You are on page 1of 12

See discussions, stats, and author profiles for this publication at: https://www.researchgate.

net/publication/353878659

Di sản văn hóa trong thang bậc giá trị toàn cầu qua góc nhìn của Michael
Herzfeld

Article · January 2020


DOI: 10.33100/tckhxhnv6.4.DinhHongHai

CITATIONS READS

0 38

1 author:

Hai Dinh
Vietnam National University, Hanoi
16 PUBLICATIONS 6 CITATIONS

SEE PROFILE

All content following this page was uploaded by Hai Dinh on 13 August 2021.

The user has requested enhancement of the downloaded file.


Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 6, Số 4 (2020) 439-449

Di sản văn hóa trong thang bậc giá trị toàn cầu qua góc nhìn
của Michael Herzfeld

Đinh Hồng Hải*


Tóm tắt: Trong bản thuyết trình về “Di sản văn hóa cho tương lai: Công ước UNESCO
2003 về Bảo vệ Di sản văn hóa phi vật thể”, Frank Proschan (một cựu chuyên gia
UNESCO) cho biết: UNESCO không vinh danh, công nhận di sản văn hóa phi vật thể.
Việc dùng từ “công nhận” di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia, di sản văn hóa phi vật
thể nhân loại là chưa hiểu đúng tinh thần Công ước 2003. Bài viết tìm hiểu về hiện tượng
loạn danh hiệu và cấp bằng di sản không chỉ có ở Việt Nam mà còn diễn ra sôi động từ thế
kỷ trước ở Hy Lạp qua một nghiên cứu đặc sắc của Michael Herzfeld, Đại học Harvard,
Hoa Kỳ: Tạo vật vụng về: Nghệ nhân và kỹ xảo trong thang bậc giá trị toàn cầu. Đây là
một nghiên cứu quan trọng của ông về ứng xử với di sản truyền thống của Hy Lạp, chúng
không đơn thuần là những vật trưng bày mà còn thể hiện mặt trái đời sống của nghệ nhân,
những người đã tạo ra các sản phẩm đó. Qua đây, ông chỉ trích việc tạo tác một cách khuôn
sáo (theo mẫu có sẵn) khiến cho các nghệ nhân tại đảo Cret (Hy Lạp) bị mất đi các kỹ xảo
truyền thống nếu đặt trong một “hệ thống phân cấp giá trị toàn cầu”. Quan sát của ông
mang đến cho chúng ta một cách hiểu sâu sắc về các tác động của toàn cầu hóa với ngành
công nghiệp di sản và đời sống xã hội ở Hy Lạp, từ đó soi chiếu vào thực trạng của Việt
Nam hiện nay.
Từ khóa: di sản văn hóa; thang bậc toàn cầu; trục lợi di sản; tạo vật vụng về.
Ngày nhận 22/4/2020; ngày chỉnh sửa 28/7/2020; ngày chấp nhận đăng 28/8/2020

DOI: https://doi.org/10.33100/tckhxhnv6.4.DinhHongHai

1. Mở đầu nhiên nêu trong Điều 1 và 2 nằm trên lãnh


thổ, là trách nhiệm trước tiên của mình.

Công ước về Bảo vệ Di sản Văn hóa và Quốc gia này phải nỗ lực hành động tối đa
Thiên nhiên thế giới được Đại hội đồng Tổ cho mục đích trên bằng những nguồn lực
chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của sẵn có và nếu có, thì bằng cả sự viện trợ và
Liên Hợp Quốc (UNESCO) thông qua năm hợp tác quốc tế mà nó có thể có được
1972, có hiệu lực từ ngày 17/12/1975 (Việt hưởng, nhất là về mặt tài chính, nghệ thuật,
Nam chính thức gia nhập Công ước này khoa học và kỹ thuật” (trích Điều 4).
ngày 19/10/1987). Công ước xây dựng một Công ước tiếp theo của UNESCO về Bảo
danh sách các di sản văn hoá và thiên nhiên vệ văn hóa phi vật thể được ban hành ngày
có giá trị toàn cầu nổi bật “bảo đảm việc xác 17 tháng 10 năm 2003 (gọi tắt là Công ước
định, bảo vệ, bảo tồn, tôn tạo và truyền lại 2003). Từ 2003 đến 2019, lần lượt 14 di sản
cho các thế hệ tương lai di sản văn hoá và tự văn hóa phi vật thể của Việt Nam được ghi
danh vào Danh sách di sản văn hóa phi vật

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG thể đại diện của nhân loại và Danh sách di
Hà Nội; email: haidinh@vnu.edu.vn
439
Đinh Hồng Hải / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 6, Số 4 (2020) 439-449 440

