You are on page 1of 5

Name: Nguyễn Duy Tùng Class: 30A1

Source: https://www.project-syndicate.org/commentary/china-low-fertility-rate-population-
decline-by-yi-fuxian-2023-02
China Is Dying Out Sự lụi tàn của Trung Quốc
Chinese policymakers must somehow Các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc
implement policies to reduce the cost of phải bằng cách nào đó vừa thực hiện các
raising children without crashing the chính sách để giảm chi phí nuôi dạy trẻ em
economy. But even if they manage to increase mà vừa không làm sụp đổ nền kinh tế. Nhưng
the number of births, they will almost ngay cả khi họ cố gắng tăng số ca sinh, họ
certainly be unable to reverse demographic gần như chắc chắn sẽ không thể đảo ngược
trends. xu hướng nhân khẩu học.

MADISON, WISCONSIN – China’s MADISON, WISCONSIN – Sự xác nhận


population decline, which the Chinese chính thức của chính phủ Trung Quốc vào
government officially confirmed in January, tháng Giêng về suy giảm dân số của Trung
has led many observers to wonder if the Quốc, đã khiến nhiều nhà quan sát tự hỏi liệu
country’s current demographic trends xu hướng nhân khẩu học hiện tại của đất
threaten its stability. nước có đe dọa sự ổn định của đất nước này
hay không.

