung chậm nhất 20 ngày trước khi diễn ra hoạt động”.
+ Những hoạt động tôn giáo bên ngoài khuôn viên nơi thờ tự hoặc
chưa đăng ký hàng năm thì người phụ trách giáo hội cơ sở phải đề nghị các
cấp chính quyền, nếu được chấp thuận mới được thực hiện, gồm: Đề nghị
UBND xã, phường nơi tổ chức những sinh hoạt trong phạm vi một xã,
phường. Khi tổ chức đoàn tham gia sinh hoạt tôn giáo ở ngoài huyện, tỉnh
thì người đứng đầu tổ chức phải thông báo chính quyền cấp xã, nêu rõ số
lượng người trong đoàn, thời gian tham gia, nội dung sinh hoạt của đoàn và
thì chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động của các thành viên
trong đoàn và các vấn đề có liên quan.
Nhìn chung, việc quản lý đối với những chương trình hoạt động hàng
năm của đạo Công giáo ở thị xã Gò Công đã được quan tâm đúng mức. Ủy
ban nhân dân thị xã đã chỉ đạo các cấp, các ngành liên quan hướng dẫn các
tôn giáo thực hiện việc đăng ký chương trình hoạt động hàng năm, báo cáo
các cuộc lễ ngoài nội dung, chương trình đã đăng ký và các cuộc lễ diễn ra
ngoài cơ sở tôn giáo; quan tâm tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tôn
giáo trong việc tổ chức các ngày lễ trọng, ngày lễ truyền thống như: lễ Giáng
sinh, lễ Phục sinh, lễ Phật đản, Vesak… tổ chức thăm hỏi, động viên đối với
46

chức sắc, tín đồ các tôn giáo. UBND thị xã phối hợp Ban Tôn giáo tỉnh Tiền
Giang, cơ quan Công an tỉnh, cử cán bộ xuống tận địa bàn, tham gia vào ngày
lễ để đảm bảo mọi hoạt động đều diễn ra đúng quy định của pháp luật.
Các cơ quan chức năng của thị xã cũng đã chủ động hướng dẫn, xem
xét và giải quyết những nhu cầu của các tổ chức tôn giáo trong quá trình tổ
chức đại hội, hội nghị như: Đại hội Phật giáo, Đại hội những người Việt Nam
kính Chúa, yêu nước, bầu Ban Chấp hành, Ban Trị sự… nên về cơ bản, đại
hội, hội nghị của các tổ chức tôn giáo được đảm bảo trang trọng, đúng quy
định của pháp luật và tạo được sự tin tưởng của chức sắc, tín đồ tôn giáo.
Năm là, quản lý nhà nước bằng pháp luật “đối với việc phong phẩm,
bổ nhiệm, bầu cử, suy cử, thuyên chuyển, cách chức, bãi nhiệm chức sắc,
chức việc, nhà tu hành các tổ chức tôn giáo”
Việc “phong phẩm, thuyên chuyển, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử cho chức
sắc tôn giáo” là hình thức hoạt động về tổ chức của các tôn giáo. Tuy nhiên,
việc này có ảnh hưởng đến phạm vi, mức độ quan hệ của các chức sắc tôn
giáo đối với xã hội, nên cần có sự chấp thuận của nhà nước.
Theo Điều 32, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo thì “việc phong phẩm, bổ
nhiệm, bầu cử, suy cử, thuyên chuyển là công việc nội bộ của các tổ chức tôn
giáo, tổ chức tôn giáo có quyền thực hiện theo hiến chương, điều lệ hoặc giáo
luật của tổ chức mình. Hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà
nước phê duyệt nên Nhà nước không can thiệp. Nhà nước chỉ nêu ra các điều
kiện về tư cách công dân của những người được phong chức, phong phẩm,
bầu cử, suy cử để tổ chức tôn giáo có sự lựa chọn, quyết định. Sau khi phong
chức, phong phẩm, bổ nhiệm, suy cử… tổ chức tôn giáo có trách nhiệm đăng
ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những người này để Nhà nước
biết, đảm bảo quyền hoạt động hợp pháp của họ”.
Đối với hoạt động thuyên chuyển nơi hoạt động tôn giáo của chức sắc,
nhà tu hành, theo Điều 35 Luật Tín ngưỡng, “tôn giáo thì khi tổ chức giáo hội
47

muốn phân công, bổ nhiệm, thuyên chuyển địa bàn phụ trách” của chức sắc,
nhà tu hành, người đại diện tổ chức tôn giáo phải báo cáo phải báo cáo UBND
tỉnh chấp thuận mới được thực hiện và phải chấp hành quy định về quản lý hộ
khẩu. Chức sắc, nhà tu hành đi làm việc tôn giáo bình thường được UBND
tỉnh chấp thuận thì không phải báo cáo. Nếu đi làm việc tôn giáo ở ngoài
phạm vi phân công phụ trách thì báo cáo UBND huyện nơi đến.
Trường hợp chức sắc, nhà tu hành vi phạm pháp luật về tôn giáo đã bị
Chủ tịch UBND tỉnh xử lý vi phạm hành chính hoặc đã bị xử lý về Luật Hình
sự thì hồ sơ chuyển cho UBND cấp tỉnh nơi đến. Khi chưa có sự chấp thuận
của UBND cấp tỉnh nơi đến thì không được hoạt động tôn giáo nơi thuyên
chuyển đến. Thực hiện những quy định trên, trong những năm qua, UBND thị
xã phối hợp với cơ quan Công an trong việc quản lý địa bàn hoạt động của
các chức sắc tôn giáo, việc phong chức cho chức sắc của các tôn giáo nhằm
tránh tình trạng thuyên chuyển và phong chức bừa bãi, trái quy định của pháp
luật của tổ chức tôn giáo trên địa bàn. Từ năm 2013-2019, UBND thị xã đã đề
xuất UBND tỉnh đã chấp thuận cho 58 trường hợp được “phong phẩm, bổ
nhiệm, bầu cử, suy cử”; 04 người được thuyên chuyển nơi hoạt động tôn giáo
(trong đó thuyên chuyển trong tỉnh 03; chuyển đi 01; chuyển đến 01).
Thực hiện các quy định của pháp luật, được chính quyền các cấp hướng
dẫn, tạo điều kiện trong việc phong chức, “bổ nhiệm, thuyên chuyển”…đa số
các chức sắc tôn giáo đều bày tỏ quan điểm rất phấn khởi, tin tưởng, vui
mừng vì được Đảng, Nhà nước, chính quyền quan tâm hơn đến cuộc sống tâm
linh của họ. Qua đó, góp phần xóa dần đi những định kiến, mặc cảm, kéo họ
gần gũi và cởi mở hơn với cấp ủy, chính quyền cơ sở; động viên, khích lệ họ
tích cực phối hợp với cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chăm lo đến các vấn đề đời sống xã hội của nhân dân, tạo cho hoạt
động tôn giáo đi vào ổn định, góp phần đảm bảo và giữ vững an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh.
48

Sáu là, quản lý nhà nước đối với việc truyền đạo của chức sắc, chức việc.
Truyền giáo là một hoạt động chủ yếu được tổ chức tôn giáo sử dụng
để phát triển tín đồ mới, củng cố đức tin đối với số tín đồ cũ và mở rộng phạm
vi ảnh hưởng của mình. Trong những năm gần đây, hoạt động truyền đạo của
các chức sắc, chức việc, nhà tu hành được đẩy mạnh. Theo khoản 4, Điều 6
Luật Tín ngưỡng, tôn giáo thì “chức sắc, chức việc, nhà tu hành có quyền
thực hiện lễ nghi tôn giáo, giảng đạo, truyền đạo tại cơ sở tôn giáo hoặc địa
điểm hợp pháp khác”.
Hoạt động quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực này của thị
xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang cũng đã đạt được những kết quả đáng kể, thực
hiện theo đúng quy định của pháp luật; về phía các chức sắc, chức việc, nhà tu
hành của tổ chức tôn giáo cơ bản đều tuân thủ theo những quy định trên.
Bảy là, quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với các vấn đề liên quan
đến “tài sản, đất đai của các tôn giáo”.
Tài sản của các tổ chức tôn giáo bao gồm tài sản được hình thành từ
đóng góp của thành viên tổ chức; quyên góp, tặng cho của tổ chức, cá nhân
hoặc các nguồn khác theo quy định của pháp luật. Tài sản của tổ chức tôn
giáo phải được quản lý, sử dụng đúng mục đích và phù hợp với quy định của
pháp luật. Cơ sở tôn giáo được hình thành theo tập quán, do các thành viên
của cộng đồng cùng nhau đóng góp, quyên góp, được tặng cho chung hoặc từ
các nguồn khác phù hợp với quy định của pháp luật nhằm phục vụ nhu cầu tín
ngưỡng, tôn giáo của cộng đồng là tài sản thuộc sở hữu chung của cộng đồng.
Việc chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê, thế chấp, góp vốn tài
sản bằng quyền sử dụng đất thực hiện theo quy định của pháp luật có liên
quan. “Đất cơ sở tôn giáo được quản lý và sử dụng theo quy định của pháp
luật về đất đai”, “việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới công trình tôn giáo
được thực hiện theo quy định của pháp luật về xây dựng”. Việc di dời công
trình tôn giáo vì mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội, vì
49

lợi ích quốc gia, công cộng thực hiện theo quy định của pháp luật về đất đai
và pháp luật về xây dựng [16, tr.53-54].
Trong những năm qua, ở Tỉnh Tiền Giang nói chung và ở thị xã Gò
Công nói riêng, nhiều tổ chức tôn giáo đều tập trung cải tạo, nâng cấp cơ sở
thờ tự, xin xây dựng mới công trình tôn giáo. Trên cơ sở xem xét nhu cầu của
các tổ chức tôn giáo, các cấp chính quyền đã tạo điều kiện thuận lợi, hướng
dẫn lập các thủ tục theo quy định và cho phép được thực hiện. UBND tỉnh
Tiền Giang quy định cụ thể việc xây dựng mới, việc cải tạo, nâng cấp các
công trình kiến trúc tôn giáo như sau:
+ Ủy ban nhân dân tỉnh ủy quyền cho Giám đốc Sở Xây dựng cấp phép
xây mới và cải tạo, nâng cấp công trình chính như: Nhà thờ, tháp chuông, trụ
sở làm việc của tổ chức tôn giáo.
+ Ủy ban nhân dân tỉnh ủy quyền cho Chủ tịch UBND cấp huyện cấp
phép xây dựng mới và cải tạo, nâng cấp công trình kiến trúc tôn giáo không
thuộc các công trình: Nhà thờ, tháp chuông, trụ sở làm việc của tổ chức tôn giáo.
+ Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của
mình, UBND các cấp và các cơ quan chuyên môn, giúp việc cho UBND các
cấp quản lý về xây dựng có trách nhiệm thực hiện việc kiểm tra, giám sát việc
thực hiện xây dựng, cải tạo và nâng cấp các công trình tôn giáo ở địa phương.
Các cơ sở có nhu cầu xin cấp đất hoặc xin mở rộng khuôn viên thờ tự
phục vụ cho sinh hoạt tôn giáo như: chùa Phước Vân xã Bình Đông; Tịnh xá
Ngọc Hiệp Phường 2; Tịnh xá Ngọc Quang xã Long Thuận; Thánh thất Cao
đài Tây Ninh Phường 4 đã được các ngành chức năng và chính quyền hướng
dẫn, giúp đỡ. Đối với những nơi chưa có quyền sử dụng đất, UBND đã chỉ
đạo các ngành liên quan đẩy nhanh tiến độ đề nghị cấp tỉnh cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho các cơ sở tôn giáo đủ điều kiện. Hiện nay, diện
tích đất của các cơ sở tôn giáo trên địa bàn thị xã đang sử dụng là 106.286 m 2,
50