sản văn hoá phi vật thể cần được bảo vệ chuyên chế2. Từ quan niệm này, Herzfeld
khẩn cấp theo Công ước 2003. Các “danh (2004) sử dụng thuật ngữ body impolitic
hiệu di sản” nói trên được cập nhật liên tục nhưng không hướng đến khoa học chính trị
trên các phương tiện truyền thông như mà là khoa học nhân văn. Nghiên cứu của
“UNESCO công nhận, UNESCO vinh ông bàn sâu đến những vấn đề của con
danh” (Lan Ngọc 2019; Thơ Phạm 2019), người qua một cộng đồng cư dân ở
khiến cho nhiều người Việt Nam cảm thấy Rethemnos thuộc đảo Crete (Hy Lạp). Đại
vô cùng tự hào. diện cho cộng đồng này là những thợ thủ
Nhưng cũng có những người lo lắng cho công (craftsman) hay nghệ nhân (artisans),
di sản khi chúng bị trùng tu và khai thác những người góp phần bảo lưu cái gọi là
không đúng cách “biến di tích 400 tuổi “truyền thống Hy Lạp” thông qua kỹ xảo
thành... 1 ngày tuổi” (Đỗ Doãn Hoàng (artifice) tạo tác các sản phẩm mỹ nghệ. Vấn
2010). Thậm chí biến thành “những di tích 0 đề ông đặt ra là, trong cái “cơ thể chính trị”
tuổi” (Thành Cao 2020) do những sự trục lợi của Hy Lạp thập niên 90 của thế kỷ XX,
từ danh hiệu di sản. Liên quan đến cách thức những sản phẩm đó có thực sự đại diện cho
ứng xử với di sản và sự hiểu biết về di sản ở văn hóa nguyên gốc (genesis) Hy Lạp hay
Việt Nam, chúng ta cần phải tìm hiểu kinh không? Và cái body impolitic đó, theo cách
nghiệm từ các quốc gia đi trước, mà Hy Lạp ẩn dụ của ông, chính là “tạo vật vụng về” đã
là một trong những quốc gia “giàu” di sản được tạo ra trong bối cảnh đó.
nhất trên thế giới. Trục lợi từ danh hiệu di Bằng những chứng cứ xác đáng từ kết
sản chính là những gì đã được trình bày quả điền dã dân tộc học điều tra thực địa tại
trong công trình nghiên cứu đặc sắc Tạo vật Hy Lạp, với một thao tác nhân học hết sức
vụng về: Nghệ nhân và kỹ xảo trong thang chuyên nghiệp, ông đã đưa ra những nhận
bậc giá trị toàn cầu của Michael Herzfeld. xét tinh tế, sâu sắc cùng với những cảnh báo
Qua đây, chúng ta có thể nhìn thấy một góc về thực tiễn đời sống của một tầng lớp bên
tối của vấn đề bảo tồn di sản của Hy Lạp thế lề (marginal) được gọi là nghệ nhân bao
kỷ XX qua một góc nhìn đối sánh với Việt gồm cả những người bỏ học hoặc bị đuổi
Nam trong thế kỷ XXI. học (Herzfeld 2004: 13). Họ bị bóc lột bởi
những mánh khóe (crafty) của những kẻ
nắm trong tay sự bá quyền (hegemony) về di
2. Từ body politic đến body impolitic sản để trục lợi bằng việc sản xuất ra những
“tạo vật vụng về”. Những “tạo vật vụng về”
Body politic1 là một ẩn dụ cổ xưa về một đó được khoác lên mình danh xưng “truyền
nhà nước theo quan điểm chính trị (hay tôn thống Hy Lạp”, “di sản cổ đại hay văn minh
giáo) phương Tây, chỉ một cơ cấu xã hội
hoặc tôn giáo với các bộ phận của nó được
hình thành như cơ thể sinh học của con 2 Kinh Rigveda của Ấn Độ giải thích chính trị bằng cách so sánh
chức tư tế với miệng, binh lính với cánh tay, người chăn cừu đến
người, ngụ ý một sự lãnh đạo có thứ bậc và đùi và nông dân với đôi chân của loài người. Trong huyền thoại
sự phân công lao động mang một ý nghĩa Aesop của Hy Lạp, các thành viên khác của cơ thể nổi dậy
chống lại cái bụng, mà họ nghĩ là không làm gì trong khi lấy tất
cả thức ăn. Tay, miệng, răng và chân bắt đầu một cuộc đình
công, nhưng sau vài ngày họ nhận ra rằng họ trở nên ốm yếu.
Do đó, họ học được rằng sự hợp tác giữa tất cả các thành viên
của cơ thể, bao gồm cả bụng trở nên rất quan trọng đối với sức
1 Thuật ngữ này có thể gọi là cơ thể chính trị (hay chính trị cơ khỏe của cơ thể. Cơ thể chính trị giống như một cơ thể sống, chỉ
thể) gần giống như cơ chế chính trị hay chính thể ở Việt Nam hoạt động tốt hơn khi tất cả thực hiện nhiệm vụ được giao và
hay Trung Quốc trong khoa học chính trị, tuy nhiên, ở đây làm việc cùng nhau. Các thuật ngữ tiếng Anh ở đây là cách dùng
chúng tôi không bàn đến khía cạnh này. riêng của Michael Herzfeld.
441 Đinh Hồng Hải / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 6, Số 4 (2020) 439-449

châu Âu” với sự đảm bảo của những tổ chức nâng cao giá trị nghệ thuật của sản phẩm
do nhà nước lập ra như: Hiệp hội doanh hay tay nghề của nghệ nhân mà thực chất
nghiệp nhỏ, vừa và nghề thủ công quốc gia chỉ để đánh bóng tên tuổi một số người luôn
(National Organization of Small and tỏ ra quan tâm đến cái gọi là truyền thống.
Midium Businesses and Handicrafts, viết Còn các nhà tổ chức, đứng đầu là
tắt: NOSMBH). NOSMBH, thì nhận được những khoản giải
Mang trên vai gánh nặng là những người ngân vừa nhanh vừa nhiều từ ngân khố của
gìn giữ di sản truyền thống, nhưng trên thực quốc gia để bày ra những “tạo vật vụng về”
tế những nghệ nhân này được sử dụng như nhưng có lợi cho các nhà chính trị và cho
những cỗ máy để biến sự nổi tiếng của “xứ chính họ(Chương 5-6).
sở các vị thần” Hy Lạp thành sản phẩm du Có thể thấy, từ body politic đến body
lịch thương mại. Họ luôn được tán dương impolitic là một ẩn dụ tài tình của Michael
như những “báu vật sống” cho đến lúc hiểu Herzfeld, nó mang đến cho người đọc một
ra rằng “truyền thống” chính là chiếc cột neo góc nhìn sinh động về thiết chế xã hội Hy
(tethering post) chặn hy vọng vươn lên của Lạp thập niên 90 của thế kỷ XX qua những
họ vào cái bệ (pedestal) di sản, để rồi chính “tạo vật vụng về”. Trong xã hội đó nổi lên
họ cũng trở thành một phần di sản “sống” các nhóm lợi ích trục lợi các giá trị truyền
của quốc gia (Chương 1). Cái ách vì lợi ích thống nhờ vào sự bá quyền di sản. Bên cạnh
“quốc gia” tròng vào cổ họ không hề nhẹ đó, ông mô tả cặn kẽ về những mánh khóe
nhưng cũng chẳng hề ngẫu nhiên, đó chính lừa dối cùng sự đánh tráo các khái niệm như
là sự trục lợi của tầng lớp bá quyền trên sự “di sản” hay “truyền thống” để làm giàu cho
ngu muội hóa tầng lớp bần cùng như một nhóm lợi ích (Chương 7-8). Ba thập niên đã
dạng nô lệ thời hiện đại. Dễ dàng nhận thấy, trôi qua, xã hội Hy Lạp giờ đây đã đổi khác
sự tẻ nhạt trong công việc của những “con nhưng những gì là hiện thân của một xã hội
người công cụ” trong ngành “công nghiệp Hy Lạp những năm 90 lại đang trỗi dậy
phục vụ du lịch” đã cho ra đời những tạo vật trong xã hội Việt Nam những thập niên đầu
vô hồn và vụng về bởi chúng thường được thế kỷ XXI với vô số vấn đề vừa cũ lại vừa
sao chép từ các mẫu có sẵn (stereotype). mới. Có khác chăng chỉ là “truyền thống Hy
Mặc dù chúng có vẻ ngoài hào nhoáng và Lạp” đã được thay thế bằng “truyền thống
cũng có vẻ hoàn thiện (về kỹ thuật) nhưng Việt Nam” như một “phiên bản châu Á” với
yếu tố nghệ thuật của các sản phẩm phi cảm những vấn đề có liên quan đến di sản, truyền
hứng này dường như đã bị triệt tiêu thống, UNESCO, vinh danh, “cấp bằng”,
(Chương 2-4). v.v...
Không chỉ trục lợi sức lao động của
những người thợ thủ công được gọi bằng
những danh xưng mỹ miều là nghệ nhân hay 3. Từ “tạo vật vụng về” ở Hy Lạp đến
thậm chí là bậc thầy (mastora, tiếng Hy “sáng tạo truyền thống” ở Việt Nam
Lạp), giới chủ (elite) ở đây còn trục lợi từ
việc bán rẻ những giá trị cổ truyền huy Trong nghiên cứu của mình Herzfeld
hoàng một thời của nền văn minh Hy Lạp (2004) đề cập đến 8 nội dung (i. Bệ đỡ và
bằng một sự đánh tráo lén lút (stealth) và thủ cột neo; ii. Đào tạo nghề; iii. Thù nghịch và
đoạn (guile). Chẳng hạn, những trường nghề liên kết; iv. Sự tham gia của nhà nước; v.
hay những triển lãm mỹ nghệ được Nhàm chán và lén lút; vi. Liên kết nhà nước;
NOSMBH tổ chức hàng năm không nhằm vii. Nghệ nhân trong thể chế nhà nước và
quốc gia; viii. Giá trị hiện thân). Mỗi nội
Đinh Hồng Hải / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 6, Số 4 (2020) 439-449 442

