You are on page 1of 8

TÌNH HUỐNG TRUYỆN

.
Trong bài viết Truyện ngắn hôm nay (đăng trên báo Văn nghệ, số 48, ngày 30/11/1991),
Nguyễn Đăng Mạnh viết: “Quan trọng nhất của truyện ngắn là tạo ra một tình huống nào đấy,
từ tình huống ấy bật nổi một bản chất tính cách nhân vật hoặc bộc lộ một tâm trạng”. Nhà văn
Nguyễn Kiên cũng cho rằng: “Điều quan trọng đối với truyện ngắn là phải lựa chọn được tình
thế” (Bùi Việt Thắng, Bình luận truyện ngắn, NXB VH, H. 1999, tr.43). Nhà thơ Hữu Thỉnh
cũng quan niệm truyện ngắn phải “tạo ra các tình huống để nhân vật bộc lộ tính cách” (Bùi
Việt Thắng, Bình luận truyện ngắn, NXB VH, H. 1999, tr.42). Như vậy, từ người nghiên cứu
đến người sáng tác đều thừa nhận vai trò quan trọng của tình huống đối với sự thành công của
một truyện ngắn. Tuy nhiên, việc khai thác, tìm hiểu, khám phá truyện ngắn từ góc độ tình
huống truyện chưa được sự quan tâm đúng mức của người dạy và người học nên việc cảm thụ
tác phẩm truyện ngắn của người học chưa được sâu sắc.
Theo chúng tôi, ngoài việc tiếp cận tác phẩm truyện ngắn qua phân tích nhân vật, cốt
truyện, kết cấu, ngôn ngữ..., chúng ta còn có thể tiếp cận từ tình huống của truyện để làm nổi
bật được giá trị của tác phẩm. Một số tác phẩm truyện ngắn nên tiếp cận từ hướng này: Vợ nhặt
(Kim Lân), Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu), Những đứa con trong gia đình
(Nguyễn Thi), Đôi mắt (Nam Cao), Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân), Vi hành (Nguyễn Ái
Quốc), Tinh thần thể dục (Nguyễn Công Hoan), Hai đứa trẻ (Thạch Lam)...
1. Khái quát về tình huống truyện trong truyện ngắn
1.1. Khái niệm truyện ngắn
Nhận diện thể loại truyện ngắn cũng như sáng tạo về thể loại truyện ngắn là một nỗ lực
liên tục cho cả người sáng tác và giới nghiên cứu phê bình. Từ W. Gớt thế kỷ XVII cho đến
Sêkhốp, từ Lỗ Tấn đến Môpatxăng, từ Antônốp thế kỷ XIX - XX, đến Nguyễn Công Hoan,
Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Kiên… họ đã đưa ra những cách phân biệt khác nhau. Các khái
niệm thường xoáy vào bình diện chính: dung lượng, cốt truyện, nhân vật, chi tiết, ngôn ngữ…
để khái quát thành đặc trưng. Người cho truyện ngắn là một “khoảnh khắc”, một “trường hợp”,
người nhấn mạnh vào nhân vật, vào tính súc tích của chi tiết, cô đúc của ngôn từ… Ở phần chủ
yếu, chúng ta có thể hình dung: truyện ngắn là một tác phẩm tự sự cỡ nhỏ mà nội dung thường
chỉ xoay quanh một tình huống truyện chủ chốt nào đó.
1.2. Khái niệm và vai trò của tình huống truyện
Theo Hêghen, nhà triết học, mỹ học lỗi lạc người Đức (1770- 1831) trong tác phẩm nổi
tiếng Mỹ học đã dành nhiều trang viết về tình huống: “Nói chung tình huống là một trạng thái
có tính chất riêng biệt và trở thành được quy định. Ở trong thuộc tính này của nó, tình
huống góp phần biểu lộ nội dung là cái phần có được một sự tồn tại bên ngoài bằng sự biểu
hiện nghệ thuật”.
