Professional Documents
Culture Documents
Trong đó:
- Mặt khác, Pk max còn bị giới hạn bởi điều kiện bám giữa bánh xe với mặt đường:
- Điều kiện chuyển động chậm ổn định khi đầy tải :
Trong đó:
nemin : số vòng quay nhỏ nhất của trục khuỷu động cơ
Vmin: tốc độ nhỏ nhất khi ô tô chuyển động ổn định,
Vmin= (3…5)km/h.Chọn Vmin=4,5 km/h= 1,25 m/s
m/s
VÍ DỤ BẢN VẼ
Có thể hiểu rõ hơn các kích thước cũng như kêys cấu của bánh răng thông qua bản
vẽ chi tiết của bánh răng bị động và chủ động của cặp số 2. Các cặp bánh răng còn
lại được thiết kế tương tự. Riêng bánh răng chủ động số 6 được gắn liền với trục sơ
cấp, bánh răng chủ động 1 và lùi cũng được chế tạo liền trục
TÍNH BỀN
-
- Lực hướng tâm R= P.tg/cos (N)
- Lực dọc trục Q = P.tg
Lực vòng tác dụng lên răng tại tâm ăn khớp P:
Với
K: Hệ số bổ sung, tính đến sự tập trung ứng suất, độ trùng khớp,
ma sát bề mặt tiếp xúc, biến dạng các gối đỡ và trục…
- Với bánh răng trụ răng thẳng: K=0,36 (2)
- Với bánh răng trụ răng nghiêng: K=0,24 (3)
P: Lực tiếp tuyến tác dụng lên bánh răng, [N]
b: Chiều rộng của vành bánh răng, [m]
b = 50 mm = 50 x10-3 (m)
y: Hệ số dạng răng; với cặp bánh răng nghiêng không điều
giá trị ứng suất uốn tính toán theo biểu thức (1) trên không được vượt quá 850
[MPa] đối với số thấp và số lùi; ở các số cao không được vượt quá 400 [MPa].
+ Tính bền theo ứng suất tiếp xúc
= b.tg/ts = b.sin/(mn.) 1
Điều kiện 2: lực chiều trục tác dụng các bánh răng nghiêng của trục trung
gian phải tự cân bằng, để giảm lực tác dụng các ổ trục. Muốn vậy, hướng nghiêng
của tác cả các bánh răng trên trục phải giống nhau và thoả mãn điều kiện:
tgi/ tg1 = ri/r1
Ở đây: i và ri - góc nghiêng và bán kính vòng lăn của bánh răng tay số i trên
trục trung gian; 1 và r1 - góc nghiêng và bán kính vòng lăn của bánh răng luôn luôn
ăn khớp của bánh răng trục sơ cấp.
Thực tế, lực chiều trục không thể cân bằng hoàn toàn và trên ô tô người ta sử
dụng các bánh răng có góc nghiêng khác nhau, để tại điều kiện thuận lợi cho công
nghệ và sửa chữa.
Theo số liệu thống kê, góc nghiêng các bánh răng hộp số ô tô hiện nay nằm
trong khoảng: = 180300 chọn = 220
chỉ tiêu cơ bản để tính BT BR là tính về độ bền tiếp xúc của mặt răng làm việc và độ bền
uốn của chân răng, trong đó các ứng suất sinh ra phải nhỏ hơn một giá trị cho phép,sau đó
kiểm nghiệm răng về quá tải.
QUY TRÌNH CHẾ TẠO BÁNH RĂNG: gồm 3 bước: gia công thô trước khi chế tạo
bánh răng, xử lý nhiệt trong chế tạo bánh răng và cào răng trong chế tạo bánh răng.
Trong quá trình thấm cacbon (cacbon hóa), kim loại được đưa vào một môi trường giàu
cacbon, thường là khí methane hoặc khí propane, ở nhiệt độ cao từ 850 đến 950 độ C
trong một thời gian nhất định. Cacbon sẽ thẩm nhập vào bề mặt của kim loại và tạo thành
lớp vỏ cứng và giàu cacbon, còn phần bên trong vẫn giữ nguyên tính dẻo. Quá trình này
được thực hiện trong lò nung hoặc lò carburizing và thường kéo dài từ vài giờ đến vài
ngày tùy thuộc vào kích thước của chi tiết kim loại. Sau khi hoàn thành quá trình
carburizing, kim loại được ram để giảm ứng suất bên trong và ngăn chặn biến dạng.