Theo Cục Thống kê Quốc gia, dân số Trung


According to the National Bureau of Quốc đã giảm lần đầu tiên vào năm ngoái sau
Statistics, China’s population shrank last year 60 năm, sớm hơn 9 năm so với dự đoán của
for the first time in 60 years, nine years earlier chính phủ. Tỷ suất sinh (số ca sinh trên một
than government projections had anticipated. phụ nữ) giảm xuống còn 1,0-1,1, thấp hơn
The fertility rate (births per woman) fell to nhiều so với dự báo chính thức là 1,8. Đáng
1.0-1.1, well below the official forecast of chú ý nhất là số ca sinh giảm mạnh xuống còn
1.8. Most notably, the number of births 9,56 triệu, thấp nhất kể từ năm 1790, bất chấp
dropped sharply to 9.56 million, the fewest việc Trung Quốc chuyển sang chính sách hai
since 1790, despite China’s shift to a two- con vào năm 2016
child policy in 2016.
Nhưng sự sụt giảm mạnh về số ca sinh này là
But this sharp drop in the number of births is một ảo giác gây ra bởi sự phóng đại quá
an illusion caused by a gross exaggeration of mức của các con số trước năm 2020. Ví dụ,
pre-2020 numbers. For example, a sample một cuộc khảo sát mẫu từ năm 2016 cho thấy
survey from 2016 showed a fertility rate of tỷ suất sinh là 1,25 và chỉ có 13 triệu ca sinh,
1.25 and only 13 million births, which was sau đó được thổi phồng lên 18,83 triệu.
later inflated to 18.83 million. Similarly, the Tương tự như vậy, báo cáo Triển vọng dân số
United Nations’ World Population Prospects thế giới của Liên hợp quốc, thường được coi
report, typically regarded as a reliable source là một nguồn đáng tin cậy để ước tính và dự
for estimates and projections of Chinese đoán các xu hướng nhân khẩu học của Trung
demographic trends, is wrong every time, Quốc, lần nào cũng sai, không có ngoại lệ.
without exception. The 2022 WPP suggests WPP 2022 cho thấy dân số Trung Quốc bắt
that China’s population began to decline last đầu giảm vào năm ngoái (sớm hơn 10 năm so
year (ten years earlier than its 2019 với dự báo năm 2019), trong khi tôi ước tính
projection), whereas I estimate that the rằng sự suy giảm bắt đầu vào năm 2018. Bản
báo cáo mới nhất của WPP cũng dự đoán rằng
dân số Trung Quốc sẽ giảm xuống còn 767
decline began in 2018. The latest WPP also triệu người vào năm 2100, thấp hơn nhiều so
predicted that China’s population would fall với dự báo trước đó của nó là 1,065 tỷ.
to 767 million in 2100, far below its earlier
forecast of 1.065 billion. Các dự báo của WPP vẫn đánh giá quá cao
dân số Trung Quốc. Mặc dù bản báo cáo của
WPP projections still overestimate China’s WPP vào năm 2022 đã đặt dân số Trung
population. While the 2022 WPP puts the Quốc là 1,43 tỷ người, nhưng tôi ước tính
Chinese population at 1.43 billion people, I rằng con số này hiện nhỏ hơn 1,28 tỷ. Ngoài
estimate that it is now smaller than 1.28 ra, theo WPP, có 28,2 triệu ca sinh ở Trung
billion. Moreover, according to the WPP, Quốc vào năm 1990 và 17,4 triệu vào năm
there were 28.2 million births in China in 2000. Tuy nhiên, các cuộc điều tra dân số
1990 and 17.4 million in 2000. Yet the 1990 năm 1990 và 2000 đã đưa ra con số sinh ở
and 2000 censuses put the number of Chinese Trung Quốc lần lượt là 23,7 triệu và 14,2
births at 23.7 million and 14.2 million, triệu, như được xác nhận bởi số học sinh lớp
respectively, as confirmed by the number of 9 vào năm 2004 và 2014.
ninth graders in 2004 and 2014.
WPP 2022 cũng phóng đại dân số tương lai
của Trung Quốc, dự đoán tỷ lệ sinh là 1,31
The 2022 WPP also exaggerates China’s cho giai đoạn 2023-50 và 1,45 cho giai đoạn
future population, predicting a fertility rate of 2051-2100. Tỷ lệ sinh của người Trung Quốc
1.31 for 2023-50 and 1.45 for 2051-2100. trong khu vực cho thấy điều ngược lại. Người
The fertility rate among Chinese in the Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan và người
region suggests otherwise. Hong Kong, Singapore gốc Hoa đều có tỷ suất sinh trung
Macau, Taiwan, and Chinese Singaporeans bình là 1,0-1,1 - mức thấp nhất trên thế giới -
have all had average fertility rates of 1.0-1.1 – trong hai thập kỷ qua, bất chấp các chính
the lowest in the world – over the past two sách khuyến sinh của chính quyền địa
decades, despite local authorities’ pro- phương.
natalist policies.
Những nỗ lực của Trung Quốc nhằm tăng tỷ
China’s efforts to boost its fertility rate face lệ sinh phải đối mặt với ba thách thức lớn.