Nhà văn Nguyễn Minh Châu cho rằng: “Với truyện ngắn và với một tác giả có kinh
nghiệm viết, tôi nghĩ rằng đôi khi người ta nghĩ ra được một cái tình thế xảy ra chuyện, thế
là coi như xong một nửa…Những nhà văn có tài đều là những người có tài tạo ra những
tình thế xảy ra chuyện vừa rất cá biệt vừa mang tính phổ biến hoặc tượng trưng” và “…
những người cầm bút có cái biệt tài có thể chọn ra trong cái dòng đời xuôi chảy một khoảnh
khắc thời gian mà ở đó cuộc sống đậm đặc nhất, chứa đựng nhiều ý nghĩa nhất, một khoảnh
1
khắc cuộc sống…nhưng bắt buộc con người ở vào một tình thế phải bộc lộ ra cái phần tâm
can nhất, cái phần ẩn náu sâu kín nhất, thậm chí có khi là khoảnh khắc chứa đựng cả một
đời người, một đời nhân loại” (Nguyễn Minh Châu, Trang giấy trước đèn, NXB KHXH, H.
1994, tr. 258).
Như vậy, tình huống còn được gọi là tình thế và các nhà văn Việt Nam quen dùng tình
thế hơn là tình huống. Nhà văn Nguyễn Kiên đã hơn một lần nói về bản chất và vai trò của tình
huống: “Theo quan niệm của tôi, mỗi truyện ngắn chỉ tập trung vào một tình thế nảy sinh
trong cuộc sống. Nếu truyện ngắn có đến hơn một tình thế thì truyện ngắn đó lập tức bị phá
vỡ”. (Nhiều tác giả, Nghệ thuật viết truyện ngắn và ký, NXB Thanh niên, H. 2000, tr. 44).
Nhà văn Nguyên Ngọc khi bàn về truyện ngắn đã đặc biệt chú ý đến vấn đề tình huống:
“Truyện ngắn dẫu sao cũng phải ngắn, do đó thủ thuật chủ yếu của truyện ngắn là thủ thuật
điểm huyệt […] Truyện ngắn điểm huyệt thực hiện bằng cách nắm bắt trúng những tình
huống cho phép phơi bày cái chủ yếu nhưng lại bị che giấu trong muôn mặt cuộc sống hàng
ngày”. (Bùi Việt Thắng, Truyện ngắn - những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại, NXB
ĐHQGHN, H. 2000, tr. 114).
Từ một số ý kiến trên, có thể khái quát về tình huống truyện như sau: Đối với truyện
ngắn, tình huống giữ vai trò là hạt nhân của cấu trúc thể loại, nó chính là cái hoàn cảnh
riêng được tạo nên bởi một sự kiện đặc biệt khiến cho tại đó, cuộc sống hiện lên đậm đặc
nhất và ý đồ tư tưởng của tác giả cũng được bộc lộ sắc nét nhất.
1.3. Phân loại tình huống
Hiện nay, còn nhiều cách phân loại tình huống khác nhau: Cơ bản có 3 cách phân loại như sau:
Cách thứ nhất: Chia tình huống thành các kiểu: Tình huống kịch; Tình huống tâm
trạng; Tình huống tượng trưng.
Cách thứ hai: Chia tình huống thành các kiểu: Tình huống thắt nút; Tình huống tương
phản; Tình huống luận đề.
Cách thứ ba: Chia tình huống thành các kiểu: Tình huống hành động; Tình huống
tâm trạng; Tình huống nhận thức.
Trong ba cách phân loại trên, thì cách phân loại thứ 3 có lẽ dễ tiếp nhận, phù hợp với
giáo viên và học sinh THPT. Theo cách phân loại này, thì ba loại tình huống nêu trên tạm thời
được TS Chu Văn Sơn phân biệt như sau:
Tình huống hành động: Là loại sự kiện đặc biệt mà trong đó nhân vật bị đẩy tới một tình
thế (thường là éo le) chỉ có thể giải quyết bằng hành động. Tình huống này thường hướng tới
một kiểu nhân vật: Nhân vật hành động. Tức là loại nhân vật chủ yếu được hiện lên bằng hệ
thống hành vi, hành động của nó, các bình diện khác ít được quan tâm. Do đó, nó quyết định
đến diện mạo của toàn truyện: truyện ngắn giàu kịch tính.
Tình huống tâm trạng: Đó là sự kiện đặc biệt của đời sống mà ở đó nhân vật rơi vào một
tình thế làm nảy sinh một biến động nào đó trong thế giới tình cảm. Tình huống này thường dẫn
tới một kiểu nhân vật là: con người tình cảm. Nghĩa là kiểu nhân vật được hiện lên chủ yếu
bằng thế giới nội cảm của nó, nhà văn tạo dựng nên hình tượng nhân vật chủ yếu bằng một hệ
thống chất liệu là cảm giác, cảm xúc với các phức hợp khác nhau của chúng. Còn các khía cạnh
khác (như ngoại hình, hành động, lí tính…) ít được quan tâm. Và vì thế, nó quyết định đến diện
mạo của toàn truyện: truyện ngắn trữ tình.
