You are on page 1of 16

HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT (Lưu Quang Vũ) MỘT SỐ NHẬN ĐỊNH, LỜI BÌNH VÀ

TƯ LIỆU
“Hồn Trương Ba, da hàng thịt xứng đáng đạt tới một số phận văn hóa”

1. "Hồn Trương Ba, da Hàng thịt" từ truyện cổ dân gian đến kịch bản của Lưu Quang Vũ -
Sự phát triển của một triết lý sống (trích đoạn)
Đặng Hiển(*) Nguồn: Tạp chí Triết học, số 10 (197), tháng 10 - 2007

Từ sự so sánh về quan điểm triết lý giữa truyện cổ dân gian “Hồn Trương Ba, da Hàng thịt”
và vở kịch cùng tên của Lưu Quang Vũ, bài viết đã nêu lên những nét mới, rất có ý nghĩa
trong tác phẩm của nhà soạn kịch nổi tiếng này. Nếu cốt truyện dân gian chỉ đơn giản đề
cao, tuyệt đối hoá vai trò của linh hồn đối với thể xác, thì đến vở kịch của Lưu Quang Vũ,
vấn đề đã được ông đào sâu, mở rộng và phát triển hơn rất nhiều. Ông có quan niệm khác
về mối quan hệ giữa linh hồn và thể xác - đó là mối quan hệ hữu cơ, tác động lẫn nhau.
Hơn nữa, ông còn mở rộng tầm triết lý sang cả những vấn đề nhân sinh khác, như vấn đề
xung đột giữa nhu cầu tự nhiên và nhân cách, vấn đề đấu tranh trong bản thân mỗi con
người để hoàn thiện nhân cách làm người, v.v.. Vở kịch của Lưu Quang Vũ, vì thế, không
chỉ là thành quả to lớn của nền kịch nói hiện đại Việt Nam, mà còn là một đóng góp đặc sắc
của ông vào quan niệm triết lý nhân sinh nói chung.
Trong bài viết này, chúng tôi không so sánh một cách toàn diện giữa một truyện cổ dân gian
và một vở kịch dài hiện đại, cũng không so sánh về toàn bộ nội dung tư tưởng, mà chỉ so
sánh về tư tưởng triết học - phần cốt lõi của cả hai tác phẩm.
Vì thế mới có câu “ Hồn Trương Ba, da Hàng thịt”
Như vậy, truyện cổ dân gian Hồn Trương Ba, da Hàng thịt cũng quan niệm linh hồn phải có
thể xác mới có chỗ trú ngụ và thể xác phải có linh hồn mới sống được, mới không rữa nát.
Nhưng truyện cổ dân gian tuyệt đối hóa vai trò của linh hồn, coi nhẹ thể xác, nên khi Trương
Ba mượn được thể xác của người Hàng thịt thì Trương Ba coi mình là Trương Ba 100%
trong ý thức, trong tình cảm, trong tính cách, tuyệt nhiên không băn khoăn gì về hình dạng
của mình. Vợ Trương Ba cũng vậy, khi thấy chồng là thân xác anh Hàng thịt nhưng tâm trí là
Trương Ba - chồng mình - thì cũng không băn khoăn gì, nhận ngay và vui vẻ chung sống.
Vợ anh Hàng thịt chỉ thấy đơn giản là hình dạng chồng mình sống lại nên đấu tranh khiếu
kiện giành giật về cho mình, mặc dù anh ta đã nói anh ta là Trương Ba và chạy về nhà
Trương Ba. Quan phủ sau khi kiểm tra kỹ năng mổ thịt lợn và nhất là kỹ năng chơi cờ thì
quyết định xử ngay cho anh - Hàng - thịt - mang - hồn Trương Ba về với vợ Trương Ba.
Phép thử mổ thịt có thể không chính xác, vì anh Hàng thịt nếu thích vợ Trương Ba có thể
giả vờ mổ vụng; nhưng phép thử chơi cờ thì không thể sai được, vì nó thuộc về trí tuệ, về
năng khiếu tính toán trong loại hình thể thao trí tuệ đặc biệt, cũng chính là một biểu hiện,
một phương diện đặc sắc của linh hồn. Nó xác định, khẳng định linh hồn đó chỉ có thể là
Trương Ba - người sinh thời chơi cờ rất giỏi.
Với cốt truyện ngắn gọn, mang một tư tưởng triết học có phần hơi đơn giản - đề cao, tuyệt
đối hóa linh hồn, không để ý đến mối quan hệ giữa thể xác và linh hồn, tách rời linh hồn và
thể xác, coi thể xác chỉ như cái túi đựng linh hồn - truyện cổ dân gian Hồn Trương Ba, da
Hàng thịt phù hợp với quan niệm xưa, qua bao thế kỷ vẫn được kể, được yêu thích và
không hề gây tranh cãi.
Nhưng ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, của con người và khoa học (sinh lý học
và tâm lý học), tư tưởng triết học về con người cũng trở nên phong phú hơn, sâu sắc hơn
và toàn diện hơn. Từ đó, tư tưởng triết học trong truyện cổ dân gian đã được Lưu Quang
Vũ, nhà viết kịch tài năng của thời hiện đại, nhìn nhận lại và phát triển theo trình độ nhận
thức của thời đại, theo yêu cầu nhân sinh và thẩm mỹ của thời hiện đại.
Chị ta nói khá đúng, khá đủ, khá cơ bản về linh hồn: “Đã gọi là hồn làm sao có hình thù, bởi
nó không là vuông hay tròn, mà là vui buồn, mừng giận, yêu ghét. Thầy vẫn dạy chúng con:
Cái bề ngoài có quan trọng gì, chỉ có tấm lòng yêu thương và trí tuệ cao sáng của con
người ta là đáng kể”.

Tuy nhiên, Lưu Quang Vũ không dừng lại ở đó.


Thực chất, đó là lời tái khẳng định của tác giả đối với quan niệm sống đẹp mà ta nhắc đến ở
trên. Bi kịch xung đột giữa linh hồn và thể xác không thể được giải quyết theo đúng cái cách
đã tạo ra bi kịch. Đến đây, cái “chết hẳn” của Trương Ba lại thể hiện một chiến thắng thuyết
phục của “tồn tại – người”, của nhân cách, của khát vọng hoàn thiện nhân cách của con
người.
Không phải chờ đến khi các nhà ngoại cảm và lý thuyết trường sinh học xuất hiện, Lưu
Quang Vũ đã khẳng định, theo cách của ông, thân xác của từng cá thể người tồn tại hữu
hạn, nhưng sự sống và linh hồn của con người là bất tử. Tư tưởng triết lý của Lưu Quang
Vũ về con người vừa biện chứng, vừa lạc quan và cao thượng. Điều này, cùng với tài năng
sáng tạo nghệ thuật tác giả, đã làm cho vở kịch có giá trị nhân văn cao, vươn tới tầm nhân
loại.
Vấn đề quan hệ giữa linh hồn và thể xác trong Hồn Trương Ba, da Hàng thịt còn có thể làm
ta liên tưởng đến mối quan hệ giữa nội dung và hình thức trong mỗi sự vật. Đương nhiên,
mối quan hệ giữa linh hồn và thể xác, giữa nội dung và hình thức là hai cặp phạm trù không
đồng nhất, không thể suy cái này ra cái kia một cách tịnh tiến. Tuy vậy, từ sự không đồng
nhất, thậm chí đối lập giữa linh hồn và thể xác trong vở kịch, ta có thể liên tưởng tới sự
thống nhất cần có giữa nội dung và hình thức là hai mặt của thực tại tự nhiên và xã hội. Khi
nội dung và hình thức phù hợp với nhau thì sự vật tồn tại và phát triển. Khi nội dung và hình
thức không phù hợp với nhau thì sự phát triển bị kìm hãm và thậm chí, sự tồn tại của sự vật
bị đe dọa.
Liên tưởng trên không hề có khi đọc truyện cổ dân gian, mà nếu có, thì đó chỉ là sự tuyệt đối
hóa nội dung, xem thường hình thức và tách rời nội dung khỏi hình thức, một tư duy siêu
hình mang tính tiên nghiệm.
Từ triết lý đơn giản trong truyện cổ dân gian về vai trò quan trọng thứ nhất của linh hồn, Lưu
Quang Vũ đã sáng tạo nên một vở kịch có sức lôi cuốn mạnh mẽ, gửi tới người đọc một
thông điệp sâu sắc về triết lý sống: thể xác và linh hồn có quan hệ hữu cơ với nhau; con
người không thể chỉ sống bằng thể xác, mà phải luôn luôn đấu tranh với bản thân để có sự
thống nhất hài hòa giữa linh hồn và thể xác, hướng tới một lối sống cao thượng, vươn tới
một nhân cách hoàn thiện.
TÔN NGỌC MINH QUÂN 2
2. Vở diễn đạt đến số phận văn hóa
Trong kịch mục đồ sộ dăm chục kịch bản đã được dựng trên sân khấu cả nước của nhà viết
kịch Lưu Quang Vũ (1948-1988), thì kịch bản Hồn Trương Ba da hàng thịt đã gánh chịu số
phận thật long đong, vất vả. Viết xong năm 1981, kịch bản này bị cho là có vấn đề về phản
ánh hiện thực, bị nằm im trong ngăn kéo năm năm.