trong đó có 24/36 cơ sở tôn giáo được cấp quyền sử dụng đất với diện tích
81.865 m2, đồng thời tiếp tục rà soát giải quyết dứt điểm số còn lại.
Ngoài ra, thực hiện ý kiến chỉ đạo của UBND Tỉnh, UBND thị xã Gò
Công đã tích cực rà soát, tổng hợp và phân loại đánh giá tình hình quản lý sử
dụng đất của các tổ chức tôn giáo, tham mưu đẩy mạnh việc cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho các cơ sở tôn giáo, giải quyết các kiến nghị liên
quan đến việc xin lại cơ sở vật chất, đất đai có nguồn gốc tôn giáo hoặc đơn
thư xin xác nhận, xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng các cơ sở có nguồn
gốc tôn giáo. Từ năm 2016 đến tháng 6/2019, UBND thị xã Gò Công đã đề
xuất UBND tỉnh Tiền Giang đã chấp thuận cho 13 cơ sở thờ tự của các tôn
giáo được xây dựng lại, cải tạo, mở rộng, nâng cấp, dựng tượng và xây dựng
các công trình phụ trợ khác (không có xây dựng mới).
Cách quản lý, giải quyết đối với các vấn đề liên quan đến nhà, đất và
tài sản của các tôn giáo ở thị xả Gò Công những năm qua vừa hợp tình, hợp
lý, góp phần khẳng định chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo của
Đảng và Nhà nước ta đã đi vào đời sống xã hội, đời sống tôn giáo; tạo sự
phấn khởi, tin tưởng của các chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ các
tôn giáo; từ đó động viên các tổ chức, cá nhân tôn giáo tích cực tham gia
các phong trào thi đua tại địa phương, khẳng định công tác quản lý nhà
nước bằng pháp luật về tôn giáo ở thị xã Gò Công đã chủ động tạo được
môi trường thông thoáng, thuận lợi, đảm bảo các hoạt động tôn giáo diễn ra
bình thường, tuân thủ pháp luật.
Tám là, quản lý đối với hoạt động “quyên góp, y tế bảo trợ xã hội, từ
thiện nhân đạo; công tác xây dựng cơ sở thờ tự văn hóa”.
+ Đối với hoạt động quyên góp trong thời gian qua, trên cơ sở vận dụng
các quy định của Nhà nước về việc cho phép cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới
các công trình kiến trúc tôn giáo, các tổ chức tôn giáo trên địa bàn thị xã Gò
51

Công đã tăng cường các hoạt động quyên góp tạo nguồn tài chính phục vụ
việc nâng câp, xây, sửa rất đa dạng. Ngoài việc huy động các nguồn tài trợ từ
các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài, ở các địa phận khác trong cả nước; các tổ
chức tôn giáo trên địa bàn thị xã còn huy động sức đóng góp của các tín đồ và
nhân dân với hình thức bằng tiền, nguyên vật liệu, ngày công…
Theo quy định của pháp luật, thẩm quyền tiếp nhận thông báo việc
quyên góp của cơ sở tín ngưỡng tôn giáo vượt ra ngoài phạm vi một huyện,
thông báo với UBND cấp tỉnh nơi tổ chức quyên góp; thông báo với UBND
cấp huyện trong trường hợp tổ chức quyên góp trong một huyện và thông
báo với UBND cấp xã trong trường hợp tổ chức quyên góp một xã. Đây là
cơ sở pháp lý rất quan trọng để chính quyền các cấp nắm được mục đích,
phạm vi, cách thức, thời gian thực hiện quyên góp; cơ chế quản lý, cách thức
sử dụng tài sản quyên góp, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành
của chính quyền địa phương.
+ Đối với hoạt động từ thiện xã hội những năm gần đây của các tôn
giáo ngày một tăng với mục đích chủ yếu là truyền đạo, phát triển tín đồ.
Không những thế, có những tổ chức lợi dụng hoạt động từ thiện để phục vụ
cho ý đồ chính trị. Chính vì vậy, tỉnh thị xã Gò Công một mặt khuyến khích
các hoạt động từ thiện của các tổ chức tôn giáo, một mặt tăng cường quản lý
nhà nước bằng pháp luật trong hoạt động này, thực hiện phân công, phân cấp
đến tận chính quyền cấp xã, phường.
Chính quyền các cấp luôn khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để
các tổ chức tôn giáo tham gia hoạt động từ thiện nhân đạo, y tế, giáo dục.
Những năm qua Ban Đoàn kết Công Giáo thị xã, Hội Thánh Tin Lành, Ban trị
sự Phật giáo thị xã Gò Công tích cực tổ chức quyên góp cứu trợ đồng bào gặp
khó khăn do thiên tai, người khuyết tật, nạn nhân chất độc da cam, giúp đỡ
người nghèo, vận động tài trợ khám chữa bệnh, mổ mắt miễn phí; chức sắc
các tôn giáo tích cực tuyên truyền vận động tín đồ tham gia phong trào hiến
52

giác mạc; phối hợp với Hội chữ thập đỏ các cấp tổ chức khám bệnh, phát
thuốc tây, phát thuốc nam miễn phí, xây dựng nhà đại đoàn kết, đặc biệt trong
các đợt Tết Nguyên Đán… hàng năm trên 10 tỉ đồng đã góp phần cùng chính
quyền và nhân dân địa phương từng bước giải quyết những vấn đề an sinh xã
hội đang đặt ra. Phong trào vận động thực hiện tốt văn hóa giao thông. Chỉnh
trang đô thị, vệ sinh môi trường; hiến đất xây dựng các công trình phúc lợi địa
phương v.v... Đối với các hoạt động trên cơ bản đều thông qua các ngành chủ
quản và thống nhất của chính quyền cấp thị xã.
Gắn phong trào vận động “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa ở khu dân cư”; phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, phong
trào xây dựng cơ sở thờ tự văn hóa được các chức sắc đồng thuận, tổ chức vận
động trong tín đồ. Kết quả đến nay đạt 28/36 cơ sở thờ tự văn hóa.
Chín là, trong công tác tập huấn tuyên truyền, giáo dục, phổ biến chính
sách pháp luật về tôn giáo.
Công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt chính sách, pháp luật của
Đảng và Nhà nước trong đội ngũ cán bộ công chức của các cấp, các ngành và
chức sắc, tín đồ các tôn giáo luôn được sự quan tâm của các cấp ủy Đảng,
chính quyền, MTTQ, các đoàn thể chính trị ở các cấp. Các quan điểm, chính
sách tôn giáo của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo như:
Nghị quyết số 25/NQ-TW; Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004; Nghị
định số 22-NĐ/CP của Chính phủ; Luật Tín ngưỡng tôn giáo 2016 và Nghị
định 162-NĐ/CP của Chính phủ đã được tổ chức tuyên truyền, phổ biến, quán
triệt rộng rãi đến các đối tượng là cán bộ, công chức, hội viên, chức sắc, chức
việc, tín đồ… của các tôn giáo bằng nhiều hình thức phong phú như: hội nghị,
tập huấn, phát tài liệu và tuyên truyền, phổ biến trên các phương tiện thông tin
đại chúng đài truyền thanh, trang thông tin điện tử...
Từ năm 2013 đến nay trên địa bàn thị xã đã tổ chức gần 30 hội nghị
cho gần 5000 lượt cán bộ chủ chốt các cấp; 4 lớp cho 1.000 lượt chức sắc,
53

chức việc các tôn giáo; 2 lớp cho hơn 400 tín đồ tôn giáo ở 2 xã, phường
(Phường 2, Phường 5; 4 lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về tôn giáo cho
trên 300 lượt cán bộ chủ chốt ở cấp huyện, cấp xã và cán bộ làm công tác tôn
giáo từ thị xã đến cơ sở; cấp phát trên 500 cuốn tài liệu về hỏi đáp các vấn đề
liên quan đến công tác tôn giáo.
Ngoài ra những năm qua, Thị ủy định kỳ họp Ban Chỉ đạo công tác
Tôn giáo thị xã, giải quyết các nhu cầu sinh hoạt của tôn giáo đúng luật, triển
khai các chủ trương của Đảng và Nhà nước, đặc biệt báo cáo Pháp lệnh, Luật
tín ngưỡng về tôn giáo và Nghị định Chính phủ tại các lớp hạnh đường, lớp
thuyết trình viên đạo đức của các tôn giáo, các lớp do đoàn thể tổ chức trên 42
lớp có 2.940 người tham dự; phối hợp Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị thị xã
tổ chức bồi dưỡng về công tác tôn giáo cho 123 trưởng khu phố, ấp; 02 lớp
cho chức sắc chức việc về kiến thức an ninh quốc phòng có trên 185 vị tham
dự; tập huấn cho cán bộ chủ chốt xã, phường cấp thị xã 03 lớp có trên 180
lượt người dự, đồng thời đưa 45 lượt cán bộ cấp xã và cấp thị dự tập huấn ở
tỉnh và 09 lượt cán bộ tập huấn do Ban Tôn giáo Chính phủ tổ chức.
Hàng năm, tổ chức họp mặt chức sắc, tu sĩ, nhà tu hành, Ban Đại diện
người Hoa và định kỳ tham dự, lắng nghe, đóng góp ý kiến, hướng dẫn trực
tiếp tại các kỳ họp của các tổ chức cơ sở tôn giáo.
Mười là, trong công tác giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo phối hợp
đấu tranh chống lợi dụng tôn giáo.
Việc giải quyết kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của các tôn giáo là một
trong những vấn đề phức tạp vì nó liên quan đến giáo hội và nhiều lĩnh vực
của đời sống xã hội. Do vậy, giải quyết kịp thời, đúng theo quy định của pháp
luật đối với các đơn thư khiếu nại, tố cáo của cá nhân, tổ chức tôn giáo là góp
phần ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự xã hội ở địa phương.
Đối với các đơn thư khiếu nại về cá nhân các chức sắc tôn giáo, UBND
thị xã đã kịp thời phối hợp Ban tôn giáo tỉnh, chính quyền xã, phường, các
54

