You are on page 1of 2

Text 1:

Tổng quan về dân số thế giới


Một vài nơi giữa ngày 24 tháng 6 và ngày 11 tháng 7 năm 1987, dân số
loài người trên hành tinh trái đất đạt 5 tỷ người. Song, hai trăm năm
trước đó, khi dân số thế giới chỉ mới hơn 1 tỷ người, các nhà kinh tế
chính trị như Malthus và David Ricardo đã dự đoán rằng loài người sẽ tự
sản sinh trong nạn đói. Tuy nhiên, mặc những dự đoán của họ, dân số
loài người vẫn tiếp tục tăng, nhưng nguồn cung ứng thực phẩm cũng
vậy. Hai quan điểm trái chiều nhau đã nổi lên liên quan đến quy mô mà
dân số đang phát triển ảnh hưởng đến việc đáp ứng thực phẩm. Đầu
tiên là dân số phải được kiểm soát nếu suy dinh dưỡng dai dẳng và nạn
đói không trở thành chắc chắn xảy ra đối với một phần đáng kể của toàn
cầu. Thứ hai là, thậm chí với dân số toàn cầu dự kiến 10 tỷ người vào
năm 2070, vẫn có đủ lương thực cho tất cả mọi người.

Không nơi nào mà sự tương phản lý luận giữa các nhà kinh tế học và
nhà sinh thái học rõ ràng hơn trong cách mà họ nhận định về sự tăng
trưởng dân số. Trong đánh giá ảnh hưởng của nó, các nhà kinh tế học
thường không coi nó là một mối đe dọa đặc biệt nghiêm trọng. Theo
quan điểm của họ, nếu nền kinh tế của một quốc gia tăng trưởng 5%
mỗi năm và dân số của nước đó tăng 3%, điều này dẫn đến mức tăng
2% đều đặn trong mức sống. Chỉ dựa vào những biến thiên của nền
kinh tế , tình huống này dường như vẫn có thể trụ lại được, một tình
huống có thể ngoại suy vô hạn định trong tương lai.

Mối lo ngại về tác động của dân số không phải là mới. Gần 2 thế kỷ trôi
qua kể từ khi Malthus xuất bản luận án nổi tiếng của mình, trong đó ông
lập luận rằng dân số có xu hướng tăng theo cấp số nhân trong khi sản
xuất lương thực tăng theo cấp số cộng. Ông đã lập luận rằng trừ khi việc
mang thai ngoài ý muốn được kiểm soát, tốt nhất là thông qua việc
kiêng khem, nếu không nạn đói sẽ trở nên không thể tránh khỏi. Malthus
đã sai ở chỗ ông ấy không lường trước được tiềm năng to lớn của cải
tiến công nghệ nâng cao năng suất đất đai. Nhưng Malthus đã đúng khi
dự đoán khó khăn trong mở rộng sản lượng lương thực cũng nhanh như
tốc độ tăng dân số. Ngày nay, hàng triệu cư dân trên trái đất bị đói, một
phần vì phân bố không đồng đều, nhưng ngày càng tăng vì lương thực
bình quân đầu người giảm. Và khi những năm 90 bắt đầu, ranh giới của
người đói lại tăng lên. Malthus đã quan tâm đến mối quan hệ giữa gia
tăng dân số và khả năng sản xuất lương thực của trái đất. Bây giờ chúng
ta biết rằng việc gia tăng dân số và hoạt động kinh tế ảnh hưởng đến
nhiều khả năng tái tạo khác của tự nhiên, như khả năng hấp thụ rác thải
của trái đất. Ở bất kỳ mức độ ô nhiễm bình quân theo đầu người nhất
định nào, nhiều người hơn có nghĩa là ô nhiễm nghiêm trọng hơn. Khi
việc thải nhiều chất thải công nghiệp và nông nghiệp lấn át khả năng tự
hấp thụ chất thải của hệ thống tự nhiên, tác động chồng chất của các
chất độc hại trong môi trường bắt đầu ảnh hưởng đến sức khỏe con
người.

Tuy nhiên, nhìn chung, những năm 80 không phải là một thập kỷ hạnh
phúc cho những nỗ lực nhằm đạt được sự cân bằng bền vững giữa con
người và những hệ thống hỗ trợ tự nhiên của họ. Dân số không ngừng
tăng và suy thoái môi trường lan rộng đã làm hàng trăm triệu người mắc
kẹt trong một vòng xoáy của thu nhập giảm và số người đói tăng lên.
Với số lượng người bị vướng vào chu trình đe dọa đến tính mạng này
ngày càng tăng mỗi năm, thế giới có lẽ buộc phải tính được hậu quả của
nhiều năm sao lãng với chính sách dân số.

You might also like