Professional Documents
Culture Documents
Phong Cach Hoc Tieng Viet Hien Dai Nguyen The Truyen 2
Phong Cach Hoc Tieng Viet Hien Dai Nguyen The Truyen 2
Phong cách học tiếng Việt hiện đại (Nguyễn Thế Truyền)
Cơ sở tiếng Việt ở tiểu học 2 (Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh)
MỤC LỤC
4.4. Tu từ ..................................................................................................... 41
4.5. Kết cấu diễn ngôn ................................................................................. 42
CHƯƠNG II PHONG CÁCH HÀNH CHÍNH (ADMINISTRATIVE STYLE)44
1. KHÁI NIỆM ................................................................................................ 44
1.1. Tên gọi .................................................................................................. 44
1.2. Định nghĩa ............................................................................................ 44
1.3. Các nhân tố giao tiếp chi phối đặc điểm phong cách ........................... 44
1.4. Dạng thức ngôn ngữ ............................................................................. 45
2. CHỨC NĂNG ............................................................................................. 45
3. ĐẶC TRƯNG.............................................................................................. 45
3.1. Tính nghiêm túc – khách quan ............................................................. 45
3.2. Tính chính xác – minh bạch ................................................................. 46
3.3. Tính khuôn mẫu.................................................................................... 46
4. ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ ........................................................................... 47
4.1. Ngữ âm, chữ viết, hình thức trình bày ................................................. 47
4.2. Từ ngữ .................................................................................................. 48
4.3. Ngữ pháp .............................................................................................. 48
4.4. Tu từ ..................................................................................................... 48
4.5. Kết cấu văn bản .................................................................................... 49
5. CÁC THỂ LOẠI TIÊU BIẺU ..................................................................... 50
5.1. Văn bản hành chính – pháp luật ........................................................... 50
5.2. Văn bản hành chính – ngoại giao ......................................................... 50
5.3. Văn bản hành chính quân sự ................................................................ 51
5.4. Văn bản văn thư (đơn từ, biên bản, hợp đồng, báo cáo, thông tư, công
văn, quyết định, . . .) .................................................................................... 51
CHƯƠNG III PHONG CÁCH KHOA HỌC (SCIENTIFIC STYLE) ............... 52
1. KHÁI NIỆM ................................................................................................ 52
1.1. Tên gọi .................................................................................................. 52
1.2. Định nghĩa ............................................................................................ 52
1.3. Các nhân tố giao tiếp chi phối đặc điểm phong cách ........................... 52
1.4. Dạng thức ngôn ngữ ............................................................................. 52
2. CHỨC NĂNG ............................................................................................. 53
3. ĐẶC TRƯNG.............................................................................................. 53
3.1. Tính trừu tượng – khái quát.................................................................. 53
3.2. Tính chính xác ...................................................................................... 53
3.3. Tính khách quan ................................................................................... 53
4. ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ ........................................................................... 54
4.1. Ngữ âm, chữ viết .................................................................................. 54
4.2. Từ ngữ .................................................................................................. 54
4.3. Ngữ pháp .............................................................................................. 54
4.4. Tu từ ..................................................................................................... 54
4.5. Kết cấu văn bản .................................................................................... 55
5. CÁC THỂ LOẠI TIÊU BIỂU ..................................................................... 55
5.1. Báo cáo khoa học ................................................................................. 55
CHƯƠNG I GIÁ TRỊ BIỂU ĐẠT CỦA CÁC PHƯƠNG TIỆN NGỮ ÂM
TIẾNG VIỆT ....................................................................................................... 87
I. MỐI QUAN HỆ GIỮA MẶT NGỮ ÂM VÀ Ý NGHĨA CỦA MỘT TÍN
HIỆU NGÔN NGỮ ......................................................................................... 87
1. Nguyên lý về tính võ đoán của ngôn ngữ................................................ 87
2. Tính tương đối của nguyên lý võ đoán.................................................... 87
II. GIÁ TRỊ BIỂU ĐẠT CỦA CÁC PHƯƠNG TIỆN NGỮ ÂM TIẾNG
VIỆT ................................................................................................................ 88
1. ÂM TIẾT (SYLLABLE) ......................................................................... 88
2. THANH ĐIỆU (TONALITY, TONE) ................................................... 89
3. NGUYÊN ÂM (VOWEL) ...................................................................... 92
4. PHỤ ÂM (CONSONANT) ..................................................................... 93
5. CÁC KHUÔN BIỂU TRƯNG NGỮ ÂM (SOUND SYMBOLISM) .... 95
CHƯƠNG II GIÁ TRỊ BIỂU ĐẠT CỦA CÁC PHƯƠNG TIỆN TỪ VỰNG
TIẾNG VIỆT ....................................................................................................... 97
I. MỘT SỐ LỚP TỪ PHÂN LOẠI THEO MÀU SẮC PHONG CÁCH ....... 97
1. TỪ ĐA PHONG CÁCH (POLYSTYLISTIC WORD) .......................... 98
2. TỪ ĐƠN PHONG CÁCH (MONOSTYLISTIC WORD) ..................... 99
II. MỘT SỐ LỚP TỪ PHÂN LOẠI THEO SẮC THÁI TU TỪ ................. 112
1.TỪ NGỮ TRANG TRỌNG ................................................................... 112
2.TỪ NGỮ KIỂU CÁCH .......................................................................... 114
3. TỪ NGỮ THÔNG TỤC ....................................................................... 115
III. MỘT SỐ LỚP TỪ (THEO CÁCH PHÂN LOẠI CỦA TỪ VỰNG HỌC)
CÓ MÀU SẮC TU TỪ ĐẶC BIỆT .............................................................. 115
1. TỪ XƯNG HÔ ...................................................................................... 115
2. TỪ HÁN VIỆT ...................................................................................... 118
3. TỪ LÁY ................................................................................................ 120
4. THÀNH NGỮ ....................................................................................... 122
5. TỪ ĐỊA PHƯƠNG (DIALECT WORD) ............................................. 124
I. CÁC KIỂU CÂU PHÂN LOẠI THEO MÀU SẮC PHONG CÁCH ....... 126
1. KIỂU CÂU ĐA PHONG CÁCH (POLYSTYLISTIC SENTENCE) .. 126
2. KIỂU CÂU ĐƠN PHONG CÁCH (MONOSTYLISTIC SENTENCE)
................................................................................................................... 126
II. MỘT SỐ LOẠI CÂU (THEO CÁCH PHÂN LOẠI CỦA NGỮ PHÁP
HỌC) CÓ MÀU SẮC TU TỪ ĐẶC BIỆT ................................................... 130
1. CÂU TỈNH LƯỢC (ELLIPTICAL SENTENCE) ................................ 130
2. CÂU ĐẶC BIỆT (SPECIAL SENTENCE).......................................... 131
3. CÂU CHUYỂN ĐỔI TÌNH THÁI ....................................................... 132
4. CÂU ĐẲNG THỨC .............................................................................. 134
III. GIÁ TRỊ BIỂU ĐẠT CỦA CÂU XÉT THEO ĐỘ DÀI ........................ 134
1. CÂU NGẮN .......................................................................................... 135
2. CÂU DÀI .............................................................................................. 135
PHẦN IV CÁC PHÉP TU TỪ CỦA TIẾNG VIỆT ......................................... 136
CHƯƠNG I CÁC PHÉP TU TỪ NGỮ ÂM ..................................................... 136
PHẦN I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
10
Đinh Trọng Lạc: “Trên những nét chung nhất, phong cách học được hiểu là khoa học
về các quy luật nói và viết có hiệu lức cao.” [Đinh Trọng Lạc 1999, 3]
Nguyễn Nguyên Trứ: Phong cách là “một khoa học về khả năng và hiệu lực của ngôn
ngữ trong hoạt động biểu đạt.” [Nguyễn Nguyên Trứ 1988, 6]
Phan Ngọc: “Phong cách học là khoa học khảo sát các kiểu lựa chọn và tính biểu cảm
của các lựa chọn ấy” [Phan Ngọc 1985, 15]
Xét theo nhiệm vụ nghiên cứu, có thể định nghĩa: Phong cách học là bộ môn của ngôn
ngữ học, nghiên cứu về các phong cách ngôn ngữ, giá trị biểu đạt của các phương tiện ngôn
ngữ và những cách thức diễn đạt có hiệu quả cao.
Định nghĩa rộng nhất về Phong cách học: Khoa học về nghệ thuật diễn đạt.
Sự khác biệt giữa phong cách học với các bộ mộn ngôn ngữ khác có thể hình dung
qua sơ đố sau:
Bảng 1: Sự khác biệt giữa Phong cách học với các bộ môn ngôn ngữ học khác
về góc độ nghiên cứu
CẤU TRÚC – HỆ THỐNG CÁCH THỨC SỬ DỤNG
Ngữ âm học Từ vựng học Ngữ pháp học Phong cách học
“Phong cách học khảo sát các kiểu thay thế, nhằm đưa ra những phán đoán giá trị
(jugements de va leur), trong lúc đó các bộ môn khác của ngôn ngữ học đưa ra những phán
đoán hiện thực (jugements de réalité)”
[Phan Ngọc 1985, 17]
Về tên gọi bộ môn:
Trước đây: Tu từ học (Rhetoric).
Thuật ngữ Tu từ học thường bị hiểu quá hẹp trong phạm vi tu sức ngôn từ (sửa chữa
lời nói, câu văn cho đẹp, cho hấp dẫn).
Hiện nay: Phong cách học (Stylistics). Tuy vậy nhiều người vẫn gọi là Tu từ học hoặc
Phong cách học và Tu từ học (!).
II. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHONG CÁCH HỌC
11
12
13
Himilus Stylus
(Phong cách vừa)
Mediocrus Stylus (phong cách trung bình)
Gravis Stylus: Ngôn từ dùng trong anh hùng ca để ca ngợi các tướng soái.
Mediocrus Stylus: Ngôn từ dùng trong miêu tả nông nghiệp.
Humilus Stylus: Ngôn từ dùng trong đời sống hằng ngày.
14
Nhìn chung, Phong cách học và Ngữ dụng học rất gần gũi với nhau và chúng bổ sung
cho nhau, giúp cho việc sử dụng ngôn ngữ của con người được tốt hơn.
Theo Nguyễn Thái Hoà: “Vị trí của phong cách học cũng không cần thiết phải đặt ra
… vì trong tương lai không xa nó sẽ quy tụ trong ngôi nhà ngữ dụng học” [Nguyễn Thái Hoà
1997, 128]
Như vậy cho đến nay, Phong cách học đã trải qua chặng đường 25 thế kỷ, trong đó:
+ Tu từ học cổ điển (Classical Rhetoric) là 24 thế kỷ,
+ Phong cách học hiện đại (Modern Stylistics) là 1 thế kỷ.
15
2.3. Những công trình Phong cách học đánh dấu những chặng đường nghiên cứu
+ Giáo trình Việt ngữ tập III – Tu từ học, Đinh Trọng Lạc, 1964
Tuy mang tên gọi Tu từ học nhưng nó không phải là Tu từ học cổ điển (Classical
Rhetoric) nữa.
Tác phẩm này đặt nền tảng lý thuyết cho bộ môn Phong cách học như: đối tượng,
phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu (phương pháp đối lập), các khái niệm cơ bản
(màu sắc tu từ, phong cách, phong cách chức năng).
Phần đáng quý nhất của giáo trình: phần miêu tả, phân tích giá trị biểu đạt của các
phương tiện ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp tiếng Việt với tư liệu dồi dào, phong phú.
Giáo trình là tài liệu giảng dạy quan trọng về phong cách học ở miền Bắc và có tiếng
vang (“vượt tuyến”) cả ở các trường đại học miền Nam Việt Nam.
+ Các giáo trình, sách lưu hành nội bộ ở các trường Đại học: Giáo trình phong cách
học tiếng Việt hiện đại, Cù Đình Tú – Lê Anh Hiền – Nguyên Nguyên Trứ, ĐHSP Việt Bắc;
Mấy bài giảng về Phong cách học, Nguyễn Thái Hoà, ĐHSP Vinh, Tư liệu Phong cách học,
Đinh Xuân Hiền, ĐHSP Vinh; Phong cách học tiếng Việt hiện đại, Hoàng Trọng Phiến,
ĐHTH Hà Nội; …
16
+ Phong cách học tiếng Việt, Cù Đình Tú – Lê Anh Hiền – Võ Bình – Nguyễn Thái
Hoà, Nxb Giáo dục 1982
Giáo trình bổ sung những vấn đề về phong cách chức năng, phân loại phong cách chức
năng.
Những phần khác chủ yếu dựa vào các cuốn giáo trình cũ, có hiệu đính.
Giáo trình tham khảo ý kiến của các nhà nghiên cứu Nga Xô viết như Viktor
Vinogradov, Rozental, sử dụng tiêu chí chức năng xã hội để phân loại các phong cách chức
năng tiếng Việt. Bộ tiêu chí phân loại:
+ tiêu chí chính: chức năng xã hội của ngôn ngữ (trong phạm vi giao tiếp đặc thù)
+ tiêu chí bổ sung (tiêu chí phụ): tiêu chí đặc trưng.
Nhược điểm: Nhiều người viết nên giữa Dẫn luận và nội dung chính không khớp
nhau, thuật ngữ nhiều chỗ không thống nhất.
+ Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, Cù Đình Tú, Nxb ĐH&THCN, 1983
Giáo trình được biên soạn hết sức công phu, tư liệu minh hoạ phong phú.
Xác định rõ ràng đối tượng nghiên cứu của phong cách học: “là một bộ phận của ngôn
ngữ học nghiên cứu các nguyên tắc và quy luật lựa chọn và hiệu quả lựa chọn, sử dụng toàn
bộ các phương tiện ngôn ngữ nhằm biểu hiện một nội dung tư tưởng và tình cảm nhất định
trong những phong cách chức năng ngôn ngữ nhất định” [Cù Đình Tú 2001, 21-22]
Giáo trình phân biệt các lớp từ vựng chuyên dùng (đơn phong cách – monostylistic
word) trong các phong cách khác nhau, đối lập với lớp từ đa phong cách (trung hoà về phong
cách – polystylistic word).
Miêu tả khá công phu các phương tiện diễn đạt của tiếng Việt.
Nhược diểm: tiêu chí phân loại phong cách chức năng không triệt để; thuật ngữ muốn
dân tộc hoá nhưng lại mắc lỗi lôgic (khẩu ngữ tự nhiên, ngôn ngữ chính thức, ngôn ngữ
không chính thức, phong cách gọt giũa).
+ Phong cách học tiếng Việt, Đinh Trọng Lạc (chủ biên) – Nguyễn Thái Hoà, Nxb
Giáo dục 1994.
Những điểm mới:
Vận dụng lý thuyết giao tiếp bổ sung vào lý thuyết phpng cách học.
Phân biệt “phương tiện tu từ” và “biện pháp tu từ”.
Đưa phần các phương tiện tu từ và biện pháp tu từ văn bản vào giáo trình.
Nhược điểm:
Khái niệm “phương tiện tu từ” không chuẩn xác. Phân biệt rối rắm giữa “phương tiện
tu từ” và “biện pháp tu từ”
+ 99 phương tiện tu từ và biện pháp tu từ tiếng Việt, Đinh Trọng Lạc, Nxb Giáo dục
1995.
Sách được tái bản nhiều lần, là tư liệu quý về tu từ cho giáo viên PTTH.
Nhược: tư liệu thiếu chọn lọc; phân loại “phương tiện tu từ” và “biện pháp tu từ” nhập
nhằng.
+ Những công trình Phong cách học dạng sách chuyên đề: Từ ngôn ngữ chung đến
ngôn ngữ nghệ thuật, Đào Thản, Nxb KHXH, 1988; Thơ và bình thơ, Nguyễn Nguyên Trứ,
Nxb Giáo dục, 1991; Ngôn ngữ thơ, Nguyễn Phan Cảnh, Nxb ĐH&THCN, 1987; Phong cách
17
học văn bản, Đinh Trọng Lạc, Nxb Giáo dục, 1994; Ngôn ngữ thơ Việt Nam, Hữu Đạt, Nxb
Giáo dục 1996.
2.4. Thành tựu của ngành Phong cách học tiếng Việt
Cho đến nay, qua gần nửa thế kỷ nghiên cứu, ngành phong cách học Việt Nam đã giải
quyết được 3 nhiệm vụ:
+ phân loại và miêu tả các phong cách chức năng ngôn ngữ (ở dạng khái quát)
+ Khảo sát giá trị, tiềm năng biểu đạt của các phương tiên ngôn ngữ tiếng Việt (chưa
sâu, còn chồng chéo với ngữ âm học, từ vựng học, ngữ pháp học)
+ phân loại và miêu tả các phép tu từ (ở dạng bước đầu chi tiết)
Bàng 2: Số liệu so sánh bảng phân loại các phép tu từ
của các tác giả Việt Nam với các tác giả Trung Quốc và Anh Mỹ
2.5. Hướng nghiên cứu hiện nay của phong cách học tiếng Việt
Hiện nay, ngành Phong cách học Việt Nam đang chuyển qua giai đoạn thứ hai với các
mục tiêu sau:
(a) Về phong cách ngôn ngữ, tập trung nghiên cứu các vấn đề:
+ Phong cách học thể loại (tin, quảng cáo, phóng sự, tiểu luận, tiểu thuyết, tuỳ bút, …)
+ Phong cách học tâm lý – xã hội: phong cách giới tính, phong cách lứa tuổi, phong
cách vùng miền, phong cách nghề nghiệp, phong cách thời đại, …
+ Phong cách học lời nói (phong cách ngôn ngữ cá nhân): phong cách ngôn ngữ của
nhà văn, nhà thơ, danh nhân văn hoá, nhà hoạt động chính trị – xã hội, …
(b) Vê tu từ, tập trung nghiên cứu các vấn đề sau đây:
+ Hệ thống hoá một cách đầy đủ bảng phân loại các phép tu từ tiếng Việt
+ Phân tích, khảo sát một cách chuyên sâu các phép tu từ theo hướng liên ngành (Ngữ
văn học), hoặc theo hướng nhìn nhận lại từ quan điểm của Ngữ dụng học (Pragmatics), Ngôn
ngữ học tri nhận (Cognitive Linguistics)
+ So sánh – đối chiếu các phép tu từ của tiếng Việt với phép tu từ của các ngôn ngữ
khác.
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA PHONG CÁCH HỌC
18
chiếc phao bập bềnh, ở đấy nhà nghiên cứu vừa cố ghìm lại thì đã lập tức bị làn sóng cuốn
trôi đi.” [Nguyễn Nguyên Trứ 1988, 9]
1.1. Cách hiểu Đối tượng nghiên cứu của phong cách học là tính biểu cảm của ngôn ngữ
Đây là cách hiểu về Phong cách học của Sác-lơ Ba-ly (Charles Bally).
“Trong cuốn “Khảo luận về phong cách” xuất bản vào năm 1902 và sau đó chẳng
bao lâu, trong cuốn “Giản yếu về phong cách”, Sác-lơ Ba-ly – nhà phong cách nổi tiếng
người Thụy Sĩ, người có công lao đáng trân trọng trong việc đặt nền móng cho khoa phong
cách học hiện đại, đã xác định đối tượng của phong cách học như sau:
“Phong cách nghiên cứu những sự kiện biểu đạt của hoạt động ngôn ngữ (tiếng Pháp:
Le langage) theo quan điểm của nội dung biểu cảm của chúng; nghĩa là sự biểu đạt những sự
kiện của cảm xúc bằng hoạt động ngôn ngữ và tác động của những sự kiện của hoạt động
ngôn ngữ đối với sự cảm xúc”.
Trong giới hạn ấy, S. Ba-ly đã trình bày lập luận của mình một cách hấp dẫn, cứng
rắn và chặt chẽ.
Ông cho rằng trong hoạt động ngôn ngữ mọi ý tưởng được thể hiện trong môi trường
biểu cảm dưới một dáng vẻ nhất định. Chẳng hạn, khi đưa ra một câu cầu khiến, ta có thể nói
“Làm cái này” (Tiếng Pháp Faites cela !) không mang chút gì ngữ điệu đặc biệt, hoàn toàn
đứng trên bình diện thông báo thuần túy.
Song cũng có thể nói: “Này! Làm cái này” (T.P : Oh, faites cela !), “Ồ ! Giá mà anh
làm cái này !” (T.P: Ah ! sivous vouliez faire cela) “Ừ ! làm được đấy !” (Oh ! oui, faites le)
... để biểu thị lòng mong muốn, niềm hy vọng hoặc nỗi sốt ruột của ta.
Cuối cùng, hình thức của câu còn có khả năng mang dấu ấn những quan hệ xã hội
giữa người phát ngôn và người tiếp nhận. Chẳng hạn “Làm cái này” (T.P: Faites cela), “Anh
vui lòng làm cho cái này!” (T.P : Voudries – vous faire cela), “Này! Làm cho tao cái này !”
(T.P : Alles faites – moi cela) v.v. . .
Chính cái nội dung xã hội – biểu cảm được nhìn nhận trong mối quan hệ biện chứng
với hoạt động ngôn ngữ đã trở thành đối tượng nghiên cứu của phong cách học S. Ba-ly.
Nhưng đáng lưu ý là cái nội dung xã hội – biểu cảm ấy lại chỉ được khảo sát trong
hoạt động ngôn ngữ nói tự do (khẩu ngữ) mà thôi.
Hãy theo dõi cách làm việc của ông qua một ví dụ tiêu biểu:
“Bô này! Bô cầm cương như thế nào cái thằng trời đánh thánh vật kia? Bô có luôn
luôn nổi khùng với thứ chàng rể rá thủng của bô không?” (Chàng rể của ngài Poa-ri-ê).
S. Ba-ly trước hết, đồng nhất (tiếng Pháp: identifier) thành ngữ “rá thủng” (TP:
Panièr percé) với nghĩa cơ bản là “tiêu xài hoang phí” – cái tạo thành giá trị thông báo của
thành ngữ.
Sau đó, trên bình diện phong cách học, ông nhận xét :
a) Đó là một ẩn dụ có nội dung cụ thể, dễ cảm và sinh động
b) Về bản chất, ẩn dụ này tạo nên một ấn tượng khôi hài.
c) Cách nói này thuộc về hoạt động ngôn ngữ thân mật và phản ánh một quan hệ xã
hội nhất định giữa hai người đối thoại.
S. Ba-ly chỉ dừng ở đấy. Ông từ chối việc trả lời nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ mà tác
giả đã sáng tạo, từ chối việc đánh giá xem cách nói ấy có phù hợp với tính cách nhân vật hay
có thích hợp tình thế và màu sắc của phiến đoạn hay không? Những điều này S. Ba-ly nhìn
19
nhận như những vấn đề của mỹ học, của phong cách (tiếng Pháp: Le style) chứ không phải
của phong cách học (T.P : La stylistique) theo thuật ngữ của ông.
Thật khó mà tìm ra một kiến giải độc đáo hơn! Nếu dựa vào nhận định của C. Mác
“Con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội” và dựa vào tính phức tạp của thái độ tình
cảm của con người chúng ta có thể hình dung tính phong phú và hấp dẫn của phong cách học
S. Ba-ly.
Song việc giới hạn nghiên cứu những biện pháp biểu cảm trong khẩu ngữ đã chứng tỏ
phong cách học mà ông quan niệm có nhiều hạn chế. Những hạn chế ấy đã bộc lộ thái độ cực
đoan và cách nhìn phiến diện của ông.
[…] Trên bình diện phong cách, S. Ba-ly nhấn mạnh mặt nội dung biểu cảm. Điều này
mang ý nghĩa phát hiện quan trọng. Song, từ đấy nhà nghiên cứu đã tỏ ra cực đoan khi gạt ra
khỏi khoa phong cách của mình tất cả phần nội dung không biểu cảm. Hoạt động biểu cảm
của con người vô cùng đa dạng. Có trường hợp phần cảm xúc được đẩy lên tới mức tối đa;
lại có trường hợp phần cảm xúc được rút xuống mức tối thiểu. Là khoa học về sự biểu đạt tư
tưởng bằng ngôn ngữ, phong cách không thể chỉ thu mình trong việc nghiên cứu phần nội
dung ngoài – khái niệm
Vả lại, phần nội dung ngoài – khái niệm (nội dung biểu cảm) này chỉ có thể được
nghiên cứu đầy đủ trong thế đối lập phong cách học đối với phần nội dung khái niệm của
hiện tượng biểu đạt.
[…] Việc coi trọng miêu tả những khả năng biểu đạt của khẩu ngữ là đúng. Song việc
khước từ nghiên cứu những khả năng biểu đạt trong ngôn ngữ văn chương và trong các
phong cách ngôn ngữ văn hóa khác là không thể chấp nhận được.
[…] Trong cấu trúc ngôn ngữ, những khả năng biểu đạt đang nói tồn tại như những
tiềm năng. Những tiềm năng này chỉ đem lại hiệu quả thực tế qua quá trình phát đi và tiếp
nhận thông báo (trong mô hình giao tiếp). Vì thế, phong cách học không thể bỏ qua sự nghiên
cứu ngôn từ, nghiên cứu những lời nói, bài viết cá nhân. [Nguyễn Nguyên Trứ 1988, 11-13]
1.2. Cách hiểu Đối tượng nghiên cứu của phong cách học là các phong cách chức năng ngôn
ngữ
Quan điểm của các nhà ngôn ngữ học Tiệp Khắc: B. Havranek, A. Jedlicka, J.
Dolezel.
“Phong cách học là khoa học về các phong cách chức năng ngôn ngữ” [Rozental]
1.3. Cách hiểu Đối tượng nghiên cứu của phong cách học là quy luật lựa chọn các phương
tiện ngôn ngữ
Quan điểm của J. Marouzeau (Pháp), M.K. Moren, R.G. Piotrovxki (Nga), Cù Đình
Tú (Việt).
“Phong cách học là một ngành ngữ văn độc lập nghiên cứu những nguyên tắc lựa
chọn và sử dụng các phương tiện ngôn ngữ nhằm biểu đạt một nội dung nhất định trong
những điều kiện giao tiếp nhất định” [R.G. Piotrovxki]
Giáo trình này theo quan điểm thứ 3.
20
(2). Nghiên cứu giá trị biểu đạt của các phương tiện ngôn ngữ (phương tiện ngữ âm,
phương tiện từ vựng, phương tiện ngữ pháp)
(3). Nghiên cứu giá trị biểu đạt của các cách thức tu từ (các biện pháp tu từ, phép tu
từ).
2.2. Nghiên cứu giá trị biểu đạt của các phương tiện ngôn ngữ
Phương tiện ngôn ngữ bao gồm các phương tiện ngữ âm, phương tiện từ vựng,
phương tiện ngữ pháp.
Trong cấu trúc của những phương tiện trên, chứa đựng những tiềm năng biểu đạt.
Những tiềm năng ấy sẽ bộc lộ thành những khả năng khi đặt trong hoạt động ngôn ngữ, và
nếu được lựa chọn, kết hợp tốt trong ngôn từ, tiềm năng ấy sẽ đạt được hiệu quả thực tế cao.
Trong các sách phong cách học, phần nội dung đang nói thường được viết thành 3
chương lớn :
– Phong cách học ngữ âm
– Phong cách học từ ngữ
– Phong cách học ngữ pháp
Nội dung miêu tả như thế nào hoàn toàn phụ thuộc vào bản thân cấu trúc ngữ âm của
ngôn ngữ ấy.
Đương nhiên có những vấn đế chung cho mọi ngôn ngữ như:
+ những giá trị biểu cảm của hình tượng ngữ âm,
+ những biến thể đơn phong cách và đa phong cách của các phương tiện ngữ âm,
+ những nét khác nhau giữa mặt âm thanh trong thơ và trong văn xuôi nghệ thuật.
Song quan trọng hơn vẫn là sự thể hiện cụ thể của những vấn đế thực tế được nảy sinh
từ cấu trúc ngữ âm của ngôn ngữ nghiên cứu.
Phong cách học ngữ âm luôn luôn là một lĩnh vực hấp dẫn và bổ ích đối với các nhà
hùng biện, nhà thơ, nhà văn, nhà giáo. . . đối với các diễn viên, phát thanh viên. . .
Phong cách học ngữ âm đang được nghiên cứu ngày càng sâu sắc và triệt để nhờ sự hỗ
trợ của những phương tiện kỹ thuật hiện đại.
22
Trong lĩnh vực phong cách học cú pháp tồn tại những vấn đề chung cho mọi ngôn ngữ
như:
+ giá trị biểu cảm của các kiểu câu và các loại câu,
+ những biến thể đơn phong cách và đa phong cách của các phương tiện cú pháp,
+ sự khác nhau giữa cú pháp thi ca và cú pháp văn xuôi.
Song trong từng thứ tiếng, những vấn đề trên lại có những nét thể hiện riêng biệt.
Phong cách học cú pháp là một lĩnh vực rất khó. Phong cách học chưa đạt được nhiều
thành tựu trong lĩnh vực này. Có không ít điểm nhà phong cách học đã làm công việc của nhà
ngữ pháp học. Điều này có thể được giải thích bằng tính trừu tượng cao của cấu trúc ngữ
pháp.
2.3. Nghiên cứu giá trị biểu đạt của các phép tu từ
Các phép tu từ được xem là các phương tiện biểu đạt bổ sung của ngôn ngữ.
Phép tu từ (tiếng La-tinh: Figura) còn được gọi là cách tu từ, phương thức tu từ, biện
pháp tu từ, phép mỹ từ,. . .
Có thể hiểu theo cách giải thích của mỹ từ pháp cổ đại. Đó là những hình thức diễn đạt
bóng bẩy, gợi cảm, có sức hấp dẫn trong khi trình bày.
Cũng có thể hiểu theo cách giải thích của phong cách học hiên đại: Đó là những
phương tiện biểu đạt bổ sung nhằm tăng cường năng lực và hiệu quả biểu đạt của các phương
tiện biểu đạt ngữ âm, từ ngữ, ngữ pháp.
Thông qua các phép tu từ, những phương tiện hữu hạn của ngôn ngữ bỗng trở thành
vô hạn.
Là một ngành khoa học lấy phong cách ngôn ngữ làm đối tượng chủ yếu, phong cách
học hiện đại không thể xem xét chức năng phong cách của các phép tu từ.
Các phép tu từ có cơ cở ở những quy luật tâm lý và được thực hiện trong một ngôn
ngữ nhất định vào những thời kỳ nhất định.
Do dựa trên cơ sở những quy luật tâm lý chung nên đã xuất hiện những phép tu từ
chung cho mọi ngôn ngữ (thí dụ: Phép tu từ điệp ngữ mà tất cả các ngôn ngữ đều sử dụng
dựa trên quy luật tâm lý về tác dụng lưu ý của vật kích thích được xuất hiện nhiều lần).
Do được thực hiện trong một ngôn ngữ nhất định nên tồn tại những phép tu từ quen
dùng đối với ngôn ngữ này nhưng lại có phần xa lạ đối với ngôn ngữ khác. (Thí dụ: Phép đối
rất dễ thực hiện trong tiếng Việt, tiếng Hán, . . . nhưng lại rất khó áp dụng trong tiếng Pháp,
tiếng Nga, ...)
Tính dân tộc của các biên pháp tu từ cần được quan tâm đúng mức.
Cũng cần lưu ý thêm rằng : Ngay trong một ngôn ngữ, các phép tu từ cũng có thể
được biến đổi theo thời gian.
Sự nghiên cứu các phép tu từ đã được tiến hành từ thời cổ đại. Song cho đến nay, khó
có thể tìm thấy một cách phân loại được mọi người chấp nhận
Có thể kể ra những cách phân loại tiêu biểu sau đây.
+ Sự phân loại chọn chất liệu ngôn ngữ làm căn cứ. Từ đó, chia ra:
– Các phép tu từ ngữ âm
– Các phép tu từ từ vựng
23
dành riêng cho một dân tộc nào đó” (Công trình viết chưa xong “Về tính dân tộc trong văn
học”).
Sẽ có cái nhìn bao quát hơn nếu đi vào những đặc trưng dân tộc trong âm nhạc, hội
họa, kiến trúc, . . .
Quả là các dân tộc có những cách diễn đạt văn chương, nghệ thuật khác nhau. Một sự
khảo sát nghiêm túc có thể tìm thấy những nét thống nhất trong các lĩnh vực dạng nói của
từng dân tộc. Song điều quan tâm đặc biệt của phong cách học vẫn là đặc điểm dân tộc của
ngôn ngữ.
Trong cuốn “Ngôn ngữ học đại cương và những vấn đề của tiếng Pháp”, S. Ba-ly viết
“Ví như nếu tiếng Pháp thích sự sáng rõ thì tiếng Đức thiên về sự chính xác hóa những chi
tiết. Một cái đi thẳng tới mục đích còn một cái bất kỳ ở đâu cũng đặt dấu chấm trên những
chữ I”
Những nhận xét tương tự như vậy khá nhiều. Song tồn tại không ít những nhận định
chủ quan, máy móc và khiên cưỡng. Ấy là chưa kể tới những nhận xét của một số học giả tư
sản, chứa nọc độc của chủ nghĩa Sô-vanh nhằm chứng minh cho sự ngự trị của một ngôn ngữ
“thượng đẳng” bên trên những ngôn ngữ mà họ cho là “hạ đẳng”.
Ghi chú: Mục 3.2. và 3.3. ở trên chủ yếu soạn dựa theo [Nguyễn Nguyên Trứ 1988].
25
26
27
28
“Màu sắc tu từ là khái niệm chỉ phần thông tin có tính chất bổ sung (ý nghĩa hàm chỉ)
bên cạnh phần thông tin cơ bản (ý nghĩa chỉ xuất, ý nghĩa lôgic – sự vật) của một hình thức
biểu đạt, và phần thông tin bổ sung này gồm có 4 thành tố:
+ màu sắc biểu cảm – hình tượng (hình tượng do HTBĐ gợi ra)
+ màu sắc cảm xúc (tình cảm, cảm xúc của người nói, viết)
+ màu sắc bình giá (thái độ đánh giá về đối tượng)
+ màu sắc phong cách (đặc trưng phong cách mà HTBĐ đó chuyên sử dụng).”
2.1.1. Phong cách chức năng là biến thể của ngôn ngữ dân tộc
Cù Đình Tú, Nguyễn Nguyên Trứ. “Phong cách chức năng ngôn ngữ là dạng tồn tại
của ngôn ngữ dân tộc, biểu thị quy luật lựa chọn, sử dụng các phương tiện ngôn ngữ tùy
thuộc vào tổng hợp các nhân tố ngoài ngôn ngữ như hoàn cảnh giao tiếp, đề tài và mục đích
giao tiếp, đối tượng tham dự giao tiếp.” [Cù Đình Tú 2001, 32]
Nguyễn Nguyên Trứ: “phong cách chức năng là những dạng vẻ riêng biệt của ngôn
ngữ toàn dân được nhìn nhận về mặt chức năng xã hội” [Nguyễn Nguyễn Trứ 1988, 18]
2.1.2. Phong cách chức năng là khuôn mẫu xây dựng lớp văn bản (hay phát ngôn)
Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hoà.