ban, ngành đoàn thể có liên quan nắm thông tin, chủ động giải quyết, không
để phát sinh phức tạp. Thời gian qua, việc khiếu nại gửi đến UBND thị xã chủ
yếu là tranh chấp nội bộ của tổ chức tôn giáo.
Ngoài ra, UBND thị xã Gò Công đã “quán triệt chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước về tôn giáo, kết hợp chặt chẽ với các ngành chức năng,
cấp ủy Đảng tiến hành các mặt công tác nghiệp vụ chống phản động, lợi dụng
tôn giáo”. Những năm vừa qua đã làm tốt công tác phòng ngừa, ngăn chặn các
hoạt động lợi dụng tôn giáo của các thế lực phản động, “tôn giáo lạ” chưa được
nhà nước thừa nhận, nhà ở riêng lẻ chưa được thừa nhận là cơ sở tôn giáo.
“Thường xuyên quan tâm đến việc chỉ đạo, thường xuyên gần gũi, thăm
hỏi, nắm chắc tình hình, hoạt động của các tôn giáo; chủ động giải quyết xử lý
những vấn đề tôn giáo nhạy cảm để ngăn chặn những hoạt động lợi dụng tôn
giáo, không để các thế lực chống đối trong và ngoài nước lợi dụng tự do tín
ngưỡng, tôn giáo gây chia rẽ nội bộ chức sắc, tín đồ tôn giáo; tích cực thực hiện
chính sách động viên chức sắc, chức việc, nhà tu hành các tôn giáo trong việc
đấu tranh với những phần tử lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo gây chia rẽ
trong nội bộ chức sắc, tín đồ tôn giáo, phá hoại khối đoàn kết, đi ngược lại tôn
chỉ, mục đích và đường hướng hành đạo của các tổ chức tôn giáo. Thường xuyên
nắm chắc tình hình, quản lý chặt chẽ các chức sắc tôn giáo đi nước ngoài”.
Trong thời gian qua, có 03 trường hợp khiếu nại tranh chấp trong nội
bộ như: Chùa Long Đức xã Tân Trung trong việc xây dựng lấn mộ người hiến
chùa; Thánh thất Phường 4 họ đạo Cao Đài Tây Ninh có một nhóm “Cao đài
khối Nhơn Sanh” lấn áp quyền hạn của Ban Cai quản; vấn đề đất cá nhân có
liên quan Tịnh xá Ngọc Quang xã Long Thuận. Nhìn chung, tính đến nay đã
giải quyết cơ bản ổn định.
Những kết quả đạt được của công tác QLNN bằng pháp luật đối với
hoạt động tôn giáo trên địa bàn thị xã Gò Công có ý nghĩa quan trọng, khẳng
định chính sách pháp luật về “tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước”
55

ta đã đi vào đời sống xã hội, đời sống tôn giáo của tín đồ, chức sắc. Đặc biệt
từ khi Luật Tín ngưỡng, tôn giáo có hiệu lực năm 2018 và Nghị định
162/2017/NĐ-CP của Chính phủ, công tác quản lý nhà nước đã chủ động tạo
được môi trường pháp lý thông thoáng và tuân thủ pháp luật; xây dựng được
niềm tin của chức sắc, tín đồ tôn giáo vào chính sách, pháp luật của Đảng và
Nhà nước ta về công tác tôn giáo. Chức sắc, chức việc, nhà tu hành phấn
khởi, tin tưởng vào chủ trương chính sách của Đảng và chính sách pháp luật
của Nhà nước; mọi sinh hoạt tôn giáo của chức sắc, nhà tu hành được bảo
đảm thuận lợi, nhu cầu sinh hoạt tôn giáo được hướng dẫn, giải quyết nhanh
chóng, kịp thời theo trình tự quy định của pháp luật và theo Hiến chương,
Điều lệ của tổ chức tôn giáo; động viên được các tổ chức, cá nhân tôn giáo
tham gia vào các phong trào thi đua yêu nước, xây dựng cuộc sống “tốt đời,
đẹp đạo”, “đạo pháp cùng dân tộc”, “xây dựng xứ họ đạo Phường 4 tiên
tiến”, xây dựng “gia đình Công giáo gương mẫu”.
Tạo được sự thống nhất về tư tưởng, nhận thức của đội ngũ đảng viên,
cán bộ, công chức, viên chức các cấp, các ngành về vị trí, vai trò của công tác
tôn giáo trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội, củng cố quốc phòng, an
ninh. Nâng cao ý thức, trách nhiệm quản lý của các cấp, các ngành đối với
công tác tôn giáo; xác định rõ trách nhiệm, thẩm quyền, thời hiệu giải quyết
các vấn đề phát sinh liên quan đến tôn giáo của các cấp chính quyền.
2.2.2.2. Nguyên nhân của kết quả đạt được
Trong thời gian qua công tác QLNN bằng pháp luật đối với hoạt động
tôn giáo trên địa bàn thị xã Gò Công thu được những kết quả tích cực, góp
phần ổn định tình hình chính trị trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh. Có
được những thành tựu đó là do những nguyên nhân sau:
Nguyên nhân chủ quan
Một là, Đảng và Nhà nước ta đã kịp thời đề ra đường lối đổi mới đất
nước nói chung và đổi mới chính sách tôn giáo nói riêng đúng đắn phù hợp
56

với tình hình phát triển của đất nước. Khắc phục được một bước nhận thức
lệch lạc, phiến diện về tôn giáo trong cán bộ, đảng viên, trong hệ thống chính
trị và nhân dân. Đây là nguyên nhân quan trọng dẫn đến những thành tựu
trong công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở nước ta trong
những năm qua. Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Tiếp tục hoàn thiện chính
sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy những giá trị văn hoá, đạo
đức tốt đẹp của các tôn giáo. Tiếp tục tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo
hoạt động đúng theo Hiến chương, Điều lệ của các tổ chức tôn giáo đã được
Nhà nước công nhận theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, còn chủ động
phòng ngừa, đấu tranh với những hành vi lợi vấn đề tôn giáo để chia rẽ, phá
hoại khối đại đoàn kết dân tộc hoặc những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trái
quy định của pháp luật”. Đồng thời khẳng định: “Phát huy những giá trị văn
hoá, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo”.
Hiến pháp năm 2013 khẳng định “Mọi người có quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình
đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng
tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật” [15, tr.16].
Từ những chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, Thị
ủy, UBND thị xã Gò Công đã nhanh chóng đổi mới nhận thức và cụ thể hóa
kịp thời, đưa ra các chương trình hành động, các quy định, quyết định cho
phù hợp với tình hình địa phương. Xây dựng được khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, đoàn kết giữa những người có tín ngưỡng tôn giáo và không tín
ngưỡng tôn giáo.
Hai là, được sự quan tâm kịp thời, thiết thực, có hiệu quả của UBND
Tỉnh Tiền Giang, của Thị ủy, “Ban Chỉ đạo công tác tôn giáo thị xã, có sự hỗ
trợ về chuyên môn nghiệp vụ của Ban Tôn giáo Tỉnh, sự phối hợp có hiệu quả
của Ban Dân vận Thị ủy, Ủy Ban Mặt trận Tổ quốc thị xã, Công an thị xã,
57

Ban chỉ huy quân sự thị xã, các ban ngành, đoàn thể thị xã đã chủ động giải
quyết các vụ việc liên quan đến hoạt động tôn giáo”. Thời gian gần đây, thị xã
Gò Công đã thường xuyên chú trọng đến công tác xây dựng, củng cố lực
lượng chính trị và các tổ chức đoàn thể, chủ động phối hơp với các cơ quan,
ban ngành đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương chính sách
pháp luật của Đảng và Nhà nước. Chú trọng công tác vận động chức sắc, chức
việc và tín đồ tôn giáo sống tốt đời đẹp đạo, tham gia công tác xã hội nhằm
thắt chặt mối quan hệ giữa tổ chức tôn giáo với chính quyền, đồng thời xây
dựng sự đoàn kết trong ấp, khu phố, giữa những người có đạo với những
người không có đạo, giữa các tôn giáo với nhau.
Ba là, đã “tích cực xây dựng, củng cố, kiện toàn bộ máy và đội ngũ cán
bộ làm công tác tôn giáo của Đảng, chính quyền, mặt trận, các đoàn thể quần
chúng và các lực lượng vũ trang nhân dân theo yêu cầu của tình hình mới”.
Bốn là, công tác phối hợp với Ban Dân vận Thị ủy, MTTQ, các đoàn
thể quần chúng về công tác tôn giáo khá chặt chẽ, tạo điều kiện thuận lợi cho
hoạt động tôn giáo đi vào nền nếp. Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn
thể quần chúng đã quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần của giáo dân, từ
đó tạo được lòng tin đối với chức sắc, chức việc và tín đồ tôn giáo. Thường
xuyên trao đổi, cung cấp thông tin về chỉ đạo, điều hành thực hiện nhiệm vụ
của ngành có liên quan đến công tác tôn giáo, trao đổi về diễn biến những vụ
việc phát sinh trong hoạt động của các tôn giáo ở cơ sở để có sự chỉ đạo hoạt
động lồng ghép các nội dung tuyên truyền, vận động chức sắc, chức việc, nhà
tu hành ở cơ sở được kịp thời, đạt kết quả.
Nguyên nhân khách quan
Tình hình phát triển kinh tế-xã hội của thị xã Gò Công đã thu được
những kết quả tích cực, tạo cơ sở kinh tế - xã hội cho công tác quản lý nhà
nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo: kinh tế liên tục tăng trưởng
58

khá, thu ngân sách đạt và vượt chỉ tiêu; công tác giảm nghèo, đảm bảo an sinh
xã hội đạt kết quả tốt; văn hóa, xã hội có nhiều tiến bộ có bước phát triển vượt
bậc làm cho quần chúng tín đồ phấn khởi, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng
và Nhà nước, hăng hái lao động sản xuất, tham gia các phong trào thi đua yêu
nước tại địa phương.
2.2.3. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của tồn tại, hạn chế
2.2.3.1. Những tồn tại, hạn chế
Ngoài những thành quả đã đạt được, công tác quản lý nhà nước bằng
pháp luật đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn thị xã Gò Công, tỉnh Tiền
Giang trong những năm qua cũng không tránh khỏi những hạn chế nhất định
và cần khắc phục kịp thời.
“Một vài cấp ủy Đảng, chính quyền, một số cán bộ làm công tác tôn
giáo chưa nhận thức đầy đủ chủ trương, chính sách đổi mới của Đàng, Nhà
nước đối với tôn giáo trong thời kỳ đổi mới nên chưa tranh thủ được tín đồ và
chức sắc các tôn giáo”.
Trong quản lý Nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo vừa
có biểu hiện cứng nhắc, vừa có biểu hiện buông lỏng, đùn đẩy, né tránh; còn
áp dụng những quy định cũ để giải quyết những vấn đề tôn giáo hoặc giải
quyết theo tư duy chủ quan, hành chính cứng nhắc, gây cản trở, phiền hà, bức
xúc trong tín đồ, chức sắc các tôn giáo.
“Sự phối hợp giữa các cấp, các ngành trong việc giải quyết các vấn đề
liên quan đến tôn giáo ở một số đơn vị, xã, phường chưa tốt” dẫn đến xử lý
bị động, sự việc kéo dài, hiệu quả phòng ngừa vi phạm còn thấp, tạo sơ hở
để một số cơ sở tôn giáo làm việc “đã rồi”, hoặc lấn lướt chính quyền, tạo áp
lực cho chính quyền phải công nhận cơ sở thờ tự từ nhà ở riêng lẻ (muốn
biến gia thành tự) với quy mô lớn, việc chuyển nhượng, hiến tặng đất cá
nhân sang đất tôn giáo nhằm mở rộng cơ sở thờ tự; tổ chức thỉnh, đặt tượng,
lập bảng hiệu, xin gia nhập danh bộ Giáo hội phật giáo không phù hợp và
59

