Professional Documents
Culture Documents
Mức độ
Các biểu hiện cụ thể được quan sát ở năng lực Tự
STT
phục vụ, tự quản
1 2 3
HS tự sắp xếp thời gian làm các bài tập theo yêu cầu của
6
giáo viên
Sau 2 tuần quan sát, theo dõi và căn cứ kết quả thăm dò từ cha mẹ học
sinh lớp 1A, tôi thu được thực trạng năng lực Tự quản của học sinh như sau:
Lưu ý: mức độ 1: Cần cố gắng (C); mức độ 2: Đạt (Đ), mức độ 3: Tốt (T)
Từ kết quả trên, tôi phân tích tìm ra những ưu điểm và tồn tại về năng lực
Tự quảncủa học sinh.
* Ưu điểm
- Các em nhận được sự quan tâm hết mực của cha mẹ, được trang bị
tương đối đầy đủ về đồ dùng học tập.
- Giáo viên chủ nhiệm đã có hơn 5 năm làm công tác chủ nhiệm, luôn
quan tâm đến việc rèn nề nếp học tập cho học sinh.
- Ban giám hiệu luôn quan tâm, chỉ đạo xát sao việc rèn nề nếp học tập và
năng lực Tự quảncho học sinh.
* Tồn tại
- Học sinh chưa biết tự chuẩn bị và tự quản đồ dùng học tập cá nhân ở
lớp, ở nhà.
- Các em chưa thực sự tự giác thực hiện theo yêu cầu nhóm, lớp và cả giáo viên.
- Việc bố trí thời gian học tập và sinh hoạt chưa phù hợp; kết quả về học tập
cũng không đồng đều.
* Nguyên nhân của thực trạng
- Trước hết là do nhận thức của học sinh, của cha mẹ học sinh chưa thấy
hết vị trí, tầm quan trọng của việc rèn năng lực tự phục vụ, tự quản.
- Đa số cha mẹ các em đều làm công nhân, thời gian sinh hoạt ở nhà rất ít
cũng ảnh hưởng đến việc hình thành kĩ năng Tự quảncho các em.
- Học sinh phải học nhiều môn, nhưng môn học nào cũng mới mẻ đối với
các em nên gây nhiều lúng túng cho các em trong mỗi giờ học.
- Học sinh chưa có thói quen trong việc tự chuẩn bị đồ dùng học tập, chưa
biết cách sử dụng bảng con, đồ dùng học tập.
- Ban cán sự lớp chưa thật sự hiểu rõ được nhiệm vụ của mình và cũng
chưa được bồi dưỡng khả năng tự quản lớp.
- Giáo viên chủ nhiệm tự đánh giá năng lực, phẩm chất cho học sinh dựa trên
trực giác của mình mà chưa căn cứ vào bảng tham chiếu đánh giá năng lực học sinh.
Với những biểu hiện trên, lớp học chưa có nề nếp, không khí lớp học
nặng nề, giáo viên giảng dạy hết sức vất vả, tiết học kéo dài lấn thời gian của tiết
sau, hiệu quả tiết học không đạt yêu cầu. Trước những thực trạng trên tôi suy
nghĩ và tìm ra vài giải pháp để nâng cao năng lực Tự quảncho học sinh lớp
mình phụ trách.
7.1.3. Một số biện pháp nâng cao năng lực Tự quản cho học sinh
7.1.3.1. Thu thập thông tin cá nhân của học sinh và sắp xếp học sinh
theo tổ, nhóm tương đồng
a) Thu thập thông tin học sinh: Đầu năm học, khi được phân công chủ
nhiệm lớp 1A, tôi đã tiến hành thu thập thông tin, tìm hiểu đặc điểm của từng đối
tượng học sinh trong lớp thông qua:
- Hồ sơ học sinh như giấy khai sinh, sổ hộ khẩu: để nắm được thông tin học
sinh một cách chính xác và tiện cho việc theo dõi, liên hệ với cha mẹ học sinh.
- Giáo viên dạy lớp 5 tuổi: để nắm được đặc điểm của đối tượng học sinh và
ban đầu hỗ trợ cho việc tiếp cận, giúp đỡ học sinh theo từng đặc điểm riêng biệt của
từng em.