dung này đề cập một số khía cạnh hay vấn không làm nên thầy tu” (Hoàng Hương
đề có liên quan đến thể chế với các mối 2019). Đứng trước nhu cầu ngày càng tăng
quan hệ chằng chịt đến chính trị và kinh tế. của “kinh doanh tâm linh”, hoạt động sáng
Chẳng hạn như những mánh khóe trong tạo truyền thống được dịp phát huy cao độ
công việc (crafty at work), quan hệ tạo lợi với vô số hình thức như kịch bản hóa lễ hội,
thế (engendering power ralations), tạo dựng du lịch hóa đền chùa, công nghiệp hóa ấn-
ê-kíp (forming association),v.v... từ đó dựng sớ, v.v... Tất cả đều được đáp ứng nhanh
nên cái gọi là triển lãm truyền thống chóng trong một “thị trường tâm linh” tấp
(exhibiting tradition). Qua các nội dung trên, nập nhờ nguồn đầu tư của tầng lớp “elite
ông giúp người đọc nhận biết giá trị hiện nội” (đây là tầng lớp người giàu mới nổi ở
thân (embodying value) của những tạo vật Việt Nam thường được gọi là trọc phú vì
vụng về đã hình thành ở Hy Lạp thập niên giàu có nhưng lại thiếu “tinh hoa” như tầng
90 cùng những con người và nền tảng xã hội lớp tư sản ở châu Âu).
đã tạo ra chúng. Dễ dàng nhận thấy, những “tạo vật vụng
Nghiên cứu của Herzfeld (2004) cũng về” ở Hy Lạp hơn ba thập niên trước trong
nhắc tới khái niệm sáng tạo truyền thống nghiên cứu của Herzfeld (2004), có nhiều
(invented tradition) trong cuốn sách do Eric điểm tương đồng kỳ lạ với những sản phẩm
Hosbawm và Terence Ranger chủ biên ra đời trong quá trình sáng tạo truyền thống
(1983). Nhưng có vẻ như sáng tạo truyền ở Việt Nam những thập niên đầu thế kỷ
thống của Hy Lạp cuối thế kỷ XX (như XXI. Đó là những sản phẩm nhanh - nhiều -
Herzfeld mô tả) còn thua xa sức sáng tạo giá rẻ được tạo ra trong một giai đoạn hỗn
truyền thống của Việt Nam những thập niên độn về hệ giá trị (do phải đáp ứng cho số
đầu thế kỷ XXI với sự đóng góp của nhiều đông). Để nhận diện chúng, thông qua
hội, nhóm có liên quan. Liên hiệp các hội nghiên cứu của ông, chúng ta có một gợi ý
UNESCO Việt Nam là một trường hợp khá quan trọng, đó là đánh giá các tạo vật đó
điển hình, giống với NOSMBH ở Hy Lạp trong thang bậc giá trị toàn cầu (global
nhưng tầm ảnh hưởng thì lớn hơn rất nhiều. hierarchy of value). Nó đóng khung cái gọi
Đặc biệt, Liên hiệp này còn “vượt mặt” cấp là truyền thống dân tộc (hay quốc gia) và
quản lý cao nhất để “cấp bằng chứng nhận: sản phẩm thủ công truyền thống như những
Đền thiêng linh ứng đạt tiêu chuẩn văn hoá chứng cứ về một sự “lạc hậu” khó thay đổi
đền thờ Tam, Tứ phủ theo nghi lễ văn hoá (incurable “backwardness”). Rõ ràng, nếu
truyền thống Việt Nam” (Minh Tú 2017). không nhìn nhận mỗi tạo vật như vậy trong
Có thể thấy, việc phong tặng cho các “đền một hệ giá trị hay trong thang bậc giá trị
thiêng” trước đây chỉ nhà vua mới có thẩm toàn cầu, chúng ta có thể bị rối loạn bởi
quyền (gọi là sắc phong). Vì vậy, những những “tạo vật vụng về” và cả những sản
chiếc bằng chứng nhận này rõ ràng là một phẩm “không vụng về” nhưng ra đời trong
“tạo vật vụng về” giữa vô số sản phẩm sáng quá trình sáng tạo truyền thống.
tạo truyền thống ở Việt Nam.
Cùng với cơn khát “vinh danh” và
“phong tặng”, cơn sốt “kinh doanh tâm linh” 4. Di sản: Bằng cấp, danh hiệu và hiện
sau hơn nửa thế kỷ vô thần đã khiến nhiều trạng của Việt Nam
người Việt Nam bị mê hoặc với các loại
“đền thiêng linh ứng” hay “chùa khủng” Trên cơ sở Công ước về Bảo vệ Di sản
trong khi trên thực tế thì “chiếc áo cà sa Văn hóa và Thiên nhiên thế giới được
UNESCO thông qua năm 1972 và Công ước
443 Đinh Hồng Hải / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 6, Số 4 (2020) 439-449