Cơ duyên với đạo diễn Nguyễn Đình Nghi
Dù khởi đầu thiếu may mắn, bị “ngủ đông” năm năm mới được dàn dựng, song sự xuất hiện
như một tác gia kịch trẻ trung, đầy tinh thần đổi mới, đi tiền phong trong cách viết kịch ngay
thời kỳ đầu đổi mới văn nghệ, kịch bản HTBDHT tuy mang dáng dấp câu chuyện dân gian,
nhưng lại đầy ắp hơi thở hiện đại, trên tinh thần phản biện xã hội rất khảng khái và nồng
nhiệt của Lưu Quang Vũ. Chỉ tính nguyên một con giáp, từ 1986 ra đời cho đến 1998, bằng
hiệu ứng xã hội và nghệ thuật đã đạt được, HTBDHT đích thực trở thành vở diễn có số
phận văn hóa. Từ đó đến nay, vở diễn mặc nhiên mang tính mẫu mực của một tác phẩm
kịch kinh điển trong kịch mục của chính nhà hát Kịch Việt Nam.
Vậy kịch bản này đã đặc biệt hấp dẫn đạo diễn Nguyễn Đình Nghi bằng phẩm chất văn
chương nào, để ông nhất định dàn dựng cho bằng được, bất chấp mọi định kiến về nó?
Theo tiêu chí mỹ học về nghề đạo diễn của Nguyễn Đình Nghi, ngay lần chạm mặt đầu tiên,
ông Nghi đã tìm ra cách rất riêng để giải thích tính đa nghĩa của kịch bản văn học này. Cẩn
trọng tránh xa cách hiểu kịch bản sai lạc lúc bấy giờ, cho rằng văn bản HTBDHT được viết
với ngôn ngữ cạnh khóe, có ý “chửi xéo” lề lối làm việc tắc trách, đầy thói dửng dưng vô
trách nhiệm của một thời mà tệ quan liêu bao cấp tràn lan như dịch hạch, Nguyễn Đình Nghi
đã tỉnh táo lướt qua bề ngoài có vẻ “cạnh khóe” của ngôn ngữ HTBDHT, để bóc lấy cái hạt
nhân cơ bản bên trong, chính là nỗi đau nhân thế, nằm chìm dưới đáy sâu của kịch bản.
Không ai không đau đớn khi phải sống phận tha nhân: hồn của mình “ăn đậu ở nhờ” trong
xác kẻ khác, nên đã phải ngậm đắng nuốt cay mà chịu cảnh sống “hai mang”: hồn nọ xác
kia. Đặt ra tình huống kịch thật sắc sảo, mang tính “giả định” thâm sâu, Lưu Quang Vũ đã
“dựng đứng” trong HTBDHT một câu hỏi triết học - thế sự cho nhân vật chính là hồn ông
Trương Ba trong xác anh hàng thịt rằng: liệu ông còn muốn tiếp tục sống phận “hai mang”
oái oăm, nhục nhã như thế nữa không? Câu trả lời của tác giả kịch, cũng là lựa chọn cuối
của nhân vật chính, khi kết thúc vở kịch là: Không! Không đời nào! Hồn mình phải được
sống trong thân xác của chính mình, mà không có lựa chọn nào khác. Trong diễn tiến căng
thẳng và khốc liệt của kịch tính, Lưu Quang Vũ đã trình bày và lý giải quá trình vỡ lẽ đau
đớn, khắc khoải, đầy trăn trở của hồn ông Trương Ba trong xác anh hàng thịt, xuyên suốt
bảy cảnh kịch, như một thử nghiệm sống cay đắng, khi phải chấp nhận thân phận “tha
nhân”, để buộc phải tìm về giá trị bản nguyên của chính mình, chứ không chịu sống thêm
nữa, cảnh “ký gửi” vào kẻ khác. Hãy sống bằng chính giá trị bản thân, là chính mình, trong
sự nhất thể giữa hồn và xác của mình. Và khởi đi từ đó, cuộc hạnh ngộ đẹp đẽ nhất giữa
ngôn ngữ văn học vốn “phi vật thể” của Lưu Quang Vũ với ngôn ngữ dàn dựng sân khấu
được “vật thể hóa” thành vở diễn của đạo diễn Nguyễn Đình Nghi, đã
được bắt đầu như thể một cơ duyên.
Bởi ngay từ đầu đã có cái nhìn xuyên thấu tận đáy văn học kịch bản HTBDHT, và lập tức
thành
kẻ tri âm đầu tiên của nó, Nguyễn Đình Nghi thực sự mê đắm cái tứ kịch của HTBDHT đậm
đặc chất bi kịch - triết học “hồn nọ buộc phải sống trong xác kia”, cùng chất liệu dân gian
hồn hậu, tự tại của câu chuyện kịch. Và ông Nghi còn bị mê hoặc bởi lối viết kịch thông
minh, hài hước, sắc bén theo cấu trúc giả định, với ngôn ngữ đối thoại có chiều sâu văn
chương, (mà ông biết chắc, khi lên sân khấu, sẽ được biến hóa thành nghệ thuật thốt lời,
đem lại vẻ đẹp tiềm - đài - từ của nghệ sĩ giỏi nghề khi thể hiện vai diễn), nên ông Nghi đã
biết chắc: việc chuyển hóa tất cả phẩm chất văn chương ấy lên sân khấu, bằng ngôn ngữ
dàn dựng do ông đạo diễn, sẽ cầm chắc... thành công. Thêm nữa, cái chất liệu văn chương
dân gian thấm đẫm trong kịch bản này còn kích thích ông sáng tạo, vận dụng các ngón nghề
đạo diễn mà ông đã học được từ cả sân khấu cổ truyền Việt Nam lẫn sân khấu phương Tây
hiện đại.
Vai kịch để đời của Trọng Khôi
Năm 1990, Liên hoan sân khấu kịch quốc tế được tổ chức tại Matxcơva với hàng chục nước
Đông Âu tranh tài. Tôi du học ở St. Petersburg, đi tàu đêm lên Matxcơva, vào nhà hát tận
mắt chứng kiến vở kịch HTBDHT trổ tài trên đấu trường quốc tế, với phong cách đạo diễn
rất độc đáo, hiện đại của Nguyễn Đình Nghi cùng vai diễn chính cũng rất độc đáo và hiện
đại của Trọng Khôi, vai anh hàng thịt, và dàn diễn viên thiện nghệ của Nhà hát Kịch VN: Mỹ
Dung vai vợ ông Trương Ba, Trần Tiến vai Tiên Cờ, Trần Thạch vai Trương Ba, Lan Hương
vai vợ anh hàng thịt, Anh Dũng vai con trai, Bích Thu vai con dâu... Trong dàn diễn viên kỳ
cựu ấy, quả thật là Trọng Khôi chói sáng, với vai kịch đã đạt tầm cỡ quốc tế, theo đánh giá
của cuộc họp báo quốc tế được tổ chức trang trọng ngay sau đêm diễn, với những tràng
pháo tay vang dội, những cơn mưa hoa và những đánh giá cao nhất của những đồng
nghiệp và nhà báo dành cho vở diễn của Việt Nam, và đặc biệt, dành cho vai diễn để đời
của Trọng Khôi.
Trong vở kịch, Trọng Khôi là vai diễn đã gánh vác toàn bộ sức nặng của tấn bi kịch “tha
nhân” mà Lưu Quang Vũ đã đặt vào kịch bản sắc sảo nhất của mình. Hiểu rõ diễn xuất “hai
mang” của nhân vật Hồn Trương Ba da hàng thịt, cộng hưởng sáng tạo với đạo diễn
Nguyễn Đình Nghi, đọc “vỡ chữ” những ý chìm sâu trong tính cách nhị nguyên của nhân vật
này, Trọng Khôi đàng hoàng đĩnh đạc bước vào thế giới nội tâm đầy khắc khoải, giằng xé
lưỡng cực của nhân vật Hồn Trương Ba trong thể xác anh hàng thịt. Bản lĩnh nghệ thuật
cao cường, Trọng Khôi đã đi cùng nhân vật của mình qua những chặng đường cam go nhất
của cuộc sống “lưỡng phân”, xử lý diễn xuất chói sáng bản lĩnh chuyên nghiệp. Cảnh kịch
mà Trọng Khôi diễn đạt tinh tế, nồng nàn nhất trong vở kịch chính là cảnh cao trào: nghe vợ
anh hàng thịt thổ lộ tình yêu với tâm hồn Trương Ba, chứ không phải cái thân xác thô lậu
của anh hàng thịt chồng mình, hồn Trương Ba đã run rẩy xúc động và chỉ một chút nữa đã
không ngăn nổi mình ngã vào người đàn bà đang phải lòng mình. Song hồn Trương Ba đã
kịp dừng lại trong xác anh hàng thịt, đã chế ngự được lửa lòng đang ngùn ngụt cháy lên và
đã chối từ được tình yêu của vợ anh hàng thịt, mặc dù chính ông cũng cầm lòng không đậu.
Phải thừa nhận rằng đây là cảnh yêu đương đẹp rực rỡ lãng mạn và thật hiếm hoi trên nền
văn hóa Á Đông trong xử lý phong nhã cảnh nóng trên sân khấu của đạo diễn Nguyễn Đình
Nghi. Màu sắc Á Đông này như thể hồi quang của sân khấu chèo cổ Việt Nam đã “ăn mặn”
vào cách dàn dựng một cảnh nóng của Nguyễn Đình Nghi, đẹp và phong nhã đến mức
không nhấp nháy bất cứ một tín hiệu gợi dục tầm thường nào cho người xem...