- Học sinh trong lớp: nhằm phát hiện những ưu điểm, hạn chế của các em
nhằm tạo điều kiện và làm cơ sở xây dựng để các em cùng giúp đỡ nhau trong học
tập cũng như trong sinh hoạt.
- Cha mẹ học sinh: Nhằm nắm được hoàn cảnh, cá tính và khả năng đặc biệt
hay những hạn chế của học sinh để có biện pháp bồi dưỡng, giúp đỡ thiết thực.
b) Tiến hành phân loại đối tượng học sinh: Qua việc nắm được đối tượng,
đặc điểm học sinh, tôi tiến hành phân loại đối tượng học sinh để đưa vào sổ kế
hoạch công tác chủ nhiệm, cụ thể:
- Học sinh gặp hoàn cảnh khó khăn
- Học sinh khuyết tật
- Học sinh cá biệt về đạo đức
- Học sinh có khả năng nhận thức tốt
- Học sinh hạn chế về khả năng nhận thức
* Đối với những học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn: Tổng số học
sinh khó khăn trong lớp 05 em, trong đó có 01 em đặc biệt khó khăn, để giúp đỡ
các em đặc biệt khó khăn có đủ điều kiện học tập tôi đã lập danh sách đề nghị
nhà trường hỗ trợ trang phục, sách vở cho các em từ quỹ khuyến học của nhà
trường. Riêng các em khó khăn, tôi tiến hành rà soát lại để biết mặt khó khăn
của từng học sinh, từ đó xây dựng biện pháp như “Gây quỹ giúp đỡ bạn nghèo
của lớp” để giúp đỡ bạn.
* Đối với những học sinh khuyết tật (lớp không có đối tượng học sinh này)
* Đối với học sinh cá biệt về đạo đức
- Tìm hiểu nguyên nhân qua gia đình: Gia đình có sự mâu thuẫn giữa bố và
mẹ, gia đình thiếu quan tâm hoặc có thể bị bạn bè, kẻ xấu lôi kéo…. Hoặc trẻ có
những tính xấu mà bản thân gia đình chưa giáo dục được…
- Dùng phương pháp tác động tình cảm, nghiêm khắc đối với học sinh nhưng
không cứng nhắc. Tuyệt đối không sử dụng phương pháp trách phạt, chú ý gần gũi
các em và thường xuyên nhắc nhở động viên khen chê kịp thời. Giao cho các em
đó một chức vụ trong lớp nhằm gắn với các em trách nhiệm để từng bước điều
chỉnh mình. Tạo mối quan hệ bạn bè cho các em dần dần gắn bó với nhau vì đối
với các em học sinh cá biệt về đạo đức thì ít khi hòa đồng với bạn bè xung quanh,
tạo cho đối tượng học sinh này có cơ hội giúp bạn một việc dù nhỏ. Từ đó, các em
sẽ được bạn bè quý mến hơn và ngược lại đối với cả lớp cũng phải có thái độ ân
cần giúp đỡ bạn bằng lời động viên, cổ vũ để giúp bạn dần hoàn thiện mình.
* Đối với học sinh hạn chế về nhận thức
- Tìm hiểu nguyên nhân vì sao em đó học yếu, học yếu những môn nào. Có
thể là ở gia đình các em đó không có thời gian học tập vì phải làm nhiều việc hoặc
em đó bị hỏng về kiến thức nên cảm thấy chán nản.
- Tôi lập kế hoạch giúp đỡ đối tượng bằng những việc cụ thể như sau:
+ Giảng lại bài mà các em chưa hiểu vào những thời gian ngoài giờ lên lớp
như: 15 phút đầu giờ, giờ ra chơi hoặc cuối mỗi buổi học,...
