Professional Documents
Culture Documents
Trong hình, dân số OB được đo dọc theo trục ngang và thu nhập bình quân đầu
người trên trục tung. Ban đầu, thu nhập dưới đầu người và thu nhập bình quân đầu
người tăng theo tốc độ tăng dân số. Thu nhập bình quân đầu người là dân số BA
thấp hơn mức thu nhập bình quân đầu người tối đa NM. Kích thước dân số ON thể
hiện mức tối ưu trong đó thu nhập bình quân đầu người NM là tối đa.
Nếu có sự gia tăng dân số liên tục từ ON sang OD thì luật lợi nhuận giảm dần áp
dụng cho sản xuất. Do đó, sản lượng bình quân đầu người bị hạ thấp và thu nhập
bình quân đầu người cũng giảm xuống DC do dân số tăng. Do đó, ND đại diện cho
dân số quá mức. Đây là phiên bản tĩnh của lý thuyết. Nhưng mức tối ưu không phải
là một điểm cố định.
Nó thay đổi với một sự thay đổi trong bất kỳ yếu tố nào được cho là sẽ được đưa
ra. Ví dụ, nếu có những cải tiến trong phương pháp và kỹ thuật sản xuất, đầu ra
trên mỗi đầu sẽ tăng lên và điểm tối ưu sẽ dịch chuyển lên trên.
Điểm tối ưu của một quốc gia hôm nay, có thể không phải là điểm tối ưu vào ngày
mai nếu nguồn tài nguyên thiên nhiên tăng và điểm tối ưu sẽ cao hơn trước. Do đó,
tối ưu không phải là một điểm cố định mà là một điểm di chuyển.
Thu nhập bình quân đầu người là cao nhất tại điểm mà sản phẩm trung bình của lao
động bắt đầu giảm. Điểm lợi nhuận tối đa này là điểm dân số tối ưu.
Điều này được minh họa trong Hình 3. Kích thước của dân số được đo trên trục
hoành và sản phẩm trung bình của lao động trên trục tung. AP là sản phẩm trung
bình của lao động hoặc thu nhập trên mỗi đường cong đầu. Lên đến mức OP, sự
gia tăng dân số dẫn đến sự gia tăng sản phẩm trung bình của lao động và thu nhập
bình quân đầu người.
Ngoài OP, sản phẩm trung bình của lao động và thu nhập bình quân đầu người
giảm. Do đó, khi dân số là OP, thu nhập bình quân đầu người cao nhất tại điểm L.
Do đó, OP là mức dân số tối ưu. Ở bên trái của OP, đất nước này là dân số thấp và
ngoài OP, nó là dân số quá mức.
Tuy nhiên, OP không phải là một điểm cố định. Nếu do các phát minh có những
cải tiến trong kỹ thuật sản xuất, sản phẩm trung bình của lao động có thể tăng và
đẩy mức thu nhập bình quân đầu người lên cao để điểm tối ưu tăng lên. Điều này
được thể hiện trong hình mà đường cong AP 1 đại diện cho sản phẩm lao động
trung bình cao hơn và điểm L cho thấy thu nhập bình quân đầu người tối đa ở mức
tối ưu mới của dân số OP 1 .
Sự vượt trội của Lý thuyết dân số tối ưu so với lý thuyết Malthusian?
Phê bình?
Boserup (1920–1999)
Boserup gợi ý rằng sự gia tăng dân số có tác động tích cực. Khi tài nguyên bắt đầu cạn
kiệt, chúng ta buộc phải "Phát minh" ra cách để giải quyết vấn đề (‘Nhu cầu là mẹ của tất
cả các phát minh’).
Theo ý tưởng này, sự gia tăng dân số là tích cực vì nó kích thích sự phát triển Công nghệ.
Tuy nhiên, thực tế là chúng ta đã áp dụng các phát minh để thoát khỏi đói nghèo, và giới
hạn trong vấn đề sản xuất lương thực trong quá khứ nghĩa là chúng ta sẽ có thể làm như
vậy một lần nữa? Lý thuyết này có xu hướng bỏ qua tác động của gia tăng dân số tới môi
trường.
Malthus hay Boserup?
Hiện tại, trong tình hình phát triển nông nghiệp, các lý thuyết mâu thuẫn nhau
của Malthus & Boserup đều chưa phân định đúng sai. Sự lựa chọn giữa thực phẩm
GM và thực phẩm Hữu cơ có thể coi là biểu tượng giữa 2 lý thuyết trên. Thực phẩm biến
đổi gen là một dấu hiệu chung về việc tăng cung cấp thực phẩm trong khi thực phẩm hữu
cơ thiên về chất lượng của sản phẩm thay vì số lượng mà chúng ta có thể cung cấp. Thực
phẩm biến đổi gen có tiếng xấu do sự thao túng của giới truyền thông, các hóa chất được
sử dụng và được cho rằng không có dấu hiệu suy giảm chất lượng cũng như ảnh hưởng
đến sức khỏe. Lý thuyết của Malthus và Boserup sẽ giải thích sự lựa chọn này như thế
nào?
Lý thuyết # 3. Lý thuyết về chuyển đổi nhân khẩu học
Lý thuyết về chuyển đổi nhân khẩu học dựa trên xu hướng dân số thực tế của các
nước tiên tiến trên thế giới. Theo lý thuyết này, mỗi quốc gia đều trải qua ba giai
đoạn tăng trưởng dân số khác nhau. Trong giai đoạn đầu tiên, tỷ lệ sinh và tỷ lệ tử
vong cao và tốc độ tăng dân số thấp. Trong giai đoạn thứ hai, tỷ lệ sinh vẫn ổn định
nhưng tỷ lệ tử vong giảm nhanh chóng.
Do đó, tốc độ tăng dân số tăng rất nhanh. Trong giai đoạn cuối, tỷ lệ sinh bắt đầu
giảm và có xu hướng bằng tỷ lệ tử vong. Tốc độ tăng trưởng dân số rất chậm. Ba
giai đoạn này được giải thích trong Hình 5.
Trong hình, thời gian cho các giai đoạn khác nhau được thực hiện trên trục hoành
và tỷ lệ sinh và tử hàng năm trên một nghìn trên trục tung. Trong giai đoạn đầu
tiên, trước thế kỷ 19, tỷ lệ sinh ở Tây Âu là 35 phần nghìn và tỷ lệ tử vong dao
động khoảng 30 phần nghìn. Do đó, tốc độ tăng dân số là khoảng 5 phần nghìn.
Trong giai đoạn thứ hai, tỷ lệ tử vong bắt đầu giảm dần từ 30 phần nghìn đến 20
phần nghìn từ giữa thế kỷ 19 đến cuối thế kỷ. Trong giai đoạn thứ ba bắt đầu từ thế
kỷ 20, tỷ lệ sinh bắt đầu giảm từ 20 phần nghìn và đã tiếp tục trong khoảng một thế
kỷ nay, gần 15 phần nghìn. Tỷ lệ tử vong cũng tiếp tục giảm nhưng dường như đã
ổn định trong khoảng từ 10 đến 55 phần nghìn ở Tây Âu.