Và ở một cảnh khác, Trọng Khôi đã đẩy tính kịch lên tới đỉnh điểm cần thiết phải “xé đôi”
mình thành hai nhân vật (theo yêu cầu của kịch bản và xử lý đạo diễn), khi ông hiểu đã đến
lúc Hồn Trương Ba chịu hết nổi cảnh sống chung với “da hàng thịt”. Cảnh này đã đạt tới sự
hài hòa của ba vẻ đẹp vốn ít chịu đi cùng nhau trong cùng một vở diễn sân khấu: vẻ đẹp
ngôn từ của chữ nghĩa văn chương, của ngôn ngữ dàn cảnh đạo diễn và ngôn ngữ biểu
diễn nhân vật của diễn viên. Trong vở kịch HTBDHT, cả ba đã tổng hòa thành một khối nhất
nguyên trọn vẹn của cái đẹp và cùng bùng nổ trên sân khấu khiến người xem choáng ngợp.
Bao trùm trên hết, chính là bản lĩnh nghề nghiệp của Trọng Khôi, một nghệ sĩ lớn đã biết
dâng hiến hoàn hảo tài năng cho một vai kịch lớn.
Cho nên, khi HTBDHT đã thành công trên kịch trường quốc tế, đã chiếm huy chương vàng,
được chấm giải vở diễn thành công nhất của Hội diễn Kịch Quốc tế Matxcơva 1990 và sau
này, vở diễn tiếp tục chinh phục công chúng tại hơn 20 trường đại học Mỹ năm 1998, trong
chương trình giao lưu sân khấu Việt - Mỹ, ngay sau đó là biểu diễn trích đoạn Cái chết của
anh hàng thịt cho Hội thảo sân khấu châu Á tại Hà Nội, rồi vở diễn lại rong ruổi vào Nam
hợp diễn diễn viên hai miền Nam Bắc trong cùng vở diễn này, cũng dưới bàn tay dàn dựng
của đạo diễn Nguyễn Đình Nghi... thì sau tất cả thành công về mọi phương diện sân khấu,
nó xứng đáng đạt tới một số phận văn hóa.
Đặc biệt, với nhà viết kịch Lưu Quang Vũ, bằng một kịch bản xuất sắc về văn chương, ông
đã là ngọn nguồn văn hóa cho số phận văn hóa ấy của vở kịch Hồn Trương Ba da hàng
thịt.Và vở diễn này chính là điểm son lộng lẫy trong Giải thưởng Hồ Chí Minh cho toàn bộ
sự nghiệp văn chương và kịch nghệ của Lưu Quang Vũ…

Tính hiện đại là linh hồn kịch Lưu Quang Vũ


Khởi nguồn đời viết, Lưu Quang Vũ đã là một thi sĩ theo đúng nghĩa đầy đặn và lấp lánh tài
năng bẩm sinh của một nhà thơ. Trong những bài thơ hay nhất của anh, người đọc đã chỉ
nghe thấy tiếng “Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi” từ một tâm hồn thơ lãng đãng bay
bổng như mây trắng: “Thơ tôi là mây trắng của đời tôi”.
Nhưng khi bước vào thế giới kịch nghệ, với sự rạch ròi quyết liệt của bản thân thể loại kịch,
Lưu Quang Vũ đã trở thành/trưởng thành một nhà viết kịch hiện đại, với tất cả những ưu
thời mẫn thế về cuộc sống của xã hội hiện đại, nhất là những vấn đề thuộc về con người,
đang liên tục nảy sinh từ cuộc sống đô thị ở Việt Nam trong những năm 80 của thế kỷ XX,
khi văn học thời kỳ đổi mới lên ngôi, và tạo ra một trường sáng tác mới mẻ cho những nhà
văn đổi mới. Dùng phương thức kịch, Lưu Quang Vũ thấy cái viết của mình đầy ưu thế khi
viết những kịch bản dàn trận tranh đấu giữa cái mới và cái cũ, cái bảo thủ, trì trệ và cái tích
cực, tiến bộ. Các kịch bản của Lưu Quang Vũ, vì thế, nồng đượm hơi thở của đời sống hiện
đại với những vấn đề thời sự được phát hiện tươi rói từ con mắt và tấm lòng tràn đầy yêu
thương với cuộc đời. Ngoài những vấn đề triết học nhân sinh đã được ráo riết đặt ra trong
kịch bản HTBDHT, kịch bản của Lưu Quang Vũ luôn dựng dậy những vấn đề thời sự của
đời sống đô thị khiến người xem hiện đại được soi mình trong đó, được đối thoại, được gợi
mở... đến mức có thể thay đổi hành vi, thay đổi cả nhận thức và lối sống.
Cách viết kịch bản nồng nhiệt đầy tính khai phá hiện thực như thế, Lưu Quang Vũ nhanh
chóng trở thành một hiện tượng tác giả sân khấu xuất thần của thời kỳ đổi mới, đã có công
vực dậy cả một nền sân khấu đang khủng hoảng người xem, bởi sự thiếu vắng những kịch
bản hay, những kịch bản ấm nóng tính thời sự và sâu sắc tính hiện đại. Sự xuất hiện của
Lưu Quang Vũ, với việc ra mắt liên tiếp những kịch bản mới và hay đã làm đầy sự thiếu
vắng, hẫng hụt về kịch bản của cả một nền sân khấu trong thập kỷ 80 của thế kỷ XX. Chỉ
trong khoảng một chục năm, trước khi mất vì tai nạn giao thông năm 1988, Lưu Quang Vũ
đã kịp có một gia tài đồ sộ khoảng 50 kịch bản đã được xuất bản và dàn dựng, từ kịch bản
đầu tay, viết năm 1979: Sống mãi tuổi 17, liên tiếp sau đó là Hồn Trương Ba da hàng thịt,
Người tốt nhà số 5, Ông vua hóa hổ, Tôi và chúng ta, Người trong cõi nhớ, Nguồn sáng
trong đời, Nàng Sita, Trái tim trong trắng, Vụ án 2000 ngày, Lời thề thứ 9, Khoảnh khắc và
vô tận, Bệnh sĩ, Hoa cúc xanh trên đầm lầy... Hầu như, sinh thời của Lưu Quang Vũ, trong
hơn 100 nhà hát và đơn vị sân khấu toàn quốc, không một nơi nào lại không dựng kịch và
ham muốn dựng kịch của Lưu Quang Vũ…

3. Một số dạng tham khảo:


Đề 1: Phân tích bi kịch của Hồn Trương Ba trong tác phẩm “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”
của Lưu Quang Vũ
Trong làng kịch nói Việt Nam, có lẽ ai cũng biết đến Lưu Quang Vũ - một hiện tượng đặc
biệt của sân khấu kịch trường những năm tám mươi của thế kỉ XX. Tuy có tài ở nhiều lĩnh
vực như viết truyện ngắn, soạn kịch, làm thơ, vẽ tranh... nhưng ông được xem là một trong
những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt nam hiện đại. Trong các
vở kịch của Lưu Quang Vũ, đáng chú ý nhất là vở “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”. Bằng
nghệ thuật xây dựng nội tâm độc đáo, cảnh VII, đoạn cuối vở kịch đem đến cho người đọc
nhiều vấn đề tư tưởng sâu sắc qua nhân vật Trương Ba trong thân xác anh hàng thịt.
Hồn Trương Ba, da hàng thịt là vở kịch được Lưu Quang Vũ viết năm 1981, công diễn lần
đầu tiên năm 1984, sau đó được diễn lại nhiều lần trong và ngoài nước. Từ cốt truyện dân
gian, Lưu Quang Vũ đã xây dựng lại thành một vở kịch nói hiện đại và lồng vào đó nhiều
triết lí nhân văn về cuộc đời và con người. Trong tác phẩm, Trương Ba là một ông lão gần
sáu mươi, thích trồng vườn, yêu cái đẹp, tâm hồn thanh nhã, giỏi đánh cờ. Chỉ vì sự tắc
trách của Nam Tào gạch nhầm tên mà Trương Ba chết oan. Theo lời khuyên của “tiên cờ”
Đế Thích, Nam Tào, Bắc Đẩu “sửa sai” bằng cách chỉ hồn Trương Ba được tiếp tục sống
trong thân xác của anh hàng thịt mới chết gần nhà. Nhưng điều đó lại đưa Trương Ba và
một nghịch cảnh khi linh hồn mình phải trú và người khác. Do phải sống tạm bợ, lệ thuộc,
Trương Ba dần bị xác hàng thịt làm mất đi bản chất trong sạch, ngay thẳng của mình. Ý
thức được điều đó, Trương Ba dằn vặt, đau khổ và quy định chống lại bằng cách tách ra
khỏi xác thịt. Qua các cuộc đối thoại của Trương Ba, tác giả dần tạo nên một mạch truyện
dẫn dắt người xem hiểu sâu hơn về Trương Ba.
Có thể nói Trương Ba đã chết một cách vô lí, ai cũng biết cái chết của Trương Ba là do sự
vô tâm và tắc trách của Nam Tào. Nhưng sự sửa sai của Nam Tào và Bắc Đẩu theo lời
khuyên của Đế Thích nhằm trả lại công bằng cho Trương Ba lại đẩy Trương Ba vào một
nghịch cảnh vô lí hơn là linh hồn mình phải trú nhờ trong thể xác của kẻ khác. Sự sửa sai
này lại vô tình đẩy Trương Ba vào một bi kịch đau khổ. Do phải sống nhờ thể xác anh hàng
thịt, hồn Trương Ba đành phải chiều theo một số nhu cầu hiển nhiên của xác thịt. Linh hồn
nhân hậu, trong sạch, bản tính ngay thẳng của Trương Ba xưa kia, nay vì phải sống mượn,
chắp vá, tạm bợ và lệ thuộc nên chẳng những đã không sai khiến được xác thịt thô phàm
của anh hàng thịt mà trái lại còn bị cái xác thịt ấy điều khiển. Đáng sợ hơn, linh hồn Trương
Ba dần dần bị nhiễm độc bởi cái tầm thường của xác thịt anh đồ tể.
