You are on page 1of 15

Chương 1: Cơ sở lý luận về chuyển giao công nghệ nước ngoài

1.1. Công nghệ


1.1.1. Định nghĩa
Theo Khoản 2 điều 3 của Luật chuyển giao công nghệ năm 2017 đã định nghĩa,
công nghệ là các giải pháp, quy trình hoặc bí quyết kỹ thuật có kèm theo hoặc không thèm
theo công cụ, phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm.
1.1.2. Các yếu tố cấu thành
- Trang thiết bị (Hardware): Công cụ, máy móc, thiết bị, hạ tầng kỹ thuật, …
- Con người (Humanware): Bao gồm tất cả các yếu tố liên quan đến kiến thức, trình
độ, kỹ năng, kỷ luật, kinh nghiệm, tài nghệ, kỹ xảo, tính sáng tạo… của đội ngũ
nhân lực để điều khiển, vận hành và quản lý công cụ, máy móc.
- Thông tin (Infoware): Tư liệu, hướng dẫn kỹ thuật, mô tả sáng chế bí quyết, bản
catalogue, bản vẽ, thiết kế, quy trình, phương pháp, bản thuyết minh thể hiện trong
các ấn phẩm, các phương tiện lưu trữ thông tin khác.
- Tổ chức (Orgaware): Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý công nghệ, trách nhiệm,
quyền hạn của các thành phần trong bộ máy và cơ cấu điều hành trong quản lý
công nghệ, chính sách khích lệ, kiểm tra, phân bổ nguồn nhân lực.
1.2. Chuyển giao công nghệ (CGCN)
1.2.1. Định nghĩa
Theo khoản 7 Điều 1 Luật Chuyển giao công nghệ 2017 thì chuyển giao công nghệ
là chuyển nhượng quyền sở hữu công nghệ hoặc chuyển giao quyền sử dụng công nghệ từ
bên có quyền chuyển giao công nghệ sang bên nhận công nghệ.
Chuyển giao công nghệ bao gồm:
Chuyển giao quyền sở hữu công nghệ: Chủ sở hữu công nghệ chuyển giao toàn bộ
quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt công nghệ cho tổ chức, cá nhân khác.
Trường hợp công nghệ là đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp thì việc
chuyển giao quyền sở hữu công nghệ phải được thực hiện cùng với việc chuyển giao
quyền sở hữu công nghiệp theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ.
Chuyển giao quyền sử dụng công nghệ: Chủ sở hữu công nghệ cho phép tổ chức,
cá nhân khác sử dụng công nghệ của mình.
1.2.2. Đối tượng chuyển giao công nghệ
Đối tượng chuyển giao công nghệ theo Điều 4 Luật Chuyển giao công nghệ 2017
bao gồm:
- Bí quyết kỹ thuật, bí quyết công nghệ;
- Phương án, quy trình công nghệ; giải pháp, thông số, bản vẽ, sơ đồ kỹ thuật; công
thức, phần mềm máy tính, thông tin dữ liệu;
6
- Giải pháp hợp lý hóa sản xuất, đổi mới công nghệ;
- Máy móc, thiết bị đi kèm một trong các đối tượng bí quyết kỹ thuật, bí quyết công
nghệ; phương án, quy trình công nghệ; giải pháp, thông số, bản vẽ, sơ đồ kỹ thuật;
công thức, phần mềm máy tính, thông tin dữ liệu; giải pháp hợp lý hóa sản xuất,
đổi mới công nghệ.
1.2.3. Phân loại các cấp độ và phạm vi CGCN
a. Phân loại
Theo mức độ khống chế của bên CGCN: CGCN được chia thành 3 hình thức:
Hình thức CGCN CGCN đơn CGCN không độc CGCN độc quyền
quyền
Phạm vi sử dụng Bên CGCN cho Bên CGCN trao Bên CGCN trao
phép người mua quyền sử dụng công toàn bộ quyền sử
được quyền sử dụng nghệ cho người mua dụng công nghệ
công nghệ trong trong giới hạn một cho bên nhận
thời gian và phạm phạm vi lãnh thổ trong suốt thời
vi hạn chế gian hiệu lực của
hợp đồng
Bên CGCN Có thể bán công Không được bán Có thể đơn
nghệ cho một hoặc công nghệ cho đối phương hủy bỏ
nhiều người trong tượng khác trong hợp đồng nếu bên
cùng một địa phạm vi địa lý quy mua công nghệ
phương định trong hợp đồng không được thực
hiện các nghĩa vụ
cam kết trong hợp
đồng
Bên nhận Không được phép Không được chuyển Trở thành chủ
CGCN bán lại công nghệ đã nhượng nó cho thực sự của công
được giao. Giá người thứ ba bằng nghệ trong suốt
chuyển giao ở hình bất kỳ hình thức thời gian hiệu lực
thức này thường nào của hợp đồng
thấp

7
Theo chiều sâu CGCN: CGCN được chia thành 4 mức độ tương ứng với 4 hình
thức:
Hình thức CGCN theo
Trao kiến Trao sản Trao thị
chuyển giao dạng chìa
thức phẩm trường
công nghệ khóa trao
tay
Truyền đạt kiến Thực hiện toàn Có trách nhiệm Trách nhiệm
thức, thông tin bộ công việc từ giúp bên mua của bên mua
về công nghệ lắp đặt máy công nghệ lắp giống như mức
qua việc đưa móc, thiết bị, đặt hệ thống độ trao sản
công thức chạy thử, đào công nghệ hoàn phẩm nhưng
hướng dẫn, tư tạo, hướng dẫn chỉnh, giúp họ thêm một phần
Bên chuyển
vấn về kỹ thuật quy trình sản sử dụng kỹ trách nhiệm -
giao công nghệ
cho bên mua xuất,v.v thuật chuyển chuyển giao
giao để sản xuất một phần thị
sản phẩm thành trường mà họ
công. đã khai thác
thành công cho
bên nhận

Sử dụng những Chỉ nhận công


kiến thức của nghệ và ứng
bên chuyển dụng ngay vào
Bên nhận công
giao công nghệ quá trình sản
nghệ chuyển
đưa để phát xuất
giao
triển và áp dụng
vào quá trình
sản xuất

b. Phạm vi
Phạm vi chuyển giao quyền sử dụng công nghệ do các bên thỏa thuận, bao gồm:
- Độc quyền hoặc không độc quyền sử dụng công nghệ;
- Được chuyển giao lại hoặc không được chuyển giao lại quyền sử dụng công nghệ
cho bên thứ ba;
- Lĩnh vực sử dụng công nghệ;
- Quyền được cải tiến công nghệ, quyền được nhận thông tin cải tiến công nghệ;
- Độc quyền hoặc không độc quyền phân phối, bán sản phẩm do công nghệ được
chuyển giao tạo ra.