29
Quan điểm của giáo trình: Phong cách chức năng thuộc bình diện hoạt động lời nói, đó
là kiểu diễn đạt đặc thù trong một lĩnh vực giao tiếp chuyên biệt.
2.2. Phân loại các phong cách chức năng tiếng Việt:
Cho đến nay vẫn chưa có quan điểm thống nhất. Có hai cách phân chia cơ bản: Cách
phân chia 2 bậc và cách phân chia 1 bậc.
Võ Bình – Lê Anh Hiền: (Như cách phân loại của D. E. Rozental)
phong cách khoa học phong cách hành chính phong cách chính luận
TIẾNG VIÊT
PC PC PC PC PC
SHHN hành chính khoa học chính luận báo chí
Xem [Đinh Trọng Lạc 1999, 10]
Hai cách phân chia trên đây không những khác nhau về số bậc phân loại mà còn khác
nhau về kết quả phân loại.
Trong bảng phân loại của tác giả Cù Đình Tú, không có phong cách ngôn ngữ báo chí.
Tác giả Cù Đình Tú coi ngôn ngữ báo chí chỉ là một phần của phong cách ngôn ngữ chính
luận.
Còn trong bảng phân loại của tác giả Đinh Trọng Lạc, không có phong cách ngôn ngữ
văn chương. Tác giả Đinh Trọng Lạc theo quan điểm của nhà Phong cách ngôn ngữ học
30
người Nga Budagov, chỉ coi ngôn ngữ văn chương là một loại hình ngôn ngữ (xét về mặt sử
dụng), tức là một cái gì đó rộng hơn, lớn hơn phong cách ngôn ngữ (siêu phong cách).
PC PC PC PC PC
KHẨU NGỮ HÀNH CHÍNH KHOA HỌC BÁO CHÍ CHÍNH LUẬN
Sơ đồ 2: Các phong cách chức năng của tiếng Việt hiện đại
31
(b) Nhóm 2: Các phép tu từ từ vựng – ngữ nghĩa: so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, thậm
xưng, nhã ngữ, tăng cấp, đột giáng, . .
(c) Nhóm 3: Các phép tu từ cú pháp: điệp ngữ, đảo ngữ, câu hỏi tu từ, im lặng, . . .
Chú ý : Ranh giới giữa nhóm 2 và nhóm 3 không tuyệt đối.
1.1. Phong cách học đại cương: nghiên cứu những vấn đề chung về phong cách của mọi ngôn
ngữ (Lý thuyết chung về phong cách học).
1.2. Phong cách học dân tộc: nghiên cứu những vấn đề phong cách học của một ngôn ngữ cụ
thể. Ví dụ: Phong cách học tiếng Việt, Phong cách học tiếng Nga, Phong cách học tiếng Pháp,
...
1.3. Phong cách học lời nói cá nhân: khảo sát đặc điểm phong cách cá nhân.
2.1. Phong cách học ngôn ngữ: khảo sát các phong cách chức năng và các phương tiện biểu
cảm của ngôn ngữ. Còn gọi: phong cách học kết cấu hoặc phong cách học chức năng.
2.2. Phong cách học lời nói: khảo sát phong cách của các thể loại nói hoặc viết như bài phát
biểu, xã luận, điện mừng, cáo phó, …
2.3. Phong cách học ngôn ngữ nghệ thuật: khảo sát phong cách nhà văn, phong cách tác
phẩm, phong cách trường phái văn học, …
3.2. Phong cách học tạo lời (phong cách học lập mã)
3.3. Phong cách học phê bình (phong cách học giải mã)
32
4.1. Phong cách ngôn ngữ học lý thuyết: nghiên cứu những vấn đề có tính chất lý luận về
phong cách học như đối tượng, mục đích, phương pháp nghiên cứu, những vấn đề cơ bản của
phong cách học, . .
4.2. Phong cách học thực hành: Chú trọng những vấn đề ứng dụng thành tựu nghiên cứu vào
thực tiễn nói viết và thực tiễn phân tích, giảng dạy ngữ văn, làm văn.
Cơ sở thực hiện phương pháp: đi ngược lại quá trình chọn lựa của người lập
mã để tìm ra lý do lựa chọn.
34
Cơ sở thực hiện phương pháp: sự lặp đi lặp lại có tính ổn định của một phong cách.
Có thể thực hiện thống kê về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, cấu trúc, phép tu từ.
Thống kê ngữ âm: các loại phụ âm, nguyên âm, âm tiết xuất hiện nhiều, các loại vần,
cách gieo vần, nhịp điệu (trong thơ), …
Thống kê từ vựng: khuynh hướng sử dụng từ ngữ, từ ngữ thích được lặp đi lặp lại, …
Thống kê ngữ pháp: câu ngắn hay dài, đơn giản hay phức tạp, thích dùng dạng cấu
trúc Việt Nam hay theo lối văn Tây, lối văn bình dân hay bác học.
Thống kê tu từ: thích dùng phép tu từ gì, mang tính chất cổ điển, dân gian hay sáng tạo
mới, …
BÀI TẬP
1. So sánh hai cách diễn đạt sau đây về màu sắc tu từ:
a/ Chúng tôi lấy làm đau đớn báo tin mẹ của chúng tôi chẳng may mắc bệnh đã mất vào ngày
15 tháng Giêng năm Quý Dậu.
b/ Chúng tôi lấy làm đau đớn báo tin mẫu thân của chúng tôi chẳng may thụ bệnh đã tạ thế
vào ngày 15 tháng Giêng năm Quý Dậu.
2. Từ nào tạo ra sắc thái biểu cảm trong các cách diễn đạt sau đây? Vì sao?
a/ cải lương tư sản
b/ lãng mạn suy đồi
c/ chủ nghĩa cá nhân cực đoan
d/ Kính tặng anh N. Đ. M. quý mến với lòng biết ơn chân thành.
(Thanh Tịnh, Lời đề tặng tập thơ)
3. Cho biết chất giọng (tone; trữ trình, triết lý, châm biếm, …) của những đoạn trích sau và
phân tích các từ ngữ cần thiết để chứng minh ý kiến của anh (chị):
a/ tình yêu vốn dĩ không có thật
chỉ có tình thương mà thôi
tình thương là nguồn gốc của tình nghĩa và ngược lại
có tình thương thì sẽ có trách nhiệm
b/ Cơn gió mùa hạ lướt qua vừng sen trên hồ, nhuần thấm cái hương thơm của lá, như báo
trước mùa về của một thức quà thanh nhã và tinh khiết. Các bạn có ngửi thấy, khi di qua những cánh
đồng xanh, mà hạt thóc nếp đầu tiên làm trĩu thân lúa còn tươi, ngửi thấy cái mùi thơm mát của bông
lúa non không? Trong cái vỏ xanh kia, có một giọt sữa trắng thơm, phảng phất hương vị ngàn hoa cỏ.
35
Dưới ánh nắng, giọt sữa dần dần đông lại, bông lúa càng ngày càng cong xuống, nặng vì cái chất quý
trong sạch của Trời.
c/ Trong xã hội hiên đại, báo chí được mệnh danh là lực lượng quyền lực thứ tư, sau quyền về
lập pháp, hành pháp và tư pháp. Là một trong bốn cột trụ tứ quyền của xã hội công nghệ và trí thức,
báo chí ngày càng phát huy sứ mệnh lớn lao của mình đối với sự tiến bộ của đời sống chính trị – xã
hội. Báo chí cung cấp thông tin về các sự việc giúp chúng ta nắm rõ hơn diện mạo và thực chất của
những vấn đề đang xảy ra chung quanh chúng ta. Báo chí có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy
tính minh bạch của xã hội và ý thức phản biện của người dân. Báo chí cũng là một động lực phát triển
kinh tế. Các nhà đầu tư thường hướng tới các quốc gia có thông tin đầy đủ từ báo chí để họ có thể tiếp
cận các nguồn tin đáng tin cậy, từ đó đưa ra các quyết sách đúng đắn.
4. Thông kê tỷ lê âm tiết bằng trắc trong bài thơ sau và rút ra kết luận về âm điệu, nhạc điệu của
bài thơ:
Chiều
Hôm nay, trời nhẹ lên cao,
Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn…
Lá hồng rơi lặng ngõ thuôn,
Sương trình rơi kín từ nguồn yêu thương.
Phất phơ hồn của bông hường,
Trong hơi phiêu bạt còn vương máu hồng.
Nghe chừng gió nhớ qua sông,
E bên lau lách thuyền không vắng bờ.
Không gian như có dây tơ,
Bước đi sẽ đứt, động hờ sẽ tiêu.
Êm êm chiều ngẩn ngơ chiều,
Lòng không sao cả, hiu hiu khẽ buồn…
(Xuân Diệu)
5. Các cách diễn đạt sau đây khác nhau như thế nào về màu sắc bình giá (thái độ đánh giá):
a1/ Ngày 19 tháng 8, Việt Minh cướp chính quyền từ tay người Pháp.
a2/ Ngày 19 tháng 8, Việt Minh giành chính quyền từ tay thực dân Pháp.
b1/ Lúc giải phóng Sài Gòn (30/04/1975), tôi mới chỉ là cậu bé học lớp 8.
b2/ Lúc tiếp thu Sài Gòn (30/04/1975), tôi mới chỉ là cậu bé học lớp 8.
c/ NGỒI, MỜI NGỒI, XIN MỜI NGỒI LÊN TRÊN
Tô Đông Pha (nhà thơ, nhà văn nổi tiếng của Trung Quốc) rất thích đi xem cảnh đẹp non
nước.
Một hôm, ông đến một ngôi miếu nọ, viên chủ sự (người chủ quản công việc) của miếu thấy
Tô Đông Pha ăn mặc giản dị, liền lạnh nhạt :
– Ngồi !
Và bảo đạo đồng (đứa trẻ theo học đạo) :
– Nước !
Hai người nói chuyện một lúc, chủ sự thấy khách không phải người bình thường, liền nói :
– Mời ngồi !
Rồi ông ta dặn dò đạo đồng :
– Dâng trà !
Hai người nói chuyện một lúc thì biết khách là Tô Đông Pha, ông liền vội vàng :
– Xin mời ngồi lên trên !
Và nhắc đạo đồng :
– Dâng trà hương nhé !
Lúc từ biệt, chủ sự xin Tô Đông Pha đề từ (viết chữ ghi lại cảm tưởng), Tô Đông Pha từ chối
không được, liền hạ bút hài hước như sau :
36
37
PHẦN II
CÁC PHONG CÁCH CHỨC NĂNG
CỦA TIẾNG VIỆT
CHƯƠNG I
PHONG CÁCH KHẨU NGỮ
1. KHÁI NIỆM
38
– Hoa: Mai mà không nghỉ, mấy đứa mình đè đầu con này (Lan) ra, xử đẹp nó luôn,
cho hai hàng tiền đạo của nó đi công tác chơi. Hi!
– Hùng: Mà mai mấy bà có tính rủ nhỏ Mai đi không? Dạo này tui thấy bả kì kì sao ấy
nha.
– Lan: Nhỏ đó hả. Từ ngày đạt giải nhất cái cuộc thi hát hò gì đó, cái mặt cứ vênh
vênh váo váo, chảnh chọe phát gớm, đi bộ mà tránh máy bay [vểnh mặt lên trời] mới ghê chứ.
– Tân: Thôi đi mấy ông mấy bà. Buôn dưa lê bán dưa chuột hoài. Người ta giỏi, người
ta đẹp, người ta có quyền. Có giỏi thì làm được như người ta đi.
– Lan: Cái ông này hay, nãy giờ ngồi im như thầy tu niệm Phật vậy mà giờ cũng dám
chen ngang mấy phu nhân hả?
– Tân: Ngồi im cho chắc. Làm cái thùng rác cho mấy người xả còn hơn. Mất công xen
vào, cái miệng bà Hoa cứ oang oác thế kia, lỡ bả nuốt tui mất tiêu rồi sao?
– Hoa: Ê! Thằng kia! Miệng tao oang oác có ảnh hưởng gì đến hòa bình thế giới
không? Có ảnh hưởng đến kinh tế nhà ông khô…ô….ông?
– Tân: Đó, đó! Thấy hiệu ứng liền… he he…
– Lan: Mà ông Tân nè. Tui cũng thấy ông mấy bữa nay lạ lắm à nha. Tương xờ tư em
nào rồi nên cứ lơ ngơ như bò đeo nơ vậy phỏng?
– Tân: Ba láp ba xàm à. Tui á là tui đang chuyên tâm tu dưỡng bản thân, làm con
ngoan trò giỏi thui.
– Hoa: Thôi thôi cha ơi! Cha cho con xin. Cha mà là con ngoan trò giỏi thì con cũng
ứng cử làm cháu ngoan Bác Hồ.
– Hùng: Thôi. Tao xin. Nãy giờ chuyện trên trời dưới đất gì mấy người cũng tám được
hết trơn á. Túm lại, mai có đi không?
– Hoa: Có chớ. Đứa nào không đi, tao cắt tiết. OK?
– Cả nhóm: OK! Quyết định vậy đi.
– Tân: Good bye see you mất tiêu!
(Tư liệu của Đoàn Thị Ánh Hồng, SV Khoá 35, Khoa Ngữ văn, ĐHSP TP Hồ Chí Minh)
1.3. Các nhân tố giao tiếp chi phối đặc điểm phong cách
2. CHỨC NĂNG
Trao đổi tư tưởng tình cảm (chức năng giao tiếp hiểu theo nghĩa hẹp).
39
3. ĐẶC TRƯNG
Có 3 đặc trưng:
+ Tính tự nhiên (phi nghi thức)
+ Tính cảm xúc
+ Tính cụ thể
+ Tính cá thể
40
Hay ông Trường Chinh nói rất đơn giản nhưng tính chuẩn xác rất cao, dùng từ phải
rất chuẩn, kể cả tiếng Việt. Khi dịch xuôi sang tiếng Việt mà dùng những từ Hán-Việt không
chuẩn là ông ấy nhắc ngay. Thí dụ ông dùng chữ “vinh quang” là không được, phải “quang
vinh” mới đúng, hoặc “đảm bảo” là không được, phải “bảo đảm” mới đúng.
Còn Bác Hồ nói cũng rõ ràng, đơn giản nhưng ông Cụ đôi khi hay ví von, rất khó
dịch, thường phải "đánh vòng", dịch nghĩa vậy. Mình nhớ có lần khi đề cập tới sự viện trợ
của nước anh em, ông Cụ nói: "Cho trâu thì phải cho cả chão [dây thừng]”, mình bí quá
đành giải thích vòng vo để bạn hiểu.
(Thang Sắc, Ông Vũ Khoan nói về nghề “thông ngôn”, Vietnam.net, 26/5/2011)
4.1. Ngữ âm
Không mang tính chuẩn mực, không theo chuẩn mực.
Giọng điệu, cách phát âm mang màu sắc riêng của cá nhân, gắn liền với một địa
phương, một tầng lớp người hoặc một nghề nghiệp nhất định.
Thường sử dụng các hình thức lược âm, biến âm.
hăm ba ← hai mươi ba; phỏng ← phải không; hợp ← hợp tác xã; thanh ← thanh
tra (/thanh toán); …
Hay sử dụng các yếu tố ngữ điệu như kéo dài, nhấn giọng, ngắt giọng, ... để tạo sự chú
ý, tăng sức biểu cảm.
Mày mà không về đây thì bà g . . i . .ế . . t mày đi!
Lấy vợ mà đẻ ra con thì ai chẳng lấy được, lấy vợ mà ĐẺ ra tiền mới khó con ơ . . i !
4.2. Từ ngữ
Phong cách khẩu ngữ có một lớp từ ngữ riêng, rất phong phú, đa dạng. Đó là lớp từ
ngữ khẩu ngữ, một lớp từ chuyên dùng cho giao tiếp thường ngày, vừa đóng vai trò rất quan
trọng cho việc tái hiện ngôn ngữ nhân vật trong sáng tác văn chương.
mày, tao, cậu em, dễ sợ, hiền khô, tối hù, cạn ngắc, ba láp ba đế, đi guốc trong bụng,
rán sành ra mỡ, . . .
Từ ngữ khẩu ngữ mang tính chất cụ thể, hình ảnh, biểu cảm:
Mới sáng mồng một, vừa mở mắt đã quàng quạc cái mồm như con quạ khoang.
Đứa nào láo, cứ đánh sặc tiết nó ra, tội vạ đâu ông chịu.
4.4. Tu từ
Dùng rất nhiều phép tu từ khác nhau, sinh động, đặc sắc.
41
Những phép tu từ mà phong cách ngôn ngữ khẩu ngữ hay sử dụng: ẩn dụ, hoán dụ,
nhân hóa, vật hóa, thậm xưng, nhã ngữ, chơi chữ, . . .
Chú mày phải nói năng cẩn thận, coi chừng có ngày mất chỗ đội nón! (Hoán dụ)
Có chuyện gì nó cũng lên hót lại với cô giáo chủ nhiệm (Vật hóa).
Cậu em không biết mình đây là dân mặc áo chuyên gia, đi xe cố vấn à? (Chơi chữ)
BÀI TẬP
1. Phân tích đặc điểm của phong cách khẩu ngữ thể hiện trong những lời đối thoại của đoạn văn
sau:
Giọng Hai Cờ Ðỏ nói sang sảng:
– Ðố các cha, vậy chớ rừng này hồi đời xưa có vua Gia Long đi ngang qua không?
Có tiếng cãi lại:
– Túng tiền thì lại đây, tôi cho mượn đỡ vài cắc, chớ đừng nói dóc. Nói phải có sách, mách phải
có chứng...
– Dân ở Cờ Ðỏ không bao giờ nói dóc. Ðể tôi nói lại. Số là xưa kia... Gia Long bị Tây Sơn rượt,
ngài phải dùng ghe biển mà chạy từ Cà Mau ra Phú Quốc. Chiếc ghe của ngài gọi là long thuyền...
Ngài đứng trước mũi ghe, ngóng vào bờ mến tiếc lắm, vì ngài muốn làm vua ở đất liền chớ nào có
mộng làm chúa ở cù lao...
Ai nấy nhốn nháo lên:
– Nghe lòng vòng quá. Nói cho lẹ thử coi... Muỗi cắn gần chết đây nè? Bà con nào cho tôi mượn
bếp un, quạt khói lên dùm...
(Sơn Nam, Nhứt phá sơn lâm)
2. Gạch dưới những từ ngữ dùng không hợp phong cách ngôn ngữ và chữa lại:
Em có yêu cầu gì thì đề đạt với bố. Trong trường hợp bố không nhất trí, tán thành, không
chuẩn y thì vẫn phải chấp hành, tuân thủ triệt để, chứ không được có thái độ phản ứng lại mà làm cho
bầu không khí trong gia đình trở nên không lành mạnh.
(Theo Đỗ Việt Hùng, Sổ tay kiến thức tiếng Việt Trung học phổ thông)
3. Viết một đoạn đối thoại thể hiện rõ các đặc điểm ngôn ngữ của phong cách khẩu ngữ. Phân
tích những chỗ thể hiện nổi bật các đặc điểm khẩu ngữ trong đoạn đối thoại vừa viết.
4. Những đoạn nhật ký sau đây viết theo phong cách khẩu ngữ hay phong cách ngôn ngữ gì?
Phân tích và chứng minh quan điểm của anh (chị):
Một ngày mệt nhọc vô cùng. Ba ca thương nặng vào một lúc. Suốt một ngày đứng bên bàn mổ đầu óc
căng thẳng vì những vết thương, vì tiếng khóc xé ruột xé lòng của chú Công (cha Đường) và vì những
tin buồn dồn dập.
Đường đã bị bắt sống trên đường công tác. Cậu bé sôi nổi nhiệt tình ấy không hiểu có chịu nổi những
42
đòn tra tấn của quân thù hay không. Thương Đường vô tận. Lá thư viết gửi Đường vậy là chưa đến
nơi. Người cầm thư đã chết còn người nhận thư thì bị bắt!...
20.5.68
Tiễn chân những bệnh nhân lên đường trở về đội ngũ chiến đấu, lẽ ra chỉ là niềm vui, vậy mà cả
người đi lẫn người ở đều buồn thấm thía. Hơn một tháng nằm lại bệnh xá, những bệnh nhân ấy đã gắn
bó với mình không phải chỉ là tình thương giữa người thầy thuốc với bệnh nhân mà trong tình cảm ấy
có cả nỗi cảm thông sâu sắc giữa những người bạn. Hôm nay họ đi rồi, người ra đi còn nhớ chăng
những đêm dài trò chuyện những đêm mình đi trực. Nhớ chăng những buổi cả cơ quan đi cõng gạo họ
đã cùng mình xử trí một ca thương, họ làm như những nhân viên thực thụ, đêm đến trong ánh đèn dầu
họ ngồi hí hoáy lau dụng cụ… những ngày ấy vui sao! Bao giờ gặp lại nhau và có còn được gặp nhau
không hở những người bạn mến thương?
20.7.68
Những ngày bận rộn công tác dồn dập, thương binh nặng, người ít, mọi người trong bệnh xá đều hết
sức vất vả. Riêng mình trách nhiệm càng nặng nề hơn bao giờ hết, mỗi ngày làm việc từ sáng tinh mơ
cho đến đêm khuya. Khối lượng công việc quá lớn mà người không có nên một mình mình vừa phụ
trách bệnh xá, vừa lo điều trị, vừa giảng dạy.
43
CHƯƠNG II
PHONG CÁCH HÀNH CHÍNH
(ADMINISTRATIVE STYLE)
1. KHÁI NIỆM
1.3. Các nhân tố giao tiếp chi phối đặc điểm phong cách
44
1.4.1. Hình thức ngôn ngữ viết (tiêu biểu, phổ biến)
Các loại văn bản được viết theo phong cách ngôn ngữ ngôn ngữ hành chính:
+ Văn bản hành chính – pháp luật: hiến pháp, luật, sắc lệnh, pháp lệnh, nghị định,
điều lệ, quy chế, nội quy, quy định, . . .
+ Văn bản hành chính – ngoại giao: hiệp định, hiệp ước, thông cáo, quốc thư, công
hàm (công văn ngoại giao của nước này gửi cho nước khác), giác thư (thư ngoại giao của
chính phủ nước này gửi cho chính phủ nước khác), bị vong lục (văn bản ngoại giao do chính
phủ hoặc bộ ngoại giao công bố), . . .
+ Văn bản hành chính quân sự: lệnh, điều lệnh, chỉ thị, ...
+ Văn bản văn thư: đơn từ, biên bản, hợp đồng, báo cáo, thông tư, công văn, quyết
định, . . .
2. CHỨC NĂNG
Thông báo – cầu khiến (yêu cầu phải thực hiện).
Một số tài liệu khác: thông báo – ý nguyện (hiệu lệnh, sai khiến).
Mỗi văn bản hành chính đều có chức năng thông báo một điều gì đó về công tác hành
chính – nhà nước, và đòi hỏi người có trách nhiệm phải thực hiện một việc gì đó trong một
giới hạn thời gian nhất định.
Văn bản hành chính luôn có một giá trị pháp lý và một hiệu lực pháp lý nhất định.
3. ĐẶC TRƯNG
Có 3 đặc trưng cơ bản:
+ Tính nghiêm túc – khách quan
+ Tính chính xác – minh bạch
+ Tính khuôn mẫu
45
Cách nhìn nhận vấn đề, giải quyết vấn đề trong ngôn ngữ hành chính phải xuất phát từ
cách nhìn nhận chung của cả một tập thể, một tổ chức.
Ngôn ngữ hành chính nói chung phải trung hòa về sắc thái biểu cảm, không tỏ ra
khinh hay trọng, tán dương hay chê ghét, ngoại trừ những văn bản có tính chất hành chính
ngoại giao, hoặc những lời nói hành chính có tính chất công thức lễ tân.
46
Văn bản hành chính thường xây dựng theo những kiểu cấu trúc có sẵn, với hai dạng :
(1) dạng mẫu có sẵn, người viết chỉ cần điền vào; (2) dạng theo mẫu hướng dẫn chung.
47
4.2. Từ ngữ
– Phong cách ngôn ngữ hành chính có một lớp từ ngữ riêng gọi là lớp từ ngữ hành
chính.
Đây là lớp từ ngữ tương đối phong phú, đơn nghĩa, trung hòa về sắc thái biểu cảm.
Ví dụ : theo đề nghị, căn cứ vào, nay ban hành, chịu trách nhiệm, vấn đề thứ nhất là,
vấn đề thứ hai là, . . ., Uỷ ban nhân dân, Viện Kiểm sát, Chánh thanh tra, Giám đốc, Vụ
trưởng, …
– Từ ngữ hành chính chủ yếu là lớp từ Hán – Việt, chiếm tỷ lệ khoảng 75% đến 85%,
vì lớp từ này đảm bảo tính chính xác, chặt chẽ, nghiêm túc.
– Từ ngữ trong phong cách hành chính phải được sử dụng tuyệt đối chính xác; không
(hoặc hạn chế tối đa) sử dụng từ ngữ địa phương, những cách nói mang tính chất khẩu ngữ.
– Xuất hiện nhiều từ ngữ mang tính chất cầu khiến (sai khiến, cấm đoán) do đòi hỏi
yêu cầu phải thực hiện (hoặc không được thực hiện), như: đề nghị, yêu cầu, phải, cần, nên, thi
hành, thực hiện, …
Ví dụ ngôn ngữ trong một văn bản luật:
Không được tuyên truyền chống pháp luật của nhà nước. Không được cổ động nhân
dân không thi hành hoặc chống lại những luật lệ và những đường lối, chính sách của nhà
nước. Không được viết bài có tính chất chống lại chế độ dân chủ nhân dân, chia rẽ nhân dân
và chính quyền, nhân dân và bộ đội. Không được gây ra những dư luận hoặc những hành
động có hại cho an ninh trật tự của xã hội.
[…] Không được tiết lộ bí mật quốc gia như: những bí mật quốc phòng, những hội
nghị cơ mật chưa có công bố chính thức của cơ quan có trách nhiệm, những vụ án đang điều
tra chưa xét xử, những bản án mà tòa án không cho phép công bố, những tài liệu, số liệu và
những cơ sở kiến thiết về kinh tế tài chính mà ủy ban kế hoạch nhà nước hoặc các cơ quan có
thẩm quyền chưa công bố.
(Sắc lệnh về chế độ báo chí. Ban hành 14/12/1956)
4.4. Tu từ
Phong cách ngôn ngữ hành chính không sử dụng các phép tu từ vì phong cách ngôn
ngữ này không có nhu cầu diễn đạt hình ảnh, biểu cảm.
Phong cách hành chính đối lập với cách diễn đạt của phép tu từ.
48
49
5.1.2. Luật
5.1.6. Điều lệ
50
5.3.1. Lệnh
5.4. Văn bản văn thư (đơn từ, biên bản, hợp đồng, báo cáo, thông tư, công văn, quyết định, .
. .)
BÀI TẬP
1. Một chỉ thị của cấp trên gửi cho cấp dưới mà ở phần ký tên, người ký tên chỉ ghi bí danh và
không ghi chức vụ thì chỉ thị đó có hợp thức hay không? Vì sao?
2. Gạch dưới những từ ngữ không giống với cách diễn đạt hiện nay và chữa lại:
“Điều thứ 5
Công dân Việt Nam có nghĩa vụ phải đi lính.
Điều thứ 6
Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hoá.
Điều thứ 7
Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và
công cuộc kiến quốc tuỳ theo tài năng và đức hạnh của mình.
Điều thứ 8
Ngoài sự bình đẳng về quyền lợi, những quốc dân thiểu số được giúp đỡ về mọi phương diện
để chóng tiến kịp trình độ chung.
Điều thứ 9
Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện.”
(HIẾN PHÁP NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ, 1946)
3. Anh (chị) có nhận xét gì về phong cách diễn đạt của Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ công
hoà, 1946, qua đoạn trích nêu ở bài tập 2?
51
CHƯƠNG III
PHONG CÁCH KHOA HỌC
(SCIENTIFIC STYLE)
1. KHÁI NIỆM
1.3. Các nhân tố giao tiếp chi phối đặc điểm phong cách
+ Văn bản khoa học giáo khoa: giáo trình, tài liệu tham khảo, sách giáo khoa, giáo án,
bài thi, bài kiểm tra, . . .
+ Văn bản khoa học phổ cập: sách phổ biến khoa học, tài liệu tuyên truyền, phổ biến
khoa học, …
2. CHỨC NĂNG
Thông báo – chứng minh.
Ngôn ngữ trong phong cách ngôn ngữ khoa học không phải thực hiện chức năng thông
báo thuần túy mà còn chứng minh, xác nhận các vấn đề đưa ra trình bày, thảo luận từ góc độ
khoa học nhằm đi tới chân lý khoa học.
3. ĐẶC TRƯNG
+ Tính trừu tượng – khái quát.
+ Tính chính xác
+ Tính khách quan
53
Mọi tri thức đưa ra trong văn bản (diễn ngôn) khoa học phải xuất phát từ những
nguyên tắc khoa học, có bằng cứ, lý lẽ khẳng định một cách khách quan, thuyết phục, tránh sự
suy đoán chủ quan, hàm hồ, thiên kiến, hoặc theo định hướng bên ngoài khoa học.
4.2. Từ ngữ
+ Có một hệ thống thuật ngữ riêng, chuyên dùng trong từng lĩnh vực chuyên môn sâu.
+ Từ ngữ mang tính chất trừu tượng, khái quát ở mức độ cao.
+ Từ ngữ đơn nghĩa, chỉ dùng với nghĩa đen, trung hòa về sắc thái biểu cảm.
4.4. Tu từ
Phong cách ngôn ngữ khoa học, nói chung, không dùng phép tu từ vì không có nhu
cầu diễn đạt hình ảnh, bóng bẩy, biểu cảm như phong cách văn chương hay phong cách chính
luận.
Tuy nhiên có sự khác biệt giữa các biến thể của phong cách khoa học về việc dùng
phép tu từ.
Trong các văn bản khoa học xã hội nhân văn và trong các thể loại văn bản phổ biến
khoa học, người ta có thể sử dụng các phép tu từ theo những mức độ khác nhau nhằm làm cho
sự diễn đạt hấp dẫn, sinh động, gần gũi với đối tượng độc giả.
“Tôi nghĩ tuỳ theo trường hợp, nghệ thuật có thể làm cho khoa học dễ hiểu hơn. Lấy
ví dụ về truyền đạt thông tin nguy cơ những biến cố hiếm như động đất, thay vì đưa ra những
con số xác suất khó hiểu và vô hồn, thì người ta có thể dùng hình ảnh (đẹp) để mô tả nguy cơ.
Tôi mới đọc một bài viết trên tạp chí Science (Mỹ) về những cách thức thể hiện thông tin rủi
ro qua hình ảnh rất tuyệt vời. Cách thức này cũng có thể ứng dụng trong y khoa, chính trị, xã
hội. Tâm lý chúng ta nói chung thích hình ảnh hơn là con số, hình ảnh càng hấp dẫn thì càng
dễ cảm nhận.
54
Nhưng không phải ý tưởng khoa học nào cũng có thể truyền đạt qua nghệ thuật một
cách dễ dàng mà không hy sinh về tính chính xác. Chẳng hạn như rất khó minh hoạ những ý
tưởng mang tính lý thuyết (như định lý toán chẳng hạn) vì sự trừu tượng.”
(Nguyễn Văn Tuấn, Nghệ thuật có thể giúp khoa học dễ hiểu hơn, SGTT.VN,
08/11/2012)
BÀI TẬP
1. Xét về đặc trưng thì phong cách ngôn ngữ khoa học có điểm gì giống và điểm gì khác với
phong cách ngôn ngữ hành chính? Phân tích những điểm giống và khác đó.
2. Văn bản sau đây thuộc loại thể nào của phong cách khoa học? Dựa vào đâu để anh (chị)
khẳng định được như vậy?
Vì sao có cầu vồng?
Khi một tia sáng chiếu qua một giọt nước, hướng của tia sáng sẽ bị lệch đi. Ánh sáng mặt trời
là một hỗn hợp của nhiều màu sắc. Giọt nước làm lệch các màu ở mức độ khác nhau, do đó tạo nên
hình ảnh cầu vòng rực rỡ trên bầu trời.
Ánh sáng mặt trời đi theo đường thẳng nhưng bị chệch hướng khi đi qua ranh giới các chất
có mật độ khác nhau. Chẳng hạn như đi từ không khí sang thuỷ tinh, hoặc từ không khí vào nước. Đó
là hiện tượng khúc xạ. Như vậy những giọt nước ở trong không khí có thể làm khúc xạ tia sáng Mặt
trời, nhưng với điều kiện tia nắng phải bắt gặp giọt nước dưới một góc tương đối nhỏ: Điều đó giải
thích tại sao ta lại nhìn thấy cầu vòng vào buổi sáng hoặc buổi chiều, chứ không bao giờ vào buổi
trưa.
Khi đi trên máy bay, đôi khi ta có thể nhìn thấy phía dưới mình, có một vòng tròn gồm đủ các
màu sắc của cầu vồng.
55
CHƯƠNG IV
PHONG CÁCH BÁO CHÍ
1. KHÁI NIỆM
56
2. CHỨC NĂNG
Chức năng: thông tin – tác động.
Lưu ý: Tiêu ngữ của đài VOA (Đài Tiếng nói Hoa Kỳ Voice of America): “Thông tin
để tiến bộ”.
Báo chí là công cụ thông tin đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa sống còn của một giai
cấp, một thể chế xã hội.
Ở phương Tây, báo chí được coi là lực lượng quan trọng thứ tư trong bốn lực lượng
(tứ quyền – Fourth Estate) quan trọng trong xã hội (lập pháp, hành pháp, tư pháp, báo chí).
57
3. ĐẶC TRƯNG
58
4.1. Ngữ âm
+ Ngữ âm chuẩn mực, hướng về chuẩn mực (phát thanh viên, bình luận viên, biên tập
viên, MC của đài phat thanh và đài truyền hình).
+ Ngữ âm phải mang tính chân thực của cuộc sống, của nhân chứng, sự kiện, tránh
dàn dựng, lạm dụng kỹ thuật.
4.2. Từ ngữ
+ Có một lớp từ vựng thuộc về nghề báo được sử dụng lặp đi lặp lại như : phóng viên,
bạn đọc, cộng tác viên, đặc phái viên, thông tấn, hãng thông tấn, theo nguồn tin, ….
+ Sử dụng một lớp từ ngữ có màu sắc biểu cảm rõ rệt và được cấu tạo theo một dạng
thức đặc biệt có tính chất hình ảnh, tu từ.
+ Hay sử dụng lớp từ ngữ mới tạo ra (tân từ) có tính chất thời thượng.
4.4. Tu từ
+ Hay sử dụng các phép tu từ như so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa, tượng trưng,
chơi chữ, …, đảo ngữ, tương phản, lặp cú pháp, câu hỏi tu từ, . . .
59
Tin tức sắp xếp theo thứ tự độ quan trọng giảm dần. Thông điệp cốt lõi phải được nói
ngay ở đoạn đầu. Các đoạn sau phát triển các thông tin bổ sung.