2003 của UNESCO về Bảo vệ văn hóa Phi thiên nhiên, khu dự trữ sinh quyển, di sản
vật thể, cho tới nay, Việt Nam sở hữu một vật thể đến di sản phi vật thể như sau:
danh sách di sản bao gồm nhiều thể loại từ

Bảng: Danh sách di sản của Việt Nam tính đến năm 2019
TT Tên di sản Năm công nhận Phân loại di sản
1 Vịnh Hạ Long Ngày 17/12/1994 Vịnh Hạ Long là Di sản thiên nhiên thế giới với giá trị
ngoại hạng về mặt thẩm mỹ.
Ngày 02/12/2000 Vịnh Hạ Long tiếp tục được công nhận là Di sản thiên
nhiên thế giới theo tiêu chuẩn về giá trị địa chất, địa
mạo.
2 Vườn Quốc gia Ngày 03/07/ 2003 Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng là Di sản thiên
Phong Nha - Kẻ nhiên thế giới với giá trị về địa chất, là một tập hợp
Bàng bằng chứng ấn tượng về lịch sử trái đất.
3 Khu đền tháp Ngày 01/12/1999 Khu Di tích Chăm Mỹ Sơn là Di sản văn hóa thế giới
Mỹ Sơn với giá trị điển hình nổi bật về sự giao lưu văn hóa với
sự hội nhập vào văn hóa bản địa, những ảnh hưởng bên
ngoài đặc biệt là nghệ thuật kiến trúc Ấn Độ giáo, và
tiêu chí phản ánh sinh động tiến trình phát triển của
văn hóa Chămpa trong lịch sử văn hóa Đông Nam Á.
4 Đô thị Hội An Ngày 4/12/1999 Đô thị cổ Hội An là Di sản văn hóa thế giới với giá trị
di sản nổi bật của sự kết hợp các nền văn hóa qua các
thời kỳ tại một thương cảng quốc tế và là điển hình
tiêu biểu về một cảng thị châu Á truyền thống được
bảo tồn trọn vẹn.
5 Quần thể di tích Ngày 11/12/1993 Khu Di tích Cố đô Huế là Di sản văn hóa thế giới với
Cố đô Huế giá trị là một bằng chứng nổi bật của quyền lực phong
kiến Việt Nam đã mất đỉnh cao của nó vào đầu thế kỉ
XIX, và là một ví dụ nổi bật của một kinh đô phong
kiến phương Đông.
6 Khu Di tích Ngày 31/07/2010 Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội là
Trung tâm Di sản văn hóa thế giới với giá trịlà minh chứng cho sự
Hoàng thành giao lưu ảnh hưởng chủ yếu đến từ Trung Quốc ở phía
Thăng Long - Bắc và Vương quốc Champa ở phía Nam và tiêu chí
Hà Nội minh chứng cho truyền thống văn hóa lâu đời của
người dân Việt được thành lập ở đồng bằng sông
Hồng, đó là trung tâm quyền lực từ thế kỉ VII cho đến
tận ngày nay, và tiêu chí: liên quan trực tiếp tới nhiều
sự kiện văn hóa - lịch sử quan trọng.
7 Thành nhà Hồ Ngày 27/06/2011 Thành nhà Hồ vào danh mục Di sản văn hóa và thiên
nhiên thế giới với giá trị là biểu hiện rõ rệt của sự giao
thoa, trao đổi quan trọng các giá trị nhân văn giữa Việt
Nam và các quốc gia Đông Á, Đông Nam Á vào cuối
thế kỉ XIV- đầu thế kỉ XX, và tiêu chí là ví dụ nổi bật
về một kiểu kiến trúc hoàng thành biểu hiện cho quyền
lực hoàng gia tiêu biểu ở phương Đông, vừa là một
pháo đài quân sự bề thế, chắc chắn, uy nghiêm.
8 Di sản hỗn hợp: Ngày 23/6/2014 Tràng An đã trở thành Di sản văn hóa và thiên nhiên
Quần thể danh thế giới với giá trị về văn hóa, thẩm mỹ và các giá trị
Đinh Hồng Hải / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 6, Số 4 (2020) 439-449 444