+ Đối với học sinh bị hỏng kiến thức, tôi thống kê theo môn, nội dung bị
hỏng và tập trung các em lại thành nhóm yếu theo mảng kiến thức. Bản thân tôi
cùng học với các em những lúc ra chơi hàng ngày có thể dùng hình thức trò chơi,
thi đố vui, thi tìm nhanh… vừa giúp các em được giải trí mà còn tiếp thu được kiến
thức bị hỏng (việc làm này đòi hỏi mỗi giáo viên phải hết sức nhiệt tình, linh hoạt
trong cách tổ chức cho từng nhóm được luân phiên giúp đỡ). Sau lúc cùng học giáo
viên có yêu cầu nhỏ cho từng nhóm yếu nghiên cứu và xem nội dung cụ thể nào đó
và lần sau báo lại cho cô và các bạn cùng nghe. Như thế các em sẽ thực hiện nhiệt
tình hơn và điều không thể thiếu trong lúc này là lời khen cho những em thực hiện
tốt lời dặn, như vậy lần sau các em sẽ tiếp tục thực hiện tốt hơn, dần dần lấp được
những chỗ hổng về kiến thức của các em một cách nhẹ nhàng.
+ Đưa ra những câu hỏi từ dễ đến khó để học sinh có thể trả lời được nhằm
tạo hứng thú và củng cố niềm tin ở các em.
+ Thường xuyên kiểm tra các đối tượng đó trong qua trình lên lớp.
+ Tổ chức cho học sinh học theo nhóm ở nhà để học sinh khá giỏi giúp đỡ
học sinh yếu kém tiến bộ theo nhóm nhà gần nhau. Tổ chức cho các em thi đua đôi
bạn cùng tiến ở lớp, hướng dẫn các em cách học cách giúp đỡ bạn.
+ Gặp gỡ phụ huynh học sinh trao đổi về tình hình học tập, cũng như sự tiến
bộ của con em để phụ huynh giúp đỡ thêm việc học ở nhà cho các em.
+ Chú ý tránh thái độ miệt thị, phân biệt đối xử làm cho các em nhụt chí, xấu
hổ trước bạn bè.
Tóm lại dù với đối tượng nào bản thân giáo viên phải lưu ý dùng phương
pháp tác động tình cảm, động viên khích lệ kịp thời, phối hợp với phụ huynh để
giáo dục và đặc biệt xác định vấn đề giáo dục đạo đức là then chốt.
c) Phân tổ trong lớp
- Trên cơ sở thu thập thông tin, tôi tiến hành phân học sinh theo tổ, nhóm.
- Giữa các tổ, nhóm có sự đồng đều về số lượng, tương đương về giới tính,
xếp loại học tập và rèn luyện cũng như nơi ở.
- Sau đó, tôi trao đổi cùng các thành viên trong tổ để bầu ra một bạn có khả
năng nhận thức tốt, nhanh nhẹn, nói to, rõ ràng làm tổ trưởng, nhóm trưởng.
7.1.3.2. Xây dựng đội ngũ Ban cán sự lớp
Đây là một việc quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của việc
rèn kĩ năng tự quản nói riêng và công tác chủ nhiệm nói chung. Việc bầu chọn và
xây dựng đội ngũ Ban cán sự lớp là một công việc rất quan trọng mà người giáo
viên chủ nhiệm nào cũng cần phải làm ngay sau khi nhận lớp mới.
Để xây dựng đội ngũ Ban cán sự cho lớp, tôi tiến hành các bước như sau:
Bước 1: Lựa chọn đối tượng học sinh
Ngay từ đầu năm học, tôi đã lưu ý xây dựng đội ngũ Ban cán sự cho lớp, lựa
chọn các em học sinh có thể đạt các yêu cầu sau:
- Nhận thức nhanh;
- Nhanh nhẹn, hoạt bát;
- Mạnh dạn, tự tin và có trách nhiệm cao trong các công việc được giao.
Sang học kì II, để phát huy tinh thần dân chủ và ý thức trách nhiệm đối với tập
thể nên tôi tổ chức cho các em ứng cử và bầu cử để chọn lựa ban cán sự của lớp.
Bước 2: Huấn luyện học sinh
- Huấn luyện cách làm việc cho từng học sinh
- Phân công việc làm phù hợp với từng học sinh
Bước 3: Phân công nhiệm vụ cụ thể cho Ban cán sự lớp
Sau khi lựa chọn được Ban cán sự lớp, tôi phân công nhiệm vụ cụ thể cho
từng em như sau:
- Lớp trưởng
+ Theo dõi sĩ số lớp
+ Theo dõi và nhắc nhở các bạn xếp hàng ra vào lớp đúng quy định.