Những độc giả không có nhiều thời gian có thể ngừng đọc sau khi đã nắm những
thông tin chính. Nhưng cấu trúc này thường khiến kết luận của bài không được hay, vì phần
này gồm những thông tin ít giá trị nhất.
Kết cấu thời gian
Sự việc gì xảy ra trước thì tường thuật trước.
Có thể kết cấu theo kiểu thời gian đảo ngược. Nhưng cách này khó đọc.
Cách tốt nhất là trộn hai cách.
5.2. Phóng sự
Thực chất cũng là bản tin, được mở rộng phần tường thuật chi tiết, sự kiện, và miêu tả
bằng hình ảnh, giúp người đọc có cái nhìn đầy đủ, chi tiết, sinh động về vấn đề.
Phóng sự, một thể loại của ký, là "cuộc hôn nhân" giữa văn học và báo chí. Phóng sự
khác với thông tấn ở chỗ nó không chỉ đưa tin mà còn có nhiệm vụ dựng lại hiện trường cho
mọi người quan sát, phán xét. Do đó, phóng sự nghiêng hẳn về phía tự sự, miêu tả, tái hiện sự
thật, nhưng nội dung tự sự thường không dựa vào một cốt truyện hoàn chỉnh.
Theo nhà văn Vũ Ngọc Phan trong quyển “Nhà văn Việt Nam” thì: Không có lối văn
nào giúp ích cho việc cải cách, cho nhà đương chức pháp luật, và cả nhà xã hội học bằng các
thiên phóng sự”
Phóng sự đòi hỏi nhiều thời gian và công sức để điều tra, thâm nhập thực tế và phỏng
vấn nhiều người. Phóng sự cung cấp cho người đọc một cái nhìn cận cảnh và toàn cảnh về
một hiện tượng, thường là đặc biệt, diễn ra trong xã hội. Thông qua những ghi chép cụ thể,
sinh động tình hình một vấn đề, một sự việc nào đó đang là vấn đề thời sự mang tính bức xúc,
phóng sự thể hiện tính chiến đấu cao độ, dùng sự thật để bác lại những nhận thức còn sai lệch,
60
lấy sự thật đời sống để ảnh hưởng đến nhận thức của xã hội. Do đặc thù thể loại, tính chân
thực về thời gian, địa điểm, sự kiện, con người và chi tiết là những yếu tố cốt lõi của phóng sự.
Ví dụ như Hoài Thanh rất tâm đắc với “lối nhìn’ của Tam Lang trong phóng sự “Một
đêm trước” với những chi tiết so sánh tả chân thô mộc, lạnh lùng: “…trước mắt tôi, một bát
canh bò bốc khói lên ngùn ngụt, nóng sốt như thế nào mà tôi đoán chừng nó chẳng ngon lành
gì cho lắm; vì trong bát canh đục ngầu như nước cống, mấy khoanh lòng bò lều bều như
nổi mấy xác chết đuối mấy đám hành răm …” .
61
điện tử của mình”. Bạn hãy đừng nói “Bí quyết kiếm tiền” mà hãy nói “Một người đàn ông 63 tuổi
tiết lộ những cách thức kiếm tiền, giúp ông ta kiếm được 578 đô la trong một ngày!”
Thông tin chi tiết khiến cho quảng cáo của bạn giống như thật. Khi bạn nói chung chung,
khách hàng tiềm năng của bạn có thể nghĩ “Ồ, lại là sự bịa đặt thôi mà” và thông tin chính xác trong
quảng cáo của bạn sẽ khiến các khách hàng nghĩ: “Có lẽ, người ta đã tính toán chính xác rồi. Thế thì
tại sao mình lại không thử xem thế nào nhỉ?”
Bạn nhớ đừng bỏ qua chi tiết sau: sự chi tiết hoá luôn luôn có sức thuyết phục hơn những câu
từ chung chung. Hãy đọc kỹ bài quảng cáo của mình và hãy chi tiết hoá nó!
5. Hãy sử dụng những thông tin về chính bản thân mình
Ngày nay nhiều quảng cáo áp dụng nguyên tắc “Tôi cũng thế”, vì người tiêu dùng hay có xu
hướng bắt chước các nhân vật trong quảng cáo. Nhưng bạn nên nhớ rằng nguyên tắc này lại là con
dao hai lưỡi.
Việc lạm dụng nó đôi khi lại không mang lại hiệu quả mong đợi. Người tiêu dùng đã quá mệt
mỏi và bị phản cảm. Vì thế bạn phải có một cách tiếp cận thật độc đáo.
Bạn là người cao tuổi? Là thanh niên? Bạn bị khuyết tật điếc? Khi còn ở ghế nhà trường, bạn chuyên
bỏ học? Bạn chỉ mới học hết lớp 8? Hãy đừng ngần ngại sử dụng những thông tin về bản thân trong
quảng cáo của mình.
Một người đàn ông bị hói đầu có thể viết quảng cáo như sau: “Đô la do một người đàn ông
57 tuổi hói đầu kiếm được mọc nhanh hơn tóc của một thanh niên trai tráng!” Thật là ấn tượng phải
không bạn?
Bạn hãy tìm một điều gì đó khác người ở bạn và hãy sử dụng nó khi viết quảng cáo. Hãy cứ để
mọi người biết được con người thực của bạn, như thế họ sẽ bắt đầu tin tưởng vào bạn và không phải
chính niềm tin kích thích chúng ta mua hàng hay sao?
6. Hãy chú trọng đến lợi ích chứ không phải là những đặc điểm khác biệt của sản phẩm
Bạn cần phải tập trung quảng cáo vào lợi ích mà sản phẩm của bạn mang lại chứ không phải
là những đặc tính của nó. Nếu bạn nghĩ rằng, lợi ích và đặc tính là một thì bạn đang mắc phải một sai
lầm nghiêm trọng đó.
Đặc tính của sản phẩm của bạn, đó là chất liệu làm ra sản phẩm, phương thức thanh toán...
Lợi ích - đó là những gì mà sản phẩm mang lại cho người tiêu dùng. Đặc tính chú trọng đến sản
phẩm, trong khi lợi ích chú trọng đến người tiêu dùng.
Lợi ích chính là “Khách hàng sẽ kiếm ra được bao nhiêu tiền?”, “Khách hàng sẽ giảm được
bao nhiêu cân?”, “Tóc sẽ mọc được dài đến đâu?”. Bạn cần phải viết những quảng cáo hướng đến
người tiêu dùng, chứ không phải hướng đến sản phẩm, vì sự lựa chọn đối tượng của bạn sẽ quyết định
sự thành công hay thất bại của chiến dịch quảng cáo.
7. Hãy sử dụng những lời giới thiệu hoặc những nhận xét tích cực
Dù cho lời lẽ quảng cáo của bạn có thuyết phục đến mức nào đi chăng nữa thì đa số đám
đông vẫn không tin ngay nội dung của nó. Vì thế, hãy cho họ một thời gian để họ có thể tin tưởng bạn.
Nhưng để không mất đi thời giờ quý báu của mình, hãy sử dụng trong quảng cáo những ý kiến nhận
xét tốt về hàng hoá hoặc dịch vụ.
Mọi người thường có xu hướng tin tưởng những lời giới thiệu của những người không quen
biết hơn là những người viết quảng cáo.
Việc có được những ý kiến này từ phía khách hàng dễ hơn nhiều so với chúng ta nghĩ. Bạn
hãy chuẩn bị sẵn mẫu “Ý kiến khách hàng” (bắt buộc phải có chữ ký của khách hàng) và phát cho tất
cả các khách hàng của bạn. Hãy để cho họ biết rằng, bạn quan tâm đến việc họ nghĩ như thế nào về
sản phẩm và dịch vụ của bạn. Sau khi khách hàng đã cung cấp cho bạn các ý kiến của họ, bạn hãy sử
dụng chúng tối đa khi quảng cáo.
8. Hãy nhấn mạnh sự chú ý của người tiêu dùng vào bảo hành
Bảo hành sẽ góp phần tăng doanh thu bán hàng. Nếu như sản phẩm của bạn có bảo hành, hãy
nhấn mạnh điều này để nó đập ngay vào mắt khách hàng. Đây chính là sự kích thích rất lớn đối với
62
người tiêu dùng, giúp họ vượt qua được mọi sự e ngại, hoài nghi, thậm chí là chống đối để mua hàng.
Doanh thu thu được từ bán hàng thường nhiều hơn rất nhiều để bù đắp chi phí dành cho bảo hành
hoặc các chi phí khác liên quan đến quá trình này.
BÀI TẬP
1. Báo chí có chức năng tuyên truyền, giáo dục, tổ chức, tập hợp quần chúng hay không? Lý
giải.
2. Nêu quan điểm của anh (chị) về nhận định sau đây: “Nhìn từ một phương diện nào đó, báo chí
là sự kỹ thuật hóa hình thức thông đạt tin tức của mọi người trong môi trường giao tiếp sinh hoạt
hàng ngày.”
3. Tin tức báo chí có chân thực hay không? Nhận xét sau đây đúng hay sai: “Báo chí ở chế độ xã
hội nào cũng bị sự chi phối chặt chẽ của hệ tư tưởng. Tất cả các tờ báo, dù ở phía nào, cũng chỉ đáng
tin 50% vì trong bản thân loại hình truyền đạt này đã hàm chứa hiển nhiên tính chủ quan của sự nhìn
nhận thông tin và mục đích thông tin.”
4. Phân tích bài báo sau đây để chứng minh rằng cấu trúc cúa nó được xây dựng theo kiểu hình
tháp ngược:
Tập Cận Bình thăng hàm Thượng tướng cho Tư lệnh Tên lửa chiến lược
(Soha.vn) - Tập Cận Bình trực tiếp trao quyết định thăng hàm từ Trung tướng lên Thượng
tướng cho Ngụy Phượng Hòa.
Tờ China News ngày 23/11 đưa tin, sáng 23/11 tại lầu Bát Nhất, Quân ủy Trung ương đảng
Cộng sản Trung Quốc tổ chức lễ trao quân hàm Thượng tướng cho Ngụy Phượng Hòa - tân Ủy viên
Thường vụ Quân ủy Trung ương kiêm Tư lệnh lực lượng Tên lửa chiến lược (Pháo binh II).
Ông Tập Cận Bình, người vừa được bầu làm Tổng bí thư kiêm Chủ tịch Quân ủy Trung ương
đảng Cộng sản Trung Quốc khóa 18 đã ký quyết định thăng quân hàm từ Trung tướng lên Thượng
tướng cho Ngụy Phượng Hòa. Nghi lễ thăng quân hàm do 2 tân Phó chủ tịch Quân ủy Trung ương
Phạm Trường Long và Hứa Kỳ Lượng chủ trì.
Có mặt trong buổi thăng quân hàm cho Ngụy Phượng Hòa là các Ủy viên Thường vụ Quân ủy
Trung ương đảng Cộng sản Trung Quốc Thường Vạn Toàn, Phòng Phong Huy, Trương Dương, Triệu
Khắc Thạch, Trương Hựu Hiệp, Ngô Thắng Lợi và Mã Hiểu Thiên.
Ông Tập Cận Bình trực tiếp trao quyết định thăng hàm từ Trung tướng lên Thượng tướng cho
Ngụy Phượng Hòa.
63
Trong lần phong quân hàm đầu tiên của quân đội Trung Quốc tiến hành năm 1955 "ã phong
10 Nguyên soái và 10 đại tướng, đến năm 1965 thì bãi bỏ chế độ quân hàm khi bắt đầu thời kỳ Cách
mạng văn hóa.
Năm 1988 quân đội Trung Quốc bắt đầu khôi phục chế độ quân hàm sĩ quan, tuy nhiên không
phong Đại tướng và Nguyên soái. Do đó hệ thống quân hàm sĩ quan quân đội, cảnh sát vũ trang
Trung Quốc hiện nay cao nhất chỉ đến cấp Thượng tướng.
Ngoài các thành viên của Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Quốc phòng, Tổng tham mưu
trưởng, Tổng cục trưởng 4 Tổng cục, Tư lệnh Hải quân, Tư lệnh Không quân, Tư lệnh Pháo binh 2,
Chỉnh ủy các đơn vị tương đương và một số vị trí lãnh đạo khác cấp bộ có thể được thăng đến hàm
Thượng tướng.
Thanh Phong (Nguồn: Chinamil.com.cn)
5. Phân tích bản tin dưới đây theo những yêu cầu sau:
+ Cấu trúc bản tin
+ Độ chính xác của tin tức
+ Quan điểm của người đưa tin
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố Việt Nam không cần trợ giúp của IMF
Thanh Phương
Tuyên bố với Thông tấn xã Việt Nam tối hôm qua, 13/09/2012, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
khẳng định, chính phủ không cần đền sự hỗ trợ của Quỹ Tiền tệ Quốc tế – IMF, do tình hình kinh tế vĩ
mô của Việt Nam «đang có nhiều chuyển biến tích cực ». Theo lời ông Dũng, lạm phát ở Việt Nam đã
được kềm chế và dự báo cả năm chỉ lên đến khoảng 6%, cán cân vãng lai, cán cân thanh toán đều
thặng dư, dự trữ ngoại hối tăng gấp đôi so với đầu năm, xuất khẩu tăng gần 20%.
Trong một báo cáo công bố trên trang web của Uỷ ban Kinh tế Quốc hội Việt Nam ngày
05/09/2012, ủy ban này cho rằng Việt Nam có thể phải cần vay vốn của Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF để
tái cấu trúc hệ thống ngân hàng và giải quyết nợ xấu, nợ quá hạn, nếu không, kinh tế Việt Nam có
nguy cơ trì trệ lâu dài.
Bên lề Hội nghị thượng đỉnh APEC tại Vladivostok, Nga, Tổng thống Indonesia Susilo
Bambang Yudhoyono cũng đã tuyên bố là Indonesia và các nước thành viên khác của ASEAN sẵn
sàng giúp Việt Nam vượt qua khủng hoảng, để Việt Nam không cần đến cứu trợ của IMF. Nhưng ông
Nguyễn Tấn Dũng, tối qua, cũng khẳng định không cần đến vốn vay cùa ASEAN để giải quyết các vấn
đề kinh tế của Việt Nam.
Trước đó, ngày 07/09/2012, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Lê Minh Hưng đã
tuyên bố là không có chuyện Việt Nam vay vốn của Quỹ Tiền tệ Quốc tế để giải quyết nợ xấu.
Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam từ đầu năm đến nay đã chậm lại, sau hai năm có mức lạm
phát rất cao và thâm thủng mậu dịch quan trọng. Đó là chưa kể Việt Nam đang gặp khủng hoảng
trong hệ thống ngân hàng, do tỷ lệ nợ xấu rất lớn từ các ngân hàng yếu kém. Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam Nguyễn Văn Bình vào tháng Tám vừa qua cảnh báo là nợ xấu của Việt Nam đã
lên đến gần 10 tỷ đôla.
(Đài RFI tiếng Việt, 14/09/2012)
6. Viết một bản tin ngắn hoặc một bản quảng cáo cho một sản phẩm theo đúng những yêu cầu
của phong cách báo chí.
7. Liệt kê những cách thức tạo nên sự hấp dẫn của ngôn ngữ báo chí.
8. So sánh ngôn ngữ báo chí của thể loại tin và ngôn ngữ của thể loại phóng sự.
9. Nêu quan điểm của anh (chị) về nhận định sau đây của Tổng thống Hoa Kỳ Thomas
Jefferson:
"Nơi nào mà báo chí tự do và mọi người đều biết đọc thì mọi thứ đều ổn thoả."
64
10. Nêu nhận xét của anh (chị) về cách thức phỏng vấn của phóng viên tuần báo Stern trong bài
phỏng vấn sau:
Nhà sử học marxist Eric Hobsbawm trả lời phỏng vấn
Tuần báo Stern: Thưa ông Hobsbawm [1917 – 2012, sử gia nổi tiếng người Anh gốc Do
Thái], ông đã chứng kiến sự ra đi của nhiều hệ thống: Cộng hòa Weimar tiêu vong, chủ nghĩa phát xít
tan vỡ, Cộng hòa Dân chủ Đức lụi tàn, chủ nghĩa cộng sản bên bờ vực thẳm, và bây giờ…
Eric Hobsbawm: Nghe ông liệt kê ra thế, tôi thấy mình sắp thành một hiện vật bảo tàng mất
rồi. Lúc tôi còn bé, vua nước Anh đồng thời là hoàng đế Ấn Độ, phần lớn thế giới là các nền quân
chủ, vương quốc và thuộc địa. Hầu hết đều đã đi tiêu.
Tuần báo Stern: Và bây giờ biết đâu ông còn được chứng kiến điều này nữa: sự cáo chung
của chủ nghĩa tư bản.
Eric Hobsbawm: Ồ, tôi không tin là mình còn sống đến cái ngày đáng mừng đó. Nhưng là
một sử gia, tôi biết rằng không có giải pháp nào là vĩnh cửu. Chủ nghĩa tư bản cũng thế, nó có sống
dai đến đâu, có hiển hiện trong đầu óc người ta như một cái gì không thể thay đổi tới mức nào, rồi nó
cũng sẽ biến mất, sớm hay muộn mà thôi.
Tuần báo Stern: Tất nhiên ông phải có quan điểm như vậy.
Eric Hobsbawm: Vì sao?
Tuần báo stern: Ông là một nhà marxist kì cựu, lại sống tại London, chỉ cách mộ Karl Marx
một đoạn ngắn.
Eric Hobsbawm: Xin chớ giễu cợt. Tôi trở thành người marxist từ những kinh nghiệm đích
thân trải qua trong những năm 30, trong cơn Đại Suy thoái.
Tuần báo Stern: Và bây giờ chúng ta lại đang đứng ở một điểm ngoặt của lịch sử?
Eric Hobsbawm: Vâng, tôi nghĩ thế. Ngày 15 tháng Chín năm 2008, ngày mà nhà băng
Lehman phá sản, sẽ thay đổi tiến trình của lịch sử hơn nhiều so với ngày 11 tháng Chín năm 2001, khi
tòa tháp đôi của Trung tâm Thương mại Thế giới sụp đổ.
Tuần báo stern: Ông thử đoán tương lai xem sao.
Eric Hobsbawm: Sử gia chúng tôi không phải là những nhà tiên tri. Tôi chỉ có thể nói rằng:
Ngày Phán xử Cuối cùng thì chắc chúng ta chưa phải đối mặt, nhưng một số phần của thế giới có thể
tiêu vong.
Tuần báo Stern: Vì sao lại thế?
Eric Hobsbawm: Trước hết: Tôi, người đã trải qua cơn Đại Suy thoái, vẫn chịu không thể
hiểu nổi vì sao cuối những năm 70 rồi sang thập niên 80 và 90 thế kỉ trước, các nhà tư tưởng của nền
kinh tế thị trường thả phanh lại có thể trở lại khuynh loát, mặc dù thế hệ tiền bối của họ từng góp
phần gây ra một tai họa khủng khiếp: nghèo đói, khốn cùng, thất nghiệp, và rốt cục cả cuộc chiến
tranh thế giới nữa.
Tuần báo Stern: Ông thử giải thích xem.
Eric Hobsbawm: Trí nhớ của con người ta ngắn tới mức không thể tin nổi. Sử gia chúng tôi
ghi lại những tội ác và sự điên rồ của nhân loại, chúng tôi nhắc cho người ta nhớ những điều nhiều
người không muốn nhớ. Nhưng gần như chẳng có gì từ lịch sử được rút thành bài học. Hậu quả thế
nào thì bây giờ đã thấy. Trong 30, 40 năm gần đây, người ta đã khước từ một cách hệ thống việc đánh
giá chủ nghĩa tư bản theo tinh thần duy lý.
Tuần báo stern: Nhưng chúng ta đang có bao nhiêu chuyên gia và các nhà kinh tế học suốt
ngày chỉ làm mỗi việc ấy.
Eric Hobsbawm: Không, họ trước hết là những nhà thần học của tôn giáo thị trường với một
đức tin ấu trĩ rằng thị trường sẽ tự động điều chỉnh được mọi thứ. Họ nhắm chặt mắt trước hiện thực,
đó là điều khiến họ trở thành nguy hiểm cho nhân loại. Trong những năm qua họ còn không thèm
nhận ra những báo hiệu của khủng hoảng. Họ mù quáng. Họ bất chấp.
65
Tuần báo Stern: Có những người ở Mỹ cực kì hưng phấn nói về sự cáo chung của lịch sử. Sự
lạc quan đó không có cơ sở nào hay sao?
Eric Hobsbawm: Không. 40% dân số thế giới sống bằng mức thu nhập 1 Dollar mỗi ngày. Đó
không thể là cơ sở cho một trật tự xã hội ổn định. Lịch sử cáo chung cái nỗi gì. Khủng hoảng bên lề
ngày càng lan rộng và ngày càng khốc liệt. Còn ở chỗ chúng ta trong trung tâm thì khủng hoảng thỉnh
thoảng xuất hiện dưới dạng chứng khoán lao dốc rồi sau đó lại được điều chỉnh. Cuộc chơi lại tiếp
diễn.
Tuần báo stern: Cuộc chơi nay đã chấm dứt.
Eric Hobsbawm: Đúng là phải nói như vậy. Cuộc khủng hoảng hiện tại có một chất lượng
hoàn toàn mới. Điều duy nhất để các nhà chính trị có thể lấy làm định hướng là giai đoạn từ năm
1929 đến 1933.
Tuần báo Stern: Tờ New York Times cho rằng cuộc khủng hoảng hiện nay thậm chí có thể
khốc liệt hơn thời Đại Suy thoái, mà Đại Suy thoái khi ấy phải nhờ cuộc Đại chiến Thế giới mới giải
quyết được.
Eric Hobsbawm: Chính sách Kinh tế Mới (New Deal) bây giờ được ca tụng của Roosevelt
không thực sự chấm dứt được khủng hoảng, nó chỉ ngăn được bạo loạn chính trị và xã hội xảy ra ở
Hoa Kỳ. Không ai chế ngự được cuộc khủng hoảng những năm 30. Và tuy lịch sử không lặp lại nhưng
hôm nay tình thế cũng khốc liệt như thuở đó, không, hôm nay còn tệ hơn: Không một chính phủ nào
biết mình phải làm gì.
Tuần báo Stern: Ông nói sao? Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama bơm hàng ngàn tỉ Dollar
vào kinh tế, Thủ tướng Angela Merkel và chính phủ Đức đưa ra những chương trình kích cầu trị giá
hàng tỉ. Tại Hội nghị Thượng đỉnh G20, tất cả đều đồng thanh tuyên bố: Chúng ta sẽ sát cánh! Chúng
ta biết rõ phải làm gì.
Eric Hobsbawm: Ông có cảm tưởng rằng họ thật sự biết phải làm gì à? Họ có đường lối nào,
có phân tích nào hậu thuẫn không? Không! Họ hốt hoảng như các nữ y tá chạy vội đến giường bệnh
của chủ nghĩa tư bản và làm như thể họ đang hành động gì đó.
Tuần báo Stern: Họ không biết phải đi về đâu hay sao?
Eric Hobsbawm: Đúng như vậy, và thế nên vấn đề mới đáng sợ: họ tuyệt không biết phải làm
gì. Như người mù đi giữa mê cung, họ dùng những chiếc gậy khác nhau gõ thử vào tường, đầy tuyệt
vọng, và hi vọng một lúc nào đó sẽ tìm thấy lối ra. Nhưng công cụ của họ không có tác dụng.
Tuần báo stern: Cựu Thủ tướng Pháp Laurent Fabius lo ngại sẽ xảy ra “bạo động xã hội“,
và ứng viên Tổng thống Đức của Đảng Dân chủ Xã hội, bà Gesine Schwan, cho rằng những bạo động
đó có thể là một mối nguy cho nền dân chủ.
Eric Hobsbawm: Tất cả đều có thể xảy ra. Lạm phát. Giảm phát. Siêu lạm phát. Nếu không
còn gì là an toàn nữa, nếu bị ném khỏi cuộc sống, nếu những dự tính cuộc đời của người ta bị hủy diệt
tàn bạo thì con người sẽ phản ứng như thế nào? Kinh nghiệm lịch sử của tôi cho biết rằng chúng ta –
tôi không thể loại trừ khả năng này – đang tiến đến một bi kịch. Máu sẽ đổ, mà còn hơn thế, máu sẽ
đổ rất nhiều, nỗi thống khổ tăng lên, số người tị nạn cũng tăng lên. Và một điều nữa tôi cũng không
muốn loại trừ, đó là chiến tranh, một cuộc chiến tranh rồi sẽ biến thành đại chiến thế giới – giữa
Trung Quốc và Mỹ.
Tuần báo Stern: Nghe quá phi lí!
Eric Hobsbawm: Không hề. Tôi thừa nhận là hiện thời kịch bản đó có vẻ rất khó xảy ra.
Trung Quốc và Hoa Kỳ hiện đang bổ sung cho nhau, thậm chí còn chống đỡ lẫn nhau, gần như hai
mặt của một thể thống nhất. Nhưng cuộc cạnh tranh đối đầu của hai thế lực này ở khu vực châu Á và
Thái Bình Dương ngày càng quyết liệt. Không có nền tảng nào cho tình hữu nghị dài lâu giữa hai
cường quốc đó.
Tuần báo Stern: Xin ông đừng quá bi quan như thế!
Eric Hobsbawm: Có rất ít lí do để lạc quan nhìn về tương lai! Ở thế kỉ 19, người ta tin tưởng
rằng mọi sự sẽ tiến lên, sẽ tốt đẹp hơn, con người sẽ văn minh hơn, có học thức hơn. Người ta học
66
đọc, học viết. Người ta tin rằng sẽ tiến bộ lên, không chỉ về vật chất mà cả về đạo đức. Người ta đã lạc
quan.
Tuần báo Stern: Nhưng sau đó thì Đại chiến Thế giới xảy ra năm 1914.
Eric Hobsbawm: Và tất cả những thứ đó kết thúc. Một thời đại khủng khiếp, một thời đại cực
đoan bắt đầu: chưa bao giờ số người bị giết trong chiến tranh hay bị giết theo chỉ thị và do nhà nước
cho phép nhiều như trong thế kỉ 20. Tra tấn từng được xóa bỏ ở phương Tây – một tiến bộ vượt bực
trong lịch sử nhân loại – lại được phục hồi! Và đầu thế kỉ 21 này Hoa Kỳ còn biến nó thành một
phương tiện thẩm vấn! Sự mông muội đang tiến mạnh. Những giá trị được thừa nhận của nền văn
minh bỗng nhiên bị chối bỏ.
Tuần báo Stern: Nghe ông nói thì con người thật ngu xuẩn.
Eric Hobsbawm: Về vật chất thì với rất nhiều người, thế giới ngày nay đã được cải thiện.
Người ta cao lớn hơn, thọ hơn, khỏe hơn. Nhưng về tinh thần, chính trị và đạo đức thì người ta không
tiến kịp, hiện tại có lẽ còn đang thụt lùi. Vậy đâu là những giá trị của cuộc sống? Vì sao chúng ta sống
trên đời? Sống để làm gì?
Tuần báo Stern: Và câu trả lời của ông?
Eric Hobsbawm: Chà, tôi chỉ có thể hỏi rằng vì sao người ta cứ bám chặt vào một hệ thống
thường xuyên sản sinh ra những tai họa khủng khiếp nhất như vậy? Một hệ thống bóc lột và phá hủy
môi trường, cưa chính cái cành cây mà mình đang ngồi? Và bây giờ cành cây gãy răng rắc khắp nơi.
Có lẽ nhân loại rồi sẽ ân hận vì không nghe theo Rosa Luxemburg: hoặc chủ nghĩa xã hội, hoặc trở về
thời mông muội.
Tuần báo Stern: Tôi xin ông, chính các bạn hữu chính trị của ông, những người thừa kế gia
sản của Lenin, đã tàn phá dự án đối lập với chủ nghĩa tư bản, đã hủy hoại ý tưởng về một thiên đường
mơ ước.
Eric Hobsbawm: Vâng, đúng như vậy. Và hậu quả đã hiện rõ. Vì bây giờ, khi chúng ta thật sự
cần thì lại không có một dự án đối sách cho nhân loại. Thật tai họa.
Tuần báo Stern: Có lẽ vì bản tính của con người là tham lam. Đơn giản chỉ có thế.
Eric Hobsbawm: Không. Không. Karl Marx chưa bao giờ lập luận chống lại các nhà tư bản
tham lam. Ông ấy chỉ chống lại một hệ thống tất yếu đẻ ra lòng tham. Con người có thể thay đổi, tôi
tin tưởng sâu sắc như vậy. Nhưng trong chế độ tư bản, ai cũng buộc phải chạy theo lợi thế cho bản
thân, không làm thế là chết.
Tuần báo Stern: Vậy ông cho rằng giới nhà băng không hề làm gì quá đáng?
Eric Hobsbawm: Họ tuyệt đối tuân theo quy luật nội tại của hệ thống. Lợi nhuận. Lời lãi.
Tăng trưởng kinh tế tối đa. Các lí thuyết sùng bái thị trường tự do rất hay ho, chừng nào chúng ta bỏ
qua thực tế. Người ta kiến tạo một hệ thống, đặt tên cho nó là tự do, và trên lí thuyết thì nó vận hành
rất tốt: mọi người, mọi nhà, mọi doanh nghiệp đều tìm mọi cách kiếm lợi thế, cái lợi thế có thể hoạch
tính bằng lí trí, và thị trường đứng trên mọi phán quyết của con người sẽ điều chỉnh mọi chuyện theo
hướng lành mạnh. Thật là một hệ tư tưởng sơ khai. Khối tri thức của những người từng hiểu và mổ xẻ
chủ nghĩa tư bản thì bị khinh thường và bỏ xó: Những người như Marx và Schumpeter biết rõ rằng
chủ nghĩa tư bản là một thứ không đứng yên, nó phát triển và tiến với tinh thần cách mạng về phía
trước, nhưng nó cũng tất yếu sụp đổ và luôn gắn liền với những khủng hoảng quy mô khác nhau và có
thể hết sức khốc liệt.
Tuần báo Stern: Nhưng Marx của ông nói rằng “Mọi cuộc cách mạng cho đến nay chỉ chứng
minh được một điều, rằng nhiều thứ có thể thay đổi, chỉ con người là không“.
Eric Hobsbawm: Đúng thế, nhưng Phương châm Hi vọng vẫn là một điều vĩ đại. Tuy theo
Max Weber thì mô hình xã hội lí tưởng nằm ngoài khả năng của chúng ta, nhưng nếu không tin vào
chính trị thì cũng không thể đạt được điều gì đáng kể trong chính trị. Con người vừa có bản tính
Thiện, vừa có bản tính Ác – mà hành xử của con người thì chắc có thể thay đổi được! Để thế giới này
vẫn còn là quê hương, hay rồi sẽ trở thành quê hương cho tất cả mọi người, mục tiêu ấy đẹp đấy chứ.
67
CHƯƠNG V
PHONG CÁCH CHÍNH LUẬN
(SOCIAL–POLITICAL STYLE)
1. KHÁI NIỆM
1.3. Các nhân tố giao tiếp chi phối đặc điểm phong cách
68
2. CHỨC NĂNG
Thông báo – thuyết phục.
+ Thông báo những vấn đề thời sự về chính trị – xã hội đang diễn ra (theo dạng tóm
tắt, điểm lại, lược thuật lại). Phần này không phải là nội dung chính.
+ Bàn luận, phân tích vấn đề và thuyết phục người đọc, người nghe (cả về lý trí và tình
cảm) tin theo quan điểm của mình về cách giải quyết vấn đề, từ đó có thái độ, hành động phù
hợp với quan điểm, lập trường, lợi ích của mình (giai cấp mình).
THIÊN ĐÔ CHIÊU
(Lý Thái Tổ, 1010)
Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến đời Thành Vương
ba lần dời đô, há phải các vua thời Tam Đại ấy theo ý riêng tự tiện dời đô. Làm như thế cốt
để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời,
dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh.
Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ
Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi sự nghiệp không dài, vận số ngắn ngủi,
trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời.
Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương, ở giữa khu vực trời đất, được thế
rồng chầu hổ phục, chính giữa nam bắc đông tây, thuận tiện núi sông sau trước. Vùng này
mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm,
muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ
hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời.
Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?
(Bản dịch của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, in trong Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà
Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993)
3. ĐẶC TRƯNG
69
nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không phân chia tôn giáo, đảng
phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc.
Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy
gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.
Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!
Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước.
Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất
định về dân tộc ta!
Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm! Kháng chiến thắng lợi muôn năm!
4.1. Ngữ âm
Phát âm chuẩn mực, thân mật, biểu cảm, hùng hồn.
Giọng điệu, ngữ điệu và những yếu tố phi lời kèm theo trong dạng nói của phong cách
chính luận đặc biệt quan trọng.
Âm sắc, màu sắc của lời nói luôn thay đổi phù hợp với nội dung, tình cảm của từng
đoạn văn.
Tình cảm, niềm tin của người nói phải thể hiện qua giọng nói, lời nói và truyền đến
người nghe bằng sự lay động của trái tim và nhận thức.
70
4.2. Từ ngữ
– Sử dụng lớp từ ngữ thuật ngữ chính trị – xã hội tùy thuộc vào từng loại văn bản.
– Từ ngữ giàu màu sắc biểu cảm, hình tượng.
Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân;
Cây hương nghĩa sĩ thắp nên thơm, cảm bởi một câu vương thổ.
(Nguyễn Đình Chiểu, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)
– Có thể sử dụng từ ngữ khẩu ngữ để làm tăng tính hình ảnh, tính biểu cảm và tính
quần chúng.
4.4. Tu từ
Thường xuyên sử dụng các phép tu từ nhằm tăng sức hấp dẫn, thuyết phục, tác động.
Một số phép tu từ hay được sử dụng: so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, hóa dụ, thậm xưng,
chơi chữ, tương phản, điệp ngữ, lặp cú pháp, sóng đôi cú pháp, tăng cấp, câu hỏi tu từ, trường
cú (câu tuần hoàn), ...
Các phép tu từ gần như là yếu tố không thể thiếu được của ngôn ngữ chính luận, đặc
biệt là loại ngôn ngữ chính luận thiên về phương diện hùng biện.