three major challenges. First, the one-child Thứ nhất, chính sách một con đã định hình lại
policy has reshaped the Chinese economy, nền kinh tế Trung Quốc, làm tăng đáng kể chi
dramatically increasing the cost of raising phí nuôi dạy con cái. Thu nhập khả dụng
children. China’s household disposable của hộ gia đình Trung Quốc chỉ tương
income is equivalent to only 44% of its GDP, đương 44% GDP, so với 72% ở Hoa Kỳ và
compared to 72% in the United States and 65% ở Vương quốc Anh. Thị trường nhà đất
65% in the United Kingdom. The Chinese Trung Quốc được định giá gấp bốn lần GDP
housing market was valued at four times the của nước này vào năm 2020, trong khi thị
country’s GDP in 2020, whereas the trường bất động sản Mỹ được định giá gấp
American real-estate market is valued at 1.6 1,6 lần GDP.
times GDP.
Các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc
hiện phải đối mặt với một tình thế tiến thoái
Chinese policymakers now face a dilemma: if
lưỡng nan: nếu bong bóng bất động sản
the real-estate bubble does not burst, young
không vỡ, các cặp vợ chồng trẻ sẽ không đủ
khả năng nuôi hai con. Nhưng nếu bong bóng
couples will be unable to afford to raise two vỡ, nền kinh tế Trung Quốc sẽ chậm lại và
children. But if the bubble does burst, China’s một cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu sẽ
economy will slow, and a global financial nổ ra. Tương tự như vậy, việc tăng thu nhập
crisis will erupt. Likewise, raising household khả dụng của hộ gia đình lên 60-70% GDP để
disposable income to 60-70% of GDP in tăng mức sinh có thể làm giảm quyền lực của
order to increase fertility could reduce the chính phủ, làm suy yếu nền tảng kinh tế của
government’s power, undermining the cách tiếp cận chính sách “độc tài trong đối
economic foundations of its current nội và hung hăng trong đối ngoại” hiện nay.
“authoritarian at home and aggressive
abroad” policy approach. Với những đánh đổi khó khăn này, các nhà
hoạch định chính sách Trung Quốc có thể có
xu hướng sao chép các chính sách của Nhật
Bản nhằm giảm chi phí nuôi dạy con cái, ví
Given these difficult tradeoffs, Chinese dụ như giảm học phí và cung cấp dịch vụ
policymakers might be more inclined to chăm sóc trẻ em thuận tiện, trợ cấp sinh con
replicate Japanese policies to lower child- và trợ cấp nhà ở cho các cặp vợ chồng trẻ.
rearing costs, such as reducing school fees Nhưng cách tiếp cận của Nhật Bản đã tỏ ra
and providing convenient childcare, childbirth tốn kém và không hiệu quả: tỷ lệ sinh của
subsidies, and housing benefits to young nước này tạm thời tăng từ 1,26 năm 2005 lên
couples. But Japan’s approach has proved 1,45 năm 2015, trước khi giảm xuống 1,23
expensive and ineffective: the country’s vào năm 2022. Hơn nữa, do Trung Quốc đang
fertility rate received a temporary boost, from “già trước khi giàu”, quốc gia này thiếu khả
1.26 in 2005 to 1.45 in 2015, before falling năng tài chính để cạnh tranh với Nhật Bản.
back to 1.23 in 2022. Moreover, because it is
“getting old before it gets rich,” China lacks Cuộc khủng hoảng nhân khẩu học của
the financial wherewithal to emulate Japan. Trung Quốc diễn ra do cả lý do sinh lý và văn
hóa . Với việc ngày càng có nhiều phụ nữ trì
There are both physiological and cultural hoãn kết hôn và sinh con, tỷ lệ vô sinh của
reasons for China’s demographic crisis. quốc gia này đã tăng từ 2% vào đầu những
With more women delaying marriage and năm 1980 lên 18% vào năm 2020. Từ năm
childbirth, the country’s infertility rate has 2013 đến năm 2021, số lượng các cuộc hôn
increased from 2% in the early 1980s to 18% nhân đầu tiên đã giảm hơn một nửa và 3/4 đối
in 2020. From 2013 to 2021, the number of với 20 -24 tuổi. Và chính sách một con, đã
first marriages fell by more than half, and by được áp dụng trong 36 năm, đã thay đổi hoàn
three-quarters for 20-24-year-olds. And the toàn quan điểm của người Trung Quốc về
one-child policy, which had been in place for việc sinh con: có một con – hoặc không con –
36 years, has irreversibly changed Chinese đã trở thành chuẩn mực xã hội.
views of childbearing: having one child – or
none – has become the social norm. Nhóm phụ nữ Trung Quốc càng gần thời đại,
họ dường như càng ít muốn có con. Một khảo
sát gần đây cho thấy trong khi số con dự định
sinh trung bình của phụ nữ ở Trung Quốc là
The more recent the cohort of Chinese 1,64, con số trung bình giảm xuống còn 1,54