+ Hô cho cả lớp chào các thầy cô khi vào lớp, ra chơi, tan học.
+ Vào đầu giờ mỗi ngày, lớp trưởng yêu cầu các bạn lấy sách ra đọc bài, ôn
lại những bài đã học trong tuần qua; hoặc ôn lại các bảng cộng, bảng trừ,...
- Lớp phó học tập
+ Theo dõi các thành viên đi học đầy đủ, đúng giờ, học tập nghiêm túc.
+ 15 phút đầu giờ kiểm tra việc chuẩn bị bài của bạn và báo cáo lại cho cô
giáo, làm cơ sở tổng kết thi đua cuối tuần.
+ Báo cáo kịp thời với giáo viên chủ nhiệm những sự việc “có vấn đề” trong
công việc học tập hàng ngày.
- Lớp phó lao động
+ Nhắc nhở các bạn thực hiện lao động tập trung, lao động trực tuần, hàng ngày.
+ Theo dõi các bạn tưới cây trong lớp, chăm sóc bồn hoa và cây trồng của lớp.
+ Theo dõi, kiểm tra các bạn khi tham gia các buổi lao động do trường, lớp tổ chức.
+ Phối hợp với lớp trưởng, lớp phó học tập giữ trật tự lớp.
- Lớp phó phụ trách văn nghệ
+ Bắt giọng lớp hát tập thể đầu giờ học hoặc những lúc chuyển tiết.
- Tổ trưởng, tổ phó: kiểm tra và nhắc nhở thành viên của tổ sắp xếp đồ
dùng học tập ngay ngắn.
Bước 4: Bồi dưỡng, tổ chức sinh hoạt, rút kinh nghiệm cho Ban cán sự
lớp
Sự trưởng thành của một tập thể lớp gắn liền với chức năng tự quản của
tập thể lớp đó. Vì vậy, giáo viên chủ nhiệm cần có kế hoạch bồi dưỡng Ban cán
sự lớp thông qua việc thực hiện các nhiệm vụ, các hoạt động giáo dục của học sinh.
Các biện pháp bồi dưỡng Ban cán sự lớp:
- Thiết kế sổ theo dõi năng lực Tự quản giúp các em. Hàng ngày, hàng
tuần Ban cán sự lớp sẽ theo dõi và báo cáo với giáo viên chủ nhiệm những việc
các bạn đã thực hiện đúng và những việc các bạn chưa làm được.
SỔ THEO DÕI HỌC SINH
TỔ 1
Thứ
Họ và tên Nội dung khuyết điểm Nội dung khen
Ngày
Thứ hai
22/ 9
Thứ ba
23/ 9
Thứ tư
24/9
Thứ năm
26/9
Thứ sáu
27/9
- Trong giai đoạn đầu hình thành tập thể lớp tự quản, giáo viên chủ nhiệm
thường xuyên đối thoại với Ban cán sự lớp. Cứ mỗi tuần, vào tiết sinh hoạt lớp,
giáo viên chủ nhiệm lại tổ chức một cuộc “đối thoại nóng” với Ban cán sự lớp để biết
cụ thể tình hình của từng học sinh trong lớp và khả năng tự quản của Ban cán sự
lớp. Cuộc đối thoại có thể thường bắt đầu bằng các gợi ý “mềm” của giáo viên:
“Theo các em thế nào là ăn mặc gọn gàng, sạch sẽ?” hoặc “Các em vi phạm nội quy
của trường sẽ ảnh hưởng như thế nào đến tập thể lớp?” Để các em tự nói cũng là
cách để các em tự đòi hỏi bản thân mình phải tự điều chỉnh làm sao cho đúng.
- Đồng thời, tôi dành thời gian cuối tiết sinh hoạt lớp để động viên, khen ngợi
những việc Ban cán sự đã làm tốt và hướng dẫn các em cách khắc phục những
khó khăn để phát huy năng lực tự quản tốt hơn.