71
5.3. Hịch
5.4. Cáo
5.5. Chiếu
5.9. Xã luận
72
BÀI TẬP
1. So sánh đặc điểm ngôn ngữ của hai đoạn trích sau đây và theo anh chị, văn phong chính luận
tiếng Việt hiện đại nên hướng tới một cách diễn đạt có màu sắc biểu cảm như thế nào cho phù
hợp với công chúng và bối cảnh chính trị - văn hoá hiện nay?
a/ Chiếu lên ngôi của Quang Trung Nguyễn Huệ
Nước Việt ta từ đời Đinh, Lê, Lý, Trần gây dựng ra nước cho đến ngày nay, thánh minh dấy
lên không phải là một họ, nhưng thịnh suy, dài ngắn, vận mệnh do trời, không phải sức người tạo ra
được. Trước đây nhà Lê mất chính quyền, họ Trịnh và cựu Nguyễn chia bờ cõi. Hơn hai trăm năm
nay, kỷ cương rối loạn, vua Lê chỉ là hư vị, cường thần tự ý vun trồng, giềng mối của trời đất một
phen rơi xuống không nâng lên được, chưa có lúc nào hư hỏng quá như lúc này vậy. Vả lại mấy năm
gần đây, nam bắc gây việc binh đao, nhân dân rơi vào chốn bùn than. Trẫm là người áo vải ở Tây
Sơn, không có một thước đất, vốn không có chí làm vua, chỉ vì lòng người chán ngán đời loạn, mong
mỏi được vua hiền để cứu đời yên dân, vì vậy trẫm tập hợp nghĩa binh, mặc áo tơi đi xe cỏ để mở
mang núi rừng, giúp đỡ hoàng đại huynh rong ruổi việc nhung mã, gây dựng nước ở Tây Thổ, vỗ yên
các nước Xiêm La, Cao Miên, đánh lấy Phú Xuân, tiến ra Thăng Long, cố ý quét sạch loạn lạc, cứu
vớt dân trong vòng nước lửa, rồi sau trả lại nước cho họ Lê, trả đất về đại huynh, trẫm sẽ dùng xiêm
thêu hia đỏ ngao du hai nơi làm vui mà thôi. Nhưng việc đời run rủi, trẫm không theo được cái chí
xưa đã định.
(Nguyên văn chữ Hán trong Hàn các anh hoa, Ngô Thì Nhậm. Theo bản dịch tiếng Việt của
Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, quyển III (Hà Nội 1963))
b/ “Lật bộ áo "Nhân văn – Giai phẩm" thối tha, người ta thấy ra cả một ổ phản động toàn những gián
điệp, mật thám, lưu manh, trốt-kít, địa chủ tư sản phản động, quần tụ trong những tổ quỷ với những
gái điếm, bàn đèn, sách báo chống cộng, phim ảnh khiêu dâm”
“Trong cái công ty phản động "Nhân văn – Giai phẩm" ấy thật sự đủ mặt các loại "biệt tính":
từ bọn Phan Khôi, Trần Duy mật thám cũ của thực dân Pháp đến bọn gián điệp Thụy An, từ bọn trốt-
kít Trương Tửu, Trần Đức Thảo đến bọn phản Đảng Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Lê Đạt. Một đặc
điểm chung là hầu hết bọn chúng đều là những phần tử thuộc giai cấp địa chủ và tư sản phản động, và
đều ngoan cố giữ lập trường quyền lợi giai cấp cũ của mình, cố tình chống lại cách mạng và chế độ”
(Tố Hữu, Qua cuộc đấu tranh chống nhóm phá hoại "Nhân văn – Giai phẩm" trên mặt trận
văn nghệ, NXB Văn hoá, 1958, tr. 9 & 17)
2. Đề tài bàn luận của đoạn trích sau đây là gì? Nêu trình tự lập luận và cách thức của tác giả.
Những ý kiến của tác giả đưa ra trong đoạn trích này có sức thuyết phục hay không? Vì sao?
Tham nhũng là một hiện tượng vô cùng phức tạp, xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau.
Trước, phần lớn giới nghiên cứu chỉ chú ý đến hai nguyên nhân chính: kinh tế và chính trị. Về kinh tế,
nói chung, có hai quy luật chính: một, nước có thu nhập trên đầu người càng cao càng ít tham nhũng;
và hai, trong khi thu nhập dựa trên kỹ nghệ làm giảm thiểu tham nhũng, ở những nơi thu nhập chủ yếu
dựa trên tài nguyên thiên nhiên (như dầu lửa, chẳng hạn) thì tham nhũng không những không giảm
mà còn có chiều hướng gia tăng trầm trọng hơn những nơi khác.
Về chính trị, nói chung, cũng có mấy quy luật chính: một, quốc gia càng dân chủ, càng minh
bạch và càng tự do, đặc biệt tự do ngôn luận, tham nhũng càng ít; hai, tính chất dân chủ ấy càng lâu
đời và càng ổn định, tham nhũng lại càng ít (ngược lại, như nhiều nước Đông Âu sau 1990 chứng
minh, trong quá trình chuyển tiếp từ độc tài đến dân chủ, nạn tham nhũng càng hoành hành dữ dội
hơn hẳn trước đó); và ba, hầu hết các nước độc tài đều tham nhũng, nhưng mức tham nhũng mỗi nơi
mỗi khác: độc tài dựa trên ý thức hệ ít tham nhũng hơn độc tài dựa trên gia đình hoặc cá nhân. Gần
đây, ngoài hai nguyên nhân kinh tế và chính trị ấy, giới nghiên cứu còn chú ý đến một nguyên nhân
khác: văn hóa.
Về phương diện văn hóa, ở cấp độ vĩ mô, người ta phát hiện một số điểm khá thú vị. Một,
trong các nước phát triển, những nước theo đạo Tin Lành ít tham nhũng hơn các nước khác (xin lưu ý:
các nước theo đạo Tin Lành cũng là những nước có nền dân chủ sớm, cao và ổn định nhất!). Hai,
trong số các nước đang phát triển, các cựu thuộc địa của Anh ít tham nhũng hơn cựu thuộc địa của
Pháp hay Tây Ban Nha. Ba, những nước có tinh thần tập thể (collectivism) mạnh thường tham nhũng
73
nhiều hơn những nước có tinh thần cá nhân chủ nghĩa cao (có một ngoại lệ hầu như duy nhất:
Singapore). Bốn, trong các nước có tinh thần cá nhân chủ nghĩa, những nơi chủ nghĩa cá nhân phát
triển theo chiều dọc (vertical individualism, nhấn mạnh vào tính độc lập của cá nhân đồng thời chống
lại những dị biệt mang tính đẳng cấp trong xã hội ) thường tham nhũng nhiều hơn những nơi chủ
nghĩa cá nhân phát triển theo chiều ngang (horizontal invidualism, nhấn mạnh cả tính độc lập lẫn tính
cạnh tranh, muốn chiếm vị trí trên cùng trong bậc thang đẳng cấp). Năm, ít nhiều liên hệ với đặc điểm
vừa nêu, những nơi nặng tinh thần gia tộc bao nhiêu càng dễ tham nhũng bấy nhiêu: ở đó, những
người có quyền thế dễ có khuynh hướng phân phối quyền lực và quyền lợi, trước hết, cho những người
thân trong dòng họ, và những người ấy lại trở thành những đầu mối của tham nhũng. Sáu, những
nước càng đề cao nam quyền càng có nguy cơ tham nhũng nhiều.
Ở cấp độ vi mô, nhiều nhà nghiên cứu tập trung sự chú ý vào tâm lý cá nhân cũng như liên cá
nhân (interpersonal) để giải thích hiện tượng tham nhũng. Lý do cũng dễ hiểu. Tham nhũng là một
mối quan hệ hai chiều: người nhận tiền – thường là người có quyền lực) – và người đưa tiền – người
ít hoặc không có quyền lực nhưng đang cần sử dụng quyền lực của người khác (đó là chưa kể sự hiện
hữu của thành tố thứ ba: môi giới).
Lý do để người ta nhận hối lộ không khó giải thích: thứ nhất, vì tham; thứ hai, vì người ta có
thể; và thứ ba, vì tính toán: khó bị phát hiện, hoặc nếu bị phát hiện, cái giá phải trả rẻ hơn những gì
người ta nhận được. Nguyên nhân thứ nhất gắn liền với bản tính con người; nguyên nhân thứ hai với
cơ chế; và nguyên nhân thứ ba với pháp luật.
(N.H.Q)
74
CHƯƠNG VI
PHONG CÁCH VĂN CHƯƠNG
(BELLETRISTIC STYLE)
1. KHÁI NIỆM
1.2. Những quan điểm khác nhau về ngôn ngữ văn chương
+ Coi ngôn ngữ văn chương là một phong cách chức năng ngôn ngữ tương đương như
các phong cách khác. (Cù Đình Tú và các tác giả sách Phong cách học tiếng Việt viết trước
năm 1993).
+ Không coi ngôn ngữ văn chương là một phong cách ngôn ngữ mà là một loại hình
ngôn ngữ (kiểu chức năng ngôn ngữ) [Đinh Trọng Lạc 1999, 16-17].
Bảng: Vị trí của phong cách chức năng và quan hệ của nó với kiểu chức năng ngôn ngữ
[Đinh Trọng Lạc 1999, 16-17]
75
Phong cách ngôn ngữ văn chương tiếng Việt xuất hiện sớm và trải qua hai thời kỳ:
thời kỳ chỉ có văn chương truyền miệng và thời kỳ vừa có văn chương truyền miệng vừa có
văn chương viết (khoảng từ thế kỷ XV, chữ Nôm với Quốc âm thi tập).
1.4. Những nhân tố giao tiếp chi phối đặc điểm phong cách
2. CHỨC NĂNG
Có 3 chức năng cơ bản.
+ Thông báo
+ Thẩm mỹ (chức năng trung tâm, đặc thù)
+ Trao đổi tư tường tình cảm (giao tiếp)
2.2. Thẩm mỹ
Tạo dựng lên bức tranh về cái đẹp và giáo dục về cái đẹp cho con người.
Đây là chức năng trung tâm và là chức năng đặc thù của phong cách văn chương.
Sự thưởng thức văn chương nghệ thuật là một hoạt động tự nguyện, chủ yếu gắn với
nhu cầu về cái đẹp, muốn vươn tới lý tưởng, vươn tới sự hoàn thiện về tâm hồn, nhân cách.
Văn chương có nhiệm vụ thoả mãn nhu cầu ấy thông qua phản ánh quan niệm thẩm mỹ của
con người, quan hệ thẩm mỹ của con người với thiên nhiên và cuộc sống xã hội, bồi dưỡng,
phát triển cho con người năng lực cảm thụ và sáng tạo thẩm mỹ.
76
3. ĐẶC TRƯNG
77
4.1. Ngữ âm
Ngôn ngữ văn chương sử dụng tất cả các phương tiện ngữ âm của ngôn ngữ dân tộc
phục vụ cho nhu cầu biểu đạt của tác phẩm văn chương: tiếng địa phương, tiếng nước ngoài,
những cách nói biến âm, trại âm, những cách phát âm mang màu sắc riêng của cá nhân, ... Về
phương diện này, ngôn ngữ văn chương rất giống với khẩu ngữ, nhưng trong văn chương,
những yếu tố vừa nói được nghệ thuật hoá, cách điệu hoá.
Yếu tố ngữ âm được đặc biệt coi trọng trong thơ và các loại văn vần. Ngữ âm là một
phương diện thi pháp hàng đầu của thơ (vần, nhịp điệu, nhạc điệu, tiết tấu, niêm, luật, ...).
Yếu tố ngữ âm cũng được chú ý trong văn xuôi nghệ thuật (nhịp điệu, tiết tấu, sự luân
phiên, hài hoà về bằng trắc, độ dài ngắn của câu văn, ...).
4.2. Từ ngữ
Phong cách ngôn ngữ văn chương có một lớp từ ngữ riêng gọi là từ ngữ văn chương
(hoặc từ ngữ thi ca).
78
Ví dụ: phu quân, tân lang, tân nương, mẫu tử, hôn lễ, nơi chôn nhau cắt rốn, . . . Số
lượng lớp từ ngữ này tương đối ít.
Từ ngữ văn chương có tính cụ thể, hình ảnh, cảm xúc.
Từ ngữ được chọn lọc, trau chuốt hết sức công phu.
Maiacôpxki từng viết:
Làm thơ
Chẳng khác gì khai thác
Chất hiếm radium
Lấy một gam
Mất hàng năm lao lực
Chỉ mỗi một từ
Có khi mất đứt
Hàng trăm nghìn
Tấn quặng xỉn ngôn từ.
(Nói chuyện với người thanh tra tài chính)
Hoặc Giả Đảo:
Tuyệt cú
Nhị cú tam niên đắc, Ba năm làm được hai câu
Nhất ngâm song lệ lưu. Ngâm lên dòng lệ u sầu tuôn rơi ...
Tri âm như bất thưởng, Tri âm như chẳng cảm lời
Quy ngoạ cố sơn thu. Thu về núi cũ ngắm trời mây bay ...
Từ ngữ thường chứa những kết hợp bất thường và những từ ngữ mới lạ:
Có một dòng sông chảy dài trong trí nhớ
Làng em bến lở, làng anh ở bến bồi
(Đinh Trầm Ca, Sông quê)
Ai dong xe thổ mộ
Chở trảng cát qua thềm.
Ai mơ hồn vũ nữ
Phủ phất chiều Phan Rang.
+ Ngôn ngữ trào lộng của Tú Xương bộc trực, dân dã, từ ngữ thường chỉ dùng với
nghĩa đen, nghĩa gốc :
Sơ khảo khoa này, bác cử Nhu
Sách như hũ nút, chữ như mù
Văn chương nào phải là đơn thuốc
Chớ có khuyên xằng, chết bỏ bu!
(Bác cử Nhu)
Ngôn ngữ trào lộng của Nguyễn Khuyến thâm thúy, ý nhị thể hiện văn của một bậc
đại khoa.
Có tiền việc ấy mà xong nhỉ!
Đời trước làm quan cũng thế a?
(Kiều bán mình chuộc cha)
4.4. Tu từ
Sử dụng nhiều và một cách có nghệ thuật các phép tu từ khác nhau.
Ngôn ngữ văn chương là “vương quốc của các phép tu từ”.
80
5.3. Bút ký
5.5. Thơ
Thơ luôn luôn gắn với hội hoạ. Người xưa nới “Thi trung hữu hoạ”. Đặc biệt thơ Việt
Nam luôn gắn với nhạc. Rất nhiều bài thơ đã được phổ nhạc.
“Theo truyền thống văn hóa của Việt Nam, những bài thơ ngày xưa làm ra đều phải
thêm chữ ca hay là ngâm vào đó. Ví dụ như “Chinh phụ ngâm”, hay là “Gia huấn ca”. Bởi vì
ngày xưa, người Việt Nam vẫn còn thất học, dân chúng không phải người nào cũng đọc, cũng
biết chữ. Thế thì phải dùng giọng hát để phổ biến tác phẩm văn thơ. Khi tôi phổ nhạc bài thơ,
vào thời nay, là tôi chỉ muốn đóng góp, tôi dùng âm nhạc chắp cánh cho thơ bay lên, thế
thôi.”
(Phạm Duy, Tôi luôn vui buồn với nước non, BBC 14/12/2012)
5.5.2. Thơ tự do
5.6. Kịch
5.6.2. Chèo
5.6.3. Tuồng
81
BẢNG SO SÁNH ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC PHONG CÁCH CHỨC NĂNG TIẾNG VIỆT
Thông IV I V 0 IV I 0 IV
báo –
Phong cách khoa
chứng
học
minh
Thẩm I (*) V I IV I V IV I
mỹ
Phong cách văn
chương – thông
báo
BÀI TẬP
1. Phân tích tính hình tượng của ngôn ngữ văn chương qua ví dụ sau:
Trang sách hồng nằm mơ màng ngủ
Em gối đầu trên những dòng thơ
Em thấy mình là hoa hồng nhỏ
Bay giữa đời làm mát ngày qua
(Trịnh Công Sơn, Em là bông hồng nhỏ)
2. Nêu sự khác nhau về phong cách ngôn ngữ tác giả qua hai ví dụ sau:
a/ Người đi tìm hình của nước
Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp
Giấc mơ con đè nát cuộc đời con!
Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp!
Một mái nhà yêu rủ bóng xuống tâm hồn.
82
83
4. Sáng tác một bài thơ hoặc viết một đoạn văn nghệ thuật thể hiện các đặc điểm của ngôn ngữ
văn chương.
5. Có nhà nghiên cứu về ngôn ngữ cho rằng bài thơ “Người đi tìm hình của Nước” của
Chề Lan Viên là “thơ văn xuôi”. Ý kiến của anh (chị) như thế nào?
2. Nêu những điểm giống và khác nhau giữa ngôn ngữ báo chí và ngôn ngữ văn chương.
Đánh dấu vào cột phân tích trong bảng sau khi đặc điểm nêu ra được khẳng định:
Phong cách Ngôn ngữ báo chí Ngôn ngữ văn chương
Đặc điểm
3. Nêu suy nghĩ của anh chị về tình hình nghiên cứu các phong cách chức năng tiếng Việt qua
bảng tổng hợp so sánh sau đây:
Bảng so sánh
Diện mạo các phong cách chức năng tiếng Việt qua sự miêu tả của một số tác giả
Hành chính Thông báo – ý chí Tính chính xác – minh bạch
(sai khiến)
Tính nghiêm túc – khách
quan
Tính khuôn mẫu
Khoa học Thông báo – chứng Tính trừu tượng – khái quát
Khuôn mẫu
để xây dụng minh cao
lớp văn bản Tính lôgic nghiêm ngặt
(/ phát
Tính chính xác – khách quan
ngôn) thể
hiện vai của Báo Thông báo – tác Tính chân thực
người giao động
Tính thời sự
tiếp trong
một lĩnh Tính hấp dẫn
Đinh vực giao
Trọng Chính luận Thông báo – chứng Tính bình giá công khai
tiếp
minh – tác động
Lạc Tính lập luận chặt chẽ
[1999] Tính truyền cảm mạnh mẽ
Sinh hoat hằng Trao đổi tư tưởng Tính cá thể
ngày tình cảm – cảm xúc
Tính cụ thể
– tạo tiếp
Tính cảm xúc
Ngôn ngữ nghệ thuật Thẩm mỹ Tính cấu trúc
(không phải là một PCCN) Tính hình tượng
Tính cá thể hoá
Tính cụ thể hoá
86
PHẦN III
GIÁ TRỊ BIỂU ĐẠT
CỦA CÁC PHƯƠNG TIỆN NGÔN NGỮ
TIẾNG VIỆT
CHƯƠNG I
GIÁ TRỊ BIỂU ĐẠT CỦA CÁC PHƯƠNG TIỆN NGỮ ÂM TIẾNG VIỆT
I. MỐI QUAN HỆ GIỮA MẶT NGỮ ÂM VÀ Ý NGHĨA CỦA MỘT TÍN HIỆU NGÔN NGỮ
TÍN HIỆU Ví dụ
NGÔN Việt Anh Pháp Tây Ban
NGỮ Nha
đoán ý nghĩa
Nói rộng ra thì mối quan hệ giữa mặt âm thanh của phương tiện biểu đạt và ý nghĩa
của nó, về cơ bản, mang tính chất võ đoán
II. GIÁ TRỊ BIỂU ĐẠT CỦA CÁC PHƯƠNG TIỆN NGỮ ÂM TIẾNG VIỆT
1. ÂM TIẾT (SYLLABLE)
Ví dụ 2:
Luận cương đến
ến Bác Hồ. VVà Người đã khóc
Lệ Bác Hồ rơi trên chữ
ữLLênin
Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp
Tưởng bên ngoài, đất nước
ớc đợi mong tin
Viên, Người đi tìm hình của nước)
(Chếế Lan Vi
Không viết «Bác lật gấp»»
89
Thanh điệu tạo nên tính nhạc cho âm tiết tiếng Việt, lúc bổng lúc trầm, lúc rút ngắn
lúc kéo dài dàn trải, lúc mạnh mẽ, dứt khoát, lúc mềm mại nhẹ nhàng. Người Trung Quốc,
người phương Tây khi nghe người Việt nói đều cho người Việt nói như hát.
“Thú thật là khi tôi đến Nam Kỳ và nghe tiếng nói của người bản địa, đặc biệt là phụ
nữ, tôi cảm thấy như nghe tiếng chim hót líu lo và tôi mất hết hy vọng có ngày học được thứ
tiếng ấy."
(Alexandre de Rhodes, Vương quốc Đàng Trong)
Tính nhạc và âm hưởng tạo ra từ việc phối hợp thanh điệu mang lại những hiệu quả
đặc biệt về nhận thức và cảm xúc cho lời nói và văn chương tiếng Việt.
2.2. Các loại thanh điệu tiếng Việt và giá trị biểu đạt
Thanh điệu là đơn vị không có tính âm đoạn (“âm vị siêu đoạn tính”), nhưng có đường
nét, độ cao tồn tại trong âm tiết. Do đó, các thanh điệu phân biệt với nhau theo hai đặc trưng
chủ yếu là độ cao và đường nét vận động. Dựa vào hai đặc trưng đó có thể phân loại thanh
điệu tiếng Việt như sau:
– Dựa vào độ cao:
+ Các thanh có âm vực cao (Phù): ngang, hỏi, sắc.
+ Các thanh có âm vực thấp (Trầm): huyền, ngã, nặng.
Sự đối lập về âm vực này là cơ sở để tạo nên sự hoà phối thanh điệu trong cấu tạo từ
láy âm (các tiếng trong từ láy phải cùng âm vực và đối lập về bằng trắc). Ví dụ: dở dang, sắc
sảo, vội vàng, sẵn sàng, đẹp đẽ, …
Sự đối lập phù – trầm cũng phải tuân thủ trong cách gieo vần của thơ lục bát: tiếng thứ
6 của câu lục và tiếng 6 của câu bát phải khác âm vực. Và tiếng thứ 6 của câu bát và tiếng thứ
8 của câu bát cũng phải tương tự như vậy. Ví dụ:
Việt Nam đất nước ta ơi
P
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Tr P
Cánh cò bay lả rập rờn
Tr
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều
P Tr
(Nguyễn Đình Thi, Đất nước)
Sự đối lập phù trầm này tạo cho câu thơ lục bát sự hài hoà âm điệu, lên trầm xuống
bổng, đễ đọc đễ ngâm. Tuy nhiên vẫn có một số ngoại lệ.
– Dựa vào đường nét vận động:
+ Các thanh có đường nét bằng phẳng: ngang, huyền. Gọi là thanh bằng (Bình).
Âm tiết có thanh bằng thì có âm điệu bằng phẳng, nhẹ nhàng, êm ái. Ví dụ: la đà, lang
thang, tuyên truyền, vinh quang, ...
+ Các thanh có đường nét không bằng phẳng, gãy khúc: ngã, hỏi, sắc, nặng. Gọi là
thanh trắc.
Âm tiết mang thanh trắc thì có âm điệu khúc mắc, gãy góc, trắc trở. Ví dụ: khấp
khểnh, trúc trắc, lảo đảo, khục khặc, lởm chởm, lỗ chỗ, …
90
trắc nhập
Âm tiết mang thanh trắc nhập (như: lập cập, lất phất, khúc mắc, lụp bụp, …) vừa có
âm điệu gãy góc, gập ghềnh vừa có âm hưởng tắc, khép lại.
Sự đối lập về âm vực và đường nét vận động của thanh điệu là tiền đề để xây dựng
luật bằng – trắc trong thơ và tạo nên giá trị biểu trưng của thanh điệu tiếng Việt.
Trong văn chương tiếng Việt, các tác giả luôn chú ý đến sự hoà phối bằng trắc giữa
các dòng thơ, câu thơ để tạo nhạc điệu, âm hưởng.
Ví dụ 1: Vần giao nhau
Mỗi năm hoa đào nở (T)
Lại thấy ông đồ già (B)
Bày mực tàu, giấy đỏ (T)
Bên phố đông người qua (B)
91
3. NGUYÊN ÂM (VOWEL)
Nguyên âm là âm chỉ bao gồm tiếng thanh, không có tiếng ồn, và khi cấu âm, luồng
hơi từ phổi thoát ra tự do, không gặp vật cản trong bộ máy phát âm.
Nguyên âm đứng ở đỉnh âm tiết và là hạt nhân của âm tiết, quyết định âm sắc chủ yếu
của âm tiết. Nguyên âm không bao giờ vắng mặt trong cấu trúc âm tiết tiếng Việt.
Tiếng Việt có 14 nguyên âm, bao gồm 11 nguyên âm đơn và 3 nguyên âm đôi. So với
các ngôn ngữ khác, hệ thống nguyên âm của tiếng Việt ở mức độ trung bình (tiếng Nhật: 5
nguyên âm, tiếng Nga: 5 nguyên âm, tiếng Pháp: 15 nguyên âm, …).
Sự đối lập về độ mở, vị trí cấu âm, âm sắc và âm lượng của nguyên âm tiếng Việt có
thể biểu diễn qua bảng sau :
TỐI
i ư u
iê ươ uô
BỔNG ê ơ/â ô TRẦM
e ă o
a
SÁNG
Xét về độ mở và vị trí cấu âm, hệ thống nguyên âm tiếng Việt có sự đối xứng 3 cặp
nguyên âm theo hàng ngang (nguyên âm cùng độ mở của miệng nhưng khác nhau về vị trí cấu
âm). Sự đối xứng này là cơ sở để tạo ra những từ láy có sự luân phiên đều đặn về nguyên âm:
i – u: vi vu, rủ rỉ, xù xì, rung rinh, đủng đỉnh, …
ê – ô: ngô nghê, ngông nghênh, bồng bềnh, xộc xệch, …
e – o: ho he, nho nhoe, khò khè, thỏ thẻ, nhỏ nhẹ, …
Căn cứ vào âm sắc, nguyên âm tiếng Việt được chia làm 3 nhóm:
+ Nguyên âm bổng: i, iê, ê, e (nhóm nguyên âm hàng trước, không tròn môi)
+ Nguyên âm trung hoà (trầm vừa): ư, ươ, ơ, â, ă, a (nhóm nguyên âm hàng sau
không tròn môi)
+ Nguyên âm trầm: u, uô, ô, o (nhóm nguyên âm hàng sau, tròn môi)
Căn cứ vào âm lượng, nguyên âm tiếng Việt được chia làm 3 nhóm:
+ Nguyên âm sáng: a, e, ă, o (nhóm nguyên âm rộng và hơi rộng)
+ Nguyên âm trung hoà: iê, ê, ươ, ơ, â, uô, ô (nhóm nguyên âm hơi hẹp)
+ Nguyên âm tối: i, ư, u (nhóm nguyên âm hẹp)
Sự đối lập bổng – trầm và sáng – tối của nguyên âm sẽ có một sức biểu hiện rõ rệt nếu
trong ngữ cảnh có một sự hội tụ nhất định. Ví dụ:
Sự tập trung rất nhiều nguyên âm /u/ trầm và tối nhất các nguyển âm ở khổ thơ sau:
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức?
92
4. PHỤ ÂM (CONSONANT)
Phụ âm là âm khi phát ra thì luồng hơi bị cản lại, nhiều tiếng động, ít (hoặc không có)
tiếng thanh.
Phụ âm có rất nhiều loại, cơ cấu phát âm phức tạp hơn rất nhiều so với nguyên âm, vì
thế cũng chúng cũng thường là nhân tố quan trọng tạo nên diện mạo ngữ âm khác nhau giữa
các ngôn ngữ.
Tiếng Việt có một hệ thống phụ âm có đủ hai loại phụ âm là phụ âm đầu và phụ âm
cuối (22 phụ âm đầu và 6 phụ âm cuối).
Trong thơ văn, đểể tạo ấn ttượng đặc biệt về ngữ âm, các tác giả hay dùng
ùng tập trung một
phụ âm đầu nào đó (có ý thức
ức hoặc vô thức) để tăng ccường sức diễn tả. Ví dụ:
Đội trời đạp đất ở đời
ời Việt đông.
Họ Từ tên Hải vốn người
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Nhưng có khi các phụụ âm đầu trtrùng nhau sẽ tạo cảm giác khó đọc. Xuân
Xuâ Diệu trong
Các nhà thơ cổổ điển Việt Nam, tập I từng cho hai câu thơ: “Phong lưu rất
ất mực hồng quần,
quần
ấp xỉ tới tuần cập kkê.” của Nguyễn Du, Truyện Kiều, có bốn
Xuân xanh xấp ốn chữ X trùng
tr nhau
kém hay, và câu thơ “Bách niên đa bbệnh đốc đăng đài” của Đỗ Phủ,, bài Đăng cao, có bốn
chữ Đ nặng nề.
So với phần vần thì sức
ức gợi tả của phụ âm đầu có phần hạn chế hhơn.
ơn. Vá ý nghĩa biểu
trưng của
ủa phụ âm đầu bị sự chi phối của phần vần.
(2) Những âm tiết kết thúc bằng một phụ âm tắc (/p, t, k/) được gọi là những âm tiết
khép (closed syllable).
(3) Những âm tiết kết thúc bằng một bán nguyên âm (– w, – j) được gọi là những âm
tiết nửa mở (half–open syllable).
(4) Những âm tiết kết thúc bằng nguyên âm (không có âm cuối) được gọi là âm tiết
mở (open syllable).
Khi câu văn câu thơ có sự trùng điệp về loại âm tiết (phân loại theo âm hưởng như
trên) thì nhạc tính của nó sẽ có một màu sắc đặc biệt, sức diễn tả lớn.
Ví dụ, sự cộng hưởng của các phụ âm cuối vang mũi đậm đặc tạo sự lan toả, mênh
mang, bay bổng trong khổ thơ sau:
Em ơi, Ba Lan mùa tuyết tan
Đường bạch dương sương trắng nắng tràn
Anh đi, nghe tiếng người xưa vọng
Một giọng thơ ngâm, một giọng đàn
(Tố Hữu, Em ơi … Ba Lan)
Và sự lặp lại của nhiều phụ âm cuối tắc (và thanh trắc) nói lên cái uất ức, nghẹn ngào,
phẫn nộ:
Hãy nghe tiếng của nghìn xác chết
Chết thê thảm, chết một ngày bi thiết
Hãy nghe tiếng của một nghìn cái xác
Không chịu chết vạch trời kêu tội ác.
(Tố Hữu, Thù muôn đời muôn kiếp không tan)
dài bằng các phụ âm cuối vang mũi): kềnh càng, nghênh ngang, nghềnh ngàng, thênh thang,
lênh láng, dềnh dàng, huênh hoang, tuềnh toàng, …
+ Khuôn vần – o – e biểu thị quá trình cử động lặp lại, khi to khi nhỏ, khi thế này khi
thế kia (do sự thay đổi phát âm từ nguyên âm tròn môi, hàng sau /o/ sang nguyên âm không
tròn môi, hàng trước /e/, nhưng cùng độ mở của miệng): khò khè, nho nhoe, vo ve, trọ trẹ, ọ ẹ,
ngo ngoe, cò kè, …
BÀI TẬP
1. Đọc thành tiếng và cho biết nhận xét của anh (chị) về nhịp điệu, âm hưởng, nhạc tính của các
câu văn sau:
a/ Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức rằng
chưa xả thịt lột da nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác
này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng.
(Trần Hưng Đạo, Hịch tướng sĩ)
b/ Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với
Hàn Mặc Tử , Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không
bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận.
(Hoài Thanh, Thi nhân Việt Nam)
2. Những âm tiết kết thúc dòng thơ trong hai khổ thơ sau có gì đặc biệt? Phân tích tác dụng biểu
đạt của chúng:
Hôm qua còn theo anh
Đi ra đường quốc lộ
Hôm nay đã chặt cành
Đắp cho người dưới mộ
(…)
Khóc anh không nước mắt
Mà lòng đau như thắt
Gọi anh chửa thành lời
Mà hàm răng dính chặt.
(Hoàng Lộc, Viếng bạn)
3/ Cho biết ý nghĩa biểu trưng (có thể gợi ra) của phụ âm đầu r –. Minh hoạ bằng một số từ cụ
thể.
4. Cho biết ý nghĩa biểu trưng của các khuôn vần sau đây và giải thích cơ sở ngữ âm tạo ra ý
nghĩa biểu trưng đó:
a/ Khuôn vần – it: ít, chít, nịt, khít, bít, bịt, (giữ) rịt, tít (mắt), (đông) nghịt, …
b/ Khuôn vần – uc – ăc: ngúc ngắc, lúc lắc, trúc trắc, trục trặc, xúc xắc, ngục ngặc, vục vặc, khúc
mắc,…
5/ Phân tích nhịp điệu của bài thơ sau và nêu tác dụng biểu đạt của nó:
Giàu ba bữa, khó hai niêu,
Yên phận là hơn hết mọi điều.
Khát, uống chè mai, hơi ngọt ngọt,
Sốt, kề hiên nguyệt, gió hiu hiu.
Giang sơn tam bức là tranh vẽ,
Phong cảnh tư mùa, ấy gấm thêu.
Thong thả, hôm, khuya, nằm, sớm thức
Muôn vàn đã đội đức trời Nghiêu.
(Nguyễn Bình Khiêm, Không đề)
96
CHƯƠNG II
GIÁ TRỊ BIỂU ĐẠT CỦA CÁC PHƯƠNG TIỆN TỪ VỰNG TIẾNG VIỆT
Sự phân hoá từ ngữ về mặt phong cách chức năng phải dựa trên cơ sở có nhiều khả
năng lựa chọn khác nhau (một nội dung có nhiều cách diễn đạt). Nếu không có nhiều khả
năng lựa chọn thì sẽ xảy ra trường hợp từ ngữ bị “cưỡng bức về phong cách” (mang màu sắc
biểu cảm, giá trị gợi hình hay thái độ đánh giá ở một phong cách này nhưng bị ép dùng sang
97
một phong cách khác). Ví dụ: “tù treo”, “án treo” (từ ngữ không chính xác, hình ảnh mang
tính cường điệu khẩu ngữ, nhưng lại là thuật ngữ pháp lý !).
Sự phân hoá từ ngữ về mặt phong cách chức năng thể hiện tính chất phong phú, đa
dạng của từ vựng một dân tộc và thể hiện trình độ phát triển của một ngôn ngữ.
Dấu hiệu về lượng (tần số xuất hiện trong các phong cách) là căn cứ quan trọng để
phân chia từ ngữ về màu sắc phong cách.
Trong các quyển từ điển tường giải cỡ lớn, màu sắc phong cách từ ngữ bao giờ cũng
được ghi chú. Sự ghi chú này dựa vào trực giác của người biên soạn từ điển hoặc dựa vào số
liệu thống kê.
T Ừ ĐA
PHONG
CÁCH
98
99
Từ khẩu ngữ là từ ngữ chỉ chuyên dùng trong phong cách khẩu ngữ.
Đây là bộ phận từ ngữ quen thuộc, gần gũi với người bản ngữ, được sử dụng thường
xuyên trong lời nói sinh hoạt hằng ngày. Ví dụ: tụi bây, bọn nó, thầy, u, xấu hoắc, (đẹp) mê
ly, gà bài, cắm sổ, nghe thiên hạ đồn, ối làng nước ơi, trời đất quỷ thần ơi, thấp như vịt, nhát
như thỏ đế, cháy nhà ra mặt chuột,…
Từ khẩu ngữ có những đặc điểm nổi bật sau:
+ Màu sắc biểu cảm đậm nét, thường là màu sắc biểu cảm âm tính (chê bai, mỉa mai,
khinh thị, cười nhạo, …)
+ Mang đậm sắc thái đánh giá chủ quan của người nói
+ Cụ thể, hình ảnh
+ Có nhiều kiểu cấu tạo từ (ngữ) rất tự nhiên, vượt ra ngoài những quy tắc lôgic thông
thường
Ví dụ: xưa như củ tỏi (xưa như củ tó), đẹp mê ly rụng rời lá hẹ, nói một câu xanh rờn,
chuyện nhỏ như con thỏ, ngất ngây con gà tây, cô ấy hơi bị hấp dẫn, ăn mắc hơi bị sành
điệu,… xinh tởm, đẹp dã man, đẹp tàn bạo, …
+ Từ chuyển nghĩa
Rất phong phú về số lượng và dạng thức. Ví dụ: Nó hay lép bép; Đồ dài lưng, nuôi
tốn cơm; Gia đình nó hoàn cảnh lắm; Thằng đó chúa làm biếng; Giận sôi cả gan; Giờ mới
vác mặt về ăn cơm; …
+ Từ ngữ có sắc thái đánh giá cực đại. Ví dụ: lo thắt ruột, chờ đỏ mắt, đánh sặc tiết,
chạy bở hơi tai, chẻ xác ra, no đòn, cứng họng, (tức) sôi máu, (giận) tím mặt,...