Trước khi diễn ra cuộc đối thoại giữa hồn và xác, nhà viết kịch đã để cho Hồn Trương Ba
"ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy" với một lời độc thoại đầy khẩn thiết:" - Không.
Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải là của tôi này
lắm rồi! . Hồn Trương Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ thể hiện trong
những câu cảm thán ngắn, dồn dập cùng với ước nguyện khắc khoải. Hồn bức bối bởi
không thể nào thoát ra khỏi cái thân xác mà hồn ghê tởm. Hồn đau khổ bởi mình không còn
là mình nữa.
Trong cuộc đối thoại với xác anh hàng thịt, Hồn Trương Ba ở vào thế yếu, đuối lí bởi xác nói
những điều mà dù muốn hay không muốn Hồn vẫn phải thừa nhận : cái đêm khi ông đứng
cạnh vợ anh hàng thịt với "tay chân run rẩy", "hơi thở nóng rực", "cổ nghẹn lại" v à "suýt nữa
thì.". Đó là cảm giác "xao xuyến" trước những món ăn mà trước đây Hồn cho là "phàm". Đó
là cái lần ông tát thằng con ông "tóe máu mồm máu mũi",. Xác anh hàng thịt gợi lại tất cả
những sự thật ấy khiến Hồn càng cảm thấy xấu hổ, cảm thấy mình ti tiện. Xác anh hàng thịt
còn cười nhạo vào cái lí lẽ mà ông đưa ra để ngụy biện: "Ta vẫn có một đời sống riêng:
nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn,.". Trong cuộc đối thoại này, xác thắng thế nên rất hể hả
tuôn ra những lời thoại dài với chất giọng khi thì mỉa mai cười nhạo khi thì lên mặt dạy đời,
chỉ trích, châm chọc. Hồn chỉ buông những lời thoại ngắn với giọng nhát gừng kèm theo
những tiếng than, tiếng kêu. Trương Ba bây giờ vụng về, thô lỗ, phũ phàng lắm. Hồn
Trương Ba cũng càng lúc càng rơi vào trạng thái đau khổ, tuyệt vọng.Ý thức được điều đó
linh hồn Trương Ba dằn vặt, đau khổ và quyết định chống lại bằng cách tách ra khỏi xác thịt
để tồn tại độc lập, không lệ thuộc vào thể xác. Xác hàng thịt biết rõ những cố gắng đó là vô
ích, đã cười nhạo hồn Trương Ba, tuyên bố về sức mạnh âm u, đui mù ghê gớm của mình,
ranh mãnh dồn hồn Trương Ba vào thế đuối lí và hơn nữa, ve vãn hồn Trương Ba thoà hiệp
vì theo lí lẽ của xác thịt là “chẳng còn cách nào khác đâu”, vì cả hai “đã hoà vào nhau làm
một rồi”. Trước những “lí lẽ ti tiện” của xác thịt, Trương Ba đã nổi giận, đã khinh bỉ, đã mắng
mỏ xác thịt hèn hạ nhưng đồng thới cũng ngậm ngùi thấm thía nghịch cành mà mình đã lâm
vào, đành nhập trở lại vào xác thịt trong tuyệt vọng. Hai hình tượng hồn Trương Ba và xác
hàng thịt ở đây mang ý nghĩa ẩn dụ: Một bên đại điện cho sự trong sạch, nhân hậu và khát
vọng sống thanh cao, xứng đáng với danh nghĩa con người và một bên là sự tầm thường,
dung tục. Nội dung cuộc đối thoại xoay quanh một vấn đề giàu tính triết lí, thể hiện cuộc đấu
tranh dai dẳng giữa hai mặt tồn tại trong một con người. Từ đó nói lên khát vọng hướng
thiện của con người và tầm quan trọng của việc tự ý thức, tự chiến thắng bản thân Màn đối
thoại này cho thấy: Trương Ba được trả lại cuộc sống nhưng là một cuộc sống đáng hổ thẹn
vì phải sống chung với sự dung tục và bị sự dung tục ấy đồng hoá.Không chỉ đừng lại ở đó,
tác giả cảnh báo: khi con người phải sống trong dung tục thì tất yếu cái dung tục sẽ ngự trị,
sẽ thắng thế, sẽ lấn át và sẽ tàn phá những gì trong sạch, đẹp đẽ, cao quý trong con người.
Màn đối thoại giữa Trương Ba với người thân: Không phải ngẫu nhiên mà tác giả không đưa
anh con trai thực dụng của Trương Ba vào cuộc đối thoại của Trương Ba với những người
thân. Các cuộc đối thoại với vợ con dâu và cháu gái càng làm cho Trương Ba đau khổ hơn.
Ông hiểu những gì mình đã, đang và sẽ gây ra cho người thân là rất tệ hại mặc dù ông
không hề muốn điều đó. Thái độ của vợ trương Ba, con dâu và cháu gái trước sự biến đổi
và tha hoá của Trương Ba.
Nỗi đau khổ, tuyệt vọng của Hồn Trương Ba càng được đẩy lên khi đối thoại với những
người thân. Người vợ mà ông rất mực yêu thương giờ đây buồn bã và cứ nhất quyết đòi bỏ
đi. Với bà "đi đâu cũng được. còn hơn là thế này". Bà đã nói ra cái điều mà chính ông cũng
đã cảm nhận được: "ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa"
Chị con dâu là người sâu sắc, chín chắn, hiểu điều hơn lẽ thiệt. Chị cảm thấy thương bố
chồng trong tình cảnh trớ trêu. Chị biết ông khổ lắm, “khổ hơn xưa nhiều lắm”. Nhưng nỗi
buồn đau trước tình cảnh gia đình “như sắp tan hoang ra cả” khiến chị không thể bấm bụng
mà đau, chị đã thốt thành lời cái nỗi đau đó: “Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể,
chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy. mỗi ngày
thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nối có lúc
chính con cũng không nhận ra thầy nữa.”.
Trái lại, cái Gái, cháu Trương Ba thì phản ứng quyết liệt và dữ dội. Tâm hồn tuổi thơ vốn
trong sạch, không chấp nhận sự tầm thường, dung tục nên không chấp nhận người ông
trong thể xác anh hàng thịt thô lỗ. Cái Gái, cháu ông giờ đây đã không cần phải giữ ý. Nó
một mực khước từ tình thân (tôi không phải là cháu ông. Ông nội tôi chết rồi). Cái Gái yêu
quý ông nó bao nhiêu thì giờ đây nó không thể chấp nhận cái con người có “bàn tay giết
lợn”, bàn chân “to bè như cái xẻng” đã làm “gãy tiệt cái chồi non”, “giẫm lên nát cả cây sâm
quý mới ươm” trong mảnh vườn của ông nội nó. Nó hận ông vì ông chữa cái diều cho cu Tị
mà làm gãy nát khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền. Với nó, “Ông
nội đời nào thô lỗ, phũ phàng như vậy”. Nỗi giận dữ của cái Gái đã biến thành sự xua đuổi
quyết liệt: “Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!”. Tuy nhiên, họ chỉ là những người
dân thường, họ không giúp gì được cho tình trạng hiện tại của Trương Ba. Tình huống kịch
thúc đẩy Trương Ba phải lựa chọn và sau màn độc thoại nội tâm (hồn Trương Ba thách thức
xác anh hàng thịt: “có thật là không còn cách nào khác?” và phản kháng quyết liệt: “Không
cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!”). !”. Đây là lời độc thoại có tính chất
quyết định dẫn tới hành động châm hương gọi Đế Thích một cách dứt khoát.
Tất cả những người thân yêu của Hồn Trương Ba đều nhận ra cái nghịch cảnh trớ trêu. Sau
tất cả những đối thoại ấy, mỗi nhân vật bằng cách nói riêng, giọng nói riêng của mình đã
khiến Hồn Trương Ba cảm thấy không thể chịu nổi. Nỗi cay đắng với chính bản thân mình
cứ lớn dần. lớn dần, muốn đứt tung, muốn vọt trào. Nhà viết kịch đã để cho Hồn Trương Ba
còn lại trơ trọi một mình với nỗi đau khổ, tuyệt vọng lên đến đỉnh điểm, một mình với những
lời độc thoại đầy chua chát nhưng cũng đầy quyết liệt: "Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân
xác không phải của ta ạ. Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất
mình? "Chẳng còn cách nào khác"! Mày nói như thế hả? Nhưng có thật là không còn cách
nào khác? Có thật không còn cách nào khác? Không cần đến cái đời sống do mày mang lại!
Không cần!". Đây là lời độc thoại có tính chất quyết định dẫn tới hành động châm hương gọi
Đế Thích một cách dứt khoát.
Cuộc trò chuyện giữa Hồn Trương Ba với Đế Thích trở thành nơi tác giả gửi gắm những
quan niệm về hạnh phúc, về lẽ sống và cái chết. Hai lời thoại của Hồn trong cảnh này có
một ý nghĩa đặc biệt quan trọng: Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được.
Tôi muốn được là tôi toàn vẹn. Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện
không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn
giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!
Gặp lại Đế Thích, Trương Ba thể hiện thái độ kiên quyết chối từ, không chấp nhận cái cảnh
phải sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo nữa và muốn được là mình một cách
toàn vẹn “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi
toàn vẹn”. Qua lời thoại này của nhân vật Trương Ba. Lưu Quang Vũ muốn gửi gắm vào đó
thông điệp: Con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hoà. Không thể có một
tâm hồn thanh cao trong một thể xác phàm tục tội lỗi. Khi con người bị chi phối bởi những
nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng đỗ lỗi cho thân xác và tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ
đẹp siêu hình của tâm hồn. Lúc đầu Đế Thích ngạc nhiên nhưng khi hiểu ra thì khuyên
Trương Ba nên chấp nhận vì thế giới vốn không toàn vẹn, dưới đất, trên trời đều thế cả.