8
- Phạm vi lãnh thổ được bán sản phẩm do công nghệ được chuyển giao tạo ra.
1.2.4. Các kênh chuyển giao công nghệ
Theo quy định tại Điều 5 Luật Chuyển giao công nghệ năm 2017 thì chuyển giao
công nghệ có các hình thức sau:
(1) Chuyển giao công nghệ độc lập.
(2) Phần chuyển giao công nghệ trong trường hợp sau đây:
a) Dự án đầu tư;
b) Góp vốn bằng công nghệ;
c) Nhượng quyền thương mại;
d) Chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ;
đ) Mua, bán máy móc, thiết bị quy định tại điểm d khoản 1 Điều 4 của Luật này.
(3) Chuyển giao công nghệ bằng hình thức khác theo quy định của pháp luật
Bài nghiên cứu này sẽ tập trung nghiên cứu vào kênh chuyển giao công nghệ thông
qua các dự án Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
1.3. Tác động của chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI
Thứ nhất, giúp thu hút được vốn đầu tư nước ngoài và nâng cao chất lượng nguồn
lao động.
Khi đầu tư vào một nước nào đó, chủ đầu tư không chỉ đầu tư vốn hiện vật như
máy móc thiết bị, hoặc nguyên vật liệu (phần cứng); trí thức khoa học, bí quyết quản lý,
năng lực tiếp cận thị thường (phần mềm) mà còn chuyển cả vốn bằng tiền, do vậy đứng về
lâu dài đây chính là lợi ích lâu dài nhất đối với nước nhận đầu tư.
Hoạt động FDI có tác động thúc đẩy phát triển công nghệ trong nước trong bối
cảnh có sự canh tranh của cơ chế thị trường. Thông qua hoạt động FDI, nhiều công nghệ
mới đã được thực hiện chuyển giao công nghệ và nhiều sản phẩm mới đã được sản xuất
trong các xí nghiệp FDI; nhiều cán bộ, công nhân đã được đào tạo mới và đào tạo lại để
cập nhật kiến thức phù hợp với yêu cầu mới. Doanh nghiệp FDI được xem là tiên phong
trong việc đào tạo tại chỗ và đào tạo bên ngoài, nâng cao trình độ của công nhân, kỹ thuật
viên, cán bộ quản lý.
Thứ hai, chuyển giao công nghệ giúp tiết kiệm chi phí lớn về R&D và hạn chế rủi
ro trong quá trình sản xuất.
Số tiền đầu tư cho việc nghiên cứu và phát triển công nghệ sản xuất mới hoặc sản
phẩm mới (R&D) là một chi phí khá lớn vì phải đầu tư vào nhân sự, kỹ sư, nhà nghiên
cứu;
9
đầu tư vào trang thiết bị dụng cụ thiết bị thử nghiệm; đầu tư vào sản phẩm hư và sản
phẩm lỗi; đầu tư vào máy nguyên mẫu, duy trì phòng R&D,… Tuy nhiên, nhờ việc
chuyển giao công nghệ đã có sẵn những giải pháp và máy móc thiết bị, quy trình sản xuất,
… nên thời gian để sản xuất và đưa ra sản phẩm sẽ rút ngắn hơn thời gian bình thường rất
nhiều.
Thứ ba, chuyển giao công nghệ giúp doanh nghiệp tiếp cận và sử dụng được ngay
những công nghệ tiên tiến hơn những công nghệ đang có trong nước.
Quan hệ thương mại ngày càng được mở rộng đã tạo ra những cơ hội cho các
doanh nghiệp tiếp cận được những thành tựu mới của KHCN thông qua hình thức công ty
mẹ chuyển giao công nghệ cho công ty con thông qua các dự án 100% vốn FDI. Điều này
giúp cho doanh nghiệp nhanh chóng bắt kịp với xu hướng trên thị trường, chiếm lĩnh thị
phần các sản phẩm mới, nhanh chóng phát triển và tăng sức cạnh tranh trên các thị
trường.
Thứ tư, chuyển giao công nghệ giúp cho việc khai thác và sử dụng những nguyên
vật liệu trong nước trở nên hữu hiệu hơn.
Sản xuất vật liệu công nghiệp có quy mô càng lớn thì giá thành càng rẻ, lợi nhuận
và giá trị gia tăng càng cao. Phát triển sản xuất vật liệu công nghiệp cũng sẽ khắc phục
được tình trạng xuất khẩu tài nguyên, khoáng sản thô giá rẻ; qua đó sử dụng hiệu quả, tiết
kiệm tài nguyên, nâng cao khả năng gia tăng giá trị sản phẩm, tạo thêm nguồn lực cho đất
nước cả trước mắt lẫn lâu dài. Bên cạnh đó, đây là tiền đề tạo điều kiện để các doanh
nghiệp nước ta có chỗ đứng vững chắc, liên danh, liên kết hợp tác phát triển, nâng cao
hiệu quả trong các chuỗi giá trị toàn cầu.