+ Các quán ngữ, thành ngữ để đưa đẩy, rào đón. Ví dụ: của đáng tội, có đời thuở nhà
ai, nói mạn phép, nói khí không phải, ..., thì đã đành là vậy, nó chết một nỗi (một cái) là...,
đánh đùng một cái, ...
Từ khẩu ngữ là bộ phận từ vựng quan trọng của hình thức giao tiếp trực tiếp bằng lời
trong hoàn cảnh tự nhiên và là nguồn mạch sinh sôi nảy nở cho những sáng tạo từ ngữ văn
chương.
BÀI TẬP
1. Gạch dưới từ ngữ khẩu ngữ trong hai đoạn trích sau:
a/ Gớm! Lại còn thế nữa cơ đấy. Đến luỵ như luỵ đò cũng còn chẳng ăn thua nữa là lại bó buộc. Có
mà họ thì phế đi. Bao nhiêu đời chủ nhiệm rồi, đổ lên đổ xuống mãi rồi mới đậu đến thằng bố cháu
nhà tôi. Nó hiền lành tốt nhịn... Dân ở đây họ đáo để lắm kia. Bằng lòng thì chén chú chén anh, không
bằng lòng thì cứ đổ.
(Nguyễn Thị Ngọc Tú, Buổi sáng)
b/ Nào, thằng chó con, bố con mày lại sắp bỏ đi cho bằng hết đây. Dậy nào, dậy nào, cha thằng bố
mày, dậy đi tè rồi lại vào kềnh không có nặng, bà không bế được.
(Xuân Cang, Đêm hồng)
2. Chú thích nghĩa cho những từ ngữ khẩu ngữ sau đây:
trà giật giật” ( … … ); “cơm bụi” ( … … ); “bò né” ( … … ). “đại gia” ( … … ), “thiếu gia” ( … … ),
“chân dài ( … … ), “chảnh” ( … … ), “bèo” ( … … ), “khủng” ( … … ); “tám” ( … … ); “buôn dưa
lê” ( … …. ), “chém gió” ( … … ), “gà tóc nâu” ( … …. ), “xe ôm” ( … …. ), “máu khô” ( … … ),
“con nghẽo” ( … … ).
(Theo Nguyễn Hưng Quốc)
3. Thay thế từ khẩu ngữ đùng không hợp lý trong câu văn sau:
Cái nhẹ nhàng bay bướm của Thanh Tịnh không được đắc thế trong những truyện ngắn đá phong tục
hay đá hoạt kê của ông.
(Vũ Ngọc Phan, Nhà văn Việt Nam hiện đại, tr. 1198)
101
Đại đa số từ ngữ hành chính là từ Hán Việt. Từ ngữ hành chính có tính chất chính xác,
đơn nghĩa. Từ ngữ hành chính trung hoà về màu sắc biểu cảm (bộ phận chủ yếu) và màu sắc
biểu cảm dương tính. Ví dụ:
+ Sắc thái biểu cảm trung hoà: biên bản, báo cáo, hợp đồng, quyết định, thi hành, đề
nghị, …
+ Sắc thái biểu cảm dương tính: Ngài Thủ tướng, đồng chí Tổng Bí Thư, Quý vị đại
biểu, trân trọng kính mời, đệ trình lên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, …
Từ ngữ hành chính mang lại cho ngôn ngữ hành chính màu sắc trang trọng, trịnh
trọng, nghiêm túc, thể thức hoá, thể chế hoá.
102
Sinh học: tế bào, nhiễm sắc thể, biến dị, di truyền, gien, gien trội, gien lặn, thuỷ tức,
bộ có guốc, giáp xác, …
Hoá học: bazơ, axít, oxy, nguyên tố, hoá trị, hợp chất, đơn chất, hoá vô cơ, xúc tác,…
Từ ngữ khoa có có 3 đặc điểm cơ bản:
+ chính xác, đơn nghĩa;
+ trung hoà về sắc thái biểu cảm;
+ có tính quốc tế.
Số lượng thuật ngữ khoa học trong tiếng Việt hiện nay rất lớn, khoảng 1 triệu đơn vị.
Bên cạnh thuật ngữ khoa học, phong cách khoa học còn sử dụng các cụm từ thể hiện
cách diễn đạt đặc thù của ngôn ngữ khoa học (“quán ngữ lập luận, diễn đạt”) như: "vì thế
nên"; "kết quả là, hậu quả là"; "tương ứng với"; trong trường hợp này","vì những lý do
khác", "với mục đích này"; "theo quan điểm này"; "trong quan hệ này";"trong bất cứ trường
hợp nào"; "nói cách khác"; "cụ thể là"; "nghĩa là"; “chẳng hạn như" "từ đây suy ra"; cũng
cần lưu ý"; "tuy nhiên dưới đây sẽ cho thấy"; "như đã thấy"; …
Từ ngữ khoa học mang lại cho ngôn ngữ khoa học màu sắc trí thức, học thức, khách
quan, chính xác.
2.3.2. Các kiểu loại tiêu biểu
2.3.2.1. Phân loại theo nguồn gốc
a/ Từ ngữ khoa học có nguồn gốc Hán Việt
Đại bộ phận từ ngữ khoa học là từ Hán Việt.
b/ Từ ngữ khoa học có nguồn gốc từ các ngôn ngữ Ấn Âu
Một bộ phận khá lớn thuật ngữ khoa học tiếng Việt vay mượn từ tiếng Pháp, tiếng
Anh, tiếng Nga, … nhất là thuật ngữ của các ngành khoa học tự nhiên.
Ví dụ: rôbốt (robot), magiê (magie), platin (platinum), điôxin (dioxin), êtylen
(ethylene), gôtích (gothic), …
Bộ phận từ ngữ này thể hiện tính quốc tế của thuật ngữ, nhưng lại gây nhiều vấn đề về
chính tả (viết nguyên dạng hay phiên âm, chuyển tự, …). Ví dụ: hydro / hy-đrô/ hiđrô/ …
c/ Từ ngữ khoa học có nguồn gốc thuần Việt
Một số ít thuật ngữ khoa học tiếng Việt được xây dựng (‘cấu trúc lại”) từ nguồn từ
thuần Việt. Nghĩa là chúng sử dụng cùng hình thức ngữ âm với từ ngữ đa phong cách, nhưng
ý nghĩa được hiểu lại, định nghĩa lại từ góc độ khoa học. Ví dụ:
+ Hình học: điểm, đường thẳng, …
+ Sinh vật học: cá, động vật, …
+ Thiên văn học: sao, mặt trời, …
+ Tin học: chuột (mouse), mạng (net), lệnh (instruction),…
Loại thuật ngữ này có thể gây nhầm lẫn giữa nghĩa phổ thông và nghĩa thuật ngữ.
2.3.2.2. Phân loại theo mức độ chuyên dụng
a/ Từ ngữ khoa học thuần tuý (mức độ chuyên dụng cao): lôgarít (logarit), sin, côtang, véctơ
(vector), đạo hàm, tích phân, vi phân, âm vị, hình vị, xác suất, ma trận, …
103
Đặc điểm: phạm vị giao tiếp hẹp, chỉ dùng trong lĩnh vực chuyên ngành; màu sắc khoa
học rõ nét; tính chuyên môn cao.
b/ Từ ngữ khoa học phổ thông hoá (mức độ chuyên dụng thấp): vitamin, kháng sinh, amiđan,
hoại tử, sốt xuất huyết, viên màng não, anôphen, hiệu điện thế, công suất, ăngten, bán dẫn, độ
pH, …
Đặc điểm: phạm vi sử dụng rộng, dùng cả trong cuộc sống thường ngày, gần như trở
thành từ đa phong cách; màu sắc khoa học mờ nhạt.
Nguyên nhân: không có từ đối lập trong ngôn ngữ phổ thông.
104
Từ ngữ chính trị – xã hội tiếng Việt chủ yếu là từ Hán Việt. Số lượng lớp từ này chưa
được thống kê, nhưng ước chừng khoảng vài ngàn đơn vị và bùng nổ nhiều nhất sau Cách
mạng tháng Tám.
Từ ngữ chính trị – xã hội thường mang sắc thái biểu cảm trung hoà, không có tính chất
gợi hình hay màu sắc bình giá chủ quan.
Về sắc thái nghĩa, từ ngữ chính trị – xã hội có tính chất trừu tượng, khái quát.
Từ ngữ chính trị – xã hội mang lại cho phong cách chính luận màu sắc bác học, khoa
học, kinh điển, hàn lâm.
Phần lớn các từ ngữ chính trị – xã hội có khuynh hướng trở thành từ ngữ văn hoá hoặc
từ ngữ đa phong cách, vì chúng gắn bó rất mật thiết với đời sống sinh hoạt hằng ngày của
quần chúng nhưng lại không có đơn vị đối lập trong ngôn ngữ phổ thông.
105
106
Băng nhân là người mối lái chuyện cưới hỏi, gả bán, từ một điển tích đời Tấn.
2.6.2.2. Phân loại theo hình thức cấu tạo
Kết quả thống kê của Nguyễn Vũ Phương Uyên về từ ngữ văn chương phân loại theo
hình thức cấu tạo:
Ví dụ:
Bóng tà như giục cơn sầu
Khách ! à lên ngựa, người còn nghé theo.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
109
+ Nhóm động từ liên quan đến sự hợp – tan: biệt ly, chia phôi, kết tóc, kết nguyền, tao
phùng, tao ngộ, tụ hội, …
+ Nhóm động từ chỉ hành động của con người: ái ân, cất bước, chở che, ghi tạc, giãi
bày, tiêu dao, vẫy gọi…
Ví dụ:
Ông tơ ghét bỏ chi nhau
Chưa vui sum họp đã sầu chia phôi.
(Ca dao)
Tiêu dao ngày tháng thong dong
Bạn cùng trăng gió, vui cùng nước mây.
(Khuyết danh)
c. Tính từ
Về tính từ có 72 trường hợp. Ví dụ: ai oán, khôn cùng, truân chuyên, vuông tròn,…
Có thể phân thành một số nhóm nhỏ sau:
+ Nhóm tính từ chỉ tính chất của không gian: mịt mờ, mông mênh...
+ Nhóm tính từ liên quan đến trạng thái tâm lý: bẽ bàng, phiền muộn, u sầu, thảm
sầu…
+ Nhóm tính từ liên quan đến phẩm chất, số phận của con người: kiêu hùng, kiêu
dũng, bạc mệnh, bạc phận, đa truân, trong trắng...
Ví dụ:
Có chồng như cá ở ao
Kẻ nam người bắc, biết bao thảm sầu.
(Ca dao)
Trách hồng nhan vô duyên bạc phận
Duyên nợ ở gần sao không đặng xứng đôi.
(Ca dao)
d. Một số trường hợp khác
Có tổng cộng 27 trường hợp từ văn chương không thuộc danh từ, động từ và tính từ.
Trong có có 6 trường hợp cảm từ, 9 trường hợp kết từ, 9 trường hợp phụ từ, 2 trường hợp
đại từ và 1 trường hợp duy nhất thuộc về trợ từ. Như: ới (cảm từ), ví (kết từ), khôn (phụ từ),
tá (trợ từ)…
Trông tin nhạn biết là đâu tá?
Tâm tình này ai tả cho nên.
(Khuyết danh)
e. Ngữ cố định
Lớp từ ngữ văn chương có 110 cụm từ cố định (so với số lượng từ là 597 từ).
Trong số các cụm từ cố định thì thành ngữ chiếm một khối lượng tương đối lớn
Ví dụ:
– Ăn gió nằm sương
– Chôn nhau cắt rốn
– Hồng nhan bạc mệnh
– Khuôn vàng thước ngọc
– Mình hạc xương mai
– Yểu điệu thục nữ
Trong oó có một số thành ngữ chỉ điển tích, điển cố như:
110
111
Thứ hai: vợ hoặc chồng cũ, người yêu cũ. Vd: “Trách ai lấp nẻo sông Ngân, Làm
cho đôi lứa cố nhân bặt đường.” (Ca dao).
Từ “mày ngài” được dùng với hai nghĩa:
Thứ nhất: tả lông mày đẹp của người phụ nữ, nhỏ, dài và cong như râu con ngài;
cũng dùng để chỉ người con gái đẹp.
Thứ hai: tả lông mày rậm của bậc trượng phu, to và cong như con tằm. Vd: “Râu
hùm, hàm én, mày ngài, Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao.” (Truyện Kiều).
II. MỘT SỐ LỚP TỪ PHÂN LOẠI THEO SẮC THÁI TU TỪ
Theo cách phân loại về sắc thái tu từ (có cách dùng bình thường hay cách dùng đặc
biệt) thì từ ngữ của một ngôn ngữ được chia ra 2 nhóm:
– Từ ngữ trung tính về sắc thái tu từ
– Từ ngữ có đánh dấu về sắc thái tu từ:
+ Từ ngữ có sắc thái trang trọng
+ Từ ngữ có sắc thái kiểu cách
+ Từ ngữ có sắc thái thông tục
112
*) Những mục từ nói về việc tỏ lòng đổi với người chết: cúng lễ (= cúng bái), điếu
văn, mặc niệm, nghiêng mình (= cúi đầu tưởng nhớ và kính phục).
*) Những mục từ nói về vật người chết để lại: di cảo, di chúc, hậu duệ, di duệ.
Nguyên nhân việc sử dụng các mục từ trên khi nói đến cái chết:
Đối với người Việt, văn hóa tâm linh luôn được coi trọng. Người Việt là một trong
những dân tộc rất xem trọng việc thờ cúng tổ tiên. Người Việt rất kiêng kỵ trong việc nói đến
sự chết chóc. Khi giao tiếp trao đổi lẫn nhau về vẫn đề người chết, người Việt rất ý nhị, họ
không dám nói trực tiếp mà dùng những từ ngữ có tính chất giảm nhẹ cũng như sắc thái tôn
trọng đối với người được nói. Cho nên từ đó hình thành các từ ngữ đồng nghĩa nhưng khác
nhau về sắc thái trang trọng dùng để thay thế cho những từ có sắc thái nặng nề như chết,
ngủm, ngẻo, tắt thở….
Như vậy việc dùng các mục từ này thể hiện nét văn hóa giao tiếp của người Việt
1.2.2. Các mục từ thể hiện mối quan hệ giữa kẻ dưới với người trên (quan hệ tuổi tác, vai vế,
địa vị):
Ngôn ngữ tiếng Việt rất đa dạng trong cách xưng hô. Từ ngữ biểu thị mối quan hệ
trên giữa bề trên và kẻ dưới cũng như mối quan hệ giữa người lớn kẻ nhỏ (tuổi tác, vai vế) với
sắc thái trang trọng rất đa dạng và phong phú: bà nhạc, họa gia, chư tăng, chư ni, đồng bối,
quý khách, đặc ân, đệ, trình, đệ trình, phúc trình, huấn dụ, kế mẫu, kế phụ, chính thất, mặt
rồng, môn sinh, ngôi báu, ngự, nhà vua, nhạc phụ, nhạc gia, ông nhạc, phu nhân, phụ mẫu,
thân mẫu, thân phụ, nghiêm đường (= cha), nghiêm phụ (= cha), lệnh bà, phụng chỉ, phụng
mệnh, phụng sự, thánh chỉ, thỉnh, thỉnh cầu, thỉnh nguyện, bổ nhiệm, chuẩn y, hồi loan.
Những từ này đa phần là từ Hán Việt, thể hiện sự kính nể đối với người có vai vế,
tuổi tác, địa vị lớn hơn. Ví dụ:
Kẻ hạ thần xin phụng mệnh.
Thần xin thỉnh cầu với bệ hạ một điều.
Các mục từ nói về mối quan hệ vai vế và tuổi tác có tần số xuất hiện cao trong ngôn
ngữ nói đặc biệt là ngôn ngữ thời xưa, như nhạc mẫu, nhạc phụ, kế mẫu,… Hiện nay hầu như
những từ này chỉ xuất hiện nhiều trong điện ảnh hay sân khấu cổ trang, rất hiếm khi xuất hiện
trong ngôn ngữ giao tiếp hằng ngày. Dù có xuất hiện đi nữa, chúng cũng chỉ mang tính chất
khách sáo hay nói vui trong giao giao tiếp. Ví dụ:
Ông nhạc nhà tôi hôm nay đi vắng rồi. (Thái độ vừa có sự tôn trọng nhưng cũng có
cái gì đó nói vui với người dược giao tiếp)
113
2.2.1. Từ xưng hô: quý quốc, quý quyến, tiểu đệ, tiện nữ, tiện thiếp, ái nữ, chư vị, tại hạ.
2.2..2. Từ bày tỏ cảm xúc, sự đánh giá: đa tạ, lượng thứ, thiển ý, thịnh tình, bái phục.
Đây là những mục từ nói lên thái độ, tình cảm, cảm xúc của người nói về một sự việc
nào đó và mang nét nghĩa cao hơn những từ ngữ thông thường một bậc.
Ví dụ: So sánh hai ví dụ sau:
+ Cảm ơn sự nhiệt tình của các bạn.
+ Cảm ơn thịnh tình của các bạn.
2.2.3. Từ chỉ hoạt động của con người: chào đời, cống hiến, đại xá, hành khất, hỷ xả, ký thác,
gửi, kiếu, lâm bồn, lãnh giáo, thân chinh, chỉ giáo, thỉnh giáo, thưởng ngoạn, cáo lui, ban
khen, ban cấp.
Ví dụ: So sánh hai ví dụ sau:
114
+ Hôm nào mình định tới nhà xin bạn chỉ bảo cho vài lời.
+ Hôm nào mình định tới nhà xin bạn chỉ giáo cho vài lời.
III. MỘT SỐ LỚP TỪ (THEO CÁCH PHÂN LOẠI CỦA TỪ VỰNG HỌC) CÓ MÀU SẮC TU
TỪ ĐẶC BIỆT
1. TỪ XƯNG HÔ
chú cháu
em
tao
ông
Có khi, người ta không sử dụng những cặp hô ứng thông thường và có cả trường hợp
dùng từ ngoại quốc hoặc nói trống không.
116
117
Trong tiếng Việt, hầu như không có cách xưng hô mang sắc thái trung hòa về mặt biểu
cảm.
Từ xưng hô họ hàng thân tộc của tiếng Việt có sự phân biệt rõ ràng giữa bên nội và
bên ngoại và trọng bên nội hơn bên ngoại.
BÀI TẬP
Phân tích sự thay đổi cách xưng hô trong hai trường hợp sau:
a/ Khái Hưng, Nửa chừng xuân
Bối cảnh đối thoại: Sau khi sống chung với Mai một thời gian mà không báo cho mẹ biết, Lộc
về thăm mẹ với ý định xin mẹ cho phép được chính thức cưới Mai.
“Chuyện gì thế con?”
Lộc thưa:
“Bẩm mẹ, mẹ có tha tội cho con thì con mới dám thưa.”
“Con cứ nói.”
Lộc cúi đầu nhìn xuống đất thì thầm:
“Cô Mai...”
Lộc bỗng ngừng lại. Bà Án hỏi:
“Con Mai, có phải con bé nhà quê nó rủ rê, nó quyến rũ anh không?”
Lộc mỉm cười:
“Bẩm mẹ, nói con quyến rũ người ta thì đúng hơn?”
“Ừ, thế sao?”
“Bẩm mẹ, bây giờ cô ấy vẫn ở với con, cô ấy đã...”
Bà Án đứng phắt dậy trỏ tay vào mặt con, mắng:
“Thế thì mày giỏi thật...Mày dối tao, mày đánh lừa tao... mày đi thuê nhà riêng để ở với nó.
Mày còn coi tao ra gì nữa, thằng kia?”
b/ Thơ Hồ Xuân Hương
Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ,
Này của Xuân Hương mới quệt rồi Lại đây cho chị dạy làm thơ.
Có phải duyên nhau thì thắm lại Ong non ngứa nọc châm hoa rữa,
Đừng xanh như lá bạc như vôi Dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa.
(Hồ Xuân Hương, Mời trầu) (Hồ Xuân Hương, Mắng học trò dốt)
2. TỪ HÁN VIỆT
118
Từ Hán Việt chiếm khoảng 60 đến 70% kho từ vựng tiếng Việt và đóng vai trò đặc
biệt quan trọng trong giao tiếp của người Việt ở các lĩnh vực văn hoá, khoa học, chính luận,
báo chí, văn chương.
Có hai loại từ ngữ Hán Việt là (a) từ Hán Việt có từ thuần Việt tương đương, và (b) từ
Hán Việt không có từ thuần Việt tương đương.
Giữa từ Hán Việt và từ thuần Việt tương đương có sự khác nhau về màu sắc tu từ.
2.2. Sự khác nhau về màu sắc tu từ giữa từ Hán Việt và từ thuần Việt
Có thể nói tới 4 sự khác nhau về màu sắc tu từ giữa từ Hán Việt và từ thuần Việt.
119
3. TỪ LÁY
Từ láy là từ gồm hai tiếng trở lên, được cấu tạo bằng phương thức láy (lặp và đối ứng
về ngữ âm).
Nếu phân loại theo số lượng âm tiết, trong tiếng Việt có các loại từ láy sau: từ láy đôi,
từ láy ba, từ láy tư. Ví dụ: nhí nhảnh, lập cập, cỏn còn con, sạch sành sanh, sát sàn sạt , tí tì
ti, lúng ta lúng túng, đủng đà đủng đỉnh, hớt hơ hớt hải,…
Từ láy đôi có hai loại:
(1) Từ láy bộ phận: Từ láy trong đó có sự phối hợp của từng bộ phận âm tiết theo
những quy tắc nhất định.
a/ Láy âm đầu: chúm chím, cò kè, lúc nhúc, khù khờ, xộc xệch, …
b/ Láy vần và thanh: lí nhí, lủng củng, lững thững, bâng khuâng, …
(2) Từ láy hoàn toàn: Từ láy trong đó lặp lại hoàn toàn cùng một tiếng: xanh xanh,
xinh xinh, đo đỏ, đèm đẹp, tôn tốt,…
Từ láy trong tiếng Việt rất phong phú, đa dạng và đã tiến triển tới một trình độ phát
triển cao hơn so với nhiều ngôn ngữ (như tiếng Hoa chỉ có từ láy toàn bộ).
Tiếng Việt thế kỷ XIV, XV còn phổ biến là từ láy toàn bộ. Ví dụ:
120
121
BÀI TẬP
Phân tích giá trị biểu đạt của từ láy trong các ví dụ sau:
a/ Chim hôm thoi thóp về rừng
Đóa trà mi đã ngậm trăng nửa vành
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
b/ Đứng tréo trông theo cảnh hắt heo
Đường đi thiên thẹo, quán cheo leo.
Lợp lều mái cỏ tranh xơ xác,
Xỏ kẽ kèo tre đốt khẳng khiu.
Ba chạc cạy xanh hình uốn éo,
Một dòng nước biết cảnh leo teo...
(Hồ Xuân Hương, Quán Khánh)
4. THÀNH NGỮ
Thành ngữ là cụm từ cố định về thành phần và cấu trúc, có ý nghĩa chung khác với
tổng số ý nghĩa riêng của các thành tố trong thành phần của nó, được tái hiện dưới dạng có
sẵn trong lời nói như từ.
Ví dụ: gần đất xa trời, kề miệng lỗ, chết đuối vớ được cọc, vắt cổ chày ra nước, mãn
nguyệt khai hoa, hậu sinh khả uý, tứ cố vô thân, dở dơi dở chuột, ngàn cân treo sợi tóc, miệng
còn hơi sữa, …
Thành ngữ có chức năng như từ (định danh, tạo câu) nhưng cách diễn tả hình tượng,
biểu cảm hơn.
Ví dụ, so sánh các nhóm câu sau đây:
a ) Dáng điệu lừ đừ.
1
a2) Dáng điệu lừ đừ như ông từ vào đền.
a3) Dáng điệu lừ đừ như tàu điện.
b1) Con nít mà đòi khôn hơn người lớn. b2) Trứng đòi khôn hơn vịt.
b3) Trứng đòi khôn hơn rận.
c1) Nói với nó cũng vô ích. c2) Nói với nó cũng như nước đổ lá khoai.
c3) Nói với nó cũng như nước đổ đầu vịt.
c4) Nói với nó cũng như hốt cát vứt bụi tre.
Thành ngữ phản ánh đời sống xã hội, văn hoá mang đặc trưng dân tộc và cách tri nhận
thế giới đặc thù của một cộng đồng ngôn ngữ.
Thành ngữ được sử dụng nhiều trong khẩu ngữ, ngôn ngữ văn chương, chính luận, báo
chí. Thành ngữ làm cho lời văn, câu thơ trở nên hàm súc, cô đọng, lời ít ý nhiều. Ví dụ:
Bề ngoài thơn thớt nói cười
Mà trong nham hiểm giết người không dao
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Xét theo màu sắc phong cách, thành ngữ được chia ra hai loại là thành ngữ đa phong
cách và thành ngữ đơn phong cách.
Thành ngữ đa phong cách (trung hoà về phong cách): làm dâu trăm họ, sông cạn đá
mòn, một lòng một dạ, nhường dạ cơm sẻ áo, ghi lòng tạc dạ, ...
Thành ngữ đơn phong cách (thành ngữ chuyên phong cách):
122
+ Thành ngữ khẩu ngữ: lúng túng như gà mắc đẻ, bẻ nạng chống trời, ruột để ngoài
da, nhắm mắt xuôi tay, giật gấu vá vai, giấu đầu hở đuôi, dốt đặc cán mai,mồm miệng đỡ
chân tay, …
+ Thành ngữ văn chương: chim sa cá lặn, chôn nhau cắt rốn, chồng loan vợ phượng,
dùi mài kinh sử, động phòng hoa chúc, gác tía lầu son, quốc sắc thiên hương, say hoa đắm
nguyệt, thế thái nhân tình, thế gia vọng tộc, trăng thanh gió mát, trướng rủ màn che, yểu điệu
thục nữ,…
Xét theo góc độ cấu tạo ngữ nghĩa, người ta chia thành ngữ ra các loại sau :
+ Thành ngữ so sánh: chậm như rùa, nhát như thỏ đế, lúng búng như ngậm hột thị,
đủng đỉnh như chĩnh trôi sông, thin thít như thịt nấu đông, thẳng ruột ngựa, …
+ Thành ngữ ẩn dụ: chuột sa chĩnh gạo, chó có váy lĩnh, múa rìu qua mắt thợ, ăn vụng
không biết chùi mép, vẽ đường cho hưou chạy, …
+ Thành ngữ hoán dụ: cò bay thẳng cánh, lên xe xuống ngựa, ăn trắng mặc trơn, dựng
tóc gáy, …
+ Thành ngữ khoa trương: rán sành ra mỡ, đi guốc trong bụng, vắt chân lên cổ mà
chạy, mặt cắt không giọt máu, mặt búng ra sữa, …
Thành ngữ có thể được sử dụng nguyên vẹn hoặc biến đổi cho phù hợp với vần luật
của câu thơ hoặc ngữ khí của câu văn. Ví dụ:
Những là e ấp dùng dằng
Rút dây sợ nữa động rừng lại thôi.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Thấy tình cảnh nhà bác, tôi thật ái ngại. Nhưng thôi, sông có khúc, người có lúc,
mình cứ ăn ở hiền lành, rồi cũng có ngày trời mở cửa cho!
(Ngô Tất Tố, Tắt đèn)
Các nhà văn, nhà thơ, nhà hoạt động chính – xã hội cũng tạo nên những thành ngữ
mới, làm phong phú kho từ vựng của tiếng Việt và cách diễn đạt của tiếng Việt. Ví dụ:
Biết đâu chùa rách Phật vàng
Ai hay trong quán ẩn tàng kim luân.
(Nguyễn Đình Chiểu, Lục Vân Tiên)
BÀI TẬP
1. Tìm nhanh 29 thành ngữ có trong ô chữ sau và phân loại chúng theo màu sắc phong cách:
123
2. Phân tích tác dụng biểu đạt của thành ngữ trong các câu thơ sau của Truyện Kiều:
a/ Ra tuồng mèo mả gà đồng
Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào.
b/ Tẻ vui bởi tại lòng này
Hay là khổ tận đến ngày cam lai.
124
BÀI TẬP
Xác định từ ngữ địa phương trong các ví dụ sau và cho biết ý nghĩa biểu đạt của chúng:
a/ Chèo ghe sợ sấu cắn chưn
Xuống bưng sợ đỉa, lên rừng sợ ma.
(Ca dao)
b/ Anh về, em nắm vạt áo. em la làng
Biểu anh bỏ chữ thương chữ nhớ lại giữa đàng cho em.
(Ca dao)
c/ Trên bờ suối bây giờ chỉ còn lại năm bảy tên lính vừa nấu cơm vừa coi chừng chị. Bọn chúng ngồi
bên bếp lửa mới nhóm, ngó chị Sứ, kháo chuyện với nhau:
– Tụi mình không dễ dầu gì kiếm được một con vợ ngộ như con nhỏ này đâu!
– Ờ, đàn bà có nhan sắc mà theo Việt cộng, thiệt uổng!
Sứ nghe chúng nó nói, lấy làm khó chịu mà hơi tức cười. Chị làm thinh, ngước mắt nhìn ra
phía biển.
(Anh Đức, Hòn Đất)
d/ Biết tỏng rằng Cẩn là thằng em trai ngổ ngáo, bất trị, ham chơi, chẳng chịu học hành, nên mỗi khi
các anh của Út Cẩn về thăm mẹ già thường hay khuyên răn Cẩn bớt chơi bời mà phải lo học hành để
kiếm chút chữ nghĩa lận lưng sau này mới mong khấm khá. Mỗi lần như thế, Cẩn chỉ cười gằn rồi
đánh trống lảng sang chuyện khác, rồi tìm cách xăm xê đến bên mẹ già . Bà Anna Phạm Thị Thân là
chỗ dựa hiếu đễ che chắn cho Cẩn trước uy thế của các anh, nên mỗi khi như thế, Cẩn có cớ để kể
công với mọi người trong gia đình:
– Các anh đi hết. Tui phải lo thờ tự, chăm sóc mợ, thời gian, tiền bạc mô mà học. Nhà ni có
mấy anh học cao là đủ. Tui như ri là được rồi. Tui có muốn làm quan mô…
(Phan Bùi Bảo Thy, Thú vui của "bạo chúa miền Trung" Ngô Đình Cẩn, ANTG, 25/01/2013)
125
CHƯƠNG III
GIÁ TRỊ BIỂU ĐẠT CỦA CÁC PHƯƠNG TIỆN NGỮ PHÁP TIẾNG VIỆT
I. CÁC KIỂU CÂU PHÂN LOẠI THEO MÀU SẮC PHONG CÁCH
126
Kiểu câu “C – nó (họ/ người ta) – V” (“láy chủ ngữ”; “chủ ngữ giả” – Nguyễn Văn
Hiệp) là kiểu câu đặc trưng của khẩu ngữ, phục vụ cho cách diễn đạt có tính chất chêm xen,
láy lại thành phần của khẩu ngữ và khuynh hướng ngữ pháp thiên về đề thuyết. Ví dụ:
Cán bộ nó bảo người dân tộc thiểu số mình đừng trồng cây thuốc phiện nữa.
(Khẩu ngữ)
Vả lại, không nhân ngày giỗ bố, mà làm bữa tiệc cho thực linh đình, mời mọc cho thực
đông khách, (…) thì thế gian họ cũng cười cho.
(Nguyễn Công Hoan, Báo hiếu trả nghĩa cha)
Phải, làm cô đầu lại có con, thì ai người ta nuôi báo cô.
(Nguyễn Công Hoan, Người vợ lẽ bạn tôi)
+ Kiểu câu xưng hô “nói trống” (lược bỏ từ tự xưng của người nói, hoặc lược bỏ từ
hô gọi người nói; hoặc cả hai)
Ví dụ:
Chị Dậu chờ cho tan cơn ồn ào, mới dám rón rén bước lại nói với lý trưởng
– Thôi con lạy ông! Xin ông hãy tạm tha trói nhà con một lúc, để nhà con ký vào văn
tự, con mới có tiền đóng sưu.
Lý trưởng vẫn giận dữ:
– Đừng lằng nhằng! Trói cũng ký được. Không phải tha.
(Ngô Tất Tố, Tắt đèn)
Kiểu câu “nói trống” có tác dụng biểu cảm và bình giá. Kiểu câu này khi dùng giữa
những người ngang vai, thể hiện cách xưng hô tự nhiên, không khách sáo, có phần suồng sã;
khi dùng giữa những người khác vai, diễn tả thái độ bề trên, hách dịch, coi thường.
+ Kiểu câu “C thì C – V”
Tác dụng: nhấn mạnh chủ ngữ, có hàm ý điều kiện. Ví dụ:
Tôi thì tôi đếch cần những hạng người như thế đó.
+ Kiểu câu “C gì mà V”
Tác dụng: biểu lộ thái độ không đồng tình, sắc thái biểu cảm âm tính.
Con gái gì mà ngủ chương đến tận nửa buổi chưa chán mắt.
(Khẩu ngữ)
Gớm mồm với miệng gì mà toang toang như ngỗng đực.
(Nam Cao, Con mèo)
+ Kiểu câu “C – V thì (là) V”
Tác dụng: nhấn mạnh đề tài ở vị ngữ. Ví dụ:
Hắn học thì học thâu đêm suốt sáng nhưng thi rớt vẫn cứ rớt.
(Khẩu ngữ)
Tôi nói là nói người khác kia chứ nhà ông neo, tôi có trách gì ông ông đâu.
(Ngô Tất Tố)
BÀI TẬP
127
Xác định kiểu cấu trúc câu khẩu ngữ có trong các trường hợp sau:
a/ Lão hàng phở nó trả có bảy hào một cái.
QUYẾT ĐỊNH
Điều 1: (Nội dung quyết định) ….
Điều 2: (Nhiệm vụ thực hiện; quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) …
Điều 3: (Trách nhiệm thực hiện) …
Điều 4: (Hiệu lực của quyết định) …
129
BÀI TẬP
Gạch dưới câu thơ vắt dòng trong những đoạn thơ sau:
Mây lưng chừng hàng
Về ngang lưng núi.
Ngàn cây nghiêm trang
Mơ màng theo bụi
Hoa dại trên đồi.