Nhưng Trương Ba không chấp nhận lí lẽ đó. Trương Ba thẳng thắn chỉ ra sai lầm của Đế
Thích: “Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên nay đến cái thân
tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống thế
nào thì ông chẳng cần biết”. Sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn
giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật
vô nghĩa.
Lòng tốt hời hợt thì chẳng đem lại điều gì thực sự có ý nghĩa cho ai mà sự vô tâm còn tệ hại
hơn, nó đẩy người khác vào nghịch cảnh, vào bi kịch! Đế Thích định tiếp tục sửa sai của
mình và của Tây Vương Mẫu bằng một giải pháp khác, tệ hại ít hơn là cho hồn Trương Ba
nhập vào xác cu Tị nhưng Trương Ba đã kiên quyết từ chối, không chấp nhận cái cảnh sống
giả tạo, mà theo ông là chỉ có lợi cho đám chức sắc, tức lão lí trưởng và đám trương tuần,
không chấp nhận cái cuộc sống mà theo ông là còn khổ hơn là cái chết. Trương Ba kêu gọi
Đế Thích hay sửa sai bằng một việc làm đúng, đó là trả lại linh hồn cho bé Tị. Đế Thích cuối
cùng cũng đã thuận theo đề nghị của Trương Ba với lời nhận xét: “Con người hạ giới các
ông thật kì lạ”. Người đọc, người xem có thể nhận ra những ý nghĩa triết lí sâu sắc và thấm
thía qua hai lời thoại này. Thứ nhất, con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài
hòa. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con
người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân
xác, không thể tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn. Thứ hai, sống thực
sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp
vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa. Những lời thoại của Hồn Trương
Ba với Đế Thích chứng tỏ nhân vật đã ý thức rõ về tình cảnh trớ trêu, đầy tính chất bi hài
của mình, thấm thía nỗi đau khổ về tình trạng ngày càng vênh lệch giữa hồn và xác, đồng
thời càng chứng tỏ quyết tâm giải thoát nung nấu của nhân vật trước lúc Đế Thích xuất
hiện. Qua màn đối thoại, có thể thấy tác giả gửi gắm nhiều thông điệp vừa trực tiếp vừa gián
tiếp, vừa mạnh mẽ, quyết liệt vừa kín đáo và sâu sắc về thời chúng ta đang sống. Tuy vậy,
chỉ cần nhấn mạnh ở đây vẻ đẹp tâm hồn của những người lao động trong cuộc đấu tranh
chống lại sự dung tục, giả tạo để bảo vệ quyền được sống toàn vẹn, hợp với lẽ tự nhiên
cùng sự hoàn thiện nhân cách. Chất thơ của kịch Lưu Quang Vũ cũng được bộc lộ ở đây.
Quyết định dứt khoát xin tiên Đế Thích cho cu Tị được sống lại, cho mình được chết hẳn
chứ không nhập hồn vào thân thể ai nữa của nhân vật Hồn Trương Ba là kết quả của một
quá trình diễn biến hợp lí. Hơn nữa, quyết định này cần phải đưa ra kịp thời vì cu Tị vừa mới
chết. Hồn Trương Ba thử hình dung cảnh hồn của mình lại nhập vào xác cu Tị để sống và
thấy rõ "bao nhiêu sự rắc rối" vô lí lại tiếp tục xảy ra. Nhận thức tỉnh táo ấy cùng tình thương
mẹ con cu Tị càng khiến Hồn Trương Ba đi đến quyết định dứt khoát. Qua quyết định này,
chúng ta càng thấy Trương Ba là con người nhân hậu, sáng suốt, giàu lòng tự trọng. Đặc
biệt, đó là con người ý thức được ý nghĩa của cuộc sống.
Trương Ba trả lại xác cho anh hàng thịt, chấp nhận cái chết để linh hôn được trong sạch và
hoá thân vào các sự vật thân thương, tồn tại vĩnh viễn bên cạnh những người thân yêu của
mình. Cuộc sống lại tuần hoàn theo quy luật của muôn đời. Màn kết với chất thơ sâu lắng
đã đem lại âm hưởng thanh thoát cho một bi kịch lạc quan đồng thời truyền đi thông điệp về
sự chiến thăng của cái Thiện, cái Đẹp và của sự sống đích thực.
Không chí có ý nghĩa triết lí về nhân sinh, về hạnh phúc con người, trong vở kịch nói chung
và đoạn kết nói riêng, Lưu Quang Vũ muốn góp phần phê phán một số biểu hiện tiêu cực
trong lối sống lúc bấy giờ: Thứ nhất , con người đang có nguy cơ chạy theo những ham
muốn tầm thường về vật chất, chỉ thích hưởng thụ đến nỗi trở nên phàm phu, thô thiển. Thứ
hai , lấy cớ tâm hồn là quý, đời sống tinh thần là đáng trọng mà chẳng chăm lo thích đáng
đến sinh hoạt vật chất, không phấn đấu vì hạnh phúc toàn vẹn. Cả hai quan niệm, cách
sống trên đều cực đoan, đáng phê phán. Ngoài ra , vở kịch còn đề cập đến một vấn đề cũng
không kém phần bức xúc, đó là tình trạng con người phải sống giả, không dám và cũng
không được sống là bản thân mình. Đấy là nguy cơ đẩy con người đến chỗ bị tha hóa do
danh và lợi. Với tất cả những ý nghĩa đó, đoạn trích rất tiêu biểu cho phong cách viết kịch
của Lưu Quang Vũ.

Đề tài 2: Tư tưởng và ý nghĩa phê phán của vở kịch trong trích đoạn kịch Hồn Trương Ba,
da hàng thịt - Lưu Quang Vũ
Không chỉ có ý nghĩa triết lí về nhân sinh, về hạnh phúc con người, với tinh thần chiến đấu
thẳng thắn của một nghệ sĩ hăng hái tham dự vào tiến trình cải cách xã hội, trong vở kịch
này nói chung và đoạn kết nói riêng, Lưu Quang Vũ muốn góp phần phê phán một số biểu
hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ.
Lưu Quang Vũ thoạt đầu được nhiều người biết đến với tư cách nhà thơ. Nhưng về sau,
ông gây được tiếng vang và đặc biệt được biết tới một với tư cách một nhà viết kịch tài ba.
Những năm tám mươi, kịch của Lưu Quang Vũ đã chiếm lĩnh sàn diễn của rất nhiều nhà
hát.
Lưu Quang Vũ mang khát vọng được bày tỏ, muốn được thể hiện tâm hồn mình vào thế
giới xung quanh, muốn được tham dự vào dòng chảy mãnh liệt của đời sống, được trao gứi
và dâng hiến. Khi đất nước bước vào thời kì vận động đổi mới, ý thức dân chủ trong đời
sống xã hội đã ùa vào văn học. Hiện thực được phản ánh mang tính đa diện, đa chiều. Số
phận con người, vấn đề cá nhân được khám phá, thể hiện đầy đủ hơn, sâu sắc hơn. Khát
vọng được tham dự, được trao gứi. dâng hiến, khát vọng về cái đẹp, cái thiện, về sự hoàn
thiện nhân cách con người vừa là ý thức công dân vừa trớ thành nhiệt hứng nghệ sĩ ờ Lưu
Quang Vũ. Lúc ấy, viết kịch chính là hình thức có điều kiện tham dự “xung trận” trực tiếp.
Hồn Trương Ba, da hàng thịt được sáng tác theo hướng khai thác cốt truyện dân gian và
gửi gắm những suy ngẫm về nhân sinh, về hạnh phúc, kết hợp phê phán một số tiêu cực
trong lối sống hiện thời. Truyện dân gian gây kịch tính sau khi hồn Trương Ba nhập vào
xác anh hàng thịt dẫn tới “vụ tranh chấp” chồng của hai bà vợ phải đưa ra xử, bà Trương Ba
thắng kiện được đưa chồng về. Lưu Quang Vũ khai thác tình huống kịch bắt đầu ở chỗ kết
thúc của tích truyện dân gian. Khi hồn Trương Ba được sống “hợp pháp” trong xác anh
hàng thịt, mọi sự càng trở nên rắc rối, éo le để rồi cuối cùng đau khổ, tuyệt vọng khiến Hồn
Trương Ba không chịu nổi phải cầu xin Đế Thích cho mình được chết hẳn. Xây dựng tình
huống và giải quyết xung đột như vậy, Lưu Quang Vù đã gửi gắm một triết lí sâu sắc về lẽ
sống, lẽ làm người, cuộc sống thật đáng quý, nhưng không phải sống thế nào cũng được.
Nếu sống vay mượn, sống chắp vá, không có sự hài hòa giữa vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách
và nhu cầu vật chất thì con người chỉ gặp bi kịch mà thôi. Cuộc sống của mỗi con người chỉ
thực sự hanh phúc, chỉ có giá trị khi được sống đúng là mình, được sống tự nhiên trong một
thể thống nhất. Đó là chủ đề tư tưởng chính của vở kịch.
Tài năng kịch của Lưu Quang Vũ thể hiện trên nhiều phương diện, tiêu biểu nhất là tài dựng
cảnh và dựng đối thoại. Kịch tính căng ra trong những xung đột, những mâu thuẫn bên
ngoài và bên trong nhân vật. Ngôn ngữ hành động và ngôn ngữ nội tâm được diễn tả sống
động, lời thoại thấm đẫm triết lí nhân sinh.