Thứ năm, việc chuyển giao công nghệ giúp thay thế nhập khẩu, đẩy mạnh xuất khẩu
và tăng thu nhập ngoại tệ.
Các doanh nghiệp sản xuất nhận được chuyển giao công nghệ có khả năng sản xuất
ra những mặt hàng cạnh tranh hơn, đáp ứng được nhu cầu người tiêu dùng, thay thế
những sản phẩm nhập khẩu hiện tại để giảm áp lực nhập khẩu. Từ những điều kiện ban
đầu đó, doanh nghiệp càng có khả năng mở rộng sản xuất và về sau đẩy mạnh tiêu thụ
sang các thị trường nước ngoài, mở rộng biên giới cho các mặt hàng của Việt Nam.

10
Chương 2: Các nhân tố tác động tới chuyển giao công nghệ trong các dự án FDI tại
Việt Nam
2.1. Tổng quan về tình hình chuyển giao công nghệ thông qua các dự án FDI tại Việt
Nam giai đoạn 2017 – 2021
2.1.1. Thành tựu
Để thực hiện chính sách thu hút công nghệ cao vào Việt Nam, đặc biệt là thu hút
dự án FDI vào những lĩnh vực công nghệ cao, Nhà nước Việt Nam đã xây dựng chính
sách ưu đãi với mức hấp dẫn, có tính cạnh tranh cao so với các nước trong khu vực. Điều
này thể hiện ở việc Nhà nước đã áp dụng mức ưu đãi cao nhất trong các Luật hiện hành
của Việt Nam đối với các dự án ứng dụng công nghệ cao, doanh nghiệp công nghệ cao.
Đồng thời, Luật Đầu tư quy định doanh nghiệp công nghệ cao là đối tượng được hưởng
ưu đãi đầu tư; hoạt động công nghệ cao là ngành, nghề ưu đãi đầu tư và khu công nghệ
cao là địa bàn ưu đãi đầu tư.
Luật Chuyển giao công nghệ ra đời năm 2017 đã hoàn thiện cơ bản các cơ chế,
chính sách nhằm khuyến khích, thúc đẩy chuyển giao công nghệ ở Việt Nam. Trong năm
2021, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 29/2021/QĐ-TTg quy định về ưu đãi
đầu tư đặc biệt nhằm thu hút đầu tư FDI có chọn lọc với nhiều mức thuế suất ưu đãi thuế
thu nhập doanh nghiệp khi doanh nghiệp FDI đáp ứng các mức chuyển giao công nghệ.
Nhờ vậy mà kể từ năm 2017 đến nay, chuyển giao công nghệ tại Việt Nam nói chung và
chuyển giao công nghệ nước ngoài thông qua đầu tư dự án FDI đã có những thay đổi tích
cực, cụ thể như sau:
Trong giai đoạn 2017 – 2021, phần lớn các dự án CGCN của Việt Nam đều thông
qua các dự án Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Thông qua các dự án FDI, Việt Nam đã
tiếp nhận thành công nhiều công nghệ để phục vụ phát triển sản xuất, kinh doanh, từng
bước nâng cao trình độ công nghệ sản xuất trong nước. Việt Nam đã sản xuất được nhiều
sản phẩm có chất lượng cao, đáp ứng được nhu cầu trong nước và gia tăng kim ngạch
xuất khẩu ở các mặt hàng công nghệ cao.
Dầu khí và truyền thông là hai ngành kinh tế nhờ chuyển giao công nghệ và R&D
gắn với dự án FDI nên đã phát triển với tốc độ nhanh, hiện đại, tiến kịp trình độ khu vực
và thế giới. Tập đoàn Dầu khí Việt Nam không những làm chủ được nhiều công nghệ hiện
đại và phức tạp trong hoạt động thăm dò, khai thác dầu khí mà còn có năng lực để tham
gia một số liên doanh ở nước ngoài. Trong lĩnh vực truyền thông, nhiều công nghệ hiện
đại đã được chuyển giao và ứng dụng thành công như mạng viễn thông số hóa, mạng cáp
quang, công nghệ GSM và CDMA, đặc biệt là công nghệ 4G.
Trong lĩnh vực điện tử, quang cơ – điện tử, nhiều doanh nghiệp FDI đã tổ chức sản
xuất và xuất khẩu gần 100% sản phẩm ra thị trường nước ngoài, điển hình như Công ty
TNHH Nidec Tosok, Muto, Nissei… Các doanh nghiệp khác cũng đã đầu tư vào lĩnh vực
11
nghiên cứu - phát triển như Công ty TNHH Renesas Việt Nam với mục tiêu nghiên cứu,
phát triển và thiết kế các phần cứng (vi mạch) và các phần mềm chức năng cho IC bán
dẫn (mạch tích hợp)…
Mặc dù số lượng các doanh nghiệp công nghệ cao và doanh nghiệp có ứng dụng
công nghệ cao trong sản xuất sản phẩm còn tương đối khiêm tốn trong tổng số dự án có
vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam nhưng những kết quả đạt được trong thời gian qua
đã dần khẳng định quyết tâm của Chính phủ cam kết tạo môi trường hấp dẫn, điều kiện
thuận lợi cho các nhà đầu tư để Việt Nam trở thành một điểm đến hấp dẫn cho các nhà
đầu tư, đặc biệt là các Tập đoàn đa quốc gia.