trái pháp luật; tổ chức tập trung đông người sinh hoạt tôn giáo ngoài cơ sở
thờ tự lén lút vẫn còn diễn ra ở một số nơi; có nơi xây dựng khu dưỡng lão
nhưng thỉnh tượng Phật, tổ chức tiệc chay, thường xuyên tổ chức nghi lễ,
tụng kinh ảnh hưởng đến tình hình dư luận và an ninh trật tự xã hội địa
phương. “Chưa kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm với những hành vi sai
trái của một số người lợi dụng tôn giáo vi phạm pháp luật. Còn có hành vi
lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hành nghề mê tín dị đoan, trục lợi cá nhân”.
Trên thực tế, vẫn còn các tình trạng sai pham do Luật Tín ngưỡng, tôn giáo
không có biện pháp chế tài hoặc áp dụng các Luật khác chưa đủ sức răn đe,
gây lúng túng trong giải quyết.
Hoạt động từ thiện nhân đạo của vài cơ sở tôn giáo muốn thoát khỏi sự
quản lý nhà nước, không báo cáo chính quyền, Mặt trận Tổ quốc địa phương.
Tình hình thương mại hóa hoạt động tôn giáo còn phổ biến.
Trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về tôn giáo
trên địa bàn thị xã cũng còn nhiều hạn chế. Đối tượng được triển khai mới tập
trung chủ yếu vào cán bộ lãnh đạo chủ chốt của các cơ quan, ban, ngành của
từ thị xã đến cấp xã, phường, các chức sắc, chức việc nhà tu hành đại diện cho
các tôn giáo, ở một số nơi chưa phổ biến đến tín đồ và quần chúng nhân dân.
Hình thức tuyên truyền, phổ biến chưa phong phú, chưa có chiều sâu.
Bộ máy làm công tác QLNN đối với tổ chức và hoạt động tôn giáo
tuy đã được củng cố, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu
cầu hiện nay. Phòng nội vụ thị xã chưa có đủ số lượng cán bộ, còn bố trí
một cán bộ làm công tác tôn giáo nhưng kiêm nhiệm nhiều việc khác, ở cấp
xã, phường chưa có cán bộ làm công tác tôn giáo, có nơi phân công Phó Bí
thư thường trực đảng ủy, có nơi phân công Phó Chủ tịch văn hóa xã hội
phụ trách lĩnh vực tôn giáo từ đó chưa nắm chắc tình hình, còn ỷ lại vào sự
hỗ trợ của thị xã.
60

Những tồn tại, hạn chế trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến công tác
QLNN bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn thị xã Gò Công,
gây tâm trạng hoài nghi trong nội bộ quần chúng tín đồ, chức sắc, chức việc,
nhà tu hành đối với chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước;
làm ảnh hưởng tới việc tăng cường, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân; tạo
khe hở để các thế lực thù địch lợi dụng, xuyên tạc, kích động, vu cáo nhà
nước ta vi phạm dân chủ, nhân quyền, đàn áp tôn giáo.
2.2.3.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
Ủy ban nhân dân thị xã, tỉnh Tiền Giang trong thời gian qua còn hạn
chế là do một số nguyên nhân cụ thể sau:
Nguyên nhân chủ quan
Cán bộ làm công tác tôn giáo vừa yếu, vừa thiếu, chưa được chuyên
môn hóa và có chính sách đãi ngộ hợp lý. Công tác truyền thông tôn giáo,
thông tin, tuyên truyền chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước
còn hạn chế, thiếu chiều sâu; việc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng về tôn giáo
có lúc, có nơi còn lúng túng.
Trình độ của nhiều chức sắc, chức việc hiện nay rất cao (Tiến sĩ Phật
học, Tiến sĩ Thần học, có vị là Tiến sĩ được đào tạo từ Ấn Độ) trong khi trình
độ hiểu biết của một số cán bộ các ngành, đoàn thể và xã, phường hiện nay
còn hạn chế. Mặt khác nhận thức của một vài đảng viên, cán bộ, công chức,
viên chức ít quan tâm đến hoạt động tôn giáo, chưa nắm chắc pháp luật, các
chính sách của Đảng nhà nước về tôn giáo, nắm chủ trương còn thiếu sót, lệch
lạc từ đó ngại va chạm tiếp xúc với các vị chức sắc, chức việc. Một số chính
quyền cơ sở nhận quà cứu trợ cho người dân từ các cơ sở chưa được công
nhận cơ sở thờ tự.
Nguyên nhân khách quan
Chưa có chế tài trong xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động tôn giáo
nhất là trong việc cải gia thành tự.
61

Tiểu kết chương 2


Qua nghiên cứu thực trạng quản lý nhà nước bằng pháp luật về tôn
giáo trên địa bàn “thị xã Gò Công tỉnh Tiền Giang” trong thời gian qua cho
thấy: Kể từ khi Luật Tín ngưỡng, tôn giáo 2018 được ban hành đến nay, với
sự tập trung lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền từ thị xã cho
đến xã, phường và sự tham gia của các cơ quan, ban, ngành nên công tác
QLNN bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo đã có nhiều chuyển biến
tiến bộ và đạt được nhiều kết quả tích cực. “Thực hiện nhất quán chính sách
tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, tạo
điều kiện cho các tôn giáo hoạt động bình thường theo đúng chính sách và
pháp luật của Nhà nước”; thường xuyên quan tâm chăm lo đến việc nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần của các tầng lớp nhân dân, trong đó có đồng bào
theo đạo và giải quyết kịp thời các nhu cầu, kiến nghị chính đáng của tổ
chức, cá nhân tôn giáo; tạo điều kiện thuận lợi cho các chức sắc, chức việc,
nhà tu hành và tín đồ trong hoạt động đối ngoại về tôn giáo, từng bước đưa
chủ trương, chính sách, pháp luật về tôn giáo của Đảng và Nhà nước đi vào
cuộc sống có hiệu quả. Từ đó, tình hình tôn giáo trên “địa bàn thị xã Gò
Công, tỉnh Tiền Giang trong những năm qua cơ bản ổn định, hoạt động tôn
giáo tuân thủ các quy định của pháp luật, chưa có vấn đề gì phức tạp lớn nổi
lên”. Tuy nhiên, công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động
tôn giáo ở thị xã Gò Công vẫn còn những tồn tại, hạn chế nhất định.
Nhằm đảm bảo cho công tác QLNN đối với hoạt động tôn giáo ở thị xã
Gò Công, tỉnh Tiền Giang được thực hiện tốt, trước hết, cần nhận thức đúng
những quan điểm của Đảngvà pháp luật của Nhà nước về tôn giáo; phát huy
những kết quả đã đạt được, khắc phục những tồn tại, hạn chế trong QLNN
bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo trong thời gian qua; tích cực trong
việc đề ra những giải pháp phù hợp nhằm đưa hoạt động tôn giáo thị xã Gò
Công, tỉnh Tiền Giang ổn định trong thời gian tới.
62

Chương 3
DỰ BÁO, QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC BẰNG PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO TRÊN
ĐỊA BÀN THỊ XÃ GÒ CÔNG, TỈNH TIỀN GIANG

3.1. DỰ BÁO TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN THỊ
XÃ GÒ CÔNG, TỈNH TIỀN GIANG
“Trong thời gian tới, tình hình thế giới và khu vực còn nhiều diễn biến
phức tạp, các thế lực thù địch liên kết với các tổ chức tôn giáo, lấy tôn giáo
làm điểm khác biệt để chia rẽ đồng bào có tôn giáo và đồng bào không theo
tôn giáo nhằm thực hiện chính sách thù địch đối với cách mạng Việt Nam, với
mục tiêu xuyên suốt là từng bước làm chuyển hóa chế độ chính trị tiến tới xóa
bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”.
Thị xã Gò Công có 5 tôn giáo lớn, cả 5 tổ chức tôn giáo là Phật giáo,
Công giáo, Tin lành, Tịnh độ cư sĩ Phật hội và Cao Đài đều có quan hệ chặt
chẽ với trung tâm tôn giáo trong và ngoài nước. Thị xã Gò Công là một trong
những địa bàn nhạy cảm, hoạt động cũa các tôn giáo phát triển đồng hành
cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương. Trong những năm tới, tình
hình phát triển và hoạt động của các tôn giáo ở thị xã Gò Công, tỉnh Tiền
Giang sẽ có xu hướng tăng lên, phức tạp hơn trên tất cả các mặt như: chú
trọng củng cố tổ chức giáo hội, các hội đoàn tôn giáo, tăng cường cơ sở thờ
tự, đẩy mạnh các hoạt động tôn giáo, củng cố đức tin, nhằm tạo vị thế trong
xã hội. Số lượng tín đồ, nhà tu hành, chức sắc, chức việc các tôn giáo sẽ tăng
lên, tăng cường các hoạt động khuếch trương thanh thế theo chiều hướng:
Một là, các tôn giáo tiếp tục liên hệ, móc nối với các tổ chức, cá nhân
trong và ngoài nước để xin tài trợ về vật chất để có nguồn tài chính phục vụ
cho nhu cầu phát triển đạo, tu bổ, mở rộng, phục hồi, xây dựng mới các cơ sở
thờ tự và có nguồn để thực hiện các hoạt động từ thiện giúp đỡ tiền, vật chất
63