Đoạn trích có thể gọi là “Thoát ra nghịch cảnh” là cảnh cuối, đúng vào lúc xung đột trung
tâm của vở kịch lên đến đỉnh điểm. Sau mấy tháng sống trong tình trạng “bên trong một
đằng, bên ngoài một nẻo”, nhân vật hồn Trương Ba ngày càng trờ nên xa lạ với bạn bè,
người thân trong gia đình và tự chán ghét chính mình. Hồn Trương Ba cảm thấy không thể
sống trong “da” anh hàng thịt, không thế kéo dài “nghịch cảnh” mãi được. Hồn muốn tách ra
khỏi cái thân xác kềnh càng, thô lỗ. Trong tình trạng ấy; nhà văn đã sáng tạo khi dựng lên
đoạn đối thoại giữa hồn và xác để rồi trước sự giễu cợt, mỉa mai của xác anh hàng thịt, hồn
Trương Ba càng trở nên đau khổ, bế tắc. Thái độ cư xử của người thân trong gia đình càng
khiến hồn tuyệt vọng. Hồn Trương Ba đã châm hương gọi Đế Thích, hai bên đang đối thoại
thì cu Tị chết. Đế Thích gợi ý để hồn rời xác anh hàng thịt sang xác cu Tị. Nhưng hồn
Trương Ba, sau một “quãng đời” vô cùng thấm thía, hình dung ra những “nghịch cảnh” khác
khi phải sống trong thân xác một đứa bé đã quyết định xin cho cu Tị được sống và mình
được chết hẳn.
Đúng là “nghịch cảnh” trớ trêu. Lưu Quang Vũ đã dựng lên hai cuộc đối thoại đặc sắc (đối
thoại giữa hồn và xác và đối thoại giữa hồn và Đế Thích) cùng những đối thoại hỗ trợ khác
(hồn với người vợ, với cái Gái, với chị con dâu) để đẩy xung đột nội tâm của hồn Trương Ba
lên đến tận cùng từ đó ý nghĩ tư tưởng, những triết lí nhân sinh được phát biểu một cách
sâu sắc, thấm thía.
Trước khi diễn ra cuộc đổì thoại giữa hồn và xác, nhà viết kịch đã để cho hồn Trưưng Ba
“ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy” với một lời độc thoại đầy khẩn thiết. Không!
Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ớ không phải là của tôi này
lắm rồi! Cái thân thể kềnh càng, thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc!
Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỉ, để nó tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát”.
Rõ ràng, hồn Trương Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ. Những câu cảm
thán ngắn, dồn dập cùng với cái ước nguyện khắc khoải của hồn đã nói lên điều đó. Hồn
bức bối bởi không thể nào thoát ra khỏi cái thân xác mà hồn ghê tởm. Hồn đau khổ bởi
mình không còn là mình nữa. Trương Ba bây giờ đâu còn là một người làm vườn chăm chỉ,
hết lòng thương yêu vợ con, quan tâm tới hàng xóm láng giềng như ngày trước. Ông
Trương Ba được mọi người kính trọng đã chết rồi. Trương Ba bây giờ vụng về, thô lỗ, phũ
phàng lắm. Người đọc, người xem càng lúc càng được thấy rõ điều đó qua các đối thoại và
hồn Trương Ba cũng càng lúc rơi vào trạng thái đau khổ, tuyệt vọng.
Trong cuộc đối thoại với xác anh hàng thịt, hồn Trương Ba ở vào thế yếu, đuối lí bởi xác nói
những điều mà dù muốn hay không muốn hồn vẫn phải thừa nhận đó là cái đêm khi ông
đứng cạnh vợ anh hàng thịt với “tay chân run rẩy”, “hơi thở nóng rực”, “cổ nghẹn lại” và
“suýt nữa thì...”. Đó là cảm giác “xao xuyến” trước những món ăn mà trước đây hồn cho là
“phàm". Đó là cái lần ông tát thằng con ông “tóe máu mồm máu mùi”, ... Tất cả đều là sự
thật. Xác anh hàng thịt gợi lại tất cả những sự thật ấy khiến hồn càng cảm thấy xấu hổ. Xác
anh hàng thịt còn cười nhạo vào cái lí lẽ mà ông đưa ra để ngụy biện.Ta vẫn có một đời
sống riêng, nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”. Trong cuộc đối thoại này, xác thắng thế
nên rất hể hả tuôn ra những lời thoại dài với chất giọng khi thì mỉa mai cười nhạo, khi thì lên
mặt dạy đời, chỉ trích, châm chọc. Hồn chỉ buông những lời thoại ngắn với giọng nhát gừng
kèm theo những tiếng than, tiếng kêu. Không chỉ đau khổ, hồn còn xấu hổ trước những lời
nói công khai của xác mà trước đó hồn đã cảm thấy mà không muốn nói ra, không muốn
thừa nhận.
Nỗi đau khổ, tuyệt vọng của hồn Trương Ba càng được đẩy lên khi đối thoại với những
người thân.
Người vợ mà ông rất mực vêu thương giờ đây buồn bã và cứ nhất quyết đòi bỏ đi. Với bà
“đi đâu cũng được... còn hơn là thế này”. Bà đã nói ra cái điều mà chính ông cũng đã cảm
nhận được: “ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa”. Cái Gái,
cháu ông giờ đây đã không cần phải giữ ý. Nó một mực khước từ tình cảm của ông: Tôi
không phải là cháu ông.. Ông nội tôi chết rồi. Cái Gái yêu quý ông nó bao nhiêu thì giờ đây
nó không thể chấp nhận cái con người có “bàn tay giết lợn”, bàn chân “to bè như cái xẻng”
đã làm “gãy tiệt cái chồi non”, “giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm” trong mảnh vườn của
ông nội nó. Nó hận ông vì ông chữa cái diều cho cụ Tị mà làm gãy nát khiến cu Tị trong cơn
sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền. Với nó “ông nội đời nào, thô lỗ, phũ phàng như
vậy”. Nỗi giận dữ của cái Gái đã biến thành sự xua đuổi quyết liệt: “Ông xấu lắm, ác lắm!
Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!”.
Chị con dâu là người sâu sắc, chín chắn, hiểu điều hơn lẽ thiệt. Chị cảm thấy thương bố
chồng trong tình cảnh trớ trêu. Chị biết ông khổ lắm, khổ hơn xưa nhiều lắm”. Nhưng nỗi
buồn đau trước tình cảnh gia đình “như sắp tan hoang ra cả” khiến chị không thể bấm bụng
mà đau, chị đã thốt thành lời cái nỗi đau đó: “Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể,
chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy... Mỗi ngày
thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi có lúc
chính con cũng không nhận ra thầy nữa...”.
Tất cả những người thân yêu của hồn Trương Ba đều nhận ra cái nghịch cảnh trớ trêu. Họ
đã nói ra thành lời bởi với họ cái ngày chôn xác Trương Ba xuống đất họ đau, họ khổ nhưng
“cũng không khổ bằng bây giờ”.
Sau tất cả những đối thoại ấy, mỗi nhân vật bằng cách nói riêng, giọng nói riêng của mình
đã khiến hồn Trương Ba cảm thấy không thể chịu nổi. Nỗi cay đắng với chính bản thân mình
cứ lớn dần... lớn dần, muốn đứt tung, muốn vọt trào. Đặc biệt sau hàng loạt câu hỏi có vẻ
tuyệt vọng của chị con dâu: “Thầy ơi, làm sao, làm sao giữ được thầy ở lại, hiền hậu, vui vẻ
tốt lành như thầy của chúng con xưa kia? Làm thế nào, thầy ơi?” thì đương nhiên hồn
không thể chịu đựng thêm được nữa.
Nhà viết kịch đã để cho hồn Trương Ba còn lại trơ trọi một mình với nỗi đau khổ, tuyệt vọng
lên đến đỉnh điểm, một mình với những lời độc thoại đầy chua chát nhưng cũng đầy quyết
liệt: “Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ.. Nhưng lẽ nào ta lại chịu
thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình? “Chẳng còn cách nào khác”! Mày nói như
thế hả? Nhưng có thật là không còn cách nào khác? Có thật không còn cách nào khác?
Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!”. Đây là lời độc thoại có tính chất
quyết định dẫn tới hành động châm hương gọi Đế Thích một cách dứt khoát.
Cuộc trò chuyện giừa hồn Trương Ba với Đế Thích trở thành nơi tác giả gởi gắm những
quan niệm về hạnh phúc, về lẽ sống và cái chết. Hai lời thoại của hồn trong cảnh này có một
ý nghĩa đặc biệt quan trọng:
Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn...
Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân
tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống
như thế nào thì ông chẳng cần biết!”.
Người đọc, người xem có thế nhận ra những ý nghĩa triết lí sâu sắc và thấm thía qua hai lời
thoại này. Thứ nhất, con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa. Không thể có
một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối bởi
những nhu cầu bản năng. của thân xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân xác, không thể tự
an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn. Thứ hai, sống thực sự cho ra con
người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi không
được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa. Những lời thoại của hồn Trương Ba với Đế
Thích chứng tỏ nhân vật đã ý thức rõ về tình cảnh trớ trêu, đầy tính chất bi hài của mình,
thấm thía nỗi đau khổ về tình trạng ngày càng chênh lệch giữa hồn và xác, đồng thời càng
chứng tỏ quyết tâm giải thoát nung nấu của nhân vật trước lúc Đế Thích xuất hiện.