2
Tình huống nhận thức: Đó là sự kiện đặc biệt của đời sống mà tại đó nhân vật được đẩy
tới một tình thế bất thường: đối mặt với một bài học nhận thức, bật lên một vấn đề (về nhân
sinh, về nghệ thuật) cần phải vỡ lẽ, giác ngộ. Kiểu nhân vật của dạng tình huống này đương
nhiên là: nhân vật tư tưởng. Nghĩa là kiểu nhân vật được khai thác chủ yếu ở đời sống nhận
thức lí tính của nó. Chất liệu cơ bản để dệt nên nhân vật là hệ thống những quan sát, phân tích,
suy lí, đúc kết, chiêm nghiệm,… Mà trường hợp đậm đặc nhất là mỗi nhân vật giống như một tư
tưởng được nhân vật hoá vậy. Diện mạo của loại truyện ngắn này cũng đương nhiên là nghiêng
về triết luận.
Sự phân loại như trên là tương đối. Trong thực tế, các dạng ấy đều ít nhiều có tính pha
tạp chứ không hoàn toàn"thuần chủng" như mô tả. Viêc nhận diện chỉ dựa vào sự nổi trội của
yếu tố nào đó.
1.4. Phương pháp tiếp cận tình huống
Theo TS. Chu Văn Sơn, quy trình tiếp cận tình huống gồm các bước sau:
1.4.1. Xác định tình huống truyện :
-Đặt câu hỏi: Sự kiện nào bao trùm và chi phối toàn bộ thiên truyện này? Hay sự kiện bao
trùm nào đã giúp tác giả dựng lên toàn bộ truyện ngắn này?...
-Tổng hợp các tình tiết: Lướt qua những tình tiết chính và xác định một trong các tình tiết
ấy đóng vai trò bao trùm, chi phối quán xuyến toàn truyện, hay chúng chỉ là những thành tố nối
kết với nhau để làm thành một sự kiện lớn hơn, sự kiện ấy mới trùm lên tất cả?
-Tìm tên gọi để định danh. Đây là khâu khá then chốt, chưa tìm được tên thích hợp thì
xem như tình huống vẫn còn nằm ngoài tầm tay của ta vậy.
1.4.2. Phân tích tình huống: Cần phân tích trên các bình diện cơ bản sau:
-Diện mạo của tình huống (bình diện không gian)
-Diễn biến của tình huống (bình diện thời gian)
-Mối liên kết của tình huống với các khâu khác của tác phẩm (chi phối đến tổ chức hình thức
của văn bản nghệ thuật truyện ngắn)
1.4.3. Rút ra ý nghĩa tư tưởng của tình huống: Thông điệp thẩm mĩ mà tình huống
chứa đựng
-Về quan niệm: Toát lên quan niệm gì về nhân sinh, thẩm mĩ ?
-Về cảm xúc: Chứa đựng cảm xúc chủ đạo gì ?
2. Một số tác phẩm truyện ngắn từ góc độ tình huống truyện
2.1. Tác phẩm Vợ nhặtcủa Kim Lân
2.1.1. Xác định tình huống
Sau khi lướt qua các tình tiết chính của truyện này, ta dễ dàng thấy rằng hạt nhân của
truyện ngắn Vợ nhặt là một cuộc hôn nhân oái ăm, kì lạ. Và đó chính là cái "tình thế nảy ra
truyện", cái tình huống của câu chuyện: Tràng – anh nông dân nghèo thô kệch, dân ngụ cư bỗng
“nhặt” được vợ trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.
2.1.2. Phân tích tình huống truyện
-Việc Tràng “nhặt vợ” tạo ra sự lạ lùng, ngạc nhiên đối với tất cả mọi người:
+Khi Tràng dẫn vợ về thì cả xóm ngụ cư ngạc nhiên. Trước hết là lũ trẻ. "Lũ ranh" ấy
bỗng nhiên mất hẳn đi một bạn chơi, khi có đứa chợt nhận ra quan hệ của họ là "chồng vợ hài".