2.1.2. Hạn chế
Nhìn chung, hoạt động chuyển giao công nghệ trong các dự án FDI đã có đóng góp
tích cực đối với đổi mới và chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực công nghệ của các
doanh nghiệp. Tuy nhiên, kết quả đem lại vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn
và nhu cầu đổi mới công nghệ của doanh nghiệp trong toàn nền kinh tế.
Theo báo cáo Diễn đàn kinh tế thế giới năm 2018, điểm số xếp hạng các quốc gia
về chuyển giao công nghệ từ doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài, Việt Nam có điểm
số là 4,1 đứng ở vị trí 89 trong tổng số các quốc gia tham gia xếp hạng. Việt Nam đang bị
đánh giá là quốc gia có hiệu quả chuyển giao công nghệ từ khu vực FDI rất thấp và đang
có xu hướng tụt hậu.
Bảng 1.1: Xếp hạng các quốc gia về chuyển giao công nghệ từ khu vực FDI
Thứ hạng Quốc gia Điểm số
2 Singapore 5,9
13 Malaysia 5,4
40 Thái Lan 4,8
44 Indonesia 4,7
49 Trung Quốc 4,7
54 Campuchia 4,6
63 Philippines 4,6
89 Việt Nam 4,1
Nguồn: Báo cáo Diễn đàn kinh tế thế giới (2018)
Phần lớn các hợp đồng chuyển giao công nghệ thường tập trung vào chuyển giao
quy trình công nghệ, bí quyết công nghệ (73%), trợ giúp kỹ thuật (77%), đào tạo (71%),
trong khi đó chuyển giao công nghệ bao gồm đối tượng sở hữu công nghiệp chiếm số
lượng không nhiều (13%). Các doanh nghiệp nắm giữ công nghệ nguồn, công nghệ cao
thực hiện đầu tư tại Việt Nam chưa nhiều. Một số dự án FDI còn tập trung vào lắp ráp, gia
công với

12
tỷ lệ nội địa hóa thấp, giá trị tạo ra tại Việt Nam không cao, điều này dẫn đến sự lan tỏa
công nghệ từ doanh nghiệp FDI sang doanh nghiệp trong nước chưa được như mong
muốn.
Công nghệ chuyển giao vào Việt Nam phần lớn có trình độ bằng hoặc cao hơn
công nghệ sẵn có ở trong nước, nhưng mới chỉ đạt mức trung bình hoặc trung bình tiên
tiến so với các nước trong khu vực, phần lớn chưa được xếp vào hàng công nghệ tiên tiến,
hiện đại.. Báo cáo thường niên về FDI năm 2021 của Hiệp hội Doanh nghiệp FDI cho
thấy, đa số các dự án FDI có công nghệ trung bình (80%), công nghệ lạc hậu tới 15%, chỉ
5% dự án có công nghệ hiện đại, công nghệ nguồn từ Mỹ và châu Âu.
Biểu đồ 1.2: Tỷ lệ công nghệ các doanh nghiệp FDI sử dụng

Nguồn: Bộ Khoa học và Công nghệ


Các công nghệ này đa phần chưa được cập nhật, do các doanh nghiệp FDI chưa tập
trung nhiều nguồn lực cho các hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D). Tỷ lệ doanh
nghiệp FDI sử dụng công nghệ sản xuất trong giai đoạn này khoảng 15%, trong khi doanh
nghiệp tư nhân là 13.7%. Các doanh nghiệp FDI chủ yếu thực hiện thông qua việc mua
công nghệ hơn là phát triển nâng cao và đổi mới công nghệ. Điều này làm hạn chế khả
năng chuyển giao và lan tỏa công nghệ của khu vực FDI.
Kết quả phân tích từ các khảo sát của Ngân hàng Thế giới cho thấy, tỷ lệ công
nghệ chuyển giao thông qua các doanh nghiệp theo liên kết dọc (doanh nghiệp khác
ngành) giữa doanh nghiệp nội địa và doanh nghiệp nước ngoài là rất khiêm tốn, chỉ đạt
dưới 10%. Với kênh liên kết ngang, kết quả điều tra cho thấy, rất ít công nghệ được
chuyển giao qua các doanh nghiệp cùng ngành, bất kể là doanh nghiệp nước ngoài hay
doanh nghiệp trong nước.
13
Điều này cho thấy việc chuyển giao công nghệ còn khá hạn chế từ khu vực FDI sang khu
vực doanh nghiệp trong nước.
Ngoài ra, một trong những yếu tố quyết định sự thành công của chuyển giao công
nghệ là có nguồn nhân lực chất lượng cao. Tuy nhiên, nguồn nhân lực của Việt Nam còn
thiếu tính chuyên nghiệp, thiếu kỹ năng, chưa đáp ứng được với yêu cầu của doanh
nghiệp, nhất là trong một số ngành đòi hỏi kỹ năng, tay nghề cao. Bên cạnh đó, tại một số
địa phương, năng lực thẩm định các dự án FDI còn hạn chế nên chưa thu hút được các
công nghệ cao, hiện đại kèm theo việc chuyển giao công nghệ.