Như vậy, giáo viên chủ nhiệm đóng vai trò là người cố vấn và bồi dưỡng
đội ngũ Ban cán sự lớp. Giáo viên chủ nhiệm không được khoán trắng hoặc biến
Ban cán sự lớp thành công cụ để quản lí lớp.
7.1.3.3. Hướng dẫn học sinh thực hiện nề nếp, nội quy của lớp.
a. Hướng dẫn học sinh thực hiện nề nếp, nội quy của lướp theo từng thời điểm
* Chuẩn bị đi học
- Phải học bài và làm bài ở nhà đầy đủ.
- Chuẩn bị đồ dùng học tập đầy đủ theo đặc trưng bộ môn.
- Vệ sinh cá nhân sạch sẽ.
- Ăn mặc đúng quy định ( mặc đồng phục vào ngày thứ hai và thứ năm hàng
tuần, không mặc quần ngố, quần đùi,...).
- Không ăn quà trước cổng trường, không mang đồ ăn, nước uống vào lớp.
- Nghe lệnh trống phải tập trung vào lớp, ổn định trật tự.
* Trong mười lăm phút đầu giờ
- Ổn định tổ chức
- Mỗi học sinh tự lấy sách vở ôn bài, không đi lại tự do trong lớp.
- Lớp trưởng phối hợp với sao đỏ cho cả lớp ôn bài.
- Các tổ trưởng làm nhiệm vụ, kiểm tra nhanh vở bài tập, dụng cụ học tập,
nền nếp của tổ mình.
* Trong giờ học
- Cả lớp đứng dậy chào thầy, cô khi vào lớp.
- Dụng cụ học tập đã để đầy đủ ở bàn trước mặt (sách giáo khoa, vở ghi, vở
bài tập, giấy nháp, thước…)
- Khi thầy, cô kiểm tra bài cũ học sinh phải nhanh nhẹn khẩn trương: trả lời
to, rõ ràng.
- Tập trung nghe giảng, không được nói chuyện, làm việc riêng, ngồi học với
tư thế ngay ngắn, không rút chân lên ghế, không dựa tường…
- Tích cực phát biểu xây dựng bài để hình thành kiến thức bài học.
- Biết sử dụng đồ dùng học một cách khoa học, tránh ồn ào gây mất trật tự.
* Trong giờ ra chơi
- Cả lớp xếp hàng ngay ngắn ra sân tập thể dục giữa giờ, thực hiện “một phút
sạch trường đẹp lớp”.
- Chơi những trò chơi lành mạnh không chạy rượt; không xô đẩy, đánh
nhau; không nói tục; không chơi những trò chơi nguy hiểm.
- Không được ra cổng trường, không được xả rác ra sân trường, lớp học,...
- Không leo trèo cửa sổ, bàn ghế, cây cối…bảo vệ tài sản của chung của trường.
* Giờ tan học
- Học sinh cần sếp sách vở vào cặp gọn gàng.
- Khi bố mẹ chưa đến đón phải ngồi ghế đá, chơi xung quanh khu vực lớp
học, không la cà trước của lớp khi lớp khác còn học.
* Trong các hoạt động ngoài giờ lên lớp
Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là những hoạt động được tổ chức
ngoài giờ học các môn học văn hoá. Qua các hoạt động này giúp hình thành và
phát triển ở học sinh các kĩ năng ban đầu, cơ bản và cần thiết phù hợp với sự
phát triển chung của học sinh như: kĩ năng giao tiếp, kĩ năng tham gia các hoạt
động tập thể, kĩ năng nhận thức,... góp phần hình thành và phát triển tính tích
cực, tự giác, tinh thần tập thể cho học sinh.
Một số hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp trong trường tiểu học:
- Hoạt động giáo dục theo chủ điểm
- Hoạt động trong giờ sinh hoạt lớp
- Hoạt động trong buổi sinh hoạt dưới cờ
- Hoạt động của Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh và Sao Nhi đồng .