cho các giáo dân và học sinh khó khăn, xây dựng nhà đại đoàn kết nhất là khi
có thiên tai như hỏa hoạn, lốc xoáy xảy ra nhằm tạo uy tín để tác động tư
tưởng, gây cảm tình, từ đó tuyên truyền phát triển đạo hoặc làm sống lại
những nơi đã khô đạo, nhạt đạo.
Hai là, lợi dụng sự tự do giao lưu giữa các vùng, miền trong cả nước
và chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhà nước, các tôn giáo tăng
cường hoạt động thuyên chuyển, phong chức, bổ nhiệm chức sắc tôn giáo
đảm bảo nhu cầu hoạt động của giáo hội; đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh hoạt
động truyền giáo, tìm mọi cách để mở rộng phạm vi hoạt động trên phạm vi
toàn tỉnh.
Ba là, “các tổ chức tôn giáo tăng cường hoạt động xin phép sửa chữa,
cơi nới, xây dựng mới cơ sở thờ tự, các công trình phúc lợi khác của giáo
hội”. Bên cạnh đó, các tổ chức tôn giáo trên địa bàn sẽ trực tiếp hoặc vận
động giáo dân, tín đồ tiếp tục hiến đất, xin mở rộng cơ sở thờ tự (đất không có
nằm trong quy hoạch là đất tôn giáo) gây áp lực cho chính quyền địa phương.
Đây là vấn đề phức tạp, nhạy cảm.
Bốn là, hoạt động của một số Linh mục, tu sĩ dòng Chúa cứu thế Việt
Nam; của “Gia đình Tận hiến Đồng công”; “Pháp Luân Công”; “ Vô vi khoa
học huyền bí phật pháp”; “Phật giáo Bửu sơn Kỳ Hương”; một nhóm đối
tượng bất mãn đối với đạo Cao đài Tây Ninh, tham gia nhóm Cao đài “Khối
nhơn sanh” hoạt động, tập hợp một số chức việc không thừa nhận Hội đồng
chưởng quản Hội Thánh Cao đài Tây Ninh và không thừa nhận Ban Cai quản
cơ sở, đồng thời có những hành vi kích động, ngăn cản, tán phát tài liệu ra
nước ngoài gây ảnh hưởng đến tình hình ANCT và TT ATXH ở địa phương.
Năm là, nội bộ các tôn giáo cũng nảy sinh những phức tạp, tình trạng
mất đoàn kết do mẫu thuẫn về cách thức sinh hoạt tôn giáo; do phẩm chất, tư
cách đạo đức của chức sắc tôn giáo sẽ phát sinh những khiếu kiện gây khó
khăn cho công tác QLNN đối với hoạt động tôn giáo.
64

Sáu là, “một số phần tử đội lốt tôn giáo tiếp tục có những hoạt động tôn
giáo trái phép gắn với ý đồ chính trị phản động, lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn
giáo kích động, lừa mị và lôi kéo một số nhóm sinh hoạt bất hợp pháp, có
những hoạt động gây rối, chia rẽ tôn giáo này với tôn giáo khác, giữa đồng
bào có tôn giáo và đồng bào không có tôn giáo, đặc biệt là âm mưu chia rẽ
đồng bào tôn giáo với Đảng, Nhà nước nhằm phá hoại khối đại đoàn kết dân
tộc, gây mất ổn định chính trị trên địa bàn”.

3.2. QUAN ĐIỂM BẢO ĐẢM QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP LUẬT
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO HIỆN NAY
Về quan điểm của Đảng bộ, chính quyền thị xã Gò Công trong những
năm tới:
Một là, “tích cực thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách và các
chương trình phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống tinh thần, vật chất,
văn hóa của nhân dân trong đó chú trọng đến đồng bào các tôn giáo”.
Hai là, “phát huy tinh thần yêu nước của đồng bào có đạo, đảm bảo lợi
ích vật chất và tinh thần của nhân dân và người có tôn giáo; tạo thuận lợi cho
các hoạt động tôn giáo ổn định thực hiện đúng Hiến chương, Điều lệ tổ chức,
bảo đảm tuân thủ pháp luật”.
Ba là, “đấu tranh có hiệu quả những dấu hiệu tiêu cực, lợi dụng tôn
giáo để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, bài trừ nạn mê tín dị đoan, phải đi
đôi với việc xây dựng nếp sống văn hóa văn minh, thuần phong mỹ tục; bảo
tồn văn hóa. Tiếp tục hướng dẫn, bổ sung quy chế, quy ước của khu dân cư
nên có nội dung ngăn chặn đấu tranh với những hoạt động truyền đạo trái
phép của các loại hình tôn giáo mới vì yếu tố tiêu cực, mê tín dị đoan, gây
mất ổn định tình hình”.
Bốn là, “củng cố kiện toàn tổ chức, cán bộ làm công tác tôn giáo các
ngành, cơ sở có bản lĩnh chính trị, tâm huyết và được đào tạo cụ thể về chuyên
môn, nghiệp vụ, đồng thời có chế độ, trang bị đăc thù phục vụ đối với công tác
65

tôn giáo một cách phù hợp, nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt và lâu
dài”.
Năm là, “tuân thủ, áp dụng đúng các quy định của pháp luật trong quản
lý nhà nước đối với hoạt động của các tôn giáo”.

3.3. GIẢI PHÁP NHẰM ĐẢM BẢO QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP
LUẬT ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ GÒ CÔNG,
TỈNH TIỀN GIANG
Trong quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo,
hàng năm, thực hiện chưong trình, kế hoạch công tác, Phòng Nội vụ thị xã Gò
Công, tỉnh Tiền Giang đã triển khai và phối hợp với các ban, ngành liên quan
và Ủy ban nhân dân các xã, phường, tích cực tham mưu giúp Ủy ban nhân
dân thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang xem xét, giải quyết, “tạo điều kiện để
các hoạt động tôn giáo diễn ra ổn định, tuân thủ pháp luật, một số vấn đề mới
nổi lên được xem xét, giải quyết kịp thời đúng quy định của pháp luật. Công
tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục, pháp luật vẫn được coi là công tác trọng
tâm nhằm trang bị cho cán bộ, đảng viên, quần chúng tín đồ, chức sắc, chức
việc các tôn giáo những nội dung cơ bản về đường lối, chính sách…Do đó, đã
góp phần quan trọng động viên các tổ chức, chức sắc, chức việc và tín đồ tôn
giáo phấn khởi, tin tưởng vào chính quyền, tích cực tham gia các phong trào
thi đua yêu nước, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế,xã hội của
Ủy ban nhân dân thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang”. Cụ thể các quan điểm
trong thời gian tới cần tập trung làm tốt các giải pháp như sau:
3.3.1. Tiếp tục “nâng cao bồi dưỡng, nâng cao nhận thức của các
cấp ủy đảng, chính quyền, MTTQ, các đoàn thể, đảng viên, cán bộ, công
chức, viên chức, chức sắc, chức việc về tôn giáo, tín ngưỡng theo tinh
thần của Hiến pháp 2013, Luật tín ngưỡng tôn giáo và các văn bản chỉ
đạo về công tác tôn giáo của Trung ương”.
66

Tập trung nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm, trách nhiệm của
hệ thống chính trị và toàn xã hội các địa phương đối với công tác tôn giáo. Để
làm tốt vấn đề này đòi hỏi các cấp uỷ Đảng, chính quyền cần thực sự quan tâm,
lãnh đạo việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta đối
với các tôn giáo một cách đồng bộ, có tính thống nhất cao; cần phân định rõ vai
trò lãnh đạo của Đảng, công tác quản lý nhà nước của chính quyền và không
ngừng phát huy vai trò vận động của Mặt trận và các đoàn thể chính trị, xã hội
trong việc động viên đồng bào có đạo tham gia thực hiện tốt các phong trào thi
đua yêu nước tại địa phương. Cần nhận thức một cách sâu sắc về nội dung cốt
lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng, thông qua công tác
vận động nhằm giúp đồng bào các tôn giáo phát huy những ưu điểm, khắc phục
tồn tại, giữ gìn và phát huy những truyền thống văn hóa của dân tộc, tôn vinh
những người có công với Tổ quốc, với Nhân dân, đồng thời “chủ động đấu
tranh chống lại các hoạt động lợi dụng tự do tôn giáo để hành nghề mê tín dị
đoan, thương mại hóa hoạt động tôn giáo, hoạt động trái pháp luật, lợi dụng,
kích động chia rẽ Nhân dân, chia rẽ lương - giáo, gây rối, xâm phạm an ninh
quốc gia. Xem hoạt động tôn giáo là nhu cầu về tinh thần của một bộ phận
quần chúng nhân dân, sẽ tiếp tục tồn tại trong quá trình xây dựng CNXH. Chức
sắc, chức việc, tín đồ tôn giáo là đồng bào, là công dân Việt Nam trong khối
đại đoàn kết dân tộc. Tôn giáo, các tổ chức tôn giáo là những thực thể xã hội đã
và đang thích ứng với CNXH; có khả năng và quyền tham gia tích cực vào
nhiều lĩnh vực xã hội, góp phần xây dựng và phát triển đất nước. Đồng thời,
thực hiện tốt các quy định có liên quan đến tôn giáo trong các văn bản quy
phạm pháp luật; phân công trách nhiệm, phối hợp công tác giữa các cấp, các
ngành trong công tác tôn giáo.
Định kỳ hàng năm, Thị ủy họp Ban Chỉ đạo công tác Tôn giáo, giải
quyết các nhu cầu sinh hoạt của tôn giáo đúng luật, triển khai các chủ trương
67

của Đảng và Nhà nước, đặc biệt báo cáo Luật tín ngưỡng, tôn giáo và Nghị
định Chính phủ tại các lớp hạnh đường, lớp thuyết trình viên đạo đức của các
tôn giáo. Phối hợp Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị thị xã tổ chức bồi dưỡng về
công tác tôn giáo cho trưởng khu phố, ấp sau bầu cử Trưởng ấp, khu phố nhiệm
kỳ (2019-2024); các lớp về kiến thức an ninh quốc phòng cho chức sắc, chức
việc; tiếp tục cử cán bộ cấp xã và cấp thị dự tập huấn ở tỉnh và cán bộ tập huấn
do Ban Tôn giáo Chính phủ tổ chức. Định kỳ hàng năm tổ chức diễn đàn
“Chính quyền lắng nghe, đóng góp ý kiến và giải quyết vấn đề kiến nghị của
các tôn giáo”.
Tăng cường vận động chức sắc, chức việc, tín đồ các tôn giáo, nâng cao
tinh thần yêu nước, độc lập, tự chủ đồng hành cùng dân tộc thực hiện tốt các
chính sách, chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
3.3.2. “Kiện toàn tổ chức và hoạt động của cơ quan chuyên trách
quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn thị xã Gò Công, tỉnh Tiền
Giang”.
Việc củng cố, kiện toàn bộ máy cơ quan quản lý nhà nước về tổ chức
và hoạt động tôn giáo là điều kiện để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về tổ
chức và hoạt động tôn giáo trong tình hình mới. Công tác này của Ủy ban
nhân dân thị xã hiện nay cần được thực hiện theo hướng nâng cao vai trò của
cơ quan quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo”. Trước
hết là phải đảm bảo biên chế cán bộ làm công tác tôn giáo từ cấp thị xã đến
các xã, phường. Hiện nay, đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác tôn giáo của
Ủy ban nhân dân thị xã có 05 cán bộ công chức do đồng chí Phó Bí thư
Thường trực Thị ủy làm Trưởng ban, đồng chí Phó Chủ tịch UBND làm Phó
Trưởng ban trực, Trưởng Phòng Nội vụ thị xã làm Phó Trưởng Ban.
Cần quy hoạch đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo, nhạy bén trong
xử lý tình hình tôn giáo phức tạp phát sinh. Ở thị xã Gò Công đội ngũ tín đồ,
68