women, the less willing to have children they đối với phụ nữ sinh sau năm 1990 và 1,48 đối
seem to be. One recent survey found that với phụ nữ sinh sau năm 2000. Để so sánh, ở
Hàn Quốc và Hồng Kông, số con dự định sinh
trung bình số con lần lượt là 1,92 và 1,41 (cả
while the average number of intended hai tỷ suất sinh đều bằng khoảng một nửa so
children among women in China is 1.64, the với dự kiến). Nếu xem xét đến sự giảm sút
average decreases to 1.54 for women born trong tỉ lệ sinh con này là bất kỳ dấu hiệu nào
after 1990 and 1.48 for women born after đó, Trung Quốc sẽ phải vật lộn để ổn định tỷ
2000. For comparison, in South Korea and lệ sinh ở mức 0,8 và dân số của nước này sẽ
Hong Kong, the average intended number of giảm xuống dưới 1,02 tỷ vào năm 2050 và
children is 1.92 and 1.41, respectively (both 310 triệu vào năm 2100.
fertility rates are roughly half the intended
figures). If this declining interest in Trung Quốc cổ đại cũng trải qua sự suy giảm
childbearing is any indication, China will dân số do chiến tranh và nạn đói, nhưng đã
struggle to stabilize its fertility rate at 0.8, and phục hồi nhanh chóng, tương tự như mất
its population will fall to less than 1.02 billion máu kinh. Nhưng dân số hiện đại suy giảm,
by 2050 and 310 million in 2100. giống như bệnh thiếu máu bất sản, rất khó
phục hồi.
Ancient China also experienced population
declines due to war and famine, but recovered Ngay cả khi Trung Quốc thành công trong
quickly, similar to blood loss with normal việc tăng tỷ lệ sinh lên 1,1 và ngăn tỷ lệ này
regeneration. Modern population declines, giảm xuống, dân số của nước này có thể sẽ
like aplastic anemia, are hard to recover giảm xuống còn 1,08 tỷ vào năm 2050 và 440
from. triệu vào năm 2100. Tỷ lệ dân số của nước
này trong dân số thế giới đã giảm từ 37% năm
Even if China succeeds in increasing its 1820 xuống 22 % vào năm 1950-80, sẽ giảm
fertility rate to 1.1 and prevents it from xuống 11% vào năm 2050 và 4% vào năm
declining, its population will likely fall to 2100.
1.08 billion by 2050 and 440 million by 2100.
The country’s share of the world’s population, Những tác động của sự suy giảm dân số này
which declined from 37% in 1820 to 22% in sẽ được kết hợp bởi sự lão hóa nhanh chóng,
1950-80, will fall to 11% in 2050 and 4% by điều này sẽ làm chậm tốc độ tăng trưởng của
2100. Trung Quốc và có khả năng làm tăng nợ công.
Tỷ lệ người Trung Quốc từ 65 tuổi trở lên sẽ
The effects of this population decline will be tăng từ 14% vào năm 2020 lên 35% vào năm
compounded by rapid aging, which will slow 2050. Trong khi năm công nhân ở độ tuổi 20-
Chinese growth and likely increase 64 hỗ trợ mỗi người già từ 65 tuổi trở lên vào
government debt. The share of Chinese năm 2020, tỷ lệ này sẽ tiếp tục giảm xuống
people aged 65 and older will rise from 14% còn 2,4 công nhân trong năm 2020. 2035 và
in 2020 to 35% in 2050. Whereas five 1,6 vào năm 2050. Vào thời điểm đó, cuộc
workers aged 20-64 supported every senior khủng hoảng lương hưu của Trung Quốc sẽ
citizen aged 65 and older in 2020, the ratio phát triển thành một thảm họa nhân đạo. Phụ
will continue to decline to 2.4 workers in nữ, những người sống lâu hơn nam giới trung
2035 and 1.6 in 2050. By that point, China’s bình 6-7 năm và thường trẻ hơn bạn đời của
pension crisis will develop into a họ vài tuổi, cuối cùng sẽ phải trả giá cho sự
humanitarian catastrophe. Women, who live thay đổi đau đớn về nhân khẩu học này.
6-7 years longer than men, on average, and
are usually a few years younger than their
spouses, will ultimately pay the price for this
painful demographic shift.

ENGLISH VIETNAMESE
demographic trends xu hướng nhân khẩu học
a gross exaggeration sự phóng đại quá mức
censuses các cuộc điều tra dân số
The fertility rate Tỷ lệ sinh
pro-natalist policies các chính sách khuyến sinh
China’s household disposable income Thu nhập khả dụng của hộ gia đình Trung
Quốc
real-estate bubble does not burst bong bóng bất động sản không vỡ
authoritarian at home and aggressive abroad độc tài trong đối nội và hung hăng trong đối
ngoại
difficult tradeoffs những đánh đổi khó khăn
getting old before it gets rich già trước khi giàu
demographic crisis Cuộc khủng hoảng nhân khẩu học
cohort Nhóm
blood loss with normal regeneration mất máu kinh
aplastic anemia bệnh thiếu máu bất sản
The effects of … compounded by Những tác động của … được kết hợp

You might also like