(Xuân Diệu, Tiếng không lời)
Yêu ngẩn ngơ rồi đau xót xa,
Số anh là khổ, phận anh là
Suốt đời nuốt lệ vào trong ngực,
Đem ái tình dâng kẻ phụ ta.
(Xuân Diệu, Muộn màng)
Lẫn với đời quay, tôi cứ đi,
Người ngoài không thấu giữa lòng si.
Cũng như xa quá nên ta chỉ
Thấy núi yên như một miếng bìa.
(Xuân Diệu, Núi xa)
II. MỘT SỐ LOẠI CÂU (THEO CÁCH PHÂN LOẠI CỦA NGỮ PHÁP HỌC) CÓ MÀU SẮC
TU TỪ ĐẶC BIỆT
130
Ví dụ: Lược chủ ngữ và vị ngữ thuần tuý cấu trúc ngữ pháp (Đó là …), câu chỉ còn bổ
ngữ chỉ nội dung cần nhấn mạnh:
Như thế người ta gọi là nửa đùa nửa thật. Một cách lấp liếm cái ý định của mình
bằng cách nói toạc nó ra.
(Nam Cao, Một bữa no)
Tuy nhiên, tuỳ vào loại thành phần bị lược bỏ và trong những văn cảnh nhất định, câu
tỉnh lược còn có những tác dụng tu từ, biểu cảm khác.
Chẳng hạn, trong thơ, câu tỉnh lược chủ ngữ có tác dụng biểu thị tư tưởng, tình cảm,
cảm xúc nói đến trong câu là của chung nhiều người, của số đông chứ không phải của tác giả
hay của một cá nhân cụ thể nào (‘phi ngã”, “vô ngã”). Đây là đặc điểm chung của ngữ pháp
thơ ca cổ điển, khác với thơ mới. Ví dụ so sánh hai đoạn thơ sau:
Đêm qua ra đứng bờ ao, Tôi muốn tắt nắng đi
Trông cá, cá lặn, trông sao, sao mờ. Cho màu đừng nhạt mất.
Buồn trông con nhện chăng tơ, Tôi muốn buộc gió lại
Nhện ơi nhện hỡi, nhện chờ mối ai ? Cho hương đừng bay đi.
(Ca dao) (Xuân Diệu, Vội vàng)
BÀI TẬP
Hãy xác định thành phần bị tỉnh lược trong các câu văn lấy từ hai truyện ngắn “Dưới bòng
hoàng lan” và “Hai lần chết” của Thạch Lam:
Dưới bóng hoàng lan
a/ Con đã ăn cơm chưa?
– Dạ chưa. Con ở tàu về đây ngay. Nhưng con không thấy đói.
b/ Thanh cười:
– Có một tý đường đất, cần gì phải xe. Con đi bộ hàng ngày cũng được.
c/ Bao giờ anh lên tỉnh?
– Ngày mai thôi.
d/ Bà cụ vẫn không thôi phẩy chiếc phất trần lên đầu giường:
– Đã lâu không có ai nằm nên bụi bám đầy khắp cả.
e/ Thanh lắng nghe: một tiếng cười sẽ đưa lên. Tiếng ai? Nghe quen quá mà Thanh không nhớ được.
Hai lần chết
a/ Cha Dung chẳng làm gì cả. Từ xưa đến nay vẫn thế.
b/ Đây, áo mới của cô đây. Lấy ra mà thay, chứ ai lại ăn mặc rách rưới thế kia bao giờ.
c/ Bây giờ là người nhà tao rồi thì phải làm. Mấy trăm bạc dẫn cưới, chứ tao có lấy không đâu.
d/ Cô hãy còn mệt. Ngủ đi.
e/ Nhưng đời nào ! Trời có mắt chứ ! Đã dễ mà chết được.
Cây tre Việt Nam! Cây tre xanh, nhũn nhặn, ngay thẳng, thủy chung, can đảm. Cây
tre mang những đức tính của người hiền là tượng trưng cao quý của dân tộc Việt Nam.
(Thép Mới, Cây tre)
Làng quê đang thức dậy. Một tiếng gà gáy xa. Một ánh sao mai chưa tắt. Một chân
trời ửng đỏ phía xa. Một chút ánh sáng hồng trên mặt nước ruộng lúa lên đòng.
(Nguyễn Trung Thành, Đường chúng ta đi)
Câu đặc biệt có tác dụng bộc lộ cảm xúc, nhấn mạnh ý nghĩa tồn tại, xuất hiện của sự
vật, hiện tượng, thay đổi mạch văn.
Câu đặc biệt thường xuất hiện ở vị trí đầu hoặc cuối đoạn văn.
Từ chiều, lại bắt đầu trở rét.
Gió.
Mưa.
Não nùng.
Đường vắng ngắt. Chưa đến 8 giờ mà đường đã vắng ngắt. Thỉnh thoảng, những chiếc
xe cao-su kín mít như bưng, lép nhép chạy uể oải tia ra hai bên cánh gà hai dòng khói thuốc
lá.
(...)
Rồi anh run cầm cập, xếp thau, ôm đàn, cuốn chiếu, cầm gậy, đứng dậy, thong thả lần
lối đi.
Gió.
Mưa...
Não nùng.
(Nguyễn Công Hoan, Anh xẩm)
Khi câu đặc biệt xuất hiện thành một dãy liên tiếp, trùng điệp về cấu trúc thì tác dụng
biểu cảm – tu từ của nó được nhân lên gấp nhiều lần. Ví dụ :
“Người ta xúm lại, túm ngang lưng nó. Nó không chạy. Nhưng nó vẫn nhai, trợn mắt
lên để nuốt chửng. Rồi lại hấp tấp ngốn luôn miếng nữa.
Chửi. Kêu. Đấm. Đá. Thụi. Bịch. Cẳng chân. Cẳng tay. Như mưa vào đầu. Như
mưa vào lưng. Như mưa vào chân nó.”
(Nguyễn Công Hoan. Bữa no đòn)
Trong văn xuôi Việt Nam gần đây ở một số nhà văn trẻ có hiện tượng lạm dụng câu
đặc biệt để « làm dáng ».
133
III. GIÁ TRỊ BIỂU ĐẠT CỦA CÂU XÉT THEO ĐỘ DÀI
Xét theo số lượng âm tiết, người ta chia câu thành ba loại là câu ngắn, câu trung bình
và câu dài. Trong đó có hai loại câu đáng chú ý là câu ngắn và câu dài, vì trường độ của
chúng có những tác dụng tu từ – biểu cảm rõ nét.
Thông thường, câu có độ dài dưới 10 âm tiết là loại câu ngắn. Còn câu trên 30 âm tiết
là loại câu dài.
Văn phong của mỗi dân tộc, mỗi thời đại, mỗi loại hình phong cách và từng cá nhân
có sự khác nhau về xu hướng sử dụng câu dài hay ngắn.
Trong trang Web của Học viện báo chí BBC có nêu một nhận xét về cách hành văn
của người Việt Nam: «Có lẽ vì ảnh hưởng của văn chương lên văn hóa, tiếng Việt thường
chuộng những câu dài, bóng bẩy, chen vào rất nhiều từ Hán Việt. »
Và Học viện này có lời lời khuyên đối với ngôn ngữ đài phát thanh: «Bạn cần dùng
những câu văn ngắn, theo ngôn ngữ đời thường, để thính giả có thể hiểu ngay.»
134
Nói chung, ngôn ngữ báo chí cần phải ngắn. Ngôn ngữ chính luận thường dài.
1. CÂU NGẮN
«Câu ngắn thường có đặc điểm rõ ràng, sáng sủa, thích hợp với việc miêu tả những
hoạt động, những sự kiện dồn dập cùng xuất hiện. Âm điệu của câu ngắn mang tính chất khẩn
trương, mạnh mẽ. »
[Bùi Tất Tươm chủ biên, 1995, 231]
Ví dụ :
Đi đầu quân. Đi đầu quân
Tất cả cho tiền tuyến! Mau lên đi !
Hỡi các anh trai làng !
(Hoàng Việt, Lá xanh)
Câu ngắn thích hợp cho việc khẳng định hay phủ định một ý kiến nào đó trong văn
bản chính luận.
Trong văn xuôi tiếng Việt, nhà văn Nguyễn Công Hoan và Chủ tịch Hồ Chí Minh là
những người thích viết câu ngắn.
2. CÂU DÀI
«Câu dài thường có cấu trúc phức tạp, bao gồm nhiều thành phần câu, thích hợp với
việc miêu tả một khung cảnh rộng lớn, những suy tưởng, cảm xúc kéo dài, những độc thoại
trữ tình tha thiết. »
[Bùi Tất Tươm chủ biên, 1995, 231]
Câu dài có sức tải lớn, dùng để diễn tả những lý lẽ cần được trình bày cụ thể. Vì vậy
nó xuất hiện nhiều trong phong cách ngôn ngữ chính luận và phong cách ngôn ngữ khoa học.
135
PHẦN IV
CÁC PHÉP TU TỪ CỦA TIẾNG VIỆT
CHƯƠNG I
CÁC PHÉP TU TỪ NGỮ ÂM
Là những phép tu từ sử dụng chất liệu ngữ âm để tạo ra hiệu quả diễn đạt đặc biệt.
Những phép tu từ ngữ âm thường được sử dụng: tượng thanh, điệp thanh, điệp âm,
điệp vần, hài âm.
1. Khái niệm
Tượng thanh là phép tu từ mô phỏng âm thanh của thực tế bằng cách dùng những yếu
tố ngữ âm có dáng vẻ tương tự.
Gió đập cành tre khua lắc cắc
Sóng dồn mặt nước vỗ long bong.
(Hồ Xuân Hương, Hang cắc cớ)
2. Phân loại
Có hai loại: tượng thanh trực tiếp và tượng thanh gián tiếp.
136
137
1. Khái niệm
Điệp thanh là phép tu từ tạo ra sự trùng điệp âm hưởng bằng cách lặp lại thanh điệu
của âm tiết nhằm mục đích tăng sức biểu cảm cho câu thơ, câu văn. Ví dụ:
Tài cao phận thấp chí khí uất,
Giang hồ mê chơi quên quê hương.
(Tàn Đà, Thăm mả cũ bên đường)
2. Phân loại
1. Khái niệm
Điệp phụ âm đầu là phép tu từ tạo ra sự trùng điệp âm hưởng bằng cách lặp lại âm đầu
của ấm tiết nhằm mục đích tăng tính tạo hình và biểu cảm cho câu thơ. Ví dụ:
Những luồng run rẩy rung rinh lá
138
2. Phân loại
Có hai loại:
+ Trùng điệp phụ âm đầu
+ Điệp phụ âm đầu theo từng nhóm.
1. Khái niệm
Điệp vần là phép tu từ tạo ra sự trùng điệp âm hưởng bằng cách lặp lại những âm tiết
có phần vần giống nhau nhằm tăng sức biểu hiện và nhạc tính cho câu thơ.
Lá bàng đang đỏ ngọn cây
Sếu giang mang lạnh đang bay ngang trời
Mùa đông còn hết em ơi
Mà con én đã gọi người sang xuân!
(Tố Hữu, Tiếng hát sang xuân)
Điệp vần nhất thiết phải gắn với điệp nguyên âm, nhưng ngược lại thì không đúng.
Theo luật thơ, kiểu điệp vần này được gọi là điệp « vần liền » (vần gieo trong nội bộ
một câu thơ).
Tố Hữu là nhà thơ rất hay dùng hình thức điệp vần liền với nhiều kiểu khác nhau.
2. Phân loại
Có ba loại: (a) điệp vần móc xích, (b) điệp vần gián cách, và (c) điệp vần theo dãy
139
V. HÀI ÂM (EUPHONY)
Hài âm là phép tu từ sử dụng tổng hợp các yếu tố ngữ âm nhằm tạo nên sự phù hợp
giữa hiệu quả biểu hiện cảm xúc của hình tượng âm thanh với nội dung biểu hiện của câu thơ.
Phép tu từ hài âm còn được gọi là hài thanh.
Ví dụ
Đưa người, ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng
Bóng chiều không thẳm, không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
(Thâm Tâm, Tống biệt hành)
Trong đoạn thơ này có điệp thanh (Đưa người, ta không đưa qua sông; Sao đầy hoàng
hôn trong mắt trong?), điệp vần (tiếng sóng ở trong lòng; trong mắt trong), có tượng thanh
gián tiếp (thanh điệu của các tiếng thay đổi lên xuống phù hợp với nỗi lòng lúc trầm buồn, lúc
xốn xang, buồn lắng, suy tư).
BÀI TẬP
Xác định phép tu từ ngữ âm có trong các ví dụ sau và phân tích giá trị biểu đạt của phép tu từ
đó:
a/ Cả cuộc đời cha đi bộ đội
Quà về cho mẹ là mái tóc pha sương
140
141
CHƯƠNG II
CÁC PHÉP TU TỪ TỪ VỰNG – NGỮ PHÁP
Các phép tu từ từ vựng – ngữ pháp của tiếng Việt được chia làm 6 nhóm:
143
144
cách nhìn nào đó, người ta phát hiện một nét giống nhau, giữa chúng. Nét giống nhau ấy
được gọi là hạt nhân nội dung của phép so sánh tu từ tương đồng. Chính thông qua hạt nhân
này mà hai đối tượng A và B, vốn rất xa nhau, bỗng xích lại gần nhau mà soi tỏ cho nhau.
Một so sánh tu từ có nhiều giá trị biểu đạt phải bảo đảm được sự thống nhất giữa hai
tính chất đối lập: quen và lạ (A và B phải là những đối tượng quen biết của toàn dân tộc; còn
nét giống nhau giữa chúng phải là điều phát hiện lần đầu của nhà văn).
Cũng cần phân biệt tính tương đương và tính khái niệm của so sánh logic với tính
khoa trương và tính hình tượng của so sánh tu từ.”
[Nguyễn Nguyên Trứ 1988, 100-101]
Nói gọn lại, so sánh tu từ học khác so sánh logic ở ba yếu tố cơ bản sau:
+ Tính hình tượng
+ Tính biểu cảm
+ Tính dị loại (không cùng loại) của sự vật.
BÀI TẬP
1.Xác định cấu tạo của những so sánh tu từ có trong các ví dụ sau đây:
a/ Mùa xuân về trên rẻo cao đã làm nở những thứ hoa chỉ thơm ban đêm, kín đáo như nụ cười tình của
một cô gái Mèo.
(Nguyên Ngọc, Rẻo cao)
b/ Đừng viết những câu thơ khuôn mình theo văn phạm
Như cây quá thẳng chim không về.
(Chế Lan Viên, Sổ tay thơ)
c/ Người giai nhân: bến đợi dưới cây già
Tình du khách: thuyền qua không buộc chặt.
(Xuân Diệu, Lời kỹ nữ)
d/ Một giọng hát dân ca, ngân nga bát ngát như cánh cò trên đồng lúa miền Nam chạy tới chân trời,
có lúc rụt rè e thẹn như khoé mắt người yêu mới gặp, có lúc tinh nghịch duyên dáng như những đôi
chân nhỏ thoăn thoắt gánh lúa chạy trên những con đường làng trộn lẫn bóng tre và bóng nắng.
(Nguyễn Trung Thành, Đường chúng ta đi)
e/ Hồn anh như hoa cỏ may
Một chiều gió cả bám đầy áo em.
(Nguyễn Bính, Hoa cỏ may)
f/ Lòng ta trống lắm, lòng ta sụp
Như túp nhà không bốn vách xiêu
(Xuân Diệu, Bên ấy bên này)
2. Phát hiện và phân tích những điểm đắc sắc (về cấu trúc, hính ảnh so sánh, ý nghĩa bình giá,...)
của những so sánh tu từ trong những câu sau:
a/ Cái đĩ ngượng quá, duỗi cổ ra, trợn mắt, nuốt vội mấy miếng cơm còn lại như một con gà con nuốt
nhái.
(Nam Cao, Một bữa no)
b/ Trên kia, trăng nhởn nhơ như một cô gái non vừa mới có nhân tình.
(Nam Cao, Trăng sáng)
146
c/ Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc,
lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường.
Tôi không thể nào quên được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cành hoa
tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng.
(Thanh Tịnh, Tôi đi học)
d/ Trời thì cay nghiệt như một bà già thiếu ăn ngay từ lúc còn thơ.
(Nam Cao, Trẻ con không được ăn thịt chó)
e/ Buổi diễn thuyết người đông như hội,
Kỳ bình văn khách đến như mưa.
(Thơ văn Đông kinh nghĩa thục)
f/ Xuân là lúc gió về không định trước.
Đông đang lạnh bỗng một hôm trở ngược,
Mây bay đi để hở một khung trời
Thế là xuân. Ngày chỉ ấm hơi hơi,
Như được nắm một bàn tay son trẻ...
(Xuân Diệu, Xuân không mùa)
g/ Con người không có tình yêu
Như trái đất này không có lá
(Lâm Thị Mỹ Dạ, Như lá)
h/ Mẹ! Cao - Lạng hoàn toàn giải phóng
Tây bị chết bị bắt sống hàng đàn
Vệ quốc quân chiếm lại các đồn
Người đông như kiến, súng dày như củi.
(Nông Quốc Chấn, Dọn về làng)
i/ Còn Hồ Dzếnh là “giọng kể chân thật, từ tốn với rất nhiều thương cảm xót xa. Mỗi câu chuyện như
một tiếng thở dài, như một niềm tự vấn day dứt khôn nguôi.
(Trần Hữu Tá).
k/ Buồn như giọt máu
(Trịnh Công Sơn, Lặng lẽ nơi này)
l/ Tựa một quan toà, cái dạ dày tuy lặng lẽ nhưng vẫn nêu lên những câu hỏi.
(Tục ngữ Nga)
m/ Lá phong đỏ như mối tình đượm lửa
Hoa cúc vàng như nỗi nhớ day dưa
Làn nước qua ánh mắt ai đưa
Cơn gió đến bàn tay em vẫy
(Tế Hanh, Bài thơ tình ở Hàng Châu)
3. Trong các ví dụ sau đây, đâu là so sánh tu từ, dâu là so sánh logic?
a/ Lúc ở nhà mẹ cũng là cô giáo Khi tới trường, cô giáo như mẹ hiền.
(Lời bài hát)
b/ Chao ôi, có ai thích xòe đã nghe thấy cái tiếng thở dài ấy của bà mẹ Thái nó buồn hơn cả cái tiếng
vật mình của cối nước giã gạo đêm.
(Nguyễn Tuân, Xoè)
c/
Anh và em cổ xưa như biển cả
147
3/ Những so sánh sau đây là đối tượng nghiên cứu từ vừng học hay của tu từ học?
Mặt xanh như tàu lá
Nhanh nhu sóc
Chậm như rùa (sên)
Tối như hũ nút
Gan cóc tía
II. ẨN DỤ (METAPHOR)
1. Khái niệm
Ẩn dụ (so sánh ngầm, ví ngầm) là phép tu từ xây dựng cơ sở trên một phép so sánh tu
từ được hiểu ngầm.
Ai làm cho bướm lìa hoa
Cho chim xanh nỡ bay qua vườn hồng.
(Ca dao)
Bướm, chim xanh → chàng trai
Hoa → cô gái
Vườn hồng → trái tim, tình cảm của người con gái.
2. Cấu tạo
Chỉ có một vế B (hình ảnh so sánh), đối tượng muốn nói tới (vế A) vắng mặt, phải suy
luận mới hiểu.
Ẩn dụ tu từ biểu hiện kín đáo, ý vị hơn so sánh tu từ.
3. Phân loại
3.1. Căn cứ vào đặc điểm cụ thể hay trừu tượng của đối tượng so sánh và vật so sánh
3.1.1. Ẩn dụ cụ thể → cụ thể
Có quán tình phụ cây đa
Ba năm quán đổ cây đa vẫn còn.
(Ca dao)
3.1.2. Ẩn dụ cụ thể → trừu tượng
Gìn vàng giữ ngọc cho hay
Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Vàng, ngọc → thân thể, phẩm hạnh.
3.1.3. Ẩn dụ trừu tượng → cụ thể
Ví dụ:
3.1.4. Ẩn dụ trừu tượng → trừu tượng
Ví dụ:
148
3.2. Căn cứ vào nét tương đồng giữa đối tượng so sánh và vật so sánh [Cù Đình Tú 2001,
180-181]
3.2.1. Ẩn dụ hình thức
3.2.2. Ẩn dụ cấu trúc
3.2.3. Ẩn dụ chức năng
3.2.4. Ẩn dụ tính chất
Tay bưng chén muối đĩa gừng,
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau.
(Ca dao)
3.2.5. Ẩn dụ hoạt động
Liệu bề đát được thì đươn
Đừng gầy rồi bỏ thế thường cười chê.
(Ca dao Nam Bộ)
... ...
Kết quả phân loại là một hệ thống mở.
3.3. Căn cứ vào từ loại và chức năng của từ [Đinh Trọng Lạc 1999, 244-246]
3.3.1. Ẩn dụ định danh
Là loại ẩn dụ cung cấp tên gọi mới cho từ vựng, còn gọi là ẩn dụ từ vựng (ẩn dụ chết –
dead metaphor). Ví dụ: ruột bút, tay ghế, cổ lọ, má phanh, ...
Quan điểm của giáo trình: Đây không phải là đối tượng nghiên cứu của Phong cách
học.
3.3.2. Ẩn dụ nhận thức
Là loại ẩn dụ chuyển nghĩa từ cách dùng cụ thể sang trừu tượng. Ví dụ: tâm hồn giá
lạnh, tuổi xuân mơn mởn, dòng sông hiền hoà, lịch sử sang trang, thời gian lên tiếng, ...
Loại ẩn dụ này còn gọi là ẩn dụ tri nhận (cognitive metaphor) hoặc ẩn dụ ý niệm
(conceptual metaphor) hiện nay được nghiên cứu rất kỹ trong Ngôn ngữ học tri nhận
(Cognitive linguistics).
3.3.3. Ẩn dụ hình tượng
Là loại ẩn dụ tạo ra những từ ngữ đồng nghĩa hình tượng, biểu cảm trong sáng tạo của
cá nhân nhà văn, nhà thơ. Ví dụ:
Nàng rằng khoảng vắng đêm trường
Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
hoa → người tình hào hoa, phong nhã.
Loại ẩn dụ này là đội tượng nghiên cứu chủ yếu của tu từ học truyền thống.
4. Tác dụng
Ẩn dụ là cách định danh sự vật bằng hình ảnh, in đậm dấu vết chủ quan của người
dùng. Quy luật biểu hiện của ẩn dụ là “lấy xa để nói gần, lấy vòng nói thẳng, lấy kín nói hở,
lấy ít nói nhiều” (Lê Anh Hiền). Các ẩn dụ đẹp thường làm bùng nổ nhiều liên tưởng ngữ
nghĩa kỳ thú cho người đọc, người nghe. Ví dụ:
149
Anh chị em thân mến, sau Đức Giáo hoàng vĩ đại Gioan Phaolô II, các Hồng y đã
chọn tôi, một người làm công đơn sơ và khiêm nhường trong vườn nho của Chúa.
(Hồng Y Ratzinger, Lời phát biểu nhậm chức Giáo hoàng)
Ẩn dụ được dùng nhiều trong các phong cách ngôn ngữ văn chương, chính luận, báo
chí, khẩu ngữ.
Ví dụ trong văn chính luận:
“Đặng Tiểu Bình không phải là Chu Ân Lai, tác phong của ông khác Chu Ân Lai,
Chu Ân Lai chú ý sách lược, làm cho mình có thể dừng trên mặt nước, nhưng
không thể thay đổi phương hướng chủ yếu của dòng nước chảy xiết. Đặng Tiểu Bình lại
không thuận theo dòng nước xiết, mà là lập tức đắp đập ngăn dòng nước ấy lại.”
(Pa-ra-xi Đa-nây-si, Đặng Tiểu Bình)
Sức mạnh chủ yếu của ẩn dụ (ẩn dụ truyền thống) là biểu cảm.
Ẩn dụ là một phép tu từ đặc biệt quan trọng trong diễn đạt (ẩn dụ tu từ) và trong nhận
thức về thế giới (ẩn dụ tri nhận).
5. Lưu ý
5.1. Ẩn dụ từ vựng (ẩn dụ chết – dead metaphor) và ẩn dụ tu từ (ẩn dụ sống – live metaphor)
+ ruột bút, lòng sông, chân trời, tâm bão, ...
+ Đất nước Việt Nam chìm trong bóng đêm kéo dài hàng thế kỉ, bỗng bừng lên buổi
bình minh của thời đại.
(Lê Duẩn)
5.2. Ẩn dụ tu từ và ẩn dụ tri nhận (cognitive metaphor)
BÀI TẬP
1. Gạch dưới những từ ngữ là ẩn dụ và cho biết dựa vào đâu để anh (chị) khẳng định được như
vậy:
a/ Nếu cuộc sống là bông hoa thì tình yêu là mật ngọt ở trong đó.
(Vitor Huygo)
b/ Hắn đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời.
(Nam Cao, Chí Phèo)
c/ Bà lão, bị những lời tàn nhẫn ấy hắt vào mặt, quả nhiên không còn nói sao được nữa.
(Nam Cao, Một bữa no)
d/ Ta đẻ ra đời, sao khỏi những cơn đau?
Hãy biết ơn vị muối của đời cho thơ chất mặn!
(Chế Lan Viên, Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng)
e/ Thanh đi trở vào rất thong thả. Có cái gì dịu ngọt chăng tơ ở đâu đây, khiến chàng vương phải.
Chàng đến trường kỷ ngồi ở bên đèn.
(Thạch Lam, Dưới bóng hoàng lan)
f/ Em tưởng nước giêng sâu em nối sợi dây gầu dài
Ai ngờ nước giếng cạn, cứ tiếc hoài sợi dây!
150
(Ca dao)
g/
Cơn bão nghiêng đêm
Cây gãy cành bay lá
Ta nắm tay em
Qua đường cho khỏi ngã
151
2. Tác dụng
Là hình tượng nghệ thuật gợi nên những cảm giác lạ lùng thú vị vì như có thể cảm
nhận được đối tượng một cách trực giác, cụ thể, có hình khối, màu sắc, mùi vị, âm thanh,
trọng lượng, ... Ví dụ:
Chiều chúa nhật buồn
Nằm trong căn gác đìu hiu
Ôi tiếng hát xanh xao của một buổi chiều
Trời mưa, trời mưa không dứt
Ô hay mình vẫn cô liêu
(Trịnh Công Sơn, Lời buồn thánh)
3. Lưu ý
Phân biệt ẩn dụ bổ sung tu từ với những ẩn dụ bổ sung từ vựng.
Ví dụ ẩn dụ bổ sung từ vựng:
Hôm nay thấy trời lạnh quá.
(Khẩu ngữ)
Thị giác → xúc giác
152
153
leo lên chân, kính đổ mồ hơi, mặc dù kính làm gì có tuyến mồ hôi – tất cả những cái đó làm
cho thiên nhiên dường như dễ hiểu hơn đối với chúng ta và chúng ta gọi đó là nhân hóa”
Nhân hoá làm cho thế giới đồ vật, loài vật trở nên sinh động, gần gũi. Ví dụ:
Con gà cục tác lá chanh,
Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi.
Con chó khóc đứng khóc ngồi,
Mẹ ơi đi chợ mua tôi đồng riềng.
(Ca dao)
Phần lớn các nhân hoá đều nhuốm màu sắc biểu cảm. Nhân hoá là một trong những
cách thức để biểu lộ tình cảm của con người.
Nhân hoá có khi là một cách thức gửi gắm ngụ ý về những điều của thế giới loài
người:
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
(Xuân Diệu, Vội vàng)
Trong văn chính luận, nhân hoá làm cho cách diễn đạt sinh dộng, di dỏm hơn.
Khi rượu vào thì sự khiêm tốn đội nón ra đi.
(Tục ngữ Italy)
Nhân hoá thường được sử dụng nhiều trong thơ văn thiếu nhi, văn phổ biến khoa học.
Tô Hoài (“Dế Mèn phiêu lưu kỳ”) và Trần Đăng Khoa (“Góc sân và khoảng trời”) là hai tác
giả sử dụng rất thành công phép nhân hoá trong văn chương tiếng Việt hiện đại.
Phép nhân hoá của người Việt thiên về nhân hoá loài vật, sự vật, ít sử dụng loài nhân
hoá khái niệm.
BÀI TẬP
Trong các ví dụ sau, từ ngữ nào được sử dụng theo cách nhân hoá? Xác định loại nhân hoá và
phân tích tác dụng biểu đạt của chúng:
a/ Những tàu chuối nằm ngửa, ưỡn cong lên, hứng lấy trăng xanh rười rượi như là ướt nước. Thỉnh
thoảng bị gió lay lại giãy lên đành đạch như là hứng tình.
(Nam Cao, Chí Phèo)
b/ Cõi đời ơi khi tôi đã chết rồi,
Thì trong vắng lặng của Người
Chỉ một lời này còn lại:
“Tôi đã từng yêu”.
(Tagore, Những con chim bay lạc – 277)
c/ Tôi, con đường quê nhỏ chạy lang thang,
Kéo nỗi buồn không dạo khắp làng.
Đến cuối thôn kia hơi cỏ vướng
Hương đồng quyến rũ hát lên vang.
(Tế Hanh, Lời con đường quê)
d/ Khi vận rủi gõ cửa thì bạn bè đều ngủ cả.
(Tục ngữ Ba Lan)
e/ PHƯƠNG TRÌNH SUY NGHĨ DÙM CHÚNG TA
154
Nếu bạn không tin rằng một phương trình lại có thể tiên đoán giỏi hơn cả chúng ta, xin bạn
hãy giải bài toán sau :
Một người cha 32 tuổi, con trai ông ta được 5 tuổi. Trong bao nhiêu năm nữa tuổi của cha
sẽ gấp mười lần tuổi con ?
Gọi x là số năm phải tìm.
Trong x năm, tuổi người cha sẽ là 32 + x và số tuổi con là 5 + x. Ta có phương trình :
32 + x = 10 (5+x) hay x = –2
“Trong 2 năm” có nghĩa là “đã hai năm”. Khi đặt phương trình, ta không ngờ được rằng
trong tương lai tuổi của của cha sẽ không bao giờ gấp 10 lần tuổi con ; một tỉ số như vậy chỉ có thể
tồn tại trong quá khứ. Phương trình đã tỏ ra chín chắn hơn chúng ta và đã vạch cho chúng ta thấy sai
lầm của mình.
(Y. Pérelman, Đại số vui)
f/ Có ai thấy con gà mái, con gà mái kiếm thóc nơi đâu
Mà sao con gà trống gáy, tiếng gáy khô khan buồn vấn than
Lỡ làng bầy đàn, ly tan phũ phàng thân gà trống mang
Cục ta cục tác... Cục ta cục tác... nhếch nhác nhếch nhác tội nghiệp gà con
Thương con thương con biết sao cho tròn
Thương con cho nên gà trống nuôi con
Thương con thương con Cố sao cho tròn
Thương con nuôi con héo hon mỏi mòn
Rồi khi gà gáy ò ó o...
Khô khan buồn oán than ò ó o
Nghe như lời khóc than
Buồn con gà mái, phụ nghĩa quên tình, chỉ sống cho mình ...
(Lời bài hát. Trần Anh Khôi, Gà trống)
g/
Một sớm lên đường
Mẹ ra sau vườn
Hỏi thăm trái bí
Trên giàn còn xanh
Một sớm đã về
Dừng chân phố thị
Mẹ ôm trái bí
Mắt còn ngẩn ngơ
BÀI TẬP
156
Xác định kiểu vật hoá và phân tích sắc thái biểu cảm của nó:
a/ Con Cún thương của mẹ ơi! Ngoan đi nào, rồi mẹ cho con bú nhé!
(Khẩu ngữ)
b/ Gái chính chuyên lấy được chín chồng
Vo viên bỏ lọ, gánh gồng đi chơi.
Ai ngờ quang đứt, lọ rơi
Bò ra lổm ngổm, chín nơi chín chồng.
(Ca dao)
c/ Tôi rùng mình nghĩ đội tôi là đội trọng điểm, nên cán bộ xã, hợp tác xã, vón cục cả về đây. Họ sẽ gõ
cho ra chục tấn thóc còn tồn sổ.
(Phùng Gia Lộc, Cái đêm hôm ấy... đêm gì?)
157
Nội dung sâu xa của phúng dụ được gửi gắm dưới hình thức miêu tả và người đọc phải
ngẫm nghĩ để giải mã lời khuyên, câu chuyện đó và nhận được một bài học thấm thía về triết
lý nhân sinh, về xã hội, về lối sống, về quan niệm đạo đức, ...
Mở cửa cho người vào thì ruồi muỗi cũng vào theo.
(Tục ngữ Trung Quốc)
Khi con lừa của ông quan toà chết, mọi người đều đi đưa đám; khi bản thân ông quan
toà chết chẳng có ai đưa tang.
(Tục ngữ A-rập)
Phúng dụ thương được sử dụng trong ngôn ngữ văn chương và ngôn ngữ chính luận.
BÀI TẬP
Phân tích những từ ngữ cần thiết để chứng minh các ví dụ sau đây là phúng dụ:
a/ Nếu bạn ở bên sông thì phải tử tế với cá sấu.
(Tục ngữ Ấn Độ)
b/ Với nhiều bàn tay, thuyền sẽ được chèo lên núi.
(Tục ngữ Nhật Bản)
c/ Người ta đốn cây để làm cán rìu.
(Tục ngữ Ru-ma-ni)
d/ Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
(Ca dao)
BÀI TẬP
1. Cho biết đâu là định ngữ nghệ thuật và chứng minh quan điểm của mình:
a/ Một cái ngã tư đông đặc căm thù.
(Nguyễn Tuân)
b/ Nắng thơ dệt sáng trên tà áo,
Lá nhỏ mừng vui phất cửa ngoài.
(Huy Cận, Áo trắng)
159
161
4. Tác dụng
Tác dụng chủ yếu của hoán dụ là nhận thức. Hoán dụ khắc hoạ, nhấn mạnh một thuộc
tính, dấu hiệu nổi bật, quan trọng, độc đáo nào đó (từ góc nhìn của người nói) về đối tượng
miêu tả. Vì thế hoán dụ đem lại sự mới lạ về cách gọi tên, một nhận thức mới mẻ, mang nhiều
ý nghĩa khám phá về đối tượng.
Hoán dụ là một nhãn hiệu đặc tả về sự vật, hiện tượng.
Tuỳ theo việc chọn lựa dấu hiệu, thuộc tính tích cực, trung tính hay tiêu cực của đối
tượng miêu tả khi xây dựng phép hoán dụ mà sắc thái biểu cảm của hoán dụ sẽ là dương tính,
trung hoà hay âm tính.
So sánh: Này tóc quăn ơi! Lại đây tớ bảo!
mũi tẹt
Hoán dụ được sử dụng nhiều trong khẩu ngữ và ngôn ngữ văn chương.