3
Còn đám người lớn thì ngớ ra "không tin được dù đó là sự thật". Khi đã rõ, họ tò mò thì ít mà ái
ngại nhiều hơn: "Giời đất này còn rước cái của nợ đời về".
+Tiếp đến là bà cụ Tứ cũng quá đỗi ngạc nhiên: hoàn toàn không tin nổi - không tin vào
mắt mình (ngỡ mình trông gà hoá cuốc), không tin vào tai mình (quái, sao lại chào mình bằng
"u").
+Ngay cả Tràng vẫn không hết ngạc nhiên vì mình được vợ: chẳng những cứ đứng "tây
ngây" giữa nhà tối hôm trước mà đến tận hôm sau, qua một đêm có vợ rồi nhưng "hắn cứ lơ
lửng như người đi ra từ trong một giấc mơ".
-Tình huống “nhặt vợ” là tình huống oái ăm, kì lạ:
+ Tràng - một gã trai nghèo khổ, thô kệch, lại là dân ngụ cư, lâu nay ế vợ, bỗng dưng
"nhặt" được vợ, mà lại là vợ theo không.
+ Tràng lấy vợ vào lúc không ai lại đi lấy vợ - giữa những ngày nạn đói đang lăm le cướp
đi mạng sống của mỗi người.
+ Một đám cưới thiếu tất cả mà lại như đủ cả (thiếu tất cả những lễ nghi tối thiểu nhất của
một đám cưới, nhưng nó lại có cái quan trọng nhất, cốt lõi nhất: sự thương yêu gắn bó thực
lòng).
-Tâm trạng của những nhân vật trước tình huống này chứa đầy những cảm xúc
ngổn ngang, mâu thuẫn và các nhân vật có sự thay đổi về tính cách:
+Bà cụ Tứ vui vì cuối cùng con mình cũng có vợ nhưng lại tủi vì sự trớ trêu của số phận:
có phải thời “tao đoạn” như thế, người ta mới chịu lấy con mình? Bà mẹ nghèo nặng trĩu những
lo âu cho tương lai con “liệu chúng nó có nuôi nhau nổi sống qua được cơn đói khát này
không?”. Câu hỏi từ đáy lòng của bà mẹ chất chứa nỗi hoang mang, ám ảnh của kiếp nghèo
không lối thoát. Trong lời nghẹn nghào tâm sự có cả sự xót xa, một chút ân hận vì đã không làm
được đầy đủ bổn phận của người mẹ đối với con.
+Tâm trạng của Tràng cũng biến đổi liên tục. Lúc đầu Tràng tỏ ra lo lắng trước cảnh nghèo “…
thóc gạo này mà còn đèo bòng”. Sau đó, Tràng chấp nhận đưa vợ về ra mắt với tâm trạng lâng
lâng hạnh phúc, ngượng ngịu, bối rối. Sau một ngày có vợ, Tràng cảm thấy vui sướng, hạnh
phúc và “nên người”. Tràng nhận ra được trách nhiệm của bản thân đối với gia đình, với mẹ,
với vợ và những đứa con sau này. Tràng tin tưởng sự đổi đời ở tương lai.
+Người vợ nhặt: Trước khi làm vợ Tràng, chị liều lĩnh, chao chát. Khi về làm vợ, chị tỏ
ra lễ phép, đảm dang, hiền hậu, biết thu vén gia đình và có hiểu biết về thời sự.
2.1.3. Ý nghĩa tư tưởng của tình huống truyện
-Tố cáo được tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật, kẻ đã gây ra nạn đói khủng
khiếp, không chỉ cướp đi sinh mệnh của mấy triệu người Việt Nam, mà còn hạ thấp giá trị con
người.
-Phát hiện và khẳng định bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của con người: ngay trên
bờ vực của cái chết, họ vẫn hướng về sự sống, khát khao tổ ấm gia đình và thương yêu đùm bọc
lẫn nhau.
2.2. Tác phẩm Những đứa con trong gia đìnhcủa Nguyễn Thi
2.2.1. Xác định tình huống
Đây là câu chuyện về gia đình của anh Giải phóng quân tên Việt. Nhân vật này rơi vào
tình huống đặc biệt: trong một trận đánh, Việt bị thương phài nằm lại giữa chiến trường. Anh
4
nhiều lần ngất đi rồi tỉnh lại, tỉnh lại rồi ngất đi. Trong những lúc tỉnh lại ngất đi đó, bao nhiêu
kí ức về gia đình, về đồng đội, về bản thân cứ mồn một hiện về lung linh sống động trong tâm
trí Việt.