chức sắc, chức việc tôn giáo, nhà tu hành tương đối đông, hoạt động tôn
giáo. Trong thời gian qua, các cấp ủy đảng và chính quyền ở thị xã Gò
Công, tỉnh Tiền Giang đã quan tâm chỉ đạo và xây dựng được một đội ngũ
cán bộ làm công tác tôn giáo phần lớn có phẩm chất đạo đức, trình độ
chuyên môn và năng lực thực tiễn. Đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo ở
các cấp mặc dù đã được tăng cường nhưng còn thiếu và yếu, đặc biệt ở cơ
sở, cán bộ làm công tác tôn giáo chỉ kiêm nhiệm, chưa đáp ứng được yêu
cầu, nhiệm vụ về công tác tôn giáo trong tình hình hiện nay. So với yêu cầu
còn những hạn chế và bất cập. Vì vậy, thời gian tới cần thực hiện tốt những
nhiệm vụ sau:
+ “Xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng một cách thường
xuyên cho đội ngũ cán bộ làm công tác QLNN đối với tổ chức và hoạt động
tôn giáo về chính trị, chuyên môn nghiệp vụ để họ có những kiến thức lý luận
về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đối
với tổ chức và hoạt động tôn giáo; tiếp tục cử các cán bộ làm công tác quản lý
về tổ chức và hoạt động tôn giáo chưa qua đào tạo nghiệp vụ quản lý nhà
nước về tôn giáo theo học các lớp chuyên ngành tôn giáo do Học viện Chính
trị, Học viện Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Viện nghiên cứu tôn giáo...
chiêu sinh nhằm giúp họ nắm vững nghiệp vụ chuyên môn về tôn giáo và
quản lý tôn giáo”.
+ Ngoài những tiêu chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ phải tuyển chọn,
xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất đạo đức tốt. Do đó, phải giáo dục cho
họ ý thức tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nước, nội
quy, kỷ luật của cơ quan; làm đúng những thủ tục hành chính, quy trình công
tác đã quy định; có tinh thần xây dựng khối đoàn kết trong cơ quan, đơn vị,
tích cực đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực trong công tác.
69

+ Bổ sung, kiện toàn đầy đủ đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo từ thị
xã đến xã, phường, nhất là đội ngũ cán bộ cấp xã, đây là cấp cơ sở trực tiếp
nắm bắt tình hình các hoạt động tôn giáo, nhưng lại chỉ được bố trí kiêm
nhiệm. Mặt khác, công tác tôn giáo là công tác đặc thù, song cán bộ ở cấp này
có kiến thức không chuyên sâu về tôn giáo, không cập nhật được thông tin
nên chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Để đảm bảo nâng cao hiệu quả
hoạt động của đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo, đề nghị với Chính phủ
ban hành chính sách để bố trí 01 định xuất biên chế làm công tác quản lý về
tổ chức và hoạt động tôn giáo thuộc UBND cấp xã.
+ Xây dựng kế hoạch, tạo nguồn tuyển dụng, ưu tiên tuyển dụng cán bộ,
công chức cho ngành quản lý nhà nước về tôn giáo các cấp từ đội ngũ được đào
tạo đúng và gần với ngành tôn giáo học; từ cán bộ, công chức đã công tác lâu
năm trong các cơ quan dân vận, mặt trận. Tăng cường bồi dưỡng cho cán bộ,
công chức làm công tác quản lý nhà nước về tôn giáo về lý luận Mác - Lênin,
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về hoạt động tôn giáo.
Kiến nghị, đề xuất với Chính phủ cho phép thành lập Phòng Tôn giáo
hoặc trực thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện để tạo điều kiện thuận lợi cho
công tác QLNN đối với tổ chức và hoạt động tôn giáo.
3.3.3. “Đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về tín
ngưỡng tôn giáo cho nhân dân”.
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật có vai trò rất quan trọng trong
việc nâng cao nhận thức pháp lý, làm cho mọi người hiểu một cách đầy đủ và
đúng đắn về mục đích điều chỉnh, vai trò của pháp luật trong xã hội, từ đó
hình thành tâm lý, tình cảm và thái độ tôn trọng pháp luật, tin tưởng vào pháp
luật và điều chỉnh hành vi xử sự của mình. Để QLNN bằng pháp luật đối với
hoạt động tôn giáo trên địa bàn thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang đạt hiệu quả
cao hơn, trong thời gian tới cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ
biến giáo dục pháp luật về quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động
70

tôn giáo, nhất là từ các xã, phường. “Nâng cao nhận thức pháp luật về quản lý
nhà nước đối với hoạt động tôn giáo cho nhân dân, tín đồ, chức sắc, chức việc
và những đối tượng liên quan đến việc quản lý nhà nước đối với hoạt động
tôn giáo, giúp những người đó nắm rõ được các quyền, nghĩa vụ của mình
trong hoạt động tôn giáo”, từ đó hình thành việc tuân thủ pháp luật, thực hiện
pháp luật có thói quen và hành vi xử sự hợp pháp tích cực theo pháp luật.
Muốn vậy, trong công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cần tập
trung làm tốt các vấn đề sau:
+ Trước hết, cần củng cố, kiện toàn đội ngũ làm công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật các cấp, cán bộ pháp chế, tạo điều kiện cho họ thường xuyên
được trau dồi kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ; tổ chức các cuộc thi người
làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.
+ Là một thị xã có nhiều tổ chức tôn giáo và đồng bào tôn giáo nhưng
phân bố và trình độ dân trí không đồng đều... vì vậy, khi xây dựng chương
trình, kế hoạch tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật nói chung và pháp
luật về quản lý nhà nước đối với tổ chức và hoạt động tôn giáo nói riêng, các
cơ quan chức năng như: Trung tâm Văn hóa - Thể thao và Truyền thanh thị
xã, Hội đồng phổ biến giáo dục pháp luật thị xã, Phòng Nội vụ thị xã, Ban
Dân vận Thị ủy, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thị xã... phải tính đến đặc điểm
đối tượng để có giải pháp phù hợp. Tuyên truyền có chiều sâu, đa dạng hóa
hình thức tuyên truyền gắn với việc vận động các tín đồ nêu tinh thần cảnh
giác, đấu tranh làm thất bại âm mưu lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch
nhằm chống phá cách mạng và chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Vận
động các tín đồ thực hiện tốt các đường hướng hành đạo tiến bộ, gắn bó giữa
đạo và đời, phát huy những nét đẹp truyền thống, những yếu tố tích cực,
những điểm tương đồng trong các tôn giáo. Thực hiện tốt công tác chỉ đạo
đấu tranh, ngăn chặn đối với các tôn giáo lạ, các hoạt động mê tín dị đoan.
71

+ Mở rộng hoạt động “phổ biến, giáo dục pháp luật” về tôn giáo thông
qua hoạt động của các loại hình câu lạc bộ tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý;
thông qua việc xây dựng, thực hiện quy ước ấp, khu phố; thông qua việc giáo
dục, thuyết phục trực tiếp của cán bộ chính quyền, đảng viên, cán bộ đoàn
thể, hòa giải viên, tổ trưởng tổ dân phố, những người có uy tín trong cộng
đồng dân cư nhằm tạo sự đồng thuận trong cộng đồng dân cư.
+ Lồng ghép nội dung pháp luật “tín ngưỡng, tôn giáo” vào các buổi
giao lưu, sinh hoạt văn hóa, văn nghệ; tổ chức các hình thức thi viết, thi qua
hình thức sân khấu hóa, thi tìm hiểu pháp luật; đa dạng hóa các tài liệu phổ
biến, giáo dục pháp luật về tôn giáo, bao gồm: sách, tờ gấp, tờ rơi, đĩa hình,
panô, áp phích và các ấn phẩm pháp luật phổ thông cần được phát miễn phí tới
người dân.
+ Phòng Tài chính - Kế hoạch thị xã chủ trì, phối hợp với các ngành
nghiên cứu để có chính sách thích hợp về trợ cước, trợ giá, cấp phát miễn phí
các loại sách báo phục vụ công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật,
đặc biệt đối với vùng sâu, vùng khó khăn.
+ Đối với các đối tượng là cán bộ làm công tác tôn giáo và chức sắc
trong tôn giáo, hàng năm, cần tổ chức các lớp học tập, hội nghị riêng để nắm
vững và nhận thức đúng, đầy đủ các chủ trương, chính sách và các quy định
của pháp luật về QLNN bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo. Vì đây là
đối tượng nòng cốt của công tác quản lý nhà nước đối với tổ chức và hoạt
động tôn giáo, những suy nghĩ và hành vi của họ có ảnh hưởng rất lớn đến
hoạt động tôn giáo ở địa phương.
3.3.4. Tăng cường sự phối hợp của các cấp, các ngành trong QLNN
bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo.
“Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo là chức
năng của Nhà nước. Tuy nhiên, công tác này có liên quan đến nhiều lĩnh vực
của đời sống xã hội, các cấp, các ngành, các địa bàn nên cần có sự phối hợp
72

chặt chẽ giữa chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị - xã hội các
cấp, trong đó Nhà nước làm nòng cốt trong quản lý nhà nước bằng pháp luật
đối với hoạt động tôn giáo, thu hút và huy động mạnh mẽ sự tham gia của
Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp trong việc vận động đoàn viên, hội
viên, quần chúng nhân dân chấp hành tốt chủ trương, chính sách, pháp luật
trong hoạt động tôn giáo”, cụ thể:
+ Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp là cơ quan tập hợp lực lượng toàn
dân, “phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn Đảng, toàn dân vào thực hiện các
phong trào thi đua yêu nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa. Vì vậy, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cần quy tụ, liên
kết các tổ chức chính trị - xã hội, các tầng lớp nhân dân, trong đó có các tổ
chức, cá nhân tôn giáo, đoàn kết thực hiện tốt các chủ trương, chính sách pháp
luật của Đảng và Nhà nước”.
+ Các tổ chức chính trị - xã hội cần tăng cường công tác tuyên truyền
các chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước ta đến với đoàn
viên, hội viên, thanh niên tôn giáo. Thông qua các phong trào thi đua, vận
động tín đồ gia nhập vào các đoàn thể, kịp thời biểu dương, khen thưởng
những gương người tốt việc tốt trong các tôn giáo.
+ Các cơ quan chức năng như: Phòng Tài nguyên - Môi trưởng, Phòng
Quản lý đô thị, Phòng Văn hóa thông tin, Phòng Nội vụ, Ủy ban nhân dân các
xã, phường... rà soát, đo đạc, lập hồ sơ đất đai từng cơ sở thờ tự, tiến tới đề
xuất UBND Tỉnh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho từng cơ sở thờ
tự theo quy định của pháp luật hiện hành để tránh tình trạng khiếu kiện, tranh
chấp đất đai của cơ sở thờ tự như hiện nay; thường xuyên kiểm tra, giám sát
tiến độ thi công để các công trình kiến trúc tôn giáo đúng với giấy phép xây
dựng, thiết kế, quy hoạch đã được duyệt. Tham mưu UBND thị xã điều chỉnh
quy hoạch sử dụng đất đến năm 2030 và quy hoạch đất tôn giáo.
73