Trong các hoạt động ngoài giờ lên lớp, lớp trưởng cho các bạn xếp hàng
ngay ngắn, đi thẳng hàng ra vị trí tập trung của lớp; lớp phó điểm danh và nhắc
nhở các bạn ngồi ngay ngắn, không nói chuyện riêng trong các hoạt động ngoài
giờ lên lớp.
c. Hướng dẫn học sinh thực hiện các qui định phù hợp tâm lí lứa tuổi, kết
hợp giao tiếp không bằng lời trong giờ dạy.
Học sinh dù nghịch thế nào các em cũng rất thích được đề cao, thích được
khen. Nắm bắt được tâm lí này tôi đã thống nhất với các em làm quen với các kí
hiệu như:
Ví dụ: Phía trên tay trái góc bảng ghi rõ tuần, sĩ số học sinh, dưới sĩ số là các
kí hiệu ở góc bảng: O, B, V, S
Chỉ vào O là cả lớp trật tự lắng nghe giáo viên giảng bài.
Khi viết kí hiệu B là cả lớp lấy bảng con làm bài.
Khi viết kí hiệu S là học sinh mở sách, kí hiệu V là lấy vở ra để ghi hoặc làm
bài tập tại lớp. Sau khi học sinh làm xong, giáo viên xoá các kí hiệu đó học sinh sẽ
cất sách hoặc vở.
- Thảo luận nhóm đôi, nhóm ba, nhóm bốn… học sinh ở bàn chẵn lên bàn lẻ
phía trước… 1 nhịp gõ bắt đầu thảo luận, 2 nhịp kết thúc.
- Ánh mắt nhìn thay lời gọi đọc bài, gật đầu, mời ngồi xuống.
- Khi học sinh có ý kiến phải giơ tay đúng quy định, không được đứng dậy
hoặc hô “cho em, em cô” sẽ mất quyền ưu tiên.
- Đứng phát biểu phải đứng ngay ngắn, trả lời cần thưa cô lễ phép.
Với các em hay nghịch, em học yếu tôi khéo léo sắp xếp các em một chỗ
ngồi thích hợp để dễ quản lí và tạo cơ hội cho các em nầy tham gia các hoạt động
học tập nhiều hơn (vừa sức các em), cũng là tạo cơ hội để khen ngợi, khuyến khích
giúp các em tự tin và học tập tích cực hơn.
Trong vài tuần đầu, tôi vừa ra kí hiệu vừa nhắc nhở để các em hoạt động
nhịp nhàng. Sau đó tôi không nhắc mà chỉ ra kí hiệu. Nếu có em nào thiếu chú ý
hoặc nói chuyện riêng trong lúc giảng bài tôi sẽ dừng lại để thầm nhắc nhở. Như
vậy các em sẽ biết mà tự điều chỉnh lại mình. Hạn chế việc la rầy hoặc gõ thước để
ổn định học sinh.
Giáo viên là người đồng hành cùng học sinh thực hiện tốt quá trình giáo
dục. Hành vi của giáo viên sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tâm lí cũng như sự hình
thành tính cách của học sinh. Vì vậy, giáo viên cần chú đến cách đi đứng, nói năng,
cách ăn mặc, cách cầm sách, chữ viết gọn gàng, sạch đẹp.
Ví dụ: Đầu tóc, trang phục, phải gọn gàng, kín đáo khi đến lớp, cầm sách
đúng quy định, chữ viết chân phương, rõ ràng,...
Đặc biệt, hình ảnh một giáo viên luôn chuẩn bị, sắp xếp và sử dụng tốt đồ
dùng dạy học; luôn chủ động trong giảng dạy kiến thức sẽ là tấm gương sáng cho
học sinh noi theo. Thông qua hình ảnh đẹp của giáo viên, học sinh sẽ có ý thức Tự
quảnđồ dùng học tập của mình trước khi đến lớp.
Giáo viên cần nghiên cứu kĩ các bài học, tìm các nội dung phù hợp
nhằm lồng ghép giáo dục năng lực Tự quảncho học sinh.
Ví dụ 1: Qua bài đạo đức “Gọn gàng, sạch sẽ” (Đạo đức lớp 1) giáo dục
học sinh ý thức giữ gìn vệ sinh cá nhân, đầu tóc, quần áo gọn gàng, sạch sẽ. Gọn
gàng, sạch sẽ thể hiện người có nếp sống văn minh, sinh hoạt văn hóa, góp phần
giữ gìn vệ sinh môi trường.