2.2.2. Phân tích tình huống
-Nhờ tình huống truyện, tác phẩm có một lối tự sự riêng. Lối tự sự, kể chuyện không
hoàn toàn theo trật tự thời gian mà chủ yếu theo dòng hồi tưởng miên man đứt nối của Việt lúc
bị thương nằm lại giữa chiến trường mênh mông bóng tối - bóng tối của màn đêm, bóng tối do
đôi mắt bị thương không thể nhìn thấy gì bên ngoài. Chính nhờ cách trần thuật này mà mạch
truyện đi về thoải mái giữa quá khứ và hiện tại; giữa cái đang ở trước mặt với cái đã thành kỉ
niệm xa xưa.
-Dòng ý thức của Việt chập chờn giữa những lần tỉnh, ngất ấy đã lần lượt tái hiện những
gì đã qua, đang có trong đời anh. Dòng nội tâm anh đứt nối, nối đứt đã tái hiện bao nét sinh
động cụ thể về chú Năm, má , chị Chiến:
+Má:
* Có cuộc sống cơ cực, nhọc nhằn, khổ đau.
* Rất mực yêu thương chồng con và căm thù giặc sâu sắc: đi đòi đầu chồng; thương con hết
mực nhưng rất nghiêm khắc (trong hồi ức chập chờn của Việt, má hiện lên đầu tiên: ghé lại, xoa
đầu, đánh thức, lấy cơm cho Việt ăn…); luôn luôn nhắc nhở con về truyền thống gia đình và
mối thù dân tộc; hun đúc, nuôi dưỡng ở con ý chí chiến đấu không mệt mỏi.
+ Chú Năm:
* Có giọng hò: tiếng hò vừa nhắc nhớ về truyền thống, thắp lên niềm tự hào về quê hương khó
nghèo nhưng bất khuất, vừa như lời hiệu triệu, một tiếng trống quân thúc giục động viên thanh
niên ra trận.
* Giữ cuốn sổ gia đình, ghi từng ngày thay cho Việt và Chiến -> giữ lửa yêu nước truyền cho
các thế hệ.
* Yêu nước, gắn bó với quê hương tha thiết, căm thù giặc sâu sắc.
+ Chị Chiến:
* Yêu thương và luôn nhường nhịn Việt, trừ việc giành đi bộ đội với Việt.
* Mang những phẩm chất của má: đảm đang, tháo vát, sắp xếp chu đáo mọi việc trước khi lên
đường nhập ngũ; bộc trực, quyết liệt, gan góc, quyết không đội trời chung với kẻ thù.
-Qua dòng hồi ức của nhân vật Việt, người đọc thấy hiện lên hình ảnh của một chàng trai mới
lớn rất hồn nhiên, vô tư mà dũng cảm, gắn bó với những người thân và giàu tinh thần trách
nhiệm với truyền thống của gia đình, quê hương:
+ Tính cách trẻ con, hồn nhiên, vô tư: tranh đi bộ đội, tranh bắt ếch với chị; trong khi chị Chiến
lo toan thu xếp việc gia đình thì Việt “lăn kềnh ra ván cười”, vừa nghe vừa “chụp một con đom
đóm úp trong lòng tay” rồi ngủ quên lúc nào không biết; đi đánh giặc vẫn đeo ná thun; không sợ
giặc nhưng lại sợ ma; mỗi lúc tỉnh lại ngoài chiến trường, Việt nhớ về gia đình, thèm được má
cưng chiều…
+ Tình cảm gắn bó và ý thức trách nhiệm với truyền thống gia đình:
* Gắn bó, yêu thương những người thân: tình cảm gia đình được thể hiện qua dòng hồi ức của
Việt về ba má, chú Năm, chị Chiến…

5
* Có ý thức trách nhiệm thiêng liêng của một đứa con với truyền thống gia đình: lòng căm thù
giặc, khát vọng cầm súng chiến đấu trả thù cho ba má, bảo vệ gia đình, quê hương…
* Chiến đấu gan góc, quả cảm: diệt được xe bọc thép của giặc; bị thương nặng, lạc đồng đội,
trong hồi ức đứt nối nhưng luôn thường trực nung nấu: tìm về với anh em, để tiếp tục đấu tranh;
một mình ở lại giữa chiến trường nhưng vẫn sẵn sàng trong tư thế chiến đấu…
-Cách trần thuật này rất hữu hiệu trong việc thể hiện nội dung tư tưởng chủ đạo: gia đình là cội
nguồn sâu thẳm nhất của con người, và truyền thống gia đình là thực sự thiêng liêng, vì nó đã
hiện lên trong một thời khắc thiêng liêng.