thắng Tràng An đại chất, địa mạo. Như vậy, Tràng An là di sản hỗn
hợp đầu tiên của Việt Nam được công nhận.
9 Di sản văn hóa Ngày 07/11/2003 Nhã nhạc cung đình Huế vào danh mục Kiệt tác phi vật
phi vật thể: Nhã thể và truyền khẩu của nhân loại. Huế song hành một
nhạc cung đình lúc hai di sản văn hóa vật thể và phi vật thể - đánh dấu
Huế bước ngoặt về giá trị văn hóa vùng đất này.
10 Không gian văn Ngày 15/11/2005 Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là Kiệt
hóa cồng chiêng tác truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại vào. Cồng
Tây Nguyên chiêng Tây Nguyên rất đa dạng, phong phú, đã đi vào
sử thi Tây Nguyên để khẳng định tính trường tồn của
loại nhạc cụ này.
11 Dân ca Quan họ Ngày 30/9/2009 Dân ca Quan họ là Di sản văn hóa phi vật thể và truyền
Bắc Ninh khẩu của nhân loại với giá trị là những làn điệu dân ca
của vùng đồng bằng Bắc Bộ, tập trung chủ yếu ở vùng
Kinh Bắc (Bắc Ninh và Bắc Giang) và là thể loại dân
ca phong phú nhất về mặt giai điệu trong kho tàng dân
ca Việt Nam và được lưu truyền từ đời này sang đời
khác qua phương thức truyền khẩu.
12 Ca trù Ngày 01/10/2009 Ca trù là Di sản phi vật thể và truyền khẩu của nhân
loại cần bảo vệ khẩn cấp với giá trị là di sản văn hóa
thế giới có vùng ảnh hưởng lớn nhất ở Việt Nam, có
phạm vi tới 15 tỉnh, thành ở phía Bắc.
13 Hội Gióng Ngày 16/11/2010 Hội Gióng là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại
vào với giá trị là lễ hội truyền thống tưởng nhớ và ca
ngợi chiến công của người anh hùng Thánh Gióng,
một trong Tứ bất tử của tín ngưỡng dân gian Việt
Nam.
14 Hát xoan Ngày 24/11/2011 Hát xoan - Phú Thọ là Di sản văn hóa phi vật thể và
truyền khẩu của nhân loại vào với những giá trị cộng
đồng trong việc sáng tạo và truyền dạy từ đời này qua
đời khác. Hát Xoan đã tồn tại hơn 2.000 năm, là di sản
văn hóa dân gian hết sức quý báu.
15 Tín ngưỡng thờ Ngày 06/12/2012 Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ là Di
cúng Hùng sản văn hóa phi vật thể đại diện cho nhân loại với giá
Vương trị giáo dục đạo lý truyền thống dân tộc.
16 Đờn ca tài tử Ngày 5/12/2013 Nghệ thuật đờn ca tài tử Nam Bộ là Di sản văn hóa phi
Nam Bộ vật thể của nhân loại với giá trị được trao truyền từ thế
hệ này sang thế hệ khác và liên tục được tái tạo thông
qua trao đổi văn hóa, thể hiện sự hòa hợp văn hóa và
tôn trọng văn hóa riêng của các cộng đồng, dân tộc.
17 Di sản tư liệu: Ngày 31/7/2009 Mộc bản triều Nguyễn là di sản tư liệu thế giới đầu tiên
Mộc bản triều của Việt Nam, gồm 34.618 tấm, là những văn bản chữ
Nguyễn Hán - Nôm được khắc ngược trên gỗ để in ra các sách
tại Việt Nam vào thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX.
18 Bia đá các khoa Ngày 9/3/2010 82 tấm bia tiến sĩ của các khoa thi dưới triều Lê - Mạc
thi tiến sĩ triều (1442-1779) tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội) là
Lê và Mạc Di sản tư liệu thế giới. Đây là những tấm bia tiến sĩ
duy nhất trên thế giới có bài ký (văn bia) không chỉ lưu
danh những tiến sĩ đã thi đỗ trong các kỳ thi trải dài
suốt gần 300 năm (từ 1442 đến 1779) mà còn ghi lại
445 Đinh Hồng Hải / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 6, Số 4 (2020) 439-449

lịch sử các khoa thi và triết lý của triều đại về nền giáo
dục và đào tạo, sử dụng nhân tài, do đó có tác động to
lớn đối với xã hội đương thời và hậu thế.
19 Mộc bản chùa Ngày 16/5/2012 Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm là Di sản tư liệu Ký ức thế
Vĩnh Nghiêm giới khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Chùa Vĩnh
Nghiêm hiện lưu giữ và bảo tồn nhiều bộ ván kinh
Phật, kho Mộc bản còn lưu hơn 10 đầu sách với 3.050
bản khắc.
20 Châu bản triều Ngày 14/5/2014 Châu bản triều Nguyễn là Di sản tư liệu Chương trình
Nguyễn Ký ức thế giới khu vực Châu Á - Thái Bình Dương của
UNESCO.
21 Công viên Địa Ngày 3/10/2010 Cao nguyên đá Đồng Văn là Công viên Địa chất toàn
chất toàn cầu: cầu với hàng loạt di sản về địa chất, địa tầng, kiến trúc
Công viên đá cùng những nét văn hóa độc đáo của đồng bào vùng
Đồng Văn (Cao cao3
nguyên đá Đồng
Văn)
22 Dân ca ví, giặm Ngày 27/11/2014 Dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh của Việt Nam là Di sản văn
Nghệ Tĩnh hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Phạm vi di sản
gồm 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh.
23 Nghi lễ Kéo co Ngày 02/12/2015 Nghi lễ và Trò chơi kéo co ở Việt Nam, Campuchia,
ở Việt Nam Hàn Quốc, Philippines là Di sản văn hóa phi vật thể
của nhân loại. Di sản này ở Việt Nam thuộc sở hữu của
các công đồng Kinh, Tày, Nùng, Giáy, Thái, v.v. ở
nhiều địa phương như Vĩnh Phúc, Lào Cai, Hà Nội,
Bắc Ninh, v.v..
24 Tín ngưỡng thờ Ngày 1/12/2016 Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người
Mẫu Tam phủ Việt là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân
loại. Phạm vi di sản gồm 21 tỉnh: Nam Định, Hà Nam,
Ninh Bình, Hà Nội, Thái Bình, Hải Dương, Hưng Yên,
Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Phú Thọ, Lạng
Sơn, Hòa Bình, Lào Cai, Yên Bái, Tuyên Quang,
Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Thừa Thiên Huế và
Thành phố Hồ Chí Minh.
25 Nghệ thuật Bài Ngày 7/12/2017 Nghệ thuật Bài chòi Trung Bộ Việt Nam là Di sản văn
chòi Trung Bộ hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Phạm vi di sản
gồm 9 tỉnh: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế,
Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú
Yên, Khánh Hòa.
26 Nghi lễ then Ngày 12/12/2019 Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái ở Việt
Tày, Nùng, Thái Nam là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân
loại. Phạm vi di sản gồm 11 tỉnh: Lạng Sơn, Hà Giang,
Cao Bằng, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Bắc
Giang, Quảng Ninh, Lào Cai, Điện Biên, Lai Châu.