+ Lực lượng an ninh thường xuyên chủ động nắm bắt tình hình hoạt
động của các tôn giáo kịp thời báo cáo UBND thị xã những vấn đề phức tạp
phát sinh làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự của địa phương để kịp
thời tháo gỡ, giải quyết, tránh không để xảy ra điểm nóng. Đặc biệt không để
hoạt động tôn giáo đi ngược lại với bản sắc văn hóa dân tộc.
3.3.5. “Thực hiện chính sách tôn giáo gắn với phát triển kinh tế,
văn hóa - xã hội và đảm bảo quốc phòng - an ninh”.
Để công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn
giáo đạt kết quả tốt, cần sử dụng các phương pháp quản lý tôn giáo sao cho
hữu hiệu. Do vậy:
+ Cần quan tâm phát triển đời sống của vùng đồng bào có đạo, đặc biệt
là các vùng sâu, vùng đặc biệt khó khăn; “kêu gọi đầu tư và tăng cường thực
hiện các chương trình, dự án phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, nâng cao dân
trí, tăng cường củng cố hệ thống chính trị, động viên quần chúng tôn giáo
sống tốt đời đẹp đạo, tích cực tham gia các phong trào cách mạng, các hoạt
động từ thiện nhân đạo”. Kịp thời giải quyết những đề nghị chính đáng, hợp
pháp của tổ chức, cá nhân tín đồ các tôn giáo, không để xảy ra các sự việc
phức tạp liên quan đến tôn giáo. Việc “phát triển ổn định và phát triển đời
sống kinh tế, văn hóa, xã hội của đồng bào nói chung, đồng bào các tôn giáo
nói riêng, làm cho đồng bào an tâm, đoàn kết, chấp hành tốt chủ trương chính
sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước là một nhiệm vụ rất quan trọng của các
cấp, các ngành ở thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang”.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc “phát triển ổn định và phát
triển đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của đồng bào nói chung, đồng bào các
tôn giáo nói riêng”, các cấp, các ngành ở thị xã Gò Công khi xây dựng định
hướng quy hoạch, kế hoạch và cơ chế chính sách phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh đều đã gắn với chính sách phát triển kinh tế - xã hội đối với vùng
vùng sâu, vùng đồng bào có đạo; đẩy mạnh việc thực hiện các chương trình
74

mục tiêu quốc gia về xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, phường
văn minh đô thị... do đó, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân nói chung,
đồng bào có đạo nói riêng từng bước được nâng lên, đời sống của đại bộ phận
người dân được cải thiện về nhà ở, điện, nước sinh hoạt, đi lại, đời sống tinh
thần được nâng lên, tiếp nhận được nhiều kênh thông tin chính thống khác
nhau, công tác giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khỏe được quan tâm, văn hóa
truyền thống của các dân tộc được phát huy. Hiệu quả từ sự đầu tư này đã làm
cho quần chúng nhân dân, trong đó có tín đồ các tôn giáo ngày càng hiểu rõ
hơn về chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đối với vấn
đề tôn giáo; góp phần củng cố và tăng cường lòng tin của quần chúng nhân
dân với sự lãnh đạo của Đảng. Từ đó tự giác tuân thủ pháp luật, chấp hành
chủ trương, chính sách, pháp luật, đồng thời nâng cao cảnh giác và tích cực
đấu tranh với luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc của các thế lực phản động lợi
dụng, đội lốt tôn giáo.
Trong thời gian tới, UBND thị xã Gò Công tiếp tục thực hiện việc “kết
hợp phát triển kinh tế - xã hội với đảm bảo an ninh quốc phòng, ngăn chặn
việc lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để phá hoại khối đại đoàn kết giữa các
dân tộc, làm mất ổn định xã hội trên địa bàn thị xã Gò Công” xem đây là một
nhiệm vụ quan trọng. Do đó, cần phải đẩy nhanh tiến độ thực hiện chương
trình, dự án và các chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở vùng đồng bào theo
đạo, vùng kinh tế khó khăn, thực hiện tốt việc lồng ghép các chương trình,
chính sách, dự án trên địa bàn; đồng thời, phát huy thế mạnh của từng xã,
phường và vận động mỗi người dân phát huy tính tự lực, tự cường, phát huy
nội lực phát triển sản xuất, xóa đói giảm nghèo bền vững.
Đấu tranh có hiệu quả những dấu hiệu tiêu cực, “lợi dụng tôn giáo để
chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, bài trừ mê tín dị đoan” đi đôi với việc
xây dựng nếp sống văn hóa văn minh, gia đình văn hóa, thuần phong mỹ tục;
bảo tồn văn hóa. Tiếp tục hướng dẫn, bổ sung quy ước ấp, khu phố nên có nội
75

dung ngăn chặn đấu tranh với những hoạt động truyền đạo trái phép của các
loại hình tôn giáo mới, không tụ tập, tham gia vào hoạt động ở các cơ sở chưa
được Nhà nước công nhận là cơ sở thờ tự. “Phát huy tinh thần yêu nước của
đồng bào có đạo, đảm bảo lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân và người
có tôn giáo; tạo thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo ổn định thực hiện đúng
Hiến chương, Điều lệ tổ chức, bảo đảm tuân thủ pháp luật”.
Mặt trận và các đoàn thể nhân dân có kế hoạch và thường xuyên chăm
lo phát triển đảng viên, đoàn viên, hội viên là tín đồ các tôn giáo, nâng cao uy
tín, vai trò của chức sắc, chức việc và sự tham gia đóng góp của đội ngũ cốt
cán trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội tại địa phương, đồng thời truyền
tải các chủ trương Đảng, pháp luật Nhà nước đến quần chúng tín đồ.
3.3.6. Giải quyết các vấn đề tôn giáo ngay từ cơ sở.
“Trong thời gian qua, các cấp chính quyền đã tuân thủ việc thực hiện
quản lý nhà nước về tôn giáo bằng pháp luật; đã cùng Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể đi sâu vận động quần chúng tín đồ, chức sắc, chức việc, nhà tu
hành xây dựng tốt phong trào sống tốt đời, đẹp đạo để vừa làm tốt việc đạo,
vừa góp phần xây dựng đất nước. Số tín đồ tôn giáo ở thị xã Gò Công trong
thời gian tới tiếp tục gia tăng. Các nội dung và phương pháp vận động được
điều chỉnh để thích hợp với từng đối tượng trong từng tôn giáo cụ thể nhằm
giải quyết hợp lý nhu cầu tôn giáo của quần chúng nhân dân. Đối với vấn đề
một số người lợi dụng tôn giáo để hành nghề mê tín dị đoan, thương mại hóa
hoạt động tôn giáo, sự xuất hiện xu hướng đa dạng tôn giáo với sự ra đời của
nhiều hệ phái, dòng tu; kéo theo đó là hàng loạt vấn đề bất ổn như tách, lập
giáo họ, chuyển nhượng, hiến đất xây nơi thờ tự trái phép, nguyên tắc quản lý
tôn giáo ở cơ sở được quán triệt thực hiện là: có lý, đúng luật, được quần
chúng nhân dân đồng tình, ủng hộ. Phương châm thực hiện là sử dụng triệt để
các yếu tố tín ngưỡng, tôn giáo, dân tộc, vừa tranh thủ, vừa đấu tranh khi giải
76

quyết các vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo, lấy tranh thủ là chính góp phần giải
quyết phần lớn sự việc, vụ việc tôn giáo từ cơ sở”.
Giải quyết những vấn đề liên quan đến tôn giáo là vấn đề nhạy cảm vì
vậy cần thận trọng xem xét, coi trọng biện pháp giáo dục, thuyết phục, tránh
nóng vội, có kế hoạch phân hóa. Trong xử lý các vấn đề nảy sinh trong tôn
giáo cần chủ động tránh để phát sinh điểm nóng, phải hình thành tư tưởng chủ
động trong công tác tôn giáo. Không để các thế lực thù địch lợi dụng vu cáo
Nhà nước “vi phạm nhân quyền, tự do tôn giáo”.
3.3.7. “Mở rộng đối ngoại trong lĩnh vực tôn giáo, chống kẻ thù lợi
dụng tôn giáo”.
“Các tôn giáo lớn của Việt Nam như Công giáo, Phật giáo, Tin Lành...
đều du nhập từ bên ngoài; do đó các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam với mức độ
khác nhau, trong phạm vi điều kiện hoạt động nhất định đều có mối quan hệ
với các tôn giáo đồng đạo trên thế giới. Một số tôn giáo nội sinh cũng tăng
cường tìm kiếm, mở rộng liên hệ với các cộng đồng dân cư trên toàn cầu để
hành đạo. Các hoạt động này đã phản ánh một bức tranh sinh động đối với
hoạt động quốc tế của các tôn giáo, góp phần tháo gỡ các rào cản ảnh hưởng
đến hoạt động kinh tế, chính trị, ngoại giao và nhiều mặt khác trong quá trình
hội nhập hiện nay, đồng thời đóng góp tích cực trong việc quảng bá hình ảnh,
đất nước, con người Việt Nam ra thế giới. Với nhiều nỗ lực trong công tác
ngoại giao tôn giáo, từ năm 2006 Mỹ đã đưa Việt Nam ra khỏi danh sách
“quan tâm về tôn giáo”.
“Đối ngoại tôn giáo được tăng cường (bao gồm cả đối ngoại nhân dân
và đối ngoại nhà nước) như: trao đổi đoàn; tham dự các diễn đàn, hội thảo đối
thoại về nhân quyền, tôn giáo với các nước EU, Mỹ, Ốtxtrâylia, với Ủy ban
Tự do tôn giáo quốc tế (Mỹ); diễn đàn nhân dân ASEM hàng năm v.v.. giúp
cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo nắm bắt được các xu hướng phát triển,
77