5. Lưu ý
5.1. Phân biệt hoán dụ tu từ (metonymy) và hoán dụ từ vựng (lexical metonymy)
Hoán dụ từ vựng (lexical metonymy) là một phương thức chuyển nghĩa của từ đa
nghĩa dựa vào mối tương quan lôgic giữa hai sự vật, đối tượng. Nghĩa mới do hoán dụ từ
vựng tạo ra hầu hết mọi người đều biết, đều hiểu và sử dụng. Nghĩa mới này cũng được ghi
trong từ điển, trở thành vốn tài sản chung của cộng đồng ngôn ngữ. Hoán dụ từ vựng không
có tính chất mới mẻ, sáng tạo, bất ngờ.
+ Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay. → Đó là một tay ghi-ta cực giỏi.
+ Mùa xuân về, hoa khoe sắc nở. → Đã hai mươi mùa xuân trôi qua trên mái tóc
xanh của nàng.
Hoán dụ tu từ (metonymy) là một phép tu từ lâm thời chuyển đổi tên gọi của đối tượng
này sang cho đối tượng khác dựa trên quan hệ lôgic giữa hai đối tượng. Đây là một sáng tạo
mới, có tính chất cá nhân của người sử dụng ngôn ngữ gắn liền với một văn cảnh cụ thể.
5.2. Phân biệt ẩn dụ tu từ (metaphor) và hoán dụ tu từ (metonymy)
+ Ví dụ ẩn dụ tu từ:
Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng loà.
(Nguyễn Đình Thi, Đất nước)
+ Ví dụ hoán dụ tu từ:
Sói không sợ chó chăn cừu mà sợ sợi dây xích của nó.
(Tục ngữ Nga)
Sợi dây xích → tình trạng bị giam cầm, mất tự do, nô lệ.
Giống: chỉ có một vế: cái để biểu thị (B). Vế còn lại: cái được biểu thị (A) vắng mặt.
Khác: quan hệ giữa B và A
+ Ẩn dụ: quan hệ tương đồng (giống nhau)
+ Hoán dụ: quan hệ tương cận (lôgic, khách quan, gần gũi, có thực).
162
IV. CẢI SỐ
BÀI TẬP
1.Xác định kiểu hoán dụ có trong các câu sau đây và phân tích tác dụng biểu đạt:
a/ Súng đẻ ra chính quyền. (Chính quyền đẻ ra từ đầu họng súng).
(Mao Trạch Đông)
b/ Một lời nói dối sám hối bảy ngày.
(Tục ngữ)
c/ Một ngày tựa mạn thuyền rồng
Còn hơn cả kiếp nằm trong thuyền chài.
(Ca dao)
d/ Khi riêng tây, ta thấy mình xấu hổ
Khi nhìn đời, mỗi lá tơ non
Khi uống ngụm nước trong
lưỡi ta không còn đắng chất thị thành
Đời tươi mát như ao sen mùa hạ
Anh em bốn bên mà ta ở giữa..
(Chế Lan Viên, Người thay đổi đời tôi – Người thay đổi thơ tôi)
e/ Anh kia nhà dột cột xiêu
Không đi lấy vợ, sợ nhiều miệng ăn.
(Ca dao Nam Bộ)
f/ Nếu nói với một viên chức nhà nước thì bạn phải nói bằng đồng rúp.
(Tục ngữ Nga)
g/ Người thiếu nụ cười trên môi thì không nên mở cửa tiệm buôn bán.
(Tục ngữ Trung Quốc)
h/ Nó sinh ra đã là một cô bé xấu xí nên mười bảy mùa tám tháng ba qua đi rồi mà nó vẫn chưa một
lần được nhận một món quà đặc biệt hay sự quan tâm của một người bạn khác giới nào.
(Bài viết của SV)
i/ Xa nhau chỉ một mái chèo
Mà đi trăm núi vạn đèo tới đây
Xiết tay ôm chặt lấy tay
Nói gì, nước mắt tràn đầy đôi môi.
(Thanh Hải, Tám năm nay mới gặp nhau)
2. Trong các câu thơ sau đây, đâu là ẩn dụ từ vựng (hoặc hoán dụ từ vựng), và đâu là ẩn dụ tu
từ (hoặc hoán dụ tu từ)?
a/ Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
(Viên Phương, Viếng lăng Bác)
163
C. NHÓM PHÁI SINH (TỪ LIÊN TƯỞNG TƯƠNG ĐỒNG VÀ TƯƠNG CẬN)
I. TƯỢNG TRƯNG (SYMBOLISM)
1. Khái niệm
Tượng trưng là những ẩn dụ tu từ, hoán dụ tu từ có tính chất ước lệ xã hội.
Ví dụ: bồ câu → hoà bình; búa liềm → liên minh công nông; Thành đồng Tổ quốc →
miền Nam anh dũng, bất khuất.
Cơ sở của tượng trưng là các ẩn dụ, hoán dụ được dùng đi dùng lại nhiều lần, trở nên
quen thuộc.
Nghĩa của tượng trưng mang tính tập thể, quen thuộc với nhiều người cùng chung một
bối cảnh văn hoá. Khi tách khỏi văn cảnh, tượng trưng vẫn còn những giá trị nhất định vì đó
là một “kiểu hình tượng hoá một đối tượng của xã hội” [Cù Đình Tú & NTG 1982, 166].
2. Phân loại
Có hai loại.
2.1. Tượng trưng là ẩn dụ
Thương thay thân phận con rùa
Lên đình đội hạc, xuống chùa đội bia.
(Ca dao)
con rùa → người nông dân thân phận thấp hèn, bị đày ải và cam chịu.
2.2. Tượng trưng là hoán d
Ðứng lên, thân cỏ, thân rơm
Búa liềm không sợ súng gươm bạo tàn !
(Tố Hữu, Ba mươi năm đời ta có Đảng)
164
Có một lần bác Ba Phi trèo lên một cây tràm lấy mật ong, bác rủi trật tay té bảy
ngày mới tới đất. Cây cao quá xá! Khi rơi bác đói bụng quá, cứ ngày phải nấu cơm ăn hai
bữa rồi lại té tiếp.
Một bữa khác, trời nắng, bác xuống một cái bàu tắm, giặt áo phơi ngay trên gạc một
con nai mà không hay. Bác ngủ một giấc, khi dậy thì thấy một tổ ong đóng dưới bắp chân.
Ăn hết ổ ong mật đó đến nửa chừng, bác mới lấy áo mặc ra về. Con nai lúc đó mới vùng chạy
và áo của bác phơi trên gạc nai cũng vừa khô.
(Truyện Bác Ba Phi)
2. Cấu tạo
Khoa trương được diễn tả bằng hình ảnh miêu tả có tính chất cường điệu, phóng đại.
Khoa trương chỉ có một vế: vế hình ảnh miêu tả (B). Vế nội dung cần nói tới, cần nhấn
mạnh (A) ẩn đi, phải ngẫm nghĩ mới hiểu.
Khoa trương thường được biểu hiện qua hình thức so sánh phóng đại hoặc một sự
miêu tả phi thực.
3. Phân loại
Xét theo phương diện được phóng đại của đối tượng, chúng ta có các loại hai khoa
trương cơ bản sau đây:
3.1. Khoa trương quy mô, kích thước của sự vật, hiện tượng
Con rận bằng con ba ba
Nửa đêm nó ngáy cả nhà thất kinh.
Hàng xóm vác gậy đi rình
Té ra con rận trong mình bò ra.
(Ca dao)
3.2. Khoa trương tính chất, đặc điểm của sự vật, hiện tượng
Nói ngọt lọt đến xương.
(Tục ngữ)
Nghe đồn bác mẹ anh hiền,
Cắn cơm không bể, cắn tiền bể hai.
(Ca dao)
4. Tác dụng
Khoa trương có tác dụng nhận thức, tác dụng biểu cảm và gây ấn tượng.
Cách diễn tả khác thường, nhiều khi rất vô lý của phép khoa trương gây sự chú ý, tạo
ra sức hấp dẫn đặc biệt.
Tên lửa của chúng tôi có thể bắn trúng mắt một con ruồi bay trong vũ trụ.
(Nhikita Khrushôp, Tổng Bí thư ĐCS Liên Xô, trả lời phóng viên phương Tây, 1961)
Khoa trương được dùng nhiều trong sử thi, anh hùng ca, thơ văn trữ tình, thơ văn
châm biếm, trào phúng.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
(Nguyễn Trãi, Bình Ngô đại cáo)
165
Khoa trương cũng hay được dùng trong khẩu ngữ tiếng Việt.
Nghe hắn ninh sượng cả mặt.
(Khẩu ngữ)
Làm mửa mật vẫn không xong.
(Khẩu ngữ)
BÀI TẬP
Phân tích ý nghĩa nhận thức và sắc thái biểu cảm của phép khoa trương trong các câu sau đây:
a/ Rượu ngon cái cặn cũng ngon,
Thương em bất luận chồng con mấy đời.
(Ca dao)
b/ Hoa thơm thơm lạ thơm lùng,
Thơm gốc thơm rễ người trồng cũng thơm.
(Ca dao)
c/ Gặp nhau chưa kịp hỏi chào
Nước mắt đã trào rơi xuống bỏng tay
(Ca dao)
d/ Bà già tuổi tám mươi tư
Ngồi bên cửa số viết thư lấy chồng
(Ca dao)
e/ Đơn Hà thiêu mộc Phật Đơn Hà đốt Phật gỗ
Viện chủ lạc tu mi Viện chủ rụng râu mày
Nhất trường kỳ đặc sự Một trường hợp hiếm thấy
Thiên hạ thiếu nhân tri Thiên hạ ít người hay
(Vô danh) ( Ngô Tất Tố dịch)
g/ Bắc phương hữu giai nhân Phương Bắc có người đẹp,
Tuyệt thế nhi độc lập Đẹp tuyệt thế mà còn đơn chiếc,
Nhất cố khuynh nhân thành Quay nhìn một lần làm nghiêng thành,
Tái cổ khuynh nhân quốc Quay nhìn lần hai thì nghiêng nước.
Ninh bất tri khuynh nhân thành dữ Thà là không biết cái đẹp khuynh thành
khuynh nhân quốc khuynh quốc.
Giai nhân nan tái đắc Người đẹp khó gặp đến hai lần.
(Cổ thi)
168
V. NHÃ NGỮ
1. Khái niệm
Tên gọi khác: khinh từ, nói tránh.
Nhã ngữ là phép tu từ dùng những từ ngữ nhã nhặn, lịch sự thay thế cho những từ ngữ
thô lỗ, khó nghe.
Nhã ngữ là một biến thể của phép uyển ngữ.
Ông lại nhìn trước nhìn sau lần nữa. Lần này kỹ càng hơn. Rồi cả quyết, ông vén một
ống quần lên. Rồi rất sung sướng, rất hể hả, cũng rất hồi hộp nữa, ông làm cái việc giải thoát
cho bong bóng...
(Nam Cao)
làm cái việc giải thoát cho bong bóng → đi tiểu (đái)
Thuyền tình vừa ghé tới nơi
Thì đà trâm gãy bình rơi bao giờ.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
trâm gãy bình rơi → chết
2. Cấu tạo
Nhã ngữ được cấu tạo dựa trên hoán dụ (ví dụ 1) hoặc ẩn dụ (ví dụ 2).
3. Phân loại
Xét theo đề tài, trong tiếng Việt, chúng ta thường gặp 2 loại nhã ngữ sau:
3.1. Nhã ngữ nói về cái chết
Tiếng Việt rất phong phú loại nhã ngữ về đề tài cái chết.
Kiếp hồng nhan có mong manh
Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
3.2. Nhã ngữ nói về hoạt động sinh lý, quan hệ nam nữ
Tiếc thay một đóa trà mi
Con ong đã tỏ đường đi lối về.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
4. Lưu ý
Phân biệt nhã ngữ tu từ và nhã ngữ từ vựng.
Nhã ngữ từ vựng:
nhà vệ sinh, toa-lét → chuồng (hố) xí, chuồng tiêu
đại tiện (đi cầu, đi đồng) → ỉa,
tiểu tiện (xả bầu tâm sự) → đái
sản phẩm loại 2 (thứ phẩm) → sản phẩm xấu, kém chất lượng
tham ô của công → ăn cắp tài sản của nhà nước
tình hình chưa có công ăn việc làm → nạn thất nghiệp
những tồn tại cần khắc phục → những thiếu sót, yếu kém
169
BÀI TẬP
1. Xác định từ ngữ thể hiện phép nhã ngữ và phân tích giá trị biểu đạt:
a/ Về đây nước trước bẻ hoa
Vương tôn quý khách ắt là đua nhau.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
b/ Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
(Quang Dũng, Tây Tiến)
2. Hãy điền vào những chỗ còn thiếu trong phần văn bản tiếp dưới :
Phép nói giảm nói tránh được cấu tạo theo một số cách cơ bản sau đây:
1. Vay mượn từ ngữ của các ngôn ngữ khác vì các từ ngữ vay mượn ít có liên tưởng xấu, thô
tục. Ví dụ, dùng từ ngữ Hán Việt thay cho từ ngữ thuần Việt như “thi hài” thay cho “xác chết”, “thổ
huyết” thay cho “ … … ”, “lâm chung” thay cho “ … … ”, “thượng thổ hạ tả” thay cho “ … … … …
… … ”.
2. Dùng phép hoán dụ. Chẳng hạn, trong hai câu thơ :
Người nằm dưới đất ai ai đó,
Giang hồ mê chơi quên quê hương.
Tản Đà đã dùng cụm từ “nằm dưới đất” để chỉ người đã “ … ”. Hoặc khi Nguyễn Du nói về
nghề nghiệp của Tú Bà và Mã Giám Sinh :
Chung lưng mở một ngôi hàng
Quanh năm buôn phấn bán hương đã lề.
(Truyện Kiều)
thì ông đã dùng cụm từ “buôn phấn bán hương” để nói tránh đi cái nghề kinh doanh “ … …
… ”.
3. Dùng phép ẩn dụ. Ví dụ, trong hai câu thơ :
Biết thân đến bước lạc loài
Nhị đào thà bẻ cho người tình chung.
(Truyện Kiều)
Nguyễn Du đã dùng hình ảnh “nhị đào” để chỉ cái “trinh tiết” của nguời phụ nữ. Cùng một
cách tương tự, Thúy Kiều tự ví mình là “cỏ nội hoa hèn” “bèo bọt” :
Rộng thương cỏ nội hoa hèn,
Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau.
(Truyện Kiều)
để nói về thân phận “ … … ” và cảnh ngộ “ … … , … … ” của mình.
3. Chọn một trong hai yêu cầu sau để thực hiện:
a/ So sánh sự giống nhau và khác nhau giữa ẩn dụ và hoán dụ. Minh hoạ bằng một số ví dụ cụ thể.
b/ Nhã ngữ và khoa trương có điểm gì gần gũi nhau hay không? Nói rõ sự khác nhau giữa hai phép tu
từ này. Minh hoạ bằng một số ví dụ cụ thể.
170
171
172
BÀI TẬP
1. Xác định loại chơi chữ có trong các trường hợp sau:
a/ Kìa ai dưới suối xương không nát
Có lẽ nghìn thu tiếng vẫn còn.
(Câu đối Nguyễn Khuyến viếng Tú Xương)
b/
Anh đã Đứng trước biển
Cù lao tràm kia rồi
Những khoảng cách còn lại
Xa vời lắm anh ơi!
(Xuân Sách, Vịnh nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn)
Từ trong hom giỏ chui ra
Đã toan gánh vác sơn hà chị ơi
Định đem cái lạt buộc người
Khổ thay ông lão vịt trời phải chăn
(Xuân Sách, Vịnh nhà văn Vũ Thị Thướng)
c/ Cờ bạc là bác thằng bần
Cửa nhà bán hết, tra chân vào cùm.
(Ca dao)
d/ Lúa tám gặt chín tháng mười
Nồi tư mua năm quan sáu.
(Câu đối)
e/ Tết túng tiền tiêu, tính toán toan tìm tay tử tế.
(Câu đối)
f/ Lên phố Mia gặp cô hàng mật, cầm tay kẹo lại hỏi thăm đường
Bà đồ Giang đi võng đòn tre, đến khóm trúc thở dài hí hóp.
(Câu đối)
173
174
175
3.2.3. Cách 3: Đổi phụ âm đầu, giữ nguyên vần và thanh điệu
bình định → đình bịnh,
3.2.4. Cách 4: Đổi vần và thanh điệu, giữ nguyên âm đầu
bí mật → bật mí,
3.2.5. Cách 5: Đổi thanh điệu, giữ nguyên phụ âm đầu và vần
bí mật → bị mất, đi tìm → đì tim
3.2.6. Cách 6: Đổi âm chính, giữ nguyên phụ âm đầu, thanh điệu và âm cuối
Đương cơn nắng cực chửa mưa tè (Hồ Xuân Hương, Tát nước)
Trong 5 cách lái này, cách 2, cách 6 phổ biến ở miền Bắc, cách 1 và cách 4, cách 6
phổ biến ở miền Trung, cách 3 và cách 5 chỉ phổ biến ở miền Nam.
Người miền Nam khi nói lái thường biến âm của âm tiết theo kiểu phát âm của Nam
Bộ:
đơn giản như đang giỡn, cao đẳng → đau cẳng, trâu cái → trái cau
4. Tác dụng
Nói lái có tác dụng chủ yếu là biểu cảm nhằm tạo sự đùa vui, hài hước (humour) hoặc
châm biếm, mỉa mai, đả kích.
Trong khá nhiều trường hợp, nói lái có ý nghĩa tục tĩu.
Một đôi khi phép nói lái cũng gợi ý cho chúng ta những nhận thức mới, bất ngờ, đáng
suy ngẫm về sự vật, hiện tượng hoặc những vấn đề đặt ra trong cuộc sống.
Hiện đại thì hại điện; Đấu tranh rồi tránh đâu?
Nói lái được sử dụng nhiều trong câu đố, truyện cười, thơ văn trào phúng, châm biếm,
trong tiểu phẩm báo chí.
Nói lái cũng là một phương tiện để truyền đi những thông tin “mật” được mã hoá theo
kiểu thức dân gian:
Cam sành nhỏ lá thanh ương
Ngọt mật thanh đường nhắm lớ bớ anh
Thanh ương là tuổi mong chờ
Một mai nhái lặn chà quơ, quơ chà.
(Ca dao Nam Bộ)
BÀI TẬP
1. Xác định cách nói lái có trong các trường hợp sau:
a/ Quán sứ sao mà cảnh vắng teo
Hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo?
Chày kình, tiểu để suông không đấm,
Tràng hạt, vải lần đếm lại đeo.
(Hồ Xuân Hương, Chùa Quán Sứ)
b/ Dòng châu lai láng, đĩa dầu chong
Công khó đợi chờ, biết có không?
Nhắc bạn thêm thương người nhạn bắc
Trông đời ngao ngán giữa trời đông.
(Khuyết danh)
176
1. Khái niệm
Tên gọi khác: dụng điển.
Dẫn ngữ là phép tu từ dùng thành ngữ, tục ngữ, danh ngôn, điển cố, câu văn thơ nổi
tiếng vào lời nói, bài viết nhằm nâng cao hiệu lực biểu đạt tư tưởng, tình cảm và tăng sức hấp
dẫn, thuyết phục.
Chúng ta chỉ có thể xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng cách tǎng gia sản xuất và thực
hành tiết kiệm. Sản xuất mà không tiết kiệm thì khác nào gió vào nhà trống.
(Hồ Chí Minh, Xây dựng những con người của chủ nghĩa xã hội, 1961)
Trước sau nào thấy bóng người,
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Nguồn:
Khứ niên kim nhật thử môn trung,
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng.
Nhân diện bất tri hà xứ khứ?
Đào hoa y cựu tiếu đông phong.
(Thôi Hộ, Đề Đô thành nam trang)
(Năm ngoái, trong cổng này, mặt người và hoa đào màu hồng ánh lẫn nhau, năm nay, mặt người không
biết ở chốn nào, chỉ còn hoa đào vẫn cười với gió đông như cũ. Đề thơ ở trại phía nam Đô thành).
2. Phân loại
2.1. Dựa theo loại phương tiện dẫn ngữ
2.1.1. Dẫn thành ngữ
Phong trần mài một lưỡi gươm
Những phường giá áo túi cơm sá gì.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
2.1.2. Dẫn tục ngữ
Nhưng thói đời, tre già măng mọc, có bao giờ hết những thằng du côn? Năm Thọ vừa
đi, lại có Bình Chức ở đâu lần về.
(Nam Cao, Chí Phèo)
2.1.3. Dẫn danh ngôn
177
Chắc không ít bạn đã từng nghe câu châm ngôn nổi tiếng của người phương Tây
“Mất tiền là mất ít, mất danh dự là mất nhiều, mất niềm tin là mất tất cả”. Thật đúng vậy,
niềm tin là nguồn gốc của mọi thành công trong cuộc sống...
(Bài làm của sinh viên)
2.1.4. Dẫn điển cố
Thiếp như con én lạc đàn
Phải cung rày đã sợ làn cây cong.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Nguồn: kinh cung chi điểu (con chim sợ cung). Thành ngữ "kinh cung chi điểu" có trong điển tích
Chiến quốc sách. Canh Luy đứng trước Ngụy Vương, giương cung không có tên, giả bắn một phát, con chim
nhạn rơi xuống. Canh Luy giải thích với vua rằng: "Sở dĩ như vậy là vì con chim này bị thương, vết thương chưa
lành và lòng khiếp sợ chưa tan, cho nên thấy giương cung lên là sợ hãi". Nghĩa bóng: Bị nạn hụt một lần thì e
ngại, sợ hãi, hoảng hốt.
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Nguồn:
Thùy bả kim bôi phân lưỡng đoạn
Bán trầm thủy để, bán phù không.
(Cổ thi)
(Ai cầm chén vàng chia ra hai nửa/ Nửa chìm đáy nước, nửa trôi trên không)
2.1.5. Dẫn văn thơ
Quê hương tôi có cây bầu cây nhị
Tiếng đàn kêu tích tịch tình tang…
Có cô Tấm náu mình trong quả thị
Có người em may túi đựng ba gang.
(Nguyễn Bính, Bài thơ quê hương)
2.2. Dựa theo cách thức dẫn ngữ
2.2.1. Dẫn nguyên văn
2.2.2. Dẫn không nguyên văn (dẫn ý; dẫn có thay đổi, thêm bớt)
3. Tác dụng
Dẫn ngữ có tác dụng nhận thức và tác dụng biểu cảm. Dẫn ngữ vừa tăng tính hàm súc
vừa tăng tính diễn cảm cho lời nói.
Các phương tiện dẫn ngữ tự nó đã có một hàm lượng ngữ nghĩa phong phú, sâu sắc, có
thể gợi lên trong độc giả những liên tưởng đa dạng, nhiều chiều về lịch sử, văn hoá, truyền
thống, vì thế dẫn ngữ tạo chiều sâu và sức nặng đáng kể cho lời nói, bài viết.
Dẫn ngữ được sử dụng nhiều trong phong cách ngôn ngữ văn chương, chính luận, báo
chí, khoa học.
BÀI TẬP
1. Cho biết loại dẫn ngữ được sử dụng trong các ví dụ sau:
a/ Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
178
179
180
BÀI TẬP
1. Anh (chị) hãy nhại câu tục ngữ sau đây để viết một câu văn nói về nghề thầy giáo hoặc một
nghề nghiệp khác mà anh chị cảm thấy thích hợp:
Một luật sư giỏi thì am hiểu luật pháp, một luật sư thông minh thì am hiểu quan toà.
(The good lawyer knows the law, the clever lawyer knows the judge.)
(Tục ngữ Mỹ)
2. Sáng tác một bài thơ hoặc bài hát bằng cách nhại một bài thơ hoặc một bài hát nào đó mà anh
(chị) ưa thích.
V. TẬP KIỀU
1. Khái niệm
Tên gọi khác: lẩy Kiều. Hữu Đạt phân biệt tập Kiều và lẩy Kiều
Tập Kiều là phép tu từ vay mượn, sao phỏng lời, ý hoặc cách diễn đạt của tác phẩm
Truyện Kiều vào câu văn, câu thơ, lời nói để tạo một sắc thái diễn đạt đặc biệt.
Tập Kiều là một hình thức dẫn ngữ của riêng tiếng Việt và người Việt Nam.
Nỗi niềm xưa nghĩ mà thương
Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng.
(Tố Hữu, Kính gửi cụ Nguyễn Du)
So sánh:
Tiếc thay chút nghĩa cũ càng,
Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Tập Kiều là một hình thức đặc biệt của nhại.
2. Phân loại
Có 5 kiểu tập Kiều thường gặp.
2.1. Mượn nguyên văn (từng câu, cặp câu)
2.2. Mượn ý
Tôi xa quê hương đã năm mươi năm rồi. Thường tình người ta xa nhà, lúc trở về thì
mừng mừng, tủi tủi. Nhưng tôi không buồn, không tủi...
Quê hương nghĩa nặng tình sâu
Năm mươi năm ấy biết bao nhiêu tình.
(Hồ Chí Minh, Bài nói chuyện khi về thăm quê, 1957)
So sánh:
Những là rày ước mai ao
Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
2.3. Mô phỏng cách diễn đạt
Có tiền mà cậy chi tiền
Có tiền như Mỹ cũng phiền lắm thay.
(Hồ Chí Minh)
So sánh:
181
182
BÀI TẬP
1. Xác định câu thơ tập Kiều và nêu câu thơ nguyên văn tương ứng trong Truyện Kiều:
a/ Nhân tình nhắm mắt chưa xong
Biết ai hậu thế khóc cùng Tố Như?
Mai sau dù có bao giờ
Câu thơ thưở trước đâu ngờ hôm nay …
(Tố Hữu, Kính gửi cụ Nguyễn Du)
b/ Bây giờ mới gặp nhau đây
Mà lòng đã chắc những ngày thanh niên!
(Hồ Chí Minh, Diễn văn đón Tổng thống Xu-cê Tu-rê, Cộng hoà Ghi-nê)
2. Điền vào những chỗ còn thiếu trong câu chuyện vui sau:
Xưa, có một cô thiếu nữ ăn nói bặt thiệp, mở quán nước bên đường để kén chồng. các cậu
khóa anh đồ nghe tin kéo đến rất đông, ai cũng muốn khoe tài để mong được người đẹp chú ý; nhưng
đã bao ngày vẫn chưa có ai địch lại mồm mép của giai nhân.
Nghề đời vỏ quýt dày tất có móng tay nhọn.
183
Một hôm, một nho sinh vào quán nghỉ chân. Cô gái quen như mọi lần, lại giở cái giọng “đàn
chị” ra để trêu chọc, nhưng anh chàng đối đáp không kém phần cứng cỏi. Cuối cùng, cô bèn đọc một
câu tập Kiều:
... ... ... …mắt tinh đời!
Anh hùng đoán giữa trần ai mới già
Cô nhấn mạnh ba tiếng ... ... ..., nghỉ một lát rồi mới nối ba tiếng sau. Lối đọc này mang hàm
ý: “Khen cho con đấy, con ạ!”.
Nho sinh hiểu ý, đọc ngay một câu cũng trong Kiều:
... ... ... …mới thấy đây
Mà lòng đã chắc những ngày một hai
Lúc đọc anh ta dằn mạnh ba tiếng ... ... ... , cũng nghỉ một tí mới đọc tiếp ba tiếng sau, khiến
cho câu thơ có nghĩa là: “Hỗn với tôi thì tôi vả cho bây giờ!”
Thấy nho sinh trả lời hóm hỉnh như vậy, cô gái vừa phục vừa thẹn, mắt đỏ ửng lên và lặng
thinh ngồi mân mê tà áo…
(Theo Lãng Nhân, Thú chơi chữ)
184
185
BÀI TẬP
1. Xác định loại điệp ngữ và phân tích tác dụng biểu đạt:
a/ Tre, anh hùng lao động! Tre, anh hùng chiến đấu.
(Thép Mới, Cây tre)
b/ Học, học nữa, học mãi.
186
(Lê nin)
c/ Cô ta còn trẻ, còn con nhỏ, còn mẹ, còn nhiều cái ràng buộc với sự sống.
(Anh Đức, Hòn Đất)
d/ Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.
Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?
(Đặng Trần Côn, Chinh phụ ngâm (Đoàn Thị Điểm dịch))
e/ Những lúc say sưa cũng muốn chừa,
Muốn chừa nhưng tính lại hay ưa.
Hay ưa nên nỗi không chừa được.
Chừa được nhưng mà cũng chẳng chừa.
(Nguyễn Khuyến, Chừa rượu)
187
Ngói mới.
188
II. ĐIỆP HƯ TỪ
1. Khái niệm
Điệp hư từ là một hình thức đặc biệt của điệp ngữ, trong đó hư từ (liên từ, giới từ, phụ
từ, ...) được lặp lại nhằm nhấn mạnh, tăng cường sức biểu đạt. Ví dụ:
+ Và anh, và tôi, và cả họ đều là nạn nhân của thói quan liêu.
(Theo Lê Đức Trọng)
+ Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành, bành bạnh
muốn chen lẫn nhau với những cái môi cũng cố to cho không thua cái mũi ...
(Nam Cao, Chí Phèo)
Câu văn nhấn mạnh vào sự kéo theo đồng thời của nhiều đặc tính xấu về ngoại hình
của Thị Nở qua liên từ “vừa”.
Điệp hư từ thường gắn liền với điệp cú pháp.
2. Phân loại
2.1. Điệp liên từ
Chỉ trong một ngày một đêm thôi mà trái tim Quyên đã đập lên bao nhiều lần vì lo âu,
vì thương mến, vì sung sướng và hồi hộp.
(Anh Đức, Hòn Đất)
2.2. Điệp giới từ
Có lẽ rồi anh cũng kiếm cách về đây [Bảo Lộc, Lâm Đồng], làm đồn điền và xa lánh
những chen đua vô ích. Tìm một hạnh phúc nào nhỏ nhất cho vừa với đời mình. Làm một căn
nhà sàn với bàn ghế bằng những gốc thông ráp lại, sống rất gần với gỗ với cây với núi rừng
với đất.
(Trịnh Công Sơn, Thư gửi Ngô Vũ Dao Ánh)
2.3. Điệp phụ từ
Phong cảnh vẫn y nguyên, gian nhà vẫn tịch mịch và bà chàng vẫn tóc bạc phơ và
hiền từ.
(Thạch Lam, Dưới bóng hoàng lan)
189
BÀI TẬP
Xác định từ ngữ thể hiện phép điệp hư từ và phân tích tác dụng biểu đạt:
a/ Kế hoạch của Ngạn đề ra vừa táo bạo, vừa chắc ăn, khiến cho ai cũng vừa thích thú vừa hồi hộp.
(Anh Đức, Hòn Đất)
b/ Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn:
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
(Xuân Diệu, Vội vàng)
c/ Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ...
(Tố Hữu, Từ ấy)
III. ĐIỆP CÚ PHÁP
1. Khái niệm
Tên gọi khác: lặp cú pháp, điệp cú pháp, lặp cấu trúc, điệp cấu trúc, điệp kiểu câu.
Điệp cú pháp là phép tu từ lặp lại cấu trúc của một cụm từ, một câu, một nhóm câu
nhằm mục đích nhấn mạnh nội dung biểu đạt và tạo nhịp điệu, âm hưởng cho câu văn, câu
thơ.
Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng
Nếu là hoa, tôi sẽ là một đóa hướng dương
Nếu là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm
Nếu là người, tôi sẽ chết cho quê hương
(Trương Quốc Khánh, Tự nguyện)
Cấu trúc lặp lại: Nếu là A, tôi sẽ B.
190
Cần phân biệt điệp cú pháp có dụng ý tu từ với hiện tượng trùng lặp cấu trúc ngẫu
nhiên trong một đoạn văn. Dấu hiệu để nhận ra phép điệp cú pháp là ở chỗ, ngoài phần có
chung về cấu trúc, còn có chung một chủ đề, và láy lại một số từ nhất định.
[Cú Đình Tú & NTG 1982, 212].
Cũng cần chú ý là trong phép điệp cú pháp có thể có sự sai biệt đôi chút về một vài
thành phần cú pháp nhưng không quan trọng lắm.
Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất.
Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà.
(Hồ Chí Minh, Di chúc)
(1) CN – nhất định VN + BN
(2) CN nhất định VN
(3) CN nhất định VN + BN
2. Phân loại
Xét theo kiểu cấu trúc được lặp lại, phép điệp cú pháp được chia làm 3 loại.
2.1. Điệp cấu trúc cụm từ
Thị đánh con lớn, chửi con nhỏ, quăng cái chổi, đá cái thúng, và càu nhàu trống
không.
(Nam Cao, Trăng sáng)
Cấu trúc lặp lại: V – B.
2.2. Điệp cấu trúc câu
Tôi sẽ lại nơi tôi hằng mơ ước
Tôi sẽ về sông nước của quê hương
Tôi sẽ về sông nước của tình thương…
(Tế Hanh, Nhớ con sông quê hương)
Cấu trúc lặp lại: C sẽ V – B
Đừng nói tất cả những gì anh biết, đừng tin mọi điều anh nghe, và đừng làm tất cả
những gì mà anh có thể.
(Tục ngữ Bồ Đào Nha)
Cấu trúc lặp lại: đừng V1 tất cả (mọi) D anh V2
2.3. Điệp cấu trúc nhóm câu
Tên gọi khác: điệp kiểu phô diễn.
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ẩm âm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Cấu trúc lặp lại: Câu lục: Buồn trông D [tâm trạng]
191
BÀI TẬP
1. Nêu kiểu điệp cú pháp trong các câu sau:
a/ Hai nước Việt – Trung sơn thủy tương liên, văn hóa tương đồng, lý tưởng tương thông, vận mệnh
tương quan.
(Hồ Cẩm Đào)
b/ Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng
về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được
độc lập!
(Hồ Chí Minh, Tuyên ngôn độc lập)
c/ Trên tấm thân đó cái gì cũng mịn màng, từ mái tóc rủ gần tới gót chân, từ khuôn mặt tái đi vì đau
đớn, từ bộ ngực căng căng sau lần áo lụa đen mỏng.
(Anh Đức, Hòn Đất)
2. Theo anh (chị) kiểu trùng điệp (với những từ in đậm) trong đoạn văn sau đây có phải là một
kiểu điệp cú pháp?
Tôi vẫn có niềm tin và hy vọng, rằng một ngày kia hội nghề nghiệp sẽ thực sự nơi tựa lưng
cho những người cầm bút. Chắc phải chờ cho đến khi miếng bánh [quỹ phúc lợi, tiền ngân sách] đã
được chia hết. Nhưng để có sự tin tưởng đó thì hiện tại tôi phải nên tránh xa cái sự Dối Trá lộng lẫy
huy hoàng trơn lì bóng nhẫy trường kỳ lưu cữu này.
(Y Ban, Thư ngỏ gửi ông Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam và 14 vị Uỷ viên BCH, 2013)
192
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái,
dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc.