-Cách kể chuyện này có hai tác dụng về nghệ thuật: câu chuyện vừa được kể, cũng là lúc tính
cách nhân vật được khắc họa; câu chuyện trở nên mới mẻ, hấp dẫn vì được kể qua con mắt,
tấm lòng và bằng ngôn ngữ, giọng điệu riêng của nhân vật.
2.2.3. Ý nghĩa tư tưởng của tình huống truyện
Nhà văn dựng tình huống tâm trạng nên trần thuật theo dòng ý thức của nhân vật. Qua
đó thể hiện:
-Phẩm chất anh hùng của người nông dân Nam Bộ với ý tưởng nghệ thuật: người anh hùng là
sản phẩm của một thời đại, đồng thời là sản phẩm của một truyền thống gia đình.
-Ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ cứu
nước.
-Sự hòa quyện giữa tình cảm gia đình và tình cảm yêu nước, giữa truyền thống gia đình và
truyền thống dân tộc đã tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn của con người Việt Nam trong kháng
chiến chống Mỹ cứu nước.
2.3. Tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xacủa Nguyễn Minh Châu
2.3.1. Xác định tình huống
Truyện ngắn xoay quanh một tình huống chủ chốt: Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng tìm vào
vùng quê miền biển mong chụp được bức ảnh nghệ thuật về làm lịch và tưởng đã thành công
khi thu vào ống kính khung cảnh chiếc thuyền ngoài xa đẹp như một giấc mơ. Nhưng ngay sau
đó, anh đã phải chứng kiến một nghịch cảnh trớ trêu: cảnh bạo hành trong một gia đình hàng
chài vừa bước xuống từ con thuyền ấy. Những ngày sau, cảnh bạo hành đó vẫn tiếp diễn. Chánh
án Đẩu đã mời người đàn bà làng chài đến tòa án để giải quyết chuyện gia đình của chị.
2.3.2. Phân tích tình huống
- Tình huống truyện được tạo nên bởi nghịch cảnh giữa vẻ đẹp chiếc thuyền ngoài xa với
cái thật gần là sự ngang trái trong gia đình thuyền chài. Sau nhiều ngày “phục kích”, Phùng mới
được “một cảnh “đắt” trời cho”. Nó giống như “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời
cổ”. Toàn bộ khung cảnh “từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn
giản và toàn bích”. Nhưng oái oăm thay, cảnh đẹp nhất, có hồn nhất lại là cảnh ẩn chứa những
điều tệ hại nhất, xót xa nhất: bước ra từ thuyền là một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi; một người
đàn ông to lớn dữ dằn; một cảnh tượng tàn nhẫn: gã chồng đánh đập vợ một cách thô bạo; đứa
con thương mẹ, đánh lại cha.
-Cuộc gặp gỡ của Đẩu, Phùng và người đàn bà hàng chài ở tòa án đã đẩy tình huống
truyện lên tầm cao của giá trị nhận thức. Chánh án Đẩu đứng về phía người vợ để khuyên chị ly
hôn nhưng thật bất ngờ, bằng những lý lẽ rất chân tình, người vợ từ chối, thậm chí van xin tòa
án cho chị không bỏ chồng. Theo chị, gã chồng là chỗ dựa quan trọng của người phụ nữ làng
6
chài, nhất là khi biển động phong ba. Hơn nữa, chị còn có những đứa con, chị phải sống vì con,
sống cho con chứ không thể sống vì bản thân. Và trên thuyền cũng có những lúc vợ chồng con
cái sống vui vẻ.
Qua câu chuyện của người đàn bà ở tòa án, chúng ta hiểu thêm về nguyên nhân bi kịch
và tính cách của các nhân vật:
+Gánh nặng mưu sinh đã làm cho người chồng thay đổi tính cách từ hiền lành sang thô bạo.
Người chồng vừa là nạn nhân của cuộc sống đói nghèo vừa là thủ phạm gây ra nỗi đau cho vợ
và con.