2.2. Các nhân tố tác động tới chuyển giao công nghệ trong các dự án FDI tại Việt
Nam
Chuyển giao công nghệ từ doanh nghiệp FDI sang doanh nghiệp Việt Nam là mối
quan hệ tác động qua lại hai chiều, từ doanh nghiệp FDI sang doanh nghiệp Việt Nam và
từ phía nhận chuyển giao - doanh nghiệp Việt Nam đối với doanh nghiệp FDI. Bất kỳ một
chuyển giao công nghệ nào cũng liên quan đến bảy yếu tố: bên giao công nghệ; bên nhận
công nghệ; công nghệ được chuyển giao; hình thức chuyển giao; môi trường bên giao;
môi trường bên nhận; môi trường chung giữa bên giao và bên nhận. Bài nghiên cứu sẽ
tóm lược bảy yếu tố trên vào ba mục chính sau:
a. Tương quan năng lực, trình độ phát triển công nghệ giữa doanh nghiệp FDI
và doanh nghiệp Việt Nam
- Về phía các doanh nghiệp FDI
Năng lực và trình độ phát triển của các công nghệ được cung cấp bởi doanh nghiệp
có yếu tố đầu tư nước ngoài được coi là điều kiện cần để hoạt động chuyển giao công
nghệ thu được kết quả cao nhất. Các doanh nghiệp này, phần lớn là các công ty đa quốc
gia, cần phải sở hữu những công nghệ hiện đại, có chất lượng vượt trội hơn so với những
doanh nghiệp nội địa. Đây là tiền đề để bắt đầu cho hoạt động chuyển giao, bởi mục tiêu
cuối cùng của quá trình này là nhằm giúp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp nước
ta nói riêng có thể phát triển được năng lực sản xuất và cạnh tranh thông qua tiếp thu
những công nghệ có trình độ cao từ bên ngoài.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp nước ngoài thực hiện các dự án FDI thường sẽ có
đủ khả năng để thực hình quá trình chuyển giao một cách thuận lợi. Những yếu tố cấu
thành nên khả năng của doanh nghiệp có thể kể đến như nguồn lực nội tại, các kiến thức,
nội dung cần có để chuyển giao cho phía Việt Nam, hay đội ngũ các chuyên gia có đủ
chuyên môn để đào tạo cho phía doanh nghiệp nội địa. Nếu doanh nghiệp nước ngoài
thiếu đi một trong những yếu tố này, tiền đề để thực hiện chuyển giao công nghệ sẽ không
được thiết lập, dẫn tới quá trình đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào Việt Nam chỉ dừng lại
ở mức kinh doanh kiếm lợi nhuận, mà không tạo ra được giá trị thặng dư.
- Về phía các doanh nghiệp Việt Nam
14
Nếu năng lực và trình độ của các doanh nghiệp FDI là điều kiện cần, thì năng lực
và trình độ của các doanh nghiệp bên phía nước ta được coi là điều kiện đủ. Các doanh
nghiệp muốn tham gia vào quá trình chuyển giao công nghệ thông qua các dự án đầu tư
trực tiếp nước ngoài là những đơn vị có quy mô ở mức lớn, đủ năng lực tài chính để có
thể đáp ứng các điều kiện về cơ sở hạ tầng của bên chuyển giao, đồng thời chi trả cho các
chi phí phát sinh trong quá trình thực hiện.
Người lãnh đạo những công ty này có tầm nhìn chiến lược và thái độ cầu thị, mong
muốn được tiếp nhận những nguồn công nghệ tiên tiến trên thế giới để nâng cao năng lực
sản xuất cho doanh nghiệp và tăng khả năng cạnh trên các thị trường quốc tế.
Đội ngũ lao động của các doanh nghiệp này đòi hỏi cần phải trình độ tay nghề và
chuyên môn ở mức khá hoặc trung bình khá để có đủ khả năng học hỏi và áp dụng công
nghệ mới vào quy trình sản xuất của công ty. Thông qua quá trình chuyển giao, người lao
động với trình độ khá trở lên cũng dễ dàng nâng cao tay nghề để trở thành nguồn lao động
có chất lượng cao hơn là nhóm những lao động ở mức trình độ thấp. Điều này thể hiện
tiềm lực phát triển mang tính dài hạn đối với kết quả của quá trình chuyển giao. Bên cạnh
đó, đội ngũ R&D cũng là một nhân tố cần thiết nếu doanh nghiệp muốn phát triển các
công nghệ được chuyển giao lên một mức cao hơn ở trong tương lai.
Như vậy, khoảng cách công nghệ giữa các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp Việt
Nam không nên quá lớn hoặc quá nhỏ, bởi nếu sự tương quan là quá lớn, hoạt động
chuyển giao sẽ không mang lại hiệu quả như kì vọng.
Bảng 2.1: Khoảng cách công nghệ giữa bên giao và bên nhận
Năng lực công Trung bình đến Một số chuyển Chuyển giao Chuyển giao
nghệ bên nhận cao giao công nghệ công nghệ hiệu công nghệ có
có thể thành quả nhất kết quả song
công không phải về
cạnh tranh thị
trường
Thấp đến trung Chuyển giao Chuyển giao Một số chuyển
bình công nghệ khó công nghệ đơn giao công nghệ
thành công do giản có thể có thể thành
khả năng tiếp thành công công
thu kém
Khoảng cách Trung bình Khoảng cách
rất lớn nhỏ
Khoảng cách các thành phần công nghệ giữa bên giao và bên
nhận

15
b. Các hình thức công nghệ được chuyển giao
Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghệ 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn thế
giới, Việt Nam hay bất cứ quốc gia nào tiếp nhận chuyển giao công nghệ đều xác định
cần thu hút các dự án công nghệ cao, hiện đại, thân thiện với môi trường, sử dụng tiết
kiệm năng lượng và nguyên liệu là một trong những ưu tiên hàng đầu. Bên cạnh đó, công
nghệ được chuyển giao là những công nghệ mà doanh nghiệp Việt chưa có, có tính ứng
dụng vào quy trình sản xuất của bên tiếp nhận.
c. Môi trường hỗ trợ chuyển giao tại nước tiếp nhận (Việt Nam)
Để thực hiện chuyển giao công nghệ công nghệ có hiệu quả, các nước tiếp nhận
phải xây dựng nền tảng của chuyển giao công nghệ. Có ba yếu tố tạo nên nền tảng của
chuyển giao công nghệ, đó là: hệ thống giáo dục quốc gia, các hoạt động của nền kinh tế
(đặc biệt là vai trò của ngành công nghiệp) và sự tham gia của chính phủ. Sự phối hợp
giữa ba yếu tố nền tảng sẽ tạo ra cơ sở hạ tầng để tiến hành chuyển giao.
Môi trường pháp lý của Việt Nam là yếu tố quan trọng để các doanh nghiệp FDI
lựa chọn đầu tư và thực hiện chuyển giao công nghệ thông qua các dự án đó.
Các điều Luật được ban hành tạo nên một hành lang pháp lý thuận lợi để các doanh
nghiệp tin tưởng vào môi trường đầu tư tại nước ta, từ đó có thể tiến tới chuyển giao một
cách thuận lợi. Thủ tục hành chính càng đơn giản, gọn nhẹ, rõ ràng thì sức hút của môi
trường đầu tư đối với các nhà đầu tư nước ngoài càng lớn. Thủ tục hành chính ảnh hưởng
đến tất cả các hoạt động đầu tư, nếu thủ tục hành chính không được quan tâm sát sao dễ
tạo ra hiện tượng nhũng nhiễu, tiêu cực từ đó làm tăng chi phí kinh doanh, làm mất lòng
tin của các nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, các chính sách khuyến khích thực hiện
chuyển giao công nghệ nước ngoài của Nhà nước và Chính phủ cũng góp phần mang lại
những lợi ích lớn cho các doanh nghiệp FDI nếu họ quyết định tham gia vào quá trình này
với các doanh nghiệp Việt Nam.
Bên cạnh đó, vai trò của các cơ quan nghiên cứu và triển khai cũng có ý nghĩa
quyết định trong sự thành công của chuyển giao công nghệ tại Việt Nam. Tư tưởng nhận
thức và thái độ của lãnh đạo các ban ngành cũng là một yếu tố tác động mạnh tới tính khả
thi của các hoạt động chuyển giao công nghệ qua FDI. Vai trò của cơ quan nghiên cứu và
triển khai bao trùm từ giai đoạn chuẩn bị dự án sơ bộ cho cho đến giai đoạn sử dụng và
nâng cao công nghệ nhập khẩu từ bên ngoài. Các cơ quan nghiên cứu và triển khai đóng
vai trò trong mười giai đoạn của chuyển giao công nghệ, bao gồm:
(1) Xác định nhu cầu;
(2) Xác định các phương án có thể có;
16
(3) Đánh giá các phương án;
(4) Quyết định làm hay nhập;
(5) Đàm phán;
(6) Tiếp nhận;
(7) Xây dựng;
(8) Sử dụng;
(9) Cải tiến;
(10) Đổi mới.
Cơ cấu nền kinh tế tại Việt Nam cũng là một nhân tố đáng chú ý, có khả năng tác
động tới hoạt động chuyển giao công nghệ tại nước ta. Cơ cấu nền kinh tế thể hiện rõ ràng
nhất tiềm lực phát triển sản xuất và cạnh tranh của một quốc gia. Chính phủ và các doanh
nghiệp sẽ thông qua yếu tố này để xác định những nguồn công nghệ, những dự án FDI
phù hợp có khả năng sẽ đóng góp lớn vào sự phát triển kinh tế của đất nước. Những
ngành công nghiệp thế mạnh sẽ là mục tiêu tiếp nhận công nghệ hàng đầu từ các dự án
đầu tư trực tiếp nước ngoài, theo sau đó là các ngành cần sử dụng nguồn công nghệ cao để
phát triển tiềm lực, theo kịp với sự phát triển của các quốc gia khác trên thế giới.
Có thể nói, ba nhân tố trên có sự tác động qua lại lẫn nhau, đồng thời tác động tới
quá trình chuyển giao công nghệ thông qua các dự án FDI vào nước ta. Các nhân tố này
sẽ quyết định phương án chuyển giao giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp Việt Nam
có khả thi không, đồng thời dự báo được tính hiệu quả cuối cùng mà hoạt động này mang
lại cho nền kinh tế của Việt Nam. Nếu thiếu một trong ba yếu tố này, quá trình chuyển
giao công nghệ sẽ không thể đem lại thành quả như kỳ vọng, gây ra lãng phí về cả thời
gian và tiền bạc cho doanh nghiệp và Chính phủ Việt Nam.

17
BÀI LÀM
PHẦN 1: Phân tích thực trạng xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu trong thương mại điện tử
và đề xuất giải pháp khắc phục tình trạng đó.
I. Phân tích thực trạng xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu trong thương mại điện tử. I.1.
Khái niệm thương mại điện tử và nhãn hiệu Thương mại điện tử là : Thương mại điện tử (E-
Commerce) là hình thức kinh doanh trực tuyến sử dụng nền tảng công nghệ thông tin với sự
hỗ trợ của Internet để thực hiện các giao dịch mua bán, trao đổi, thanh toán trực tuyến. Theo
khoản 16 điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ: Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa,
dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau. I.2. Thực trang xâm phạm quyền đối với nhãn
hiệu trong thương mại điện tử. Với sự phát triển của khoa học kĩ thuật và sự đông đảo của
dân số, TMĐT nhanh chóng ra đời và phát triển ở Trung Quốc, dần dần trở thành công cụ
mua bán hàng hóa chính. Bán hàng trực tuyến thông qua trang web TMĐT từ lâu đã trở
thành mô hình thương mại chủ yếu, được tin dùng và sử dụng nhiều ở đất nước này. Vì vậy,
các hoạt động quảng cáo trong TMĐT được thúc đẩy và xuất hiện rất phổ biến, kéo theo
nhiều hành vi xâm phạm đến quyền SHTT. Theo báo cáo thống kê của Bộ Công Thương,
năm 2021, doanh thu thương mại điện tử (TMĐT) của Việt Nam đạt 13,7 tỷ USD (tăng
16% so với năm 2020), trở thành 1 trong 3 quốc gia có tốc độ tăng trưởng thị phần bán lẻ
trực tuyến cao nhất khu vực Đông Nam Á. Hiện nay, việc kinh doanh thương mại không chỉ
dừng lại trên các sàn TMĐT như Shopee, Lazada, Tiki hay Sendo, mà còn mở rộng sang
các mạng xã hội như Facebook, Zalo, Tiktok. Tuy nhiên, chính điều này đã tạo ra nhiều kẽ
hở cho hành vi giả mạo nhãn hiệu, kiểu dáng, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) gia
tăng. Chỉ riêng năm 2021, lực lượng quản lý thị trường phối hợp với Cục Thương mại điện
tử và Kinh tế số đã tiến hành kiểm tra hơn 3.000 vụ việc lợi dụng TMĐT để kinh doanh
hàng hóa giả mạo, không rõ nguồn gốc, xuất xứ, xâm phạm quyền SHTT với số tiền xử phạt
lên tới 20 tỷ đồng. PHẦN 2: Công ty A là chủ sở hữu nhãn hiệu “STARBUCKS” đăng ký
cho sản phẩm cà phê, đồ uống có chứa cà phê nhóm 30 và dịch vụ quán cà phê, quán giải
khát nhóm 43 theo GCNĐKNH số 75523 cấp ngày 28/09/2006. Giấy chứng nhận đăng ký
nhãn hiệu đang có hiệu lực tại Việt Nam. Gần đây, Công ty A phát hiện cửa hàng B tại
Thanh Oai, Hà Nội kinh doanh sản phẩm đồ uống giải khát gắn dấu hiệu “STARLUCKS”.
Cửa hàng B sử dụng dấu hiệu “STARLUCKS” trên biển hiệu và các tờ rơi quảng cáo cho
sản phẩm của cửa hàng. I. Theo anh chị, cửa hàng B có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí
tuệ của Công ty A không? Nếu có thì đó là hành vi cụ thể nào? Có thể thấy rằng hành vi của
cửa hàng B tại Thanh Oai, HN kinh doanh sản phẩm đồ uống giải khát có gắn dấu hiệu “
STARLUCKS”, trên tờ rơi quảng cáo và biển hiệu cũng có dấu hiệu tương tự. Từ đó ta có
thể khẳng định rằng cửa hàng B có hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu của công ty
A. Cửa hàng B đã xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu khi vi phạm (Điều 5, Nghị định
105/2006/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 119/2010/ NĐ-CP). Hành vi này là hành vi xâm phạm
đến quyền đối với nhãn hiệu vì có đủ các yếu tố sau:- Về đối tượng: Nhãn hiệu
“STARBUCKS” đã được Công ty A đăng kí và được cấp GCNĐKNH số 75523. Do đó,
nhãn hiệu “STARBUCKS” thuộc nhóm đối tượng quyền sở hữu trí tuệ theo Khoản 2 Điều 3
Luật SHTT. Đồng thời, thời hạn bảo hộ của nhãn hiệu được gia hạn đến năm 2030, nghĩa là
vẫn còn thời gian bảo bộ. Vậy, “STARBUCKS” thỏa mãn điều kiện: “Đối tượng bị xem xét
thuộc phạm vi các đối tượng đang được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ” (Khoản 1 Điều 5 Nghị
định 105/2006/NĐ-CP)- Về yếu tố xâm phạm: Hành vi của cửa hàng B có các yếu tố xâm
phạm đến quyền đối với nhãn hiệu của Công ty A với các lí do sau:- Thứ nhất, dấu hiệu
“STARLUCKS” gắn trên biển hiệu và các tờ rơi quảng cáo tương tự đến mức gây nhầm lẫn
đối với nhãn hiệu được bảo hộ. Cụ thể: + Về cấu trúc: Cả hai “STARLUCKS” và
“STARBUCKS” đều có 9 chữ cái. Trong đó, 4 chữ cái đầu và 4 chữ cái cuối cùng giống
nhau hoàn toàn (đều là “STAR” và “UCKS”). Điểm khác biệt duy nhất giữa 2 cụm từ này là
chữ “B” và chữ “L” ở giữa. Tuy nhiên, cách thức trình bày của cả 2 cụm từ là giống nhau;
chữ “L” không hề được làm nổi bật hay có bất cứ chỉ dẫn nào khác để tránh gây nhầm lẫn
giữa 2 dấu hiệu. Nếu chỉ nhìn qua, người tiêu dùng rất dễ nhầm lẫn giữ 2 cụm từ này. + Về
cách phát âm: cấu trúc giống nhau gần như hoàn toàn nên các phát âm của 2 cụm từ khá
giống nhau: đều phát âm /stɑːr/ ở đầu và /ʌks/. Việc thay đổi chữ “L” thay cho “B” gần như
không khác nhau về cách phát âm.- Thứ hai, căn cứ theo GCNĐKNH số 75523 cấp ngày
28/9/2006, Công ty A là chủ sở hữu nhãn hiệu “STARBUCKS”, nhãn hiệu này được bảo hộ
trên toàn lãnh thổ Việt Nam, và còn thời hạn bảo hộ. Nhãn hiệu được bảo hộ toàn bộ cụm từ
“STARBUCKS”, được đăng kí sử dụng cho sản phẩm cà phê, đồ uống có chứa cà phê
nhóm 30 và dịch vụ quán cà phê, quán giải khát nhóm 43. - Thứ ba, dấu hiệu
“STARLUCKS” được cửa hàng B sử dụng trên biển hiệu và các tờ rơi quảng cáo cho sản
phẩm đồ uống giải khát của cửa hàng. Rõ ràng, sản phẩm, dịch vụ của cửa hàng và nhóm
đối tượng được Công ty A đăng kí nhãn hiệu sử dụng là giống nhau, có mối liên hệ về chức
năng, công dụng và có cùng kênh tiêu thụ. Vậy, hành vi của cửa hàng B thỏa mãn tất cả các
căn cứ để xác định có yếu tố xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu theo Điều 11 NĐ
105/2006/NĐ- CP Thêm nữa, nhãn hiệu STARBUCKS có thể coi là một nhãn hiệu nổi
tiếng tại Việt Nam, việc sử dụng nhãn hiệu STARLUCKS tương tự và có thể gây nhầm lẫn
giữa 2 tên nhãn hiệu với nhau. Cùng với đó việc sử dụng tên nhãn hiệu tương tự của cửa
hàng B đã lợi dụng danh tiếng của STARBUCKS nhằm bán được nhiều sản phẩm hơn.
Theo Điểm d Khoản 1 Điều 129 Luật SHTT: “Sử dụng dấu hiệu trùng hoặc tương tự với
nhãn hiệu nổi tiếng hoặc dấu hiệu dưới dạng dịch nghĩa, phiên âm từ nhãn hiệu nổi tiếng
cho hàng hóa, dịch vụ bất kỳ, kể cả hàng hóa, dịch vụ không trùng, không tương tự và
không liên quan tới hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu
nổi tiếng, nếu việc sử dụng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hóa hoặc gây ấn
tượng sai lệch về mối quan hệ giữa người sử dụng dấu hiệu đó với chủ sở hữu nhãn hiệu nổi
tiếng.” Hành vi cửa hàng B vừa sử dụng tên tương tự nhãn hiệu STARBUCKS, lại kinh
doanh sản phẩm là đồ uống giải khát nên dễ gây ra những hiểu lầm như Điểm d Khoản 1
Điều 129 quy định. II. Là luật sư tư vấn cho Công ty A, anh chị hãy tư vấn biện pháp và cơ
quan có thẩm quyền phù hợp để Công ty có thể bảo vệ được tốt nhất quyền lợi của mình.
Sau khi có cơ sở chứng minh hành vi vi phạm của cửa hàng B, Công ty A có thể thực hiện
các biện pháp nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của công ty theo điều 198 Luật SHTT.- Thứ
nhất, áp dụng biện pháp công nghệ nhằm ngăn ngừa hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
(Điểm a Khoản 1 Điều 198): Đưa thông tin chỉ dẫn về văn bằng bảo hộ, chủ sở hữu, phạm
vi, thời hạn bảo hộ và các thông tin khác về nhãn hiệu một cách rộng nhằm thông báo rằng
sản phẩm là đối tượng thuộc quyền sở hữu trí tuệ đang được bảo hộ và khuyến cáo người
khác không được xâm phạm.- Thứ hai, yêu cầu tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ phải chấm dứt hành vi xâm phạm, xin lỗi, cải chính công khai, bồi
thường thiệt hại (Điểm b Khoản 1 Điều 198): Công ty A thông báo bằng văn bản cho cửa
hàng B, trong văn bản thông báo phải có các thông tin chỉ dẫn về căn cứ phát sinh; văn bằng
bảo hộ; phạm vi và thời hạn bảo hộ. Sau đó ấn định một thời gian hợp lí để cửa hàng B
chấm dứt hành vi xâm phạm.- Thứ ba, yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lí
(Điểm c Khoản 1 Điều 198): Công ty A cần phải có đơn yêu cầu và tài liệu chứng cứ chứng
minh hành vi xâm hại kèm theo gửi đến các cơ quan có thẩm quyền được quy định tại Điều
200 Luật SHTT 2005. Tùy theo tính chất và mức độ, hành vi xâm phạm có thể bị xử lý bằng
biện pháp dân sự, hành chính hoặc hình sự theo quy định. Vì vậy, Công ty cần dựa trên
chứng cứ chứng minh vi phạm để lựa chọn cơ quan có thẩm quyền phù hợp với yêu cầu áp
dụng biện pháp cần thiết cho bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.- Thứ tư, khởi kiện ra
tòa án hoặc trọng tài để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình (Điểm d Khoản 1 Điều
198):- Công ty A sẽ nộp đơn và các tài liệu, chứng cứ chứng minh về hành vi xâm phạm
đến tòa án hoặc trọng tài. Quá trình thực hiện sẽ áp dụng theo luật chuyên ngành.- Cơ quan
có thẩm quyền giải quyết: Theo Khoản 1 Điều 4 NĐ 105/2006/NĐ-CP, công ty A hoàn toàn
có quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi cho mình khi phát hiện hành vi xâm phạm của
cửa hàng B. Tòa án có quyền áp dụng các biện pháp dân sự được quy định tại Điều 202
Luật SHTT 2005.- Trong trường hợp này:- + Nếu tranh chấp SHTT là tranh chấp dân sự
thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện- + Nếu tranh chấp SHTT là tranh chấp thương mại,
kinh doanh thẩm quyền thuộc Tòa án cấp tỉnh- Bởi vì tranh chấp này nhằm mục đích lợi
nhuận của cả hai bên. Do đó, có thể xác định đây là tranh chấp thương mại, kinh doanh theo
Khoản 2 Điều 30 Bộ luật TTDS. Thẩm quyền giải quyết sự việc này thuộc về Tòa án nhân
dân thành phố Hà Nội theo Điểm a Khoản 1 Điều 37 Bộ luật TTDS 2015.

You might also like