Quyết định dứt khoát xin tiên Đế Thích cho cu Tị được sống lại, cho mình được chết hẳn
chứ không nhập hồn vào thân thể ai nữa của nhân vật hồn Trương Ba là kết quả của một
quá trình diễn biến hợp lí. Hơn nữa, quyết định này cần phải đưa ra kịp thời vì cu Tị vừa mới
chết. Hồn Trương Ba thử hình dung cảnh hồn của mình lại nhập vào xác cu Tị để sống và
thấy rõ "bao nhiêu sự rắc rối” vô lí lại tiếp tục xảy ra. Nhận thức tỉnh táo ấy cùng tình thương
mẹ con cu Tị càng khiến hồn Trương Ba đi đến quyết định dứt khoát. Qua quyết định này,
chúng ta càng thấy Trương Ba là con người nhân hậu, sáng suốt, giàu lòng tự trọng. Đặc
biệt, đó là con người ý thức được ý nghĩa của cuộc sống.
Cái chết cua cu Tị có ý nghĩa đẩy nhanh diễn biến kịch đi đến chỗ “mở nút”. Dựng tả quá
trình đi đến quyết định dứt khoát của nhân vật hồn Trương Ba, Lưu Quang Vũ đã đảm bảo
được tính tự nhiên, hợp lí của tác phẩm.
Không chỉ có ý nghĩa triết lí về nhân sinh, về hạnh phúc con người, với tinh thần chiến đấu
thẳng thắn của một nghệ sĩ hăng hái tham dự vào tiến trình cải cách xã hội, trong vở kịch
này nói chung và đoạn kết nói riêng, Lưu Quang Vũ muốn góp phần phê phán một số biểu
hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ. Thứ nhất, con người đang có nguy cơ chạy theo
những ham muốn tầm thường về vật chất, chỉ thích hường thụ đến nỗi trở nên phàm phu,
thô thiển. Nói như Chế Lan Viên trong một bài thơ đã từng cánh báo “muốn nuôi sống xác
thân đem làm thịt linh hồn”. Thứ hai, lấy cớ tâm hồn là quý, đời sống tinh thần là đáng trọng
mà chẳng chăm lo thích đáng đến sinh hoạt vật chất, không phấn đấu vì hạnh phúc toàn
vẹn. Thực chất đây là biểu hiện của chủ nghĩa duy tâm chủ quan, của sự lười biếng, không
tưởng. Cả hai quan niệm, cách sống trên đều cực đoan, đáng phê phán. Ngoài ra, vở kịch
còn đề cập đến một vấn đề cũng không kém phần bức xúc, đó là tình trạng con người phải
sống giả, không dám và cũng không được sống là bản thân mình. Đấy là nguy cơ đẩy con
người đến chỗ bị tha hóa do danh và lợi.
Lưu Quang Vũ đã chết một cách rất thương tâm trong một tai nạn giao thông. Khoảng trống
mà nhà viết kịch tài ba ấy để lại trong nền sân khấu Việt Nam là không thế lấp đầy. Vở kịch
cuối cùng được Lưu Quang Vũ đặt tên là Chim sâm cầm không chết. Với tất cả những gì để
lại cho đời thì mãi mãi Lưu Quang Vũ không chết. Từ bấy đến nay, Hồn Trương Ba, da hàng
thịt và gần 50 vờ kịch khác của Lưu Quang Vũ vẫn được dàn dựng và công diễn. Những
triết lí về cuộc đời, về con người, về xã hội... đặt ra trong các vở kịch luôn có ý nghĩa với mọi
người, mọi thời.
4. “Hồn” và “xác” hay tính đa trị trong “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”
Khi Lưu Quang Vũ bắt đầu nổi tiếng trên kịch trường cũng là lúc nhân loại đã chuyển hẳn
sang thời kì hậu hiện đại. Lúc này, yếu tố cá nhân vẫn được xem xét nhưng không còn là
những nhân vị hoàn hảo, có thể phán xét và trở thành biểu tượng đơn nhất, độc tôn về thân
phận con người. Cá nhân bây giờ là những mảnh vỡ. Họ không thể đại diện cho bất kì ai và
ngay chính bản thân họ. Loài người vẫn đang mãi loay hoay tìm kiếm trong vô vọng lời đáp
cho ba câu hỏi lớn: Ta là ai? Ta đến từ đâu? và Ta sẽ về đâu?
Những câu hỏi này xem ra rất dễ trả lời nhưng hễ trả lời mà không lập tức tự thoả mãn thì
con người lại rơi ngay vào chính cái bẫy câu trả lời ấy đưa ra. Nói tóm lại, trong kỉ nguyên
hậu hiện đại, sau khi không tìm được câu trả lời cuối cùng về bản thể, con người chấp nhận
một cuộc sống nội tại với chính sự chắp vá và không thể nào thấu triệt nó.
Xem ra Lưu Quang Vũ đã bắt được cái mạch này. Giống nhà văn hậu hiện đại nổi tiếng
người Italia Italo Calvino, Lưu Quang Vũ cũng viết lại cổ tích. Một thể loại bao giờ cũng viên
mãn với những cái kết có hậu. Trong khi đó, thực tế cuộc đời thì luôn khác. Các nhà văn
hậu hiện đại muốn đối thoại lại. 019
với cổ tích bằng cách tái hiện cuộc đời theo đúng cái cách hiện tồn của nó. Họ giữ lại phần
đầu của cốt truyện, nối thêm phần đuôi hoặc đan xen thêm các chi tiết, sự kiện vào cốt
truyện, và thế là mọi chuyện được nhìn dưới ánh sáng khác, cái ánh sáng đa trị, thật chói
chang dưới nắng mặt trời với tất cả những ưu tư phiền toái bất tận của nó. Đây cũng là
cách Lưu Quang Vũ làm với vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt.
Trương Ba giỏi đánh cờ nên quen thân với Đế Thích. Nam Tào bắt chết nhầm Trương Ba,
Đế Thích cho hồn Trương Ba sống lại bằng cách cho hồn nhập vào xác anh hàng thịt vừa
mới chết. Truyện cổ tích kết thúc tại đây và Trương Ba hạnh phúc với vợ con, làng xóm.
Nhưng kịch hậu hiện đại thì không có cái kết có hậu theo kiểu ấy. Hồn Trương Ba phải day
dứt, khốn cùng trong cái xác của anh hàng thịt. Cần lưu ý thêm rằng cái xác của anh hàng
thịt cũng bất hạnh hệt như hồn Trương Ba. Bởi lẽ anh ta cũng rất muốn làm bao điều mà
hồn không cho phép. Nhưng Lưu Quang Vũ đã đứng về phía hồn, dù cho yếu tố hậu hiện
đại đang tập trung dày đặc trong vở kịch, bởi cơ bản, ông vẫn chưa dứt hẳn ra được cái vị
trí của một nhà soạn kịch hiện đại – những người luôn bày tỏ chính kiến và bảo vệ cái mà
họ cho là chính nghĩa, công lí.
Cốt truyện của Lưu Quang Vũ tập trung khai thác bi kịch của hồn Trương Ba trong thể xác
anh hàng thịt. Bi kịch là hồn chẳng thể nào tìm được sự bình yên trong chính cái xác ấy,
trong chính gia đình mình hay gia đình của anh hàng thịt. Sự vong thân được diễn ra ngay
trong chính thân thể của một người. Hồn ý thức được sự nhầm lẫn không thể nào cứu chữa
của Đế Thích. Cuối cùng hồn chọn giải pháp giải thoát là chấp nhận được chết để trả xác
anh hàng thịt về cho anh hàng thịt. Sự sống chỉ có ý nghĩa khi hồn được sống trong chính
thân xác đích thực của mình. Ngay cả khi hồn Trương Ba được Đế Thích gợi ý sống lại
trong xác cu Tị hoặc xác của chính tiên ông Đế Thích, hồn vẫn kiên quyết chối từ. Cổ tích đã
bị nhại ngay ở chính cốt truyện của nó.
Xung đột kịch diễn ra đồng thời ở cả hai lớp: giữa văn hoá và bản năng, giữa sự thống nhất
cá thể và sự khập khễnh cá thể – sự vay mượn hình hài. Ở góc độ nào kịch cũng cho thấy
kiểu tranh đấu: cố vượt thoát sự cám dỗ thoả hiệp để vươn đến một cuộc sống lí tưởng của
nhân tính, nhân sinh cho mỗi một cá thể. Con người đã bị phân thành hai mảnh. Mỗi mảnh
lại có khả năng phân chia thành nhiều mảnh khác. Lí thuyết thậm phồn (hyper) của chủ
nghĩa hậu hiện đại được ghi nhận ở đặc tính phân mảnh này.
Bi kịch xảy ra khi hồn Trương Ba được sống lại. Ở đây không hề có xung đột giữa sự sống
và cái chết. Trong tư duy của Đế Thích và tiên thánh nói chung, được sống lại là hạnh phúc,
nhưng thực tế cho thấy điều khác hẳn: sống như thế nào mới quyết định đến hạnh phúc của
con người. Nếu cứ để Trương Ba chết đi thì giá trị tố cáo chỉ dừng ở sự cẩu thả của Nam
Tào và tiên bị lên án ở thái độ vô trách nhiệm. Nhưng để hồn Trương Ba sống lại, thì cả Đế
Thích cũng bị lên án, nhưng lại bị lên án ở chỗ... có trách nhiệm trước sự vô trách nhiệm
của đồng cấp. Mới hay làm điều tốt cho con người đâu phải lúc nào cũng mang lại hạnh
phúc cho họ. Tư tưởng này là sản phẩm mà chủ nghĩa hậu hiện đại luôn khai thác. Đề xuất
tính đa diện, đa nghĩa trong hành động kịch là cách nhà soạn kịch đưa người đọc xâm nhập
sâu hơn vào những vấn đề phiền toái không dễ gì tháo gỡ của nhân sinh.