+Người vợ là một phụ nữ nhẫn nhịn, cam chịu, giàu lòng vị tha, bao dung, giàu lòng thương
con. Chị thấu hiểu sâu sắc lẽ đời.
+Đẩu hiểu được nguyên do người đàn bà không thể bỏ chồng là vì những đứa con. Anh
vỡ lẽ ra nhiều điều trong cách nhìn nhận cuộc sống. Anh hiểu rằng, con người và cuộc sống
phong phú, phức tạp chứ không dễ dàng lý giải và can thiệp như anh tưởng lúc ban đầu.
+Phùng như thấy chiếc thuyền nghệ thuật ở ngoài xa, còn sự thật cuộc đời lại ở rất gần.
Cái đẹp ngoại cảnh anh ngỡ là hoàn hảo, toàn bích có thể che khuất cái bề bộn, ngổn ngang của
đời sống. Bề ngoài nhếch nhác, lam lũ, cơ cực lại có thể chứa đựng những vẻ đẹp tiềm ẩn trong
con người. Câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện giúp anh hiểu rõ hơn cái có lí trong cái
tưởng như nghịch lí ở gia đình thuyền chài. Anh hiểu thêm tính cách của Đẩu và hiểu thêm
chính mình.
2.3.3. Ý nghĩa tư tưởng của tình huống truyện
Tình huống truyện chứa đựng những suy ngẫm, phát hiện sâu sắc của nhà văn về cách
để nhìn nhận, đánh giá con người, cuộc sống và về mối quan hệ giữa nghệ thuật với hiện thực,
người nghệ sĩ với cuộc đời:
+Cuộc đời không đơn giản, xuôi chiều mà chứa đựng nhiều nghịch lý. Cần nhìn nhận mọi sự
việc, hiện tượng trong hoàn cảnh cụ thể của nó và trong mối quan hệ với nhiều yếu tố khác nữa.
+ Muốn giúp đỡ con người không chỉ dựa vào thiện chí hay kiến thức sách vở mà phải thấu hiểu
cuộc sống của họ và có những biện pháp thiết thực.
+Con người ta luôn phải nhìn lại mình. Hoạt động tự ý thức khiến con người ngày càng hoàn
thiện hơn.
+Nghệ thuật chân chính không bao giờ rời xa cuộc sống. Nghệ thuật chân chính là cuộc
sống và phải luôn luôn vì cuộc sống.
3. Kết luận
+Khi phân tích tình huống cần theo các bước:
* Xác định tình huống.
* Phân tích diễn biến tình huống.
* Rút ra ý nghĩa tư tưởng của tình huống truyện.
+Hạt nhân của thể loại truyện ngắn là tình huống truyện nhưng cũng không phải là yếu tố duy
nhất để thể hiện hết chủ đề, tư tưởng và ý dồ nghệ thuật của nhà văn. Do đó, khi phân tích tình
huống truyện cần phải phân tích nhân vật, giọng điệu, kết cấu… để có sự đánh giá một cách
toàn diện và sâu sắc hơn.
+Khai thác và giảng dạy truyện ngắn từ góc độ tình huống không phải là một hướng đi mới mà
chỉ là một phương pháp hiệu quả để khám phá tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Chính vì vậy, vấn
7
đề này cần được ứng dụng rộng rãi hơn vào việc nghiên cứu, giảng dạy truyện ngắn nói chung
và giảng dạy truyện ngắn ở trường phổ thông nói riêng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Minh Châu (1994), Trang giấy trước đèn, NXB KHXH, Hà Nội.
2. Hà Minh Đức (chủ biên) (2006), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
3. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
4. Nguyễn Thị Dư Khánh (2009), Thi pháp học và vấn đề giảng dạy văn học trong nhà
trường, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
5. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên) (2008), Ngữ văn 12 (tập 1 và tập 2), Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
6. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên) (2008), Ngữ văn 12 – Sách giáo viên (tập 1 và tập 2),
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
7. Phương Lựu (Chủ biên) (1997), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
8. Chu Văn Sơn,Chuyên đề Truyện ngắn (Tài liệu dạy lớp Cao học).
9. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn - những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại, Nxb
Đại học quốc gia, Hà Nội.
10. Trang web (Khai thác và giảng dạy truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa từ góc độ tình
huống truyện - Hồ Viết Cường)

You might also like