(Hồ Chí Minh, Lời kêu gọi toàn quốc káng chiến)
Sông của quê hương, sông của tuổi trẻ
Sông của miền Nam nước Việt thân yêu
Khi bờ tre ríu rít tiếng chim kêu
Khi mặt nước chập chờn con cá nhảy
Bạn bè tôi tụm năm tụm bảy
Bầy chim non bơi lội trên sông
Tôi dang tay ôm nước vào lòng
Sông mở nước ôm tôi vào dạ
(Tế Hanh, Nhớ con sông quê hương)
Sóng đôi cú pháp là một hình thức đặc biệt của điệp cú pháp. Đây là hình thức sắp xếp
song song các kết cấu cú pháp có cùng chức năng và cùng cấu tạo ngữ pháp. Hình thức song
song ngữ pháp này kéo theo sự đối ứng về ngữ nghĩa, thanh điệu, tạo nên tính chất nhịp
nhàng, khúc chiết của câu văn, phù hợp với ngữ cảm và tư duy người Việt.
2. Lịch sử hình thành và phát triển
Sóng đôi cú pháp (parallelism, parallelisme) là thủ pháp có mặt ở tất cả các ngôn ngữ
trên thế giới.
Ở Việt Nam, phép sóng đôi cú pháp được sử dụng khá phổ biến trong thành ngữ, đặc
biệt trong tục ngữ.
Đầu voi đuôi chuột
Gần đất xa trời
Con nhà lính, tính nhà quan
(Thành ngữ)
Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà.
Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài.
Thương nhau củ ấu cũng tròn, ghét nhau quả bồ hòn cũng méo.
(Tục ngữ)
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng phép sóng đôi cú pháp để tạo nên hình
thức tiểu đối nổi tiếng cho thơ lục bát.
+ Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
+ Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.
+ Người quốc sắc, kẻ thiên tài
Tình trong như đã... mặt ngoài còn e...
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Trong văn học trung đại Việt Nam nói chung, phép sóng đôi cú pháp là một thủ pháp
đặc trưng của văn biền ngẫu và đối liên (câu đối). Trong văn biền ngẫu (biền: hai con ngựa
chạy song song với nhau; ngẫu: chẵn đôi) và đối liên, phép sóng đôi cú pháp phải gắn liền với
đối ý, đối lời và đối thanh.
Giơ tay với thử trời cao thấp
Xoạc cẳng đo xem đất ngắn dài
193
BÀI TẬP
Xác định kiểu điệp cú pháp (hoặc sóng đôi cú pháp) trong các ví dụ sau và phân tích tác dụng
biểu đạt của chúng:
a/ Thơ : tình là gốc, lời là cành, thanh âm là lá, ý là quả.
(Bạch Cư Dị)
b/ Tăm tăm tình bạn
Chếnh choáng tình đời
Líu lưỡi tình người
Nôn nao thân phận…
(Phùng Quán, Say)
c/ Buổi sáng em lên rẫy
Thấy bóng cây Kơ nia
Bóng ngả che ngực em
Về nhớ anh, không ngủ…
Buổi chiều mẹ lên rẫy
Thấy bóng cây Kơ nia
Bóng tròn che lưng mẹ
Về nhớ anh mẹ khóc...
Em hỏi cây Kơ nia:
194
195
BÀI TẬP
Cho biết loại đảo ngữ và nêu tác dụng biểu đạt của chúng:
a/ Từ những năm đau thương chiến đấu
Ðã ngời lên nét mặt quê hương
Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu
Ðã bật lên những tiếng căm hờn
(Nguyễn Đình Thi, Đất nước)
b/ Trên xe chễm chệ ngồi một người đàn bà phấn son loè loẹt.
(Dựa theo Nguyễn Công Hoan)
196
BÀI TẬP
197
Gạch dưới từ ngữ thể hiện phép tương phản và nêu tác dụng biểu đạt:
a/ Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần.
(Ca dao)
b/ Hôm qua còn theo anh
Đi ra đường quốc lộ
Hôm nay đã chặt cành
Đắp cho người dưới mộ
(Hoàng Lộc, Viếng bạn)
c/ Đất đen tạo ra bánh mì trắng.
(Tục ngữ Na Uy)
d/ Khi tiền lên tiếng thì sự thật im lặng.
(Tục ngữ Nga)
e/ Cha mẹ tốt, hôn nhân hạnh phúc; con cái tốt, đám tang linh đình.
(Tục ngữ Trung Quốc)
f/ Hồ Chí Minh, tên giả, ngày sinh giả, ngày mất giả, chỉ có lòng yêu Tổ quốc là có thật”.
(Lời một nhà báo nước ngoài)
1. Khái niệm
Đảo đối là một phép tu từ vừa sử dụng cách thức đảo cấu trúc vừa sử dụng cách thức
đối chọi về ý nghĩa.
Công thức cấu tạo của đảo đối là: A → B & B → A. Ví dụ:
Người ngựa ngựa người
(Nhan đề một truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan)
Bao nhiêu sầu, ôi sầu biết bao nhiêu
Khi yêu tình, khi theo mãi tình yêu!
(Xuân Diệu, Yêu mến)
Chồng đánh bạc thì vợ đánh bài
Chồng hai ba vợ, vợ hai ba chồng.
(Ca dao)
Đinh Trọng Lạc xem đảo đối là một biến thể của phép sóng đôi cú pháp.
2. Tác dụng
Phép đảo đối có tác dụng nhấn mạnh mối tương về ý nghĩa giữa hai vế cấu trúc, tạo ra
một vẻ đẹp về sự hài hoà giữa hình thức và nội dung biểu đạt.
Trong thực tế sử dụng, hai vế cấu trúc của phép đảo đối có thể có sự khác biệt chút ít
về cấu tạo. Ví dụ:
Thi đua là yêu nước, yêu nước phải thi đua.
(Hồ Chí Minh)
198
Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng
dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước
ta.
(BCH Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Điếu văn Hổ Chủ tịch)
199
+ Nghị luận về các vấn đề chính trị, xã hội, triết học, nghệ thuật,...
+ Trào phúng, châm biếm các vấn đề thời sự, xã hội, đạo đức, ...
+ Bàn luận về các đề tài có tính chất vĩnh cửu của con người, đời người, vũ trụ, v.v.
BÀI TẬP
Xác định kiểu nghịch ngữ và phân tích ý nghĩa hàm ẩn rút ra từ những nghịch ngữ đó:
a/ Nhà văn cổ điển Việt Nam
Một cậu bé ở tuổi 70
Có nét mặt mệt mỏi của con rùa già từng trải
(Evghenhi Evtushenko, Nhà văn cổ điển Việt Nam (Tặng cụ Nguyễn Tuân))
b/ Ngọn súng trường ta ơi, ngọn súng rất nhân tình.
(Chế Lan Viên, Đế quốc Mỹ là kẻ thù riêng của mỗi trái tim ta, 1963)
c/ Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi.
(Tục ngữ)
d/ Đôi mắt em là tổ quốc những ánh chớp và nước mắt,
Sự im lặng biết nói
(Octavio Paz. Đôi mắt em)
f/ Tình ca không lời
(Tên một tập thơ của Paul Verlaine)
g/ Dù nó là con cháu địa chủ, nhưng con hứa với ông bà nông dân cố gắng nuôi dạy nó thành
người nghèo khổ.
(Dương Hướng, Bến không chồng)
h/ Hạnh phúc đang còn, tình yêu đã mất.
(Xuân Quỳnh, Những năm tháng không yên)
i/ Trên bia mồ của nhiều người đáng lẽ phải sửa lại là: Chết lúc ba mươi tuổi, chôn lúc sáu
mươi tuổi.
(Lời một nhà văn Pháp)
k/ Sầu đong càng lắc càng đầy
Ba thu đồn lại một ngày dài ghê.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
l/ Không ai có thể tắm hai lần trong một dòng sông.
(Heraclite, Triết gia Hy Lạp)
m/ Đôi mắt băn khoăn của em buồn
Đôi mắt em muốn nhìn vào tâm tưởng của anh
Như trăng kia muốn vào sâu biển cả
Anh đã để cuộc đời mình trần trụi dưới mắt em
Anh không giấu em một điều gì
Ấy thế mà em không biết gì tất cả về anh.
(Tagore, Thơ Dâng, bài 28)
201
BÀI TẬP
Những từ ngữ in đậm sau đây có phải là đồng nghĩa kép hay không? Vì sao?
a/ Phàm cái gì chống lại tinh thần dân tộc, độc lập và thống nhất phải thẳng cánh đập tan.
Phàm cái gì trái khoa học phản tiến bộ phải kiên quyết bài trừ.
Phàm cái gì phản đại chúng xa đại chúng, phải nhất luật san phẳng.
(Trường Chinh, Ba nguyên tắc của cuộc vận động tân văn hoá Việt Nam lúc này)
b/ Mắt nghẹn nhìn thâu dạ;
Môi khô hết níu lời...
Chân rời, tay muốn rã...
Kẻ khuất... kẻ trông vời...
(Xuân Diệu, Viễn khách)
202
X. LIỆT KÊ (ENUMERATION)
1. Khái niệm
Liệt kê là phép tu từ kể ra một loạt đối tượng cùng loại để nhấn mạnh tính chất phong
phú, đa dạng hoặc bề bộn, phức tạp của sự vật, hiện tượng đang nói tới.
Người nhà quê bây giờ mở miệng ra là thấy đề nghị, yêu cầu, phê bình, cảnh cáo,
thực dân, phát xít, phản động, xã hội chủ nghĩa, dân chủ với tân dân chủ nữa mới khổ
thiên hạ chứ.
(Nam Cao, Đôi mắt)
Cần phân biệt liệt kê tu từ và liệt kê thông thường (liệt kê lôgic).
Giữa các thành tố của sự liệt kê có thể được sắp xếp theo một trình tự nào đó.
2. Phân loại
Có 2 loại.
2.1. Liệt kê không theo cặp
Nước đầy và nước mới thì cua cá cũng tấp nập xuôi ngược, thế là bao nhiêu cò, sếu,
vạc, cốc, le, sâm cầm, vịt trời, bồ nông, mòng, két ở các bãi sông xơ xác tận đâu cũng bay cả
về vùng nước mới để kiếm mồi.
(Tô Hoài, Dế Mèn phiêu lưu ký)
2.2. Liệt kê theo cặp
Cái ái tình của các cụ thì chỉ là sự hôn nhân, nhưng đối với ta thì trăm hình muôn
trạng: cái tình say đắm, cái tình thoáng qua, cái tình gần gụi, cái tình xa xôi, cái tình chân
thật, cái tình ảo mộng, cái tình ngây thơ, cái tình già dặn, cái tình giây phút, cái tình nghìn
thu.
(Lưu Trọng Lư)
3. Tác dụng
Liệt kê nhấn mạnh tính chất phong phú, đa dạng, phức tạp của vấn đề nói tới, làm nổi
rõ ấn tượng thẩm mỹ, gây chú ý, tạo hiệu quả diễn đạt cao hơn bình thường.
Mợ à, tôi quét nhà, thông cống, dời gạch, chở ngói, xây nền, đắp tường, cày ruộng,
bừa đất, gieo mạ, cấy lúa, xây dựng cơ đồ cho nhà mợ.
(Ngô Thừa Ân, Tây du ký – Lời Trư Bát Giới nói với vợ)
Liệt kê làm tăng tính chất nhịp nhàng, cân đối cho lời văn.
Phép liệt kê thường gắn liền với phép điệp cú pháp.
Liệt kê có khi được sử dụng như một thủ pháp “đặc tả” về đặc trưng sự vật, hiện
tượng:
Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh.
(Câu đối)
Phép liệt kê được sử dụng nhiều trong văn nghệ thuật, văn chính luận.
BÀI TẬP
1. Phân tích tác dụng biểu đạt của phép liệt kê trong các ví dụ sau:
203
a/ Riêng ở người ngài, sự oai vệ cũng đã quá đầy đủ rồi, thế mà đằng sau đằng trước, bên phải, bên
trái, còn bày la liệt những thứ khiến người yếu bóng vía phải rùng mình: thanh quất, súng lục, súng
trường, gươm, giáo, bát xà mâu, kích,...
(Nguyễn Công Hoan, Bước đường cùng: Chương 8)
b/ Sân bay Tân Sơn Nhất ngổn ngang nhà trại, kho tàng, đường bay, sân bãi, ụ súng, bao cát, kẽm gai
... cũng khuất dần đi trong cái ồn ào, rối rít, mù mịt đất, bụi, khói xăng ấy.
(Nguyễn Tuân)
c/ Lòng yêu nước của Tố Hữu trước hết là lòng yêu những người của đất nước, những người nông dân
chịu thương chịu khó, làm nhiều mà nói ít, hiền lành mà anh dũng, giản dị mà trung hậu, bền gan bền
chí, rất dễ vui, ngay trong kháng chiến gian khổ.
(Nguyễn Đình Thi, Thơ Tố Hữu đi vào thực tế quần chúng, Văn nghệ số 77, 1955)
2. Liệt kê trong đoạn văn sau đây là liệt kê tu từ hay liệt kê lôgic?
Cán bộ giảng dạy đại học có thể chia làm ba loại: một là giảng rất rõ ràng, rành mạch những
chân lý giản đơn, muôn thủa, ai cũng biết cả rồi. Nghĩa là bài giảng không làm cho sinh viên khôn
thêm lên một tý nào. Hai là diễn đạt quá tối tăm rắc rối, không ai hiểu gì cả, kể cả người giảng cũng
không hiểu mình nói gì. Đây là loại không thích nói những điều thông thường ai cũng biết, nhưng
những điều mới lạ, độc đáo lại không nghĩ ra, bèn dùng lối khoe chữ nghĩa rắc rối, khoe đọc sách này
sách khác, tiếng Tây tiếng Tầu đủ cả, tung ra một mớ hoả mù khái niệm có vẻ uyên bác, cao siêu, thực
chất đầu óc rỗng không. Loại một tuy tầm thường, nhưng đứng đắn. Loại hai phải gọi đích danh là
lừa bịp, là bất lương trong giới đại học. Còn loại ba là những thầy giáo thực sự giỏi và trung thực. Họ
truyền đạt cho học trò một cách dễ hiểu những điều mới lạ, sâu sắc. Họ thực sự là những nhà khoa
học, đồng thời là những nhà sư phạm lương thiện. Họ nghĩ ra nhiều điều mới mẻ sâu sắc và hiểu rõ
những điều mới mẻ sâu sắc ấy, nên có cách diễn đạt cho học trò hiểu được.
(Nguyễn Đăng Mạnh)
XI. TĂNG CẤP
1. Khái niệm
Tên gọi khác: tăng tiến, tiệm tiến và tiệm thoái.
Tăng cấp là phép tu từ sắp xếp các thành tố ngữ nghĩa xoay quanh một nội dung theo
trình tự tăng dần hoặc hoặc giảm dần để tạo ấn tượng đặc biệt về cách diễn đạt và nhấn mạnh
vấn đề trình bày.
Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc,
thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.
(Hồ Chí Minh, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến)
Tính năng của vũ khí: súng ← gươm ← cuốc ← thuổng ← gậy gộc
Quyết tâm kháng chiến: tương đối cao → cao → rất cao → cực kỳ cao → đặc biệt cao
(thà hy sinh tất cả, chứ
nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ)
Tăng cấp là một hình thức đặc biệt của phép liệt kê.
2. Cấu tạo
Một phép tăng cấp phải gồm các thành tố ngữ nghĩa (từ, cụm từ) sắp xếp xoay quanh
nội dung trình bày và có 2 lớp nghĩa:
Lớp nghĩa bề mặt: tăng dần hoặc giảm dần (thường lên đến đỉnh điểm – climax)
Lớp nghĩa hàm ẩn: tăng dần.
204
BÀI TẬP
Xác định kiểu loại của phép tăng cấp trong những trường hợp sau và phân tích tác dụng biểu
đạt của chúng:
a/ Người ta nói sáu mươi tuổi thì tính năm, bẩy mươi tính tháng, tám mươi tính ngày... Tôi muốn sống
lâu để xem thời thế ra sao.
(Nguyễn Khải)
b/ Ôi Việt Nam, xứ sở lạ lùng
Ðến em thơ cũng hóa những anh hùng
Ðến ong dại cũng luyện thành chiến sĩ
Và hoa trái cũng biến thành vũ khí!
(Tố Hữu, Êmily, con ...)
c/ Một con thuyền cô quạnh, hai ba khách văn chương, bốn mái chèo khoả nước, năm cánh buồm gió
căng, đi qua sáu bãi bảy bến, nếm đủ tám lận đận, chín lênh đênh, thật đáng tiếc mười phần vì đã đến
muộn.
205
Trải qua mười năm đèn sách, theo học chín tám ngôi trường, phớt lờ bảy loại tình cảm, sáu loại thèm
muốn, nghiền ngẫm hết ngũ kinh tứ thư, đi thi ba lần hai lượt, hôm nay nhất thiết phải đậu.
(Câu đối của một chàng tú tài đi thi trễ)
d/ Một ít nắng, vài ba sương mỏng thắm,
Mấy cành xanh, năm bảy sắc yêu yêu
Thế là xuân. Tôi không hỏi chi nhiều.
(Xuân Diệu, Xuân không mùa)
Sơ đồ: 1
1 2 3 4
Đột giáng là một hình thức đặc biệt của phép liệt kê.
Trong phép đột giáng, nếu nội dung trình bày ở phần đầu là dương tính (tích cực) thì
nội dung của chi tiết cuối sẽ là âm tính (tiêu cực), và ngược lại.
Ví dụ (kết thúc âm tính):
Bắt chước ai ta chúc mấy lời:
Chúc cho khắp hết ở trong đời.
Vua, quan, sĩ, thứ, người muôn nước,
Sao được cho ra cái giống người.
(Tú Xương, Chúc Tết)
Về hình thức trình bày, trước chi tiết cuối cùng của phép đột giáng, ở phần lớn trường
hợp, người ta có thể dùng dấu ba chấm.
206
2. Tác dụng
Do được xây dựng theo một trình tự không bình thường, tạo sự chuyển đổi bất ngở,
nên phép đột giáng có tác dụng nhấn mạnh, xoáy sâu vào nội dung của chi tiết hụt hẫng ở
cuối.
Phép đột giáng vừa có tác dụng nhận thức vừa có tác dụng biểu cảm.
Tiếng cười do phép đột giáng gây ra thường hồn nhiên, sảng khoái. Phép đột giáng
cũng bắt người đọc, người nghe phải nhận thức lại, suy nghĩ lại về vấn đề trình bày.
Đột giáng thường được sử dụng trong văn thơ trào lộng, châm biếm.
Một trà, một rượu, một đàn bà
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta
Chừa được cái gì hay cái nấy
Có chăng chừa rượu với chừa trà!
(Tú Xương, Ba cái lăng nhăng)
BÀI TẬP
Các bài thơ, đoạn văn sau đây có sử dụng phép đột giáng hay không? Vì sao?
a/ Lạy trời lạy Phật lạy vua
Cho tôi sức khoẻ tôi xua con ruồi.
(Ca dao)
b/ Làm trai cho đáng sức trai,
Khom lưng cố sức gánh ... hai hạt vừng.
(Ca dao)
c/ KHEN VÀ CHÊ
Hồi còn giữ chức Viện phó Viện văn học, nhà phê bình Hoài Thanh phân công cho một cán bộ
trong viện có học vị phó tiến sĩ làm báo cáo về tình hình văn học của một năm.
Sau khi đọc bản báo cáo mấy chục trang vừa nộp của anh phó tiến sĩ, Hoài Thanh nhận xét:
« Bài viết của anh có nhiều điểm đúng và nhiều điểm mới. Nhưng những điểm đúng thì người ta đã ...
nói, còn những điểm mới thì lại ... sai.”
d/ Kìa hội thăng bình tiếng pháo reo
Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo.
Bà quan tênh nghếch xem bơi trải,
Thằng bé lom khom nghé hát chèo.
Cậy sức cây đu nhiều chị nhún,
Tham tiền cột mỡ lắm anh leo.
Khen ai khéo vẽ trò vui thế,
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu!
(Nguyễn Khuyến, Hội Tây)
207
(Giai thoại câu đối giữa Lê Thánh Tông và cô gái vo gạo ở bến sông)
Phép im lặng được dùng nhiều trong văn chương, báo chí, khẩu ngữ.
Kiểu thơ tiệt hạ (cắt bỏ phần tiếp sau) và thơ yết hậu (để trống phần sau) là hai kiểu
thơ chuyên dùng phép im lặng (dạng lược bớt lời).
Thơ tiệt hạ:
Thác bức rèm châu chợt thấy mà ...
Chẳng hay người ngọc có hay đà ...
Nét thu gợn sóng hình như thể ...
Cung nguyệt quang mây nhác ngỡ là ....
Khuôn khổ ra chiều người ở chốn ...
Nết na xem phải thói con nhà ...
Dở dang nhắn gửi xin thời hãy ...
Tình ngắn , tình dài chút nữa ta ...
(Vô danh)
Thơ yết hậu:
Hôm qua trời tối tới chơi đây
Đánh phải địa thần mấy cẳng tay
Khi tỉnh thì nào ai có dám…
Say!
(Nguyễn Công Trứ)
BÀI TẬP
1. Xác định kiểu loại phép im lặng và phân tích tác dụng biểu đạt:
a/ Ai ơi, chèo chống tôi sang
Kẻo trời trưa trật, lỡ làng tôi ra
Còn nhiều qua lại lại qua,
Gíup cho nhau nữa để mà...
(Nguyễn Du, Thơ gửi cô lái đò)
b/ CHUYỆN VỢ CHỒNG
Vợ: Sáng sớm ra đi, tối ngủ khì
Có chồng như thế có mà chi
Mình ơi! Thức dậy chiều em tí
Đi!
Xét trong nội bộ câu, biện pháp tách câu là “cố ý vi phạm chuẩn mực cú pháp”. Những
câu như thế không thể đứng độc lập. Tuy nhiên, trong văn bản, sự tồn tại của chúng là hoàn
toàn hợp lý. Thành phần khuyết trong câu tách biệt dường như đã được giải thích bằng sự có
mặt của nó ở câu trước đó mà nó có quan hệ tất yếu về ngữ nghĩa.
Câu tách biệt thường có cấu tạo khá giống nhau. Nó có thể là một từ, một cụm danh từ,
cụm động từ hoặc cụm tính từ được tách ra từ một câu.
Tách biệt cú pháp là dạng thức thường thấy trong văn xuôi của nhiều tác giả.
2. Phân loại
2.1. Tách thành phần trạng ngữ
Ruột bà đau quằn quại. Ăn một tí gì vào cũng đau không chịu được. Luôn nửa tháng
trời như vậy.
(Nam Cao, Một bữa no)
Trong ví dụ trên, Nam Cao tách thành phần trạng ngữ chỉ thời gian nhằm nhấn mạnh
đến “nửa tháng” bị hành hạ, quằn quại trong cơn đau từ cái ngày bà lão được ăn no.
2.2. Tách thành phần giải thích ngữ
Như thế người ta gọi là nửa đùa nửa thật. Một cách lấp liếm cái ý định của mình
bằng cách nói toạc nó ra.
(Nam Cao, Một bữa no)
2.3.Tách thành phần bổ ngữ
Có khi bà lại khóc lóc, hờ con. Nghe rợn cả người.
(Nam Cao, Một bữa no)
Thành phần bổ ngữ của câu được nhà văn tách ra thành một câu độc lập đứng riêng biệt
bên cạnh các câu khác nhằm nhấn mạnh tính chất nào đó (cách thức, đối tượng, mức độ, phạm
vi, phương hướng, …) của sự kiện mà tác giả đang bàn đến.
2.4. Tách thành phần vị ngữ
Kể thì cũng là một ý hay. Như thế, tránh được cả cái nạn huých khuỷu tay vào ngực
nhau để tranh một cái vé đi xe lửa. Tránh được cả cái nạn ngồi lên đùi người khác và để
người khác ngồi lên đùi mình.
(Nam Cao, Trăng sáng)
2.5. Tách vế câu
Nuôi cháu bảy năm trời, mãi cho đến khi nó đã mười hai, bà cho nó đi làm con nuôi
người ta lấy mười đồng. Thì cải mả cho bố nó đã mất tám đồng rồi.
(Nam Cao, Một bữa no)
3. Tác dụng
Sau một loạt câu văn bình thường, câu tách biệt xuất hiện có tác dụng thay đổi nhịp điệu
một cách đột ngột. Nhịp văn trở nên nhanh gấp, tác động vào tâm lý của người tiếp nhận.
Phép tách biệt cú pháp giúp làm nên sự đa dạng, linh hoạt về nhịp văn, tạo được hứng thú cho
người đọc.
Câu tách biệt của thường là câu ngắn. Những câu tách biệt ngắn tạo nên nhịp kể nhanh
và tạo nên những khoảng trống cho liên tưởng của người đọc. Độ nén của cấu trúc ngắn và tối
giản cũng tựa như những nét mực tàu phác họa cho bức tranh. Phép tu từ tách biệt câu khắc
phục được tính đơn điệu trong cấu trúc cú pháp, trong nhịp điệu văn xuôi. Các câu tách biệt
211
vừa góp phần chi tiết hóa, đặc tả hiện thực, vừa tránh chỉ sử dụng câu cấu trúc bình thường
làm phai nhạt “gia vị” của tác phẩm.
BÀI TẬP
Xác định loại tách biệt cú pháp và nêu tác dụng biểu đạt:
a/ Còn sống trong cái gia đình này mãi, giữa những lo lắng nhỏ nhen này mãi, lòng Điền sẽ cạn. Cạn
luôn cả nguồn thơ quý báu, mà Điền vẫn ao ước có ngày lại khơi.
(Nam Cao, Trăng sáng)
b/ Như vậy, tất cả già dặn lắm mới tốn chừng đồng bạc. Nghĩa là tiêu quá đằng kia hai hào.
(Nam Cao, Trăng sáng)
212
Nguyễn Nguyễn Trứ: « Câu văn tuần hoàn (période) với cấu trúc nguy nga, có chiều
dài, chiều rộng, lẫn chiều cao, chiều sâu chứa đựng một nội dung phức tạp trong một hình
thức sáng rõ, hài hòa là tài sản riêng của phong cách chính luận. » [Nguyễn Nguyên Trứ
1988]
213
214
4. Lưu ý
Hình thức gọi là “hỏi vặn”, “hỏi kháy” trong khẩu ngữ có thể xem là một dạng câu hỏi
tu từ. Ví dụ:
Anh cứ đòi cái người ta không có là nghĩa làm sao! Cụ Hồ không có con gái mà anh
cứ đòi làm rể ông Cụ có được không?
(Khẩu ngữ)
BÀI TẬP
Đọc đoạn văn sau đây, sau đó gạch dưới những câu hỏi tu từ và nêu tác dụng biểu đạt của
chúng:
a/ Nếu người ta không phải ăn thì đời sẽ giản dị biết bao?
(Nam Cao, Một bữa no)
b/ Tôi đã chứng kiến nhiều đám tang của văn nghệ sĩ ở trụ sở 51 Trần Hưng Đạo. Có lẽ sau đám
tang Lưu Quang Vũ - Xuân Quỳnh thì đám tang Xuân Diệu là đông và xúc động nhất: cả một rừng
người và một rừng những vòng hoa màu. Rất nhiều người khóc. Những ai đến viếng ông chắc họ đều
hơn một lần đọc và thuộc ít nhiều thơ ông. Biết đâu những câu thơ tình của ông từng là nhịp cầu tình
yêu cho bao đôi lứa?
Trong đám tang đó, duy nhất có một bó hoa trắng (màu hoa chỉ sự trinh trắng, thường dùng
trong đám tang của người chưa lấy vợ lấy chồng hoặc trẻ em) rất đẹp - giống như hoa tết dùng cho
sinh nhật bây giờ, là của đạo diễn Bạch Diệp đến viếng. Tôi đi bên xe tang cạnh nhà thơ Hoàng Trung
Thông lúc này cũng đang im lặng nhưng mắt thì đỏ hoe. Chúng tôi nhìn màu trắng của hoa - những
bông hoa từ chính người đàn bà danh chính là vợ duy nhất của ông dầu họ sống chung với nhau trong
một quãng thời gian không dài; và đưa mắt cho nhau, ngậm ngùi ngẫm nghĩ về ông mà thương ông
khôn xiết. Tôi chợt nghĩ: liệu trong bấy nhiêu thành quả lao động đồ sộ mà ông để lại cho đời có bao
nhiêu phần trăm là kết quả của một sự lao động để mà lãng quên nỗi bất hạnh về giới tính của mình?
(Tôn Phương Lan, Một góc nhìn Xuân Diệu, Văn hoá Nghệ An, 11/02/2012)
c/ Một lần một cán bộ Miền Nam, chị R. ra thăm Miền Bắc và đến chào anh Ba [Lê Duẩn]. Trong câu
chuyện, chị ấy nói:
– Anh Ba này, tôi thấy dân Miền Bắc sao họ keo kiệt bủn xỉn quá, không rộng rãi như đồng
bào Miền Nam.
Lê Duẩn liền hỏi:
– Chị là người Việt Nam hay là người Khơ-me?
R. hỏi:
– Sao anh Ba hỏi lạ vậy? Em là người Việt Nam.
– Tôi hỏi là vì nếu chị là người Việt Nam thì không cha chị thì ông chị, không ông chị thì ông
cố chị và nhiều lắm là trên ông cố chị một hai đời đều là người Miền Bắc vào Nam cả. Sao chị lại
chửi ông cha chị? Tôi nói cho chị biết, của cải quý nhất của người đàn bà là gì? Là con, nhất là con
trai. Thế mà nhiều bà mẹ Miền Bắc vì sự nghiệp giải phóng Miền Nam mà cho con đi Miền Nam,
215
người một con, người hai con, người ba con, người nhiều hơn, có bao nhiêu con trai cho đi hết, mà
biết đi thì hy sinh tại chiến trường là cái chắc. Thế chị bảo những bà mẹ ấy keo kiệt bủn xỉn à? Còn
dân Miền Nam? Khi tôi ở Miền Nam, khu 7 thiếu quân, kêu thanh niên từ khu 8, khu 9 lên rất khó vì
họ sợ gian khổ và hy sinh. Còn chị biết vì sao mà dân Miền Bắc keo kiệt không? Vì đồng bào Miền
Bắc còn khổ lắm. Đất ít người đông, thiên tai năm nào cũng năm lần bảy lượt, làm cật lực chưa chắc
đã thu hoạch được, chưa chắc đã đủ ăn. Vì vậy họ phải tính toán chi li từng hạt gạo, từng đồng xu.
(Trần Quỳnh, Hồi ký)
II. NÓI MỈA (IRONY)
1. Khái niệm
Tên gọi khác: mỉa mai, biếm dụ, phản ngữ.
Nói mỉa là phép tu từ dùng cách nói mà ý nghĩa đánh giá đích thực ngược hẳn với ý
nghĩa bề mặt của phát ngôn.
Lớp này học giỏi quá nhỉ?!
(Lớp này học rất tệ.)
(Khẩu ngữ)
Chuột chù chê khỉ rằng hôi
Khỉ mới trả lời: “Cả họ mày thơm!”
(Ca dao)
Nói mỉa là phép tu từ ngược lại với nhã ngữ.
2. Cấu tạo
Nói mỉa có hai tầng ý nghĩa: ý nghĩa bề mặt, ý nghĩa đích thực.
Nói mỉa là phép tu từ biểu thị sự phản đối, phủ định, châm biếm, mỉa mia dưới bề
ngoài (dưới “mặt nạ” (chữ dùng của Lại Nguyên Ân [Lại Nguyên Ân 2004, 202]) khẳng định,
tán dương, ca ngợi.
Sự mâu thuẫn, đối lập giữa hai bề mặt ngữ nghĩa càng lớn thì sức mỉa mai càng mạnh
mẽ.
Cơ sở để hiểu phép nói mỉa là dựa vào ngữ cảnh, tình huống giao tiếp, giọng điệu phát
ngôn, những cử chỉ phi ngôn ngữ, ...
3. Tác dụng
Nói mỉa là một phương thức biểu thị sự hài hước (humour), trào phúng dí dỏm, thâm
thuý, ý vị.
Lươn ngắn mà chê chạch dài
Thờn bơn méo miệng chê trai lệch mồm.
(Ca dao)
“Lối nói ngược của mỉa mai như nén sức mạnh của phản đối lại để cho nó bùng lên
mạnh mẽ trong ý thức người tiếp nhận, nhưng lại tạo được một bề ngoài “mát mẻ”, “dí
dỏm”, “nhẹ nhàng” [Lê Bá Hán – Trần Đình Sử – Nguyễn Khắc Phi 2011, 196]
Nói mỉa được sử dụng nhiều trong khẩu ngữ và thơ văn châm biếm, trào phúng.
ÔN TẬP
1. Trả lời các câu hỏi sau đây:
a/ Nêu những điểm khác nhau giữa phong cách hành chính và phong cách chính luận.
216
b/ Tính biểu cảm và tính chính xác về biểu đạt được thể hiện như thế nào trong các phong cách ngôn
ngữ?
c/ Phân tích các đặc trưng sau đây của phong cách báo chí:
+ Tính thời sự
+ Tính hấp dẫn
+ Tính đại chúng
d/ So sánh sự giống nhau và khác nhau giữa ẩn dụ và hoán dụ. Minh hoạ bằng một số ví dụ cụ thể.
e/ Trình bày những hiểu biết của anh (chị) về sự thể hiện của tính khách quan và tính khuôn mẫu trong
các phong cách chức năng của tiếng Việt.
2. Phân tích các câu sau đây từ góc độ tu từ:
a/ Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa.
(Chế Lan Viên, Tiếng hát con tàu)
b/ Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sáng thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
(Xuân Diệu, Vội vàng)
c/ Lá liễu dài như một nét mi.
(Xuân Diệu, Nhị hồ)
d/ Trăm năm đành lỗi hẹn hò
Cây đa bến cũ con đò khác đưa.
(Ca dao)
e/ Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng
(Thanh Hải, Mùa xuân nho nhỏ)
f/ Trừ độc trừ tham trừ bạo ngược
Có nhân có trí có anh hùng.
(Nguyễn Trãi, Quốc âm thi tập)
g/ Khách cũng như con cá, qua ba ngày là bốc mùi thối.
(Tục ngữ La-tinh)
h/ Tôi là con nai bị chiều đánh lưới
Không biết đi đâu, đứng sầu bóng tối
(Xuân Diệu, Khi chiều giăng lưới)
i / Âm nhạc dầu sao chăng đi nữa vẫn chưa phải là một ngôn ngữ đại đồng. Cần phải dùng dây cung
của lời nói để bắn mũi tên âm thanh vào lòng người” ( tức là phải dẫn giải)
(Romain Rolland)
k/ Viết đôi lời về Bùi Giáng không bằng đọc thơ Bùi Giáng. Đọc Bùi Giáng không bằng giao du với
Bùi Giáng. Giao du với Bùi Giáng không bằng sống như Bùi Giáng. Mà sống như Bùi Giang thì thật
vui mà thật khó vậy”.
(Bùi Văn Nam Sơn)
217
218
Tôi kể ngày xưa chuyện Mỵ Châu những con đê vỡ, những nạn đói
TÌNH CẢM lầm chỗ để trên TRÍ TUỆ. các mùa vàng năm tấn, bảy tấn
Nhận của quá khứ những SỰ TÀN PHÁ, KIỆT QUỆ ta áo rách
đã làm nên CUỘC SỐNG ẤM NO.
áo gấm xông hương
219
220
221