(Thơ Phạm 2019)

3
Bản danh sách 21 di sản được Quỹ Hỗ trợ bảo tồn Di sản văn hóa Việt Nam liệt kê. Tuy nhiên, tính tới hết năm 2019,
danh sách này cần bổ sung thêm 5 di sản (từ số thứ tự 22 đến 27).
Đinh Hồng Hải / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 6, Số 4 (2020) 439-449 446

Nhìn vào danh sách trên, dễ dàng nhận thấy, loạn nghệ nhân. Mặc dù Bộ Văn hóa, Thể thao
di sản ở Việt Nam vô cùng phong phú với nhiều và Du lịch giữ quyền cấp Bằng xếp hạng các di
thể loại và được phân bố ở nhiều tỉnh và thành tích Tín ngưỡng thờ Mẫu nhưng vẫn có nơi tự ý
phố. Có thể nói, các di sản đó chính là tài sản to cấp bằng chứng nhận” (Linh Tâm 2020).
lớn của quốc gia đã được thiên nhiên ban tặng, Trong một bài giảng cuối năm 2019, Frank
đó cũng là tài sản của nhiều thế hệ cha ông xây Proschan, một nhà Việt Nam học có thâm niên
dựng và gìn giữ. Trước khi được đưa vào danh hơn 30 năm, từng là điều phối viên văn hóa phi
sách di sản của UNESCO, các di sản đó vẫn tồn vật thể của UNESCO, khẳng định rằng
tại “tự nhiên” trong đời sống cộng đồng. Nhưng UNESCO không hề “phân cấp”, “công nhận”
sau khi được UNESCO “công nhận,” nhiều tổ hay “cấp bằng” cho di sản mà chỉ là sự “xác
chức xã hội nghề nghiệp ở Việt Nam nhận ra có nhận” hay “ghi danh” giá trị văn hóa của chính
rất nhiều người say mê các danh hiệu và bằng cộng đồng sở hữu di sản đó (Vương Anh 2019).
cấp. Họ đã nắm bắt thời cơ này để “cấp các loại Ông khẳng định: “Không có di sản văn hóa phi
bằng” có liên quan đến di sản và văn hóa, đáp vật thể của quốc gia hay của nhân loại mà chỉ có
ứng nhu cầu của một “bộ phận không nhỏ” di sản văn hóa phi vật thể của cộng đồng một
trong xã hội: Hội Nghệ nhân và Thương hiệu nhóm người tại một quốc gia nào đó” và cũng
cấp bằng Nữ hoàng văn hóa tâm linh cho một “không có điều khoản nào của Công ước 2003
“cô đồng” và hơn 20 loại “Nữ hoàng” khác...4; quy định về việc xếp hạng di sản văn hóa phi
Hội Kỷ lục gia Việt Nam cấp bằng cho các thứ vật thể. Chính vì thế, cái cách xếp hạng di sản
không chỉ là “dài nhất, to nhất” (Hà Đình văn hóa phi vật thể theo cấp tỉnh, cấp quốc gia
Nguyên 2013); Hội Văn nghệ Dân gian Việt hay cấp thế giới (nhân loại) chỉ là sự sáng tạo
Nam cấp bằng Nghệ nhân dân gian,v.v... Vượt (Bình Thanh 2020). Vậy sự ghi nhận của
lên trên nhiều hội và hiệp hội khác, Liên hiệp UNESCO đối với di sản là gì? Các di sản do ai
các hội UNESCO Việt Nam cấp bằng cho nhiều sở hữu? Ai có quyền khai thác di sản? Bảo tồn
loại, từ con người (như nghệ nhân, nhà khoa và khai thác di sản như thế nào để hướng tới
học, v.v...) đến sinh vật (như cây cối - cây cảnh, phát triển bền vững? Đây là những vấn đề cần
cây “di sản”!) và cả đồ vật (như cổ vật, v.v.).5 được nhìn nhận lại để hướng tới phát triển bền
Đúng như Bà Nguyễn Thị Yên (Viện Nghiên vững như Mục tiêu Thiên niên kỷ của Liên hợp
cứu Văn hóa, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội quốc đã đề ra (United Nations Development
Việt Nam) nhận xét: “Đó là tình trạng loạn danh Programme - UNDP 2015). Trước khi những
hiệu, loạn hình thức tôn vinh. Nhiều đơn vị vấn đề nói trên diễn ra ở Việt Nam, với một góc
không hề có chuyên môn hay hoạt động nghiên nhìn đa diện và mang tính toàn cầu Michael
cứu liên quan đến Tín ngưỡng thờ Mẫu vẫn tự Herzfeld đã đề cập đến thực trạng của Hy Lạp
tổ chức các chương trình vinh danh, liên hoan hơn ba thập niên trước. Những vấn đề diễn ra
tại nước ngoài. Đặc biệt, gây bức xúc trong dư trong xã hội Hy Lạp từ thế kỷ trước nhưng lại
luận xã hội là hiện tượng loạn bằng chứng nhận, có sự tương đồng kỳ lạ với những gì đang diễn
ra ở Việt Nam. Học hỏi từ những gì mà Hy Lạp
từng trải qua chính là cách tốt nhất để chúng ta
4 Như Nữ hoàng ngoại giao, Nữ hoàng thương hiệu ngành may
mặc, Nữ hoàng mỹ phẩm, Nữ hoàng thực phẩm, Nữ hoàng rút ra bài học cho Việt Nam trong giai đoạn hiện
ngành than, Nữ hoàng sản xuất nội thất, Nữ hoàng thủy sản, Nữ nay.
hoàng khoáng sản, Nữ hoàng nhiếp ảnh, Nữ hoàng vận tải, Nữ
hoàng dệt may, Nữ hoàng xây dựng, Nữ hoàng kim hoàn đá quý, 5. Hướng đi nào cho bảo tồn di sản và
v.v. (Minh Tuấn 2019).
5 Dường như việc bao quát cả ba lĩnh vực Văn hóa - Khoa học - phát triển bền vững?
Giáo dục dành cho Văn phòng UNESCO Hà Nội là quá lớn. Vì Trong một cuốn sách xuất bản gần đây,
vậy Hiệp hội Câu lạc bộ UNESCO Việt Nam (ra đời ngày
3/8/1993, nay là Liên hiệp các hội UNESCO Việt Nam) với đề cập đến vấn đề bảo tồn các giá trị văn hóa
hàng nghìn thành viên lấn át Văn phòng UNESCO Hà Nội ở bản địa ở Việt Nam và Đông Nam Á, Gabor
nhiều lĩnh vực (V. V. Tuân 2017).
447 Đinh Hồng Hải / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 6, Số 4 (2020) 439-449