Một cách xử lý điển hình cho bánh răng làm bằng thép carbon thấp như S15CK.
Sau khi được “cacbon” thẩm thấu đúng như tên gọi, bề mặt kim loại được làm nguội
nhanh và ram để cứng lại. Độ dày của lớp tôi cứng là 0,2 mm đến 2 mm tùy thuộc vào
kích thước bánh răng.
Trước đây, người ta thường bọc kim loại bằng carbon nghiền nhỏ trước khi hàn kín và
nung nóng. Ở châu Âu, các sản phẩm được nhúng trong muối vô cơ gốc natri xyanua
nóng chảy ở nhiệt độ cao, nhưng độc tính của natri xyanua là một vấn đề. Hiện nay,
phương pháp thấm cacbon, trong đó các sản phẩm được nung nóng trong khí carbon
dioxide, metan, propan và hơi nước được sử dụng chủ yếu. Mặc dù quá trình thấm
cacbon đắt đỏ vì cần có thiết bị đặc biệt lớn, nhưng một khối lượng lớn sản phẩm có thể
được xử lý hiệu quả.
Quá trình thấm cacbon thường được thực hiện sau khi bánh răng được gia công và răng
bánh răng được hình thành. Sau đó, bề mặt răng được mài và đánh bóng bề mặt.
Một cách xử lý điển hình cho bánh răng làm bằng thép carbon trung bình như S45C.
Khi bánh răng kim loại, được quấn quanh 1 cuộn dây dẫn và được cấp 1 nguồn điện cao
tần, sẽ sinh ra dòng điện xoáy (eddy current) nhờ hiện tượng cảm ứng điện từ, dòng điện
xoáy này tạo ra một trường từ phản kháng, làm tăng nhiệt độ bánh răng.
Tôi cứng cảm ứng tận dụng đặc tính của dòng điện xoáy tập trung ở bề mặt kim loại và
làm nung nóng kim loại.
Làm cứng cảm ứng rất khác nhau về độ chính xác và có thể xử lý ít sản phẩm hơn cùng
một lúc, so với các phương pháp khác như thấm cacbon. Mặt khác, phương pháp này phù
hợp để gia công các sản phẩm có bánh răng trục liền hoặc bánh răng lớn vì răng bánh
răng có thể được làm cứng một phần.
Thường được sử dụng cho các bánh răng làm bằng thép có chứa crôm hoặc molypden.
Trong số các loại thép thích hợp cho thấm nitơ, thép có chứa nhôm tạo ra hiệu ứng đặc
biệt mạnh mẽ và được gọi là “thép thấm nitơ”.
Trong quá trình thấm nitơ (nitrat hóa), các bánh răng được nung nóng trong khí nitơ (N2)
để tạo thành một lớp sắt nitrua có độ dày từ 0,1 mm đến 1 mm trên bề mặt bánh răng.
Thấm nitơ có thể cho độ cứng cao hơn thấm cacbon và tôi cao tần, nhưng lớp được làm
cứng bằng thấm nitơ mỏng hơn so với các phương pháp xử lý nhiệt khác. Trong khi đó,
nhiệt độ cần thiết để thấm nitơ tương đối thấp, từ 500 đến 600 độ C. Ngược lại, các sản
phẩm cần được nung nóng tới 800 độ C trong quá trình tôi thấm cacbon và tôi cao tần.
Do đó, thấm nitơ không gây ra các vết nứt hoặc biến dạng xoắn khi làm nguội nhanh như
các phương pháp nhiệt luyện khác.
Thông thường, thấm nitơ được thực hiện ở bước cuối cùng của quá trình gia công bánh
răng vì nó không gây biến dạng và cho độ cứng cao.