Ví dụ 2: Qua bài “Ăn uống hàng ngày” (Tự nhiên và xã hội lớp 1) giáo dục
học sinh ý thức tự giác trong việc ăn uống của cá nhân, ăn đủ no và uống đủ nước.
Thường xuyên tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm để hình thành và
nâng cao tinh thần trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ được giao, học tập tự giác
theo nhóm.
7.1.3.4. Thực hiện tốt nhận xét, đánh giá học sinh hàng ngày, hàng
tuần, hàng tháng
Nhằm giúp cá nhân, nhóm, tổ, lớp thực hiện tốt các yêu cầu, nội quy, quy
định, giáo viên cần phải giám sát, nhắc nhở các mặt hoạt động của lớp ngay từ
những ngày đầu. Sau một thờigian hướng dẫn, giám sát, nhắc nhở, giáo viên cần
phát huy năng lực tự quản cho các em. Các nề nếp như chào cờ, xếp hàng ra vào
lớp, thể dục, hoạt động của nhóm, tổ, lớp trong và ngoài giờ học, giáo viên cần
phân công cụ thể các cá nhân hoặc cán sự lớp nhắc nhở các bạn theo sự hướng dẫn
ban đầu của giáo viên.
Khi học sinh thiếu tập trung, chưa thực hiện tốt các năng lực Tự quảngiáo
viên cần tìm hiểu kĩ nguyên nhân, không nên trách phạt các em. Giáo viên cần có
những lời nói, cử chỉ nhẹ nhàng để động viên, khích lệ các em. Ở tuổi này, lòng tự
trọng của các em rất cao, chỉ một lời nói xúc phạm sẽ làm các em buồn.
Xây dựng bảng tham chiếu năng lực Tự quảntheo Thông tư 22, làm căn
cứ đánh giá năng lực của học sinh.
BẢNG THAM CHIẾU NĂNG LỰC TỰ PHỤC VỤ, TỰ QUẢN
HS tự vệ sinh thân
1 thể, ăn, mặc gọn 1 2 1 1 2 3 3 2
gàng sạch sẽ
HS tự chuẩn bị đồ
2 dùng học tập cá nhân 2 3 2 1 2 2 2 2
ở trên lớp, ở nhà
HS tự giác hoàn
3 thành công việc được 2 3 1 1 1 3 2 2
giao đúng hạn
STT Các biểu hiện cụ thể được quan sát Mức đạt được
ở năng lực Tự phục vụ, tự quản 1 % 2 % 3 %
Lưu ý: mức độ 1: Cần cố gắng (C); mức độ 2: Đạt (Đ), mức độ 3: Tốt (T)
Dựa vào kết quả thăm dò (trước và sau khi áp dụng) sáng kiến kinh
nghiệm và thực tế quá trình chủ nhiệm lớp, tôi thu được thực trạng sau:
- Số lượng học sinh biết tự quản bản thân, tự giác chấp hành các quy định,
yêu cầu của nhóm, lớp, giáo viên tăng lên.
- Đa số các em đều biết tự sắp xếp thời gian học tập, sinh hoạt cá nhân ở nhà
phù hợp.
- Trong các hoạt động giáo dục, các em có ý thức tự giác hoàn thành nhiệm
vụ được giao.
- Tăng tình đoàn kết, yêu thương trong lớp giữa bạn bè, thầy cô.
- Sức mạnh cá nhân và sức mạnh tập thể được phát huy cao nhằm thực hiện
tốt mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục đặt ra.
- Lớp luôn xếp loại tốt sau mỗi tuần thi đua.
10.2. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ
chức, cá nhân
- Tiết kiệm về mặt thời gian cho giáo viên chủ nhiệm nhưng vẫn thu được
hiệu quả giáo dục cao.
- Sáng kiến có tác dụng rõ rệt trong việc giúp học sinh hình thành và
nâng cao năng lực Tự quảnvà góp phần nâng cao hiệu quả học tập cho học
sinh.
11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc
áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu có)