Vargyas (Đại học Pecs, Cộng hòa Hungary, sánh với chúng là các giá trị mang tính toàn
từng là một chuyên gia của UNESCO cầu như hiệu quả (efficiency), xã hội dân sự
nghiên cứu về Lào và Việt Nam) cho rằng (civil society), nhân quyền (human right),
“nếu chúng ta muốn bảo tồn được các giá trị minh bạch (transparency), bao dung
văn hóa phi vật thể, ta sẽ phải lưu giữ cả (tolerance), v.v.. Trong hệ giá trị của di sản
những con người tạo ra nó và có khả năng sẽ thì sự đa dạng (diversity) chính là một giá trị
tiếp tục phát huy nó” (2018: 13). Điều này toàn cầu quan trọng nhất, tính chất ngày
không chỉ đúng với văn hóa phi vật thể mà càng đồng nhất của ngôn ngữ văn hóa và
còn đúng với nhiều loại hình di sản văn hóa đạo đức tạo thành thang bậc giá trị toàn cầu
khác đang được con người lưu giữ. Vì vậy, (Herzfeld 2004: 2). Dễ dàng nhận thấy, sự
nếu một quốc gia không có các nghệ nhân đa dạng ở đây chính là một đặc tính đối lập
nối nghiệp thì nhiều di sản của quốc gia đó với các mẫu có sẵn (stereotype) đang được
sẽ không được bảo tồn. Nhưng nếu các nghệ sao chép tràn lan ở Việt Nam hay ở Hy Lạp
nhân được đào tạo một cách “lén lút” và thập niên 90 như ông đã chỉ ra trong nghiên
“xảo trá” (stealth & guile, như Herzfeld cứu của mình.
(2004) đã đề cập) thì tình trạng nhàm chán Cùng với bảo tồn di sản thì phát triển bền
của họ chắc chắn chỉ sản xuất ra các “tạo vật vững là một cụm từ luôn được nhắc đến
vụng về”, chúng sẽ trở thành những tạo vật trong nhiều văn kiện của Liên Hợp Quốc và
mất giá hay vô giá trị (bodies devalued). Để các quốc gia thành viên trong những thập
tìm một hướng đi cho vấn đề bảo tồn di sản niên qua. Theo đó, bảo tồn di sản để phát
trong giai đoạn hiện nay, không riêng Hy triển bền vững là một mục tiêu quan trọng
Lạp mà Việt Nam cũng đang vật lộn để tìm không chỉ của Hy Lạp hay Việt Nam mà của
cách bảo vệ các “giá trị đích thực” của di cả thế giới. Nhưng dường như vấn đề “bá
sản trong bối cảnh toàn cầu hóa. Một trong quyền di sản” (như Herzfeld (2004) đã
những bước đi đầu tiên (và cũng là cách làm dùng) lại chưa được nhiều người biết tới.
phổ biến nhất hiện nay) là lập hồ sơ đệ trình Rất khó để các quốc gia sở hữu nhiều di sản
UNESCO ghi danh vào danh sách di sản. như Hy Lạp và Việt Nam có thể phát triển
Nhưng cho dù có được ghi danh vào danh bền vững nếu như di sản luôn nằm trong tay
sách này thì điều đó cũng sẽ không giúp ích một nhóm lợi ích nắm trong tay bá quyền, vì
gì cho việc bảo tồn di sản nếu như cộng sự trục lợi di sản là điều hiển nhiên sẽ xảy
đồng (hay quốc gia) sở hữu lại hiểu sai về di ra. Từ sự đối sánh giữa các nghệ nhân -
sản hoặc hiểu nhầm mục đích của những người bên lề (marginality) với nhóm
UNESCO. Quá trình sáng tạo truyền thống bá quyền, Michael Herzfeld cho chúng ta
luôn tạo ra những “tạo vật vụng về” vì kỹ thấy giá trị hiện thân của những “tạo vật
xảo của các “nghệ nhân” đã trở thành mánh vụng về” đã được tạo ra trong một bối cảnh
khóe (crafty), không còn giống như những xã hội thập niên 90 của Hy Lạp (2004: 204).
kỹ xảo đích thực mà cha ông họ đã làm. Vì So với Hy Lạp, Việt Nam có may mắn hơn
vậy, muốn bảo vệ các “giá trị đích thực” của là nhiều nghệ nhân ở các làng nghề hiện nay
di sản, trước hết chúng ta cần phải hiểu rõ về vẫn giữ được niềm đam mê, sự hào hứng đối
chúng trong thang bậc giá trị toàn cầu mà với việc tạo ra các sản phẩm như cha ông họ
Michael Herzfeld đã đề cập. Đúng như ông từng làm ra với nhiều làng nghề thủ công
đã nhận định, di sản chính là những truyền truyền thống vẫn tồn tại mà không cần đến
thống địa phương thẩm thấu trong văn hóa ở các tổ chức bảo trợ (như NOSMBH ở Hy
mọi nơi, nhưng biểu hiện của chúng rất khác Lạp). Cho dù các sản phẩm đó có được đưa
nhau (do chúng đã địa phương hóa). Đối
Đinh Hồng Hải / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 6, Số 4 (2020) 439-449 448