Xung đột - bi kịch tiếp theo của hồn Trương Ba là việc sống lại trong cái xác của anh hàng
thịt mà không chịu sống theo ước muốn của cái xác đó. Đây chính là bi kịch chính, bi kịch
nội tại của nhân vật: bi kịch của sự cám dỗ bất phân thắng bại. Trong thể xác thô phàm đầy
bản năng nhục dục của anh hàng thịt, hồn Trương Ba vốn trước đây nhân hậu, bản tính
ngay thẳng, dần dần đổi khác: ham uống rượu, thích tiết canh, không còn đam mê cờ, thú
chơi thanh cao, trí tuệ nữa. Nước cờ giờ không còn sự cao tay, linh diệu, đến mức bạn cờ
Trương Hoạt phải cay đắng thốt lên: “Bác Trương ạ, tôi không hiểu nổi. Lối đánh của bác
khác hẳn ngày xưa.... Cách tiến, cách thủ của bác bây giờ vụn vặt, tủn mủn, thô phũ. Mà cái
nước ăn vừa rồi, nói xin lỗi bác, nó bần tiện làm sao!”.
Ý thức được điều đó, hồn Trương Ba đau khổ, và càng khổ sở hơn nữa khi hồn không thể
giải quyết được mâu thuẫn. Đây chính là thước đo bản chất bi kịch của hồn Trương Ba.
Người ta chỉ thực sự bi kịch khi ý thức được bi kịch của mình. Hồn Trương Ba càng cố gắng
bao nhiêu thì kết quả dường như càng tai hại bấy nhiêu. Nghịch cảnh đó được đẩy đến cao
trào qua các lớp đối thoại – vốn là nền tảng của kịch giữa hồn Trương Ba với xác hàng thịt,
với người thân và Đế Thích.
Tâm trạng của hồn Trương Ba đầy đau khổ. Hồn tìm cách chống lại cám dỗ của xác bằng
cách muốn rời khỏi cái xác ấy: “Không, không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! – Tôi
chán cái chỗ ở không phải của tôi này lắm rồi, chán lắm rồi! Cái thân thể kềnh càng thô lỗ
này, ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc! Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng
nhỉ, để nó được tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát!”. Xác hàng thịt đâu dễ chịu lép vế
trước hồn Trương Ba. Nó mạnh mẽ tấn công vào vô vàn điểm yếu của hồn: “Nhưng tôi là
cái hoàn cảnh mà ông buộc phải quy phục! Đâu phải lỗi tại tôi... Sao ông có vẻ khinh thường
tôi thế nhỉ? Tôi cũng đáng được quý trọng chứ! Tôi là cái bình để chứa đựng linh hồn. Nhờ
tôi mà ông có thể làm lụng, cuốc xới... Nhờ có đôi mắt của tôi, ông cảm nhận thế giới này
qua những giác quan của tôi... Những vị lắm chữ nhiều sách như các ông là hay vin vào cớ
tâm hồn là quý, khuyên con người ta sống vì phần hồn, để rồi bỏ bê cho thân xác họ mãi
khổ sở, nhếch nhác... Mỗi bữa tôi đòi ăn tám, chín bát cơm, tôi thèm ăn thịt, hỏi có gì là tội
lỗi nào? Lỗi là ở chỗ không có đủ tám, chín bát cơm cho tôi ăn chứ!”.
Vốn là người nhân hậu, sống đầy ý thức trách nhiệm với bản thân và gia đình, cũng như với
những người xung quanh, nên hồn Trương Ba tỏ ra lung lạc trước những lập luận không
phải không có lí nhưng rất quái gở của xác. Xác đồ tể nhận thấy điều đó, biết những cố
gắng của hồn Trương Ba là không thể nên tiếp tục ép hồn thoả hiệp với mình và hài lòng
sống cùng thân xác ấy. Lí lẽ mà xác đưa ra là cả hai đã hoà vào một rồi, không thể nào khác
được: “Ông đừng nên tự dằn vặt làm gì! Tôi đâu muốn làm khổ ông, bởi tôi cũng rất cần đến
ông. Thôi, đừng cãi cọ nhau nữa! Chẳng còn cách nào khác đâu! Phải sống hòa thuận với
nhau thôi! Cái hồn vía ương bướng của tôi ơi, hãy về với tôi này!” Hồn Trương Ba nổi giận,
khinh bỉ lập luận của xác hàng thịt nhưng cuối cùng cũng đành phải ngậm ngùi trở lại xác
trong nỗi tuyệt vọng vô bờ.
Như vậy tuy được trả lại cuộc sống nhưng Trương Ba phải sống một cuộc sống bất như ý vì
nó đang dần xấu đi, bị huỷ hoại bởi chính cái xác mà hồn mình trú ngụ. Một triết lí được
trình xuất, khi con người chỉ sống trong môi trường thô phàm của cái thế giới vật chất ngự
trị, thì tất sẽ bị nó chi phối. Làm thế nào để bảo toàn, hoàn thiện nhân cách, bảo toàn những
giá trị văn hoá mà con người dốc sức vun đắp hàng ngàn năm nay là một vấn đề lớn.
Quay lại vào thể xác, hồn Trương Ba phải đối đầu với một xung đột khác. Bi kịch của hồn
Trương Ba lúc này là bi kịch của sự không được thừa nhận. Hồn Trương Ba là người xa lạ
trên cõi đời, xa lạ ngay trong chính gia đình mình. Trong hình hài anh hàng thịt và sự biến
đổi ít nhiều tâm tính, hành động của hồn Trương Ba đã đưa đến những bất ổn giữa hồn và
những người thân trong gia đình. Người vợ ngoan hiền của hồn do ghen tuông, không chịu
cảnh hồn suốt ngày ở bên và chịu sự ỡm ờ của vợ xác hàng thịt nên muốn bỏ đi để hồn
“thảnh thơi” với cô ta, bé Gái – cháu nội không nhận ông, thậm chí nó còn xua đuổi ông vì
không chấp nhận hình dáng kẻ đồ tể ở ông... Cô con dâu, người vốn rất yêu quý, cảm thông
với ông trước đây cũng cảm thấy bố chồng ngày một khác đi theo chiều hướng xấu, nhưng
cũng không thể nào làm điều gì giúp ông được và dần dần cũng xa lánh nốt. Bi kịch gia đình
là nút nhấn cuối cùng trong chuỗi xung đột kịch. Mất gia đình, ý nghĩa sống của hồn Trương
Ba đâu còn nữa. Đỉnh điểm xung đột của trường đoạn kịch là hồn Trương Ba quyết không
thể khuất phục trước xác nữa. Giải pháp của hồn là không cần cuộc sống do cái xác hàng
thịt kia mang lại: “Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình?
Chẳng còn cách nào khác!, mày nói như thế hả? Nhưng có thật là không còn cách nào
khác? Có thật không còn cách nào khác? Không cần đến cái đời sống do mày mang lại!
Không cần!”.
Đối thoại với Đế Thích là lớp xung đột cuối cùng của kịch. Hồn Trương Ba kiên quyết chối
từ, không chấp nhận cảnh sống như hiện tại. Đế Thích vô cùng ngạc nhiên khi hồn Trương
Ba lại cứ đòi chết. Đế Thích cố khuyên hồn Trương Ba thoả hiệp với cuộc sống theo cách
xác hàng thịt đã làm rằng cái thế giới người này vốn không trọn vẹn. Tuy nhiên, không
những từ chối, hồn Trương Ba còn thẳng thắn chỉ ra sai lầm của Đế Thích. Lí lẽ của hồn là
không thể nào chấp nhận được cuộc sống giả tạo. Ý nghĩa của sự sống là lòng trung thực
với con người với vạn vật và cả với chính bản thân mình. Lẽ ra vở kịch nên kết thúc ở chỗ
hồn Trương Ba chết, anh hàng thịt chết, cu Tị chết, nhưng Lưu Quang Vũ rốt cuộc cũng
không thể nào thoát ra được cái bóng cổ tích, bằng cách để hồn Trương Ba thuyết phục Đế
Thích cho cu Tị, anh hàng thịt sống lại. Với hồn Trương Ba đấy là việc làm đúng. Và Đế
Thích vốn dĩ và luôn là một ông tiên sống trên trời, xa rời thực tiễn trần gian nên đã làm theo
lời hồn Trương Ba, trả hồn lại cho cu Tị. Hồn Trương Ba trong hành động này đã trở thành
tiên Đế Thích. Không biết liệu cu Tị có rơi vào bi kịch như cách của hồn Trương Ba hay
không?
Ngôn ngữ kịch luôn có xu hướng đi vào chiều sâu của triết lí. Những triết lí có tính gợi mở,
tính hạ bệ, lột mặt nạ, giải thiêng thần thánh mà mục đích cuối cùng của nó là nhằm tôn vinh
con người với những khát vọng, mơ ước rất đời thường. Tính chất giải thiêng này là sản
phẩm của tư duy hậu hiện đại. Có thể Lưu Quang Vũ chưa tiếp cận với lí thuyết hậu hiện
đại, nhưng bằng trực cảm thiên tài của một nhà văn, ông đã đi đúng con đường văn chương
nhân loại lựa chọn.
Trong truyện dân gian, cốt truyện hồn Trương Ba còn hàm chứa tiếng cười sảng khoái và
lạc quan trước việc người chết bỗng sống lại. Trong kịch Lưu Quang Vũ, tiếng cười đó
dường như biến mất, hoặc nếu có thì cũng đã bị đổi sắc thái, chuyển thành tiếng cười của
cái bi hài trái khoáy, hài hước đen. Cái tiếng cười đa trị được đặt trên nền của sự đổ vỡ, hỗn
độn. Màn đối thoại mở đầu vở kịch giữa Nam và Bắc Đẩu trên thiên đình chