Hy Lạp cổ đại Đặc điểm Chế độ chiếm hữu nô lệ phát triển Kinh tế hàng hóa tương đối phát triển Chế độ tư hữu tài sản phát triển mạnh Chiến tranh dai dẳng, khốc liệt Tư tưởng kinh tế Hy Lạp cổ đại Sự tồn tại của chế độ chiếm hữu nô lệ là hợp lý Đánh giá cao vai trò của ngành nông nghiệp và kinh tế tự nhiên Coi phân chia giai cấp là quy luật tự nhiên, hợp lý Các nhà tư tưởng thời cổ đại còn đơn giản,mang tính chất ước lượng chứ không biết tính quy luật và các quy luật chi phối chúng như phân công lao động, giá trị trao đổi, tiền tệ, cung cầu, ngoại thương, ... Tư tưởng kinh tế của các đại biểu Hy Lạp cổ đại Xenophon (444-356 TCN) Về phân công lao động: phân công lao động (PCLĐ) có vai trò thúc đẩy giao lưu hàng hóa giữa các vùng. Giữa PCLĐ và quy mô thị trường có mối liên hệ chặt chẽ, ở những nơi trao đổi mạnh thì PCLĐ phát triển mạnh Giá trị: là cái gì đó có ích cho con người và con người biết sử dụng được lợi ích đó Tiền tệ: vàng bạc là tiền có nhu cầu không giới hạn, việc tích trữ được nhiều sẽ trở nên giàu có => sử dụng nô lệ cho việc khai thác vàng Cung-cầu, giá cả hàng hóa: cho thấy mối liên hệ giữa giá cả hàng hóa với cung cầu cùa nó Của cải: là những tư liệu tiêu dùng cá nhân. Muốn có nhiều của cải thì chủ nô chỉ cần thỏa mãn nhu cầu của nô lệ ở mức tối thiểu Platon (427-347 TCN) Ông không coi nô lệ là công dân và không xếp nô lệ vào các tầng lớp dân cư của XH mới Giải thích mối liên hệ giữa pclđ, thương mại và tiền tệ với vai trò nổi bật của thương gia Đề cập tới mâu thuẫn giữa giá trị trao đổi và giá trị sử dụng trong sản xuất và lưu thông hàng hóa Bảo vệ nền kinh tế CHNL, ông thấy được tiền tệ không những có chức năng lưu thông và cất trữ mà còn là thước đo giá trị và tiền tệ thế giới Aristoteles (384-322 TCN) Coi "của cải TT" là toàn bộ các giá trị sử dụng. Coi tất cả HĐ tạo ra giá trị sử dụng là hoạt động kinh tế Phân biệt giá trị sử dụng và giá trị trao đổi Cho rằng có 3 loại thương nghiệp và 2 loại kinh doanh Trung Quốc cổ đại Đặc điểm Sự thay thế lẫn nhau của các NN LLSX chủ yếu là nô lệ & nông dân Kinh tế phát triển Các cuộc đấu tranh Tư tưởng kinh tế của các đại biểu Phái Khổng học Khổng Tử Tư tưởng về bổn phận, sự phục tùng, bảo vệ giai cấp quý tộc Muốn khôi phục quan hệ công xã nhưng không lên án chế độ nô lệ Tư tưởng "đại đạo" Mạnh Tử Muốn khôi phục chế độ "tịnh điền" Đặt dân lên đầu, vua ở hàng thứ Ủng hộ việc phân chia lao động thành lao động trí óc và lao động chân tay Phái Pháp gia Gắn chặt với chủ nô và nông dân giàu Đặc trưng: sùng bái NN Đại biểu: Thương Ưởng Quản Tử Luận Thừa nhận sự phân chia XH thành đẳng cấp Tán thành sự can thiệp của NN vào đời sống KT Cho rằng TT là nơi điều tiết tất cả hàng hóa Tư tưởng kinh tế thời Trung cổ Hoàn cảnh ra đời Xét về hình thái kinh tế xã hội: Thời kỳ trung cổ bắt đầu từ khi nền kinh tế lãnh địa, chế độ đại sở hữu ruộng đất của địa chủ với hình thức địa tô hiện vật ra đời Xét về lịch sử: Xuất hiện vào năm 350 (giữa thế kỷ IV) cho tới 1453 (cuối thế kỷ XV) Xét về phân công lao động xã hội: Lao động chủ yếu dựa trên những kỹ thuật thủ công, nhưng năng suất lao động tương đối cao hơn trong thời đại chiếm hữu nô lệ. Đặc điểm TTKT có mối quan hệ chặt chẽ với chính sách kinh tế Được trình bày trong các bộ luật, những điều lệ phường hội, sắc lệnh và luật lệ của nhà vua nhằm mục đích bảo vệ lợi ích của vua chúa, địa chủ, quý tộc, các tầng lớp giáo sỹ và thợ thủ công thành thị Chỉ quan tâm đến những vấn đề của nền KTTN, không tin vào thương mại và lợi nhuận thương nghiệp, cản trở kinh tế hàng hóa Gắn chặt với tư tưởng tôn giáo lớn Một số trường phái tư tưởng kinh tế chủ yếu Tư tưởng KT chủ yếu thời PK Trung Hoa Tư tưởng KT PK ở Nhật Bản Tư tưởng KT ở Ấn Độ Tư tưởng KT ở phương Tây Đánh giá Các tư tưởng kinh tế thời trung cổ bảo vệ lợi ích của giai cấp địa chủ, giáo hội và quan lại phong kiến Các tư tưởng kinh tế cũng có yếu tố khác nhau, tuy nhiên, quan điểm kinh tế chủ yếu xoay quanh vấn đề về quản lý ruộng đất, sở hữu ruộng đất và thuế nông nghiệp Các chính sách về ruộng đất ở Trung Hoa, Nhật Bản, Ấn Độ ở phương Đông là những bài học cần được nghiên cứu và vận dụng vào hoàn cảnh của Việt Nam trong thời kỳ mở cửa và hội nhập.