đặc điểm mối liên thông đồng đạo của các tôn giáo, qua đó có những điều
chỉnh chính sách cho phù hợp”.
“Các cuộc tiếp xúc thường xuyên, thân tình, khách quan giữa sứ quán
các nước, các tổ chức quốc tế, phóng viên, báo chí nước ngoài với các cơ
quan trung ương và địa phương của Việt Nam, tiếp cận với thực tế ở các
vùng, miền nhạy cảm về tôn giáo, các nhân vật tôn giáo để hiểu rõ hơn tình
hình và chính sách tôn giáo của Việt Nam đã tạo được niềm tin, sự hiểu biết,
chia sẻ của các nước, các tổ chức về chính sách tôn giáo, cũng như những
vướng mắc trong xử lý một số vấn đề tôn giáo của Việt Nam. Trên cơ sở đó,
các cơ quan quản lý có được sự đồng thuận của cộng đồng quốc tế trong việc
giải quyết các vụ việc tôn giáo”.
“Sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài đang sinh sống và làm việc
tại Việt Nam được các cơ quan quản lý quan tâm theo điều kiện phù hợp với
truyền thống mỗi nước, mỗi tôn giáo, đã tạo được sự ủng hộ của dư luận trong
và ngoài nước. Nhiều hoạt động tôn giáo quốc tế lớn đã được Việt Nam tổ
chức trọng thể, thành công thời gian qua, điển hình như: Hội nghị Nữ giới
Phật giáo thế giới lần thứ XI (năm 2009 - 2010); Lễ Khai mạc Năm Thánh
của Giáo hội Công giáo năm 2009; Hội nghị Liên Hội đồng Giám mục Á
châu lần thứ X (năm 2012), Đại lễ Phật đản Liên Hợp quốc (Vesak) năm
2008, 2014... với quy mô tổ chức hoành tráng, giàu bản sắc dân tộc, gây ấn
tượng với bạn bè quốc tế, là minh chứng sinh động về chính sách tự do tín
ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam chống lại những luận điệu sai trái của các thế
lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo”.
3.3.8. Hoàn chỉnh pháp luật về quản lý hoạt động tôn giáo
Cần sớm ban hành Quy định chế tài xử lý vi phạm đối với những hành
vi: Cải gia thành tự, dựng tượng không xin phép, thương mại hóa hoạt động
tôn giáo. Nhất là hiện nay, các văn bản của pháp luật không có quy định kích
cỡ tượng thờ tại gia đình nên một vài hộ gia đình lợi dụng để cải gia thành tự,
78

lởi dụng kẻ hở của pháp luật từ việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất, xây
dựng nhà ở riêng lẻ từng bước hình thành chùa.
Cần có quy định rõ về kiến trúc, kết cấu, hoa văn, màu sơn…để phân
biệt đâu là cấu trúc của nhà ở riêng lẻ, đâu là cấu trúc của cơ sở thờ tự vì hiện
nay còn lấn cấn trách nhiệm giữa ngành tài nguyên môi trường, ngành quản lý
đô thị và ngành văn hóa từ đó dẫn đến việc sau khi xây nhà ở riêng lẻ xong,
họ xin công nhận cơ sở thờ tự, từng bước tụ tập, tổ chức hành hương phát
triển tín đồ, gây áp lực cho chính quyền địa phương.
79

KẾT LUẬN

Ở Việt Nam, tôn giáo là niềm tin vào các lực lượng siêu nhân, vô hình,
mang tính thiêng liêng đồng thời tôn giáo luôn có những ảnh hưởng đến chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, phong tục tập quán của người dân và các tín đồ,
vì vậy, công tác QLNN bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo là rất cần
thiết. QLNN bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo là biện pháp quan
trọng góp phần đảm bảo cho các hoạt động tôn giáo được diễn ra bình thường,
hướng tôn giáo phát triển đúng quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước; bảo vệ các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
công dân; đấu tranh, ngăn chặn các thủ đoạn hoạt động lợi dụng tôn giáo
nhằm gây rối an ninh trật tự, xâm phạm an ninh quốc gia.
Là địa phương có nhiều tôn giáo, có nhiều Tỉnh hội của tôn giáo đóng
trên địa bàn nên công tác quản lý các hoạt động tôn giáo là việc làm tương đối
phức tạp và nhạy cảm, có ảnh hưởng đến sự ổn định trật tự an ninh xã hội trên
địa bàn. Hiện nay, đa số các tổ chức tôn giáo đa phần tuân thủ đúng các quy
định của pháp luật, các chức sắc, chức việc, tín đồ chấp hành tốt chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để xây dựng cuộc sống “tốt
đời, đẹp đạo”. Mặc dù vậy, vấn đề tôn giáo, dân tộc thường bị các thế lực thù
địch trong và ngoài nước tìm cách lợi dụng để kích động nhằm phá hoại Cách
mạng Việt Nam. Mặt khác, công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với
hoạt động tôn giáo còn nhiều bất cập, hạn chế như: chưa quản lý được hoạt
động của các hội đoàn, dòng tu; tình trạng truyền đạo trái phép, cải gia thành
tự vẫn còn diễn ra ở nhiều trên địa bàn; tình trạng cơi nới, sửa sang chưa có
sự chấp thuận của chính quyền địa phương, không đúng quy hoạch còn diễn
ra ở nhiều nơi; tranh chấp bên trong nội bộ một vài cơ sở tôn giáo còn diễn ra.
Vì vậy, làm tốt công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động
80

tôn giáo sẽ góp phần đưa hoạt động tôn giáo đi vào ổn định, đúng pháp luật,
loại bỏ những âm mưu, hoạt động lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch.
Từ việc làm sáng tỏ cơ sở lý luận của vấn đề QLNN bằng pháp luật đối
với hoạt động tôn giáo và phân tích thực trạng công tác QLNN bằng pháp luật
hoạt động tôn giáo của Ủy ban nhân dân thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang trong
thời gian qua, mạnh dạn đưa ra một số giải pháp cụ thể đối với công tác quản lý
nhà nước bằng pháp luật đối với tổ chức và hoạt động tôn giáo của Ủy ban
nhân dân thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang từ đó, phát huy những kết quả và
khắc phục những hạn chế của công tác này ở thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang.
Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với tôn
giáo được hình thành, phát triển và ngày càng hoàn thiện hơn trong cả một
quá trình lịch sử. “Sự đổi mới tư duy của Đảng về tôn giáo đã tạo nền tảng
cho việc tạo lập các chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tạo
điều kiện thuận lợi cho sinh hoạt tôn giáo của đồng bào có đạo và tính hiệu
quả của quản lý nhà nước trong lĩnh vực này”. Các Luật, Nghị định về tôn
giáo mới được ban hành trong năm 2016, 2017 (có hiệu lực 01/01/2018) là
những bước tiến lớn trong việc luật hóa vấn đề tôn giáo trong tình hình mới.
Đó cũng là cơ sở để chúng ta nhận thức được chính sách tôn giáo nhất quán.
Mặc dù vậy, vẫn còn nhiều vấn đề bất cập, còn thiếu chưa được giải quyết,
đòi hỏi việc xây dựng chính sách, pháp luật về tôn giáo cần tiếp tục được bổ
sung, hoàn thiện bởi các cấp, các ngành, nâng cao hiệu quả công tác QLNN
bằng pháp luật đối với hoạt động của các tôn giáo trong thời gian tới.
Hy vọng rằng, luận văn sẽ góp một phần nhỏ để cùng các phòng ban,
các cơ quan chức năng thuộc Ủy ban nhân dân thị xã Gò Công, Ban Chỉ đạo
công tác tôn giáo thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang làm tốt hơn nữa công tác
tôn giáo nói chung và công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt
động tôn giáo nói riêng của Ủy ban nhân dân thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang
trong thời gian tới.
81
82

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Chấp hành Đảng bộ thị xã Gò Công lần VIII (2015), Văn kiện Đại
hội Đảng bộ thị xã Gò Công lần VIII, Tiền Giang.
2. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Tiền Giang (2016), Tài liệu học tập, quán triệt
Nghị quyết đại hội XII của Đảng, Tiền Giang.
3. Ban Tư tưởng văn hóa Trung ương (2000), Vấn đề tôn giáo và chính sách
tôn giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
4. Báo điện tử Ban Tôn giáo Chính phủ (2009), "Về vấn đề tôn giáo ở
Việt Nam", tại trang https://docbao.vn/, [truy cập ngày 24/6/2019].
5. Bùi Thị Kim Cúc (2015), Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt
động tôn giáo ở tỉnh Ninh Bình, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
7. Nguyễn Thị Định (2010), Hoàn thiện pháp luật về tôn giáo ở Việt Nam
hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
8. Nguyễn Nguyên Hồng (2018), "Quan điểm đổi mới của Đảng về tôn
giáo, tín ngưỡng", Tạp chí Ban Tuyên giáo Trung ương, (12).
9. Đỗ Quang Khắc (2009), “Quan điểm Macxit về tôn giáo”, Tạp chí nghiên
cứu Tôn giáo, (12).
10. Hà Lê (2012), "Giáo trình Tôn giáo học", tại trang http://www.360 -
books.com, [truy cập ngày 22/8/2019].
11. Bùi Đức Luận (2007), Những đặc điểm cơ bản của một số tôn giáo lớn ở
Việt Nam, Nxb Tôn giáo Hà Nội.
12. C.Mác và Ph.Ănghen (1985), Toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
83

13. C.Mác và Ph.Ănghen (1985), Toàn tập, Tập 20, Nxb Chính trị quốc gia
Hà Nội.
14. Minh Phúc (2012), “Công tác quản lý nhà nước về tôn giáo và tình hình
tôn giáo ở Ninh Bình 6 tháng đầu năm 2011”, tại trang
https://docbao.vn/, [truy cập ngày 24/7/2019].
15. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Hiến pháp
năm 2014, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
16. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2017), Luật Tín
ngưỡng Tôn giáo, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
17. Nguyễn Tài Tâm (2005), Đảm bảo thực hiện pháp luật tôn giáo của các
cơ quan quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật
học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
18. Thị xã Gò Công (2019), Báo cáo tổng kết tình hình tôn giáo và công
tác quản lý Nhà nước về tôn giáo năm 2018 và 6 tháng đầu năm 2019 ,
Tiền Giang.
19. Trần Minh Thư (2010),“Tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong khuôn khổ
của pháp luật”, Báo Quân đội nhân dân, ngày 16/5.
20. Tỉnh ủy Tiền Giang (2019), Tài liệu học tập lớp bồi dưỡng cho cán bộ
dự nguồn các chức danh lãnh đạo cấp Tỉnh, cấp huyện nhiệm kỳ 2020-
2025, Tiền Giang.
21. Trung tâm Thông tin - Tư liệu, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
(1995), Tôn giáo tín ngưỡng hiện nay - Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn
cấp thiết, Hà Nội.
22. Trung tâm Khoa học về Tín ngưỡng và Tôn giáo thuộc Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, năm (1998), Mối quan hệ giữa chính trị và tôn
giáo trong thời kỳ mở rộng giao lưu quốc tế và phát triển nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, Hà Nội.
84

23. Trung tâm nghiên cứu bồi dưỡng nghiệp vụ tôn giáo - Ban Tôn giáo
Chính phủ (2010), Tôn giáo và công tác quản lý nhà nước đối với hoạt
động tôn giáo, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
24. Nguyễn Trọng Tuấn “Vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội theo tinh thần của Đại hội XI”, tại trang
http://dangcongsan.vn/, [truy cập ngày 15/8/2019].
25. Đặng Nghiêm Vạn (2003), Lý luận về Tôn giáo và tình hình Tôn giáo ở
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
26. Viện Ngôn ngữ học (2004), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
27. Vụ Phổ biến giáo dực pháp luật - Bộ Tư pháp (1997), Một số vấn đề về
phổ biến giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay, Nxb Thanh niên,
Hà Nội.

You might also like