vào danh sách di sản hay không thì đối với Hà Đình Nguyên. 2013. “Kỷ lục không chỉ là “dài
họ không quá quan trọng. Điều quan trọng nhất, to nhất”. Báo Thanh niên
hơn (và đơn giản là) những nghệ nhân vẫn (https://thanhnien.vn/van-hoa/ky-luc-khong-
chi-la-dai-nhat-to-nhat-36634.html). Truy cập
luôn muốn giữ gìn nghề nghiệp của cha ông
12/2/2020.
trao lại như một sinh kế mà chẳng quan tâm
Herzfeld Michael. 2004. The body Impolitic:
nhiều đến danh hiệu của các hiệp hội phong Artisans and Artifice in the Global Hierarchy
tặng. of Value (Tạo vật vụng về: Nghệ nhân và kỹ
Trở lại với những câu hỏi đã đặt ra ở xảo trong thang bậc giá trị toàn cầu). Chicago
phần mở đầu, có thể thấy UNESCO ghi and London: The University of Chicago Press.
danh các di sản (vào danh sách) để các quốc Hoàng Hương 2019. “GS-TS. Trần Ngọc Vương:
gia sở hữu có trách nhiệm hơn với chính di Xây chùa thu tiền khủng là kinh doanh tài sản
quốc gia”. Người đô thị
sản của họ “nhằm bảo vệ, phát triển và phát
https://nguoidothi.net.vn/gs-ts-tran-ngoc-
huy di sản văn hóa” (Điều 13, Công ước vuong-xay-chua-thu-tien-khung-la-kinh-doanh-
2003). Nhưng với các câu hỏi: Các di sản do tai-san-quoc-gia-20258.html. Truy cập
ai sở hữu? Ai có quyền khai thác di sản? 12/9/2020.
Khai thác di sản như thế nào? và Bảo tồn di Hobsbawm Erich, Ranger, Terence. eds. 1983.
sản như thế nào để hướng tới phát triển bền The Invention of Tradition (Sáng tạo truyền
vững?, v.v. phải do chính các quốc gia sở tại thống). Cambridge University Press
trả lời. Bởi vì đó là tài sản của người dân tại (http://psi424.cankaya.edu.tr/uploads/files/Hob
quốc gia của họ. Những di sản này trở thành sbawm_and_Ranger_eds_The_Invention_of_Tr
adition.pdf). Truy cập 12/9/2020.
những “tạo vật vụng về” hay những “tạo vật
Lan Ngọc. 2019. “Việt Nam có bao nhiêu di sản
có giá trị” trong thang bậc toàn cầu sẽ tùy
văn hóa thế giới được UNESCO công nhận?”,
thuộc vào quy trình quản lý các di sản đó. Infonet (https://www.24h.com.vn/du-lich-
Liệu UNESCO có nên tạm dừng ghi nhận di 24h/viet-nam-co-bao-nhieu-di-san-van-hoa-
sản của Việt Nam cho đến khi chính chúng the-gioi-duoc-unesco-cong-nhan-
ta nhận thức được giá trị đích thực của di c76a1027477.html). Truy cập 28/7/2020.
sản? Câu trả lời xin nhường lại cho Văn Linh Tâm. 2020. “Ngăn chặn những hệ lụy, biến
phòng UNESCO Hà Nội và các cơ quan có tướng”. Báo Hà Nội mới
liên quan. Hy vọng, Việt Nam không “giẫm (http://hanoimoi.com.vn/tin-tuc/Van-
vào vết xe đổ” của Hy Lạp hơn ba thập niên hoa/961553/ngan-chan-nhung-he-luy-bien-
tuong?fbclid=IwAR1FeqKDCwLUIbMdlT_21a
về trước với những “tạo vật vụng về”.
UUBG2bDOeY0MhjshfhdWoGSXja2CBJm-
JSQWY). Truy cập 21/3/2020.
Minh Tú. 2017. “Sau lùm xùm ca sĩ Ngọc Sơn
Tài liệu trích dẫn được 'phong' Giáo sư, kiến nghị Thủ tướng
chấn chỉnh việc tự phát phong danh hiệu”. Báo
Bình Thanh. 2020. “Bé cái nhầm” phân hạng di Phụ nữ (https://www.phunuonline.com.vn/sau-
sản văn hóa phi vật thể? Báo Giáo dục & thời lum-xum-ca-si-ngoc-son-duoc-phong-giao-su-
đại (https://giaoducthoidai.vn/van-hoa/be-cai- kien-nghi-thu-tuong-chan-chinh-viec-tu-phat-
nham-phan-hang-di-san-van-hoa-phi-vat-the- phong-dan-a50682.html). Truy cập 9/2/2020).
4056125-b.html). Truy cập 12/2/2020. Minh Tuấn. 2019. “Hơn 20 người được Hội Nghệ
Đỗ Doãn Hoàng. 2010. “Biến di tích 400 tuổi nhân và Thương hiệu phong 'Nữ hoàng'”. Báo
thành... 1 ngày tuổi”. Báo Dân trí Lao động (https://cungcau.vn/hon-20-ca-nhan-
(https://dantri.com.vn/xa-hoi/bien-di-tich-400- duoc-hoi-nghe-nhan-va-thuong-hieu-viet-nam-
tuoi-thanh-1-ngay-tuoi-1285508401.htm). Truy phong-nu-hoang-d178467.html). Truy cập
cập 20/12/2020. 12/2/2020.
449 Đinh Hồng Hải / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 6, Số 4 (2020) 439-449

Thành Cao. 2020. “Những di tích 0 tuổi”. Trí thức MEDIA/FIELD/Hanoi/pdf/Convention_2003.p


Việt Nam (https://trithucvn.net/blog/xa- df). Truy cập 20/2/2020.
luan/nhung-di-tich-0-tuoi.html). Truy cập UNDP. 2015. Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ
20/2/2020. (Millennium Development Goals),
Thơ Phạm. 2019. “Những di sản văn hóa ở Việt (https://www.vn.undp.org/content/vietnam/vi/h
Nam được UNESCO vinh danh”. Quỹ Hỗ trợ ome/library/mdg.html). Truy cập 20/2/2020.
bảo tồn Di sản văn hóa Việt Nam V. V. Tuân. 2017. “UNESCO Việt Nam phản ứng
(https://quydisan.org.vn/nhung-di-san-van- kiến nghị 'dẹp loạn' danh hiệu”. Báo Tuổi trẻ,
hoa-viet-nam-duoc-unesco-vinh-danh.html). (https://tuoitre.vn/lien-hiep-cac-hoi-unesco-vn-
Truy cập 19/12/2019. phan-ung-ve-kien-nghi-dep-loan-danh-hieu-
UNESCO. 1972. Công ước về Bảo vệ Di sản văn 2017091017175906.htm). Truy cập 12/2/2020.
hóa và Thiên nhiên thế giới (Công ước Di sản Vargyas Gabor. 2018. Bất chấp định mệnh: Văn
Thế giới 1972). Đại hội đồng Tổ chức Giáo hóa và phong tục, tập quán của người Bru-Vân
dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc Kiều, (Giáp Thị Minh Trang dịch). Hà Nội:
thông qua ngày 27/11/1972 Nhà xuất bản Dân trí.
(https://thuvienphapluat.vn/van-ban/van-hoa- Vương Anh. 2019. “Hiểu đúng các khái niệm về
xa-hoi/Cong-uoc-bao-ve-di-san-van-hoa-va-tu- di sản văn hóa phi vật thể”. Báo Thời nay
nhien-the-gioi-UNESCO-Paris-16-11-1972- (https://nhandan.com.vn/baothoinay/baothoina
68509.aspx). Truy cập 20/2/2020. y-xahoi/baothoinay-xahoi-
UNESCO. 2003. Công ước Bảo vệ văn hóa Phi vande/item/42696402-hieu-dung-cac-khai-
vật thể. Đại hội đồng Tổ chức Giáo dục, Khoa niem-ve-di-san-van-hoa-phi-vat-
học và Văn hóa của Liên Hợp quốc thông qua the.html?PageSpeed=noscript). Truy cập
ngày 17/10/2003 2/2/2020.
(http://www.unesco.org/new/fileadmin/MULTI

View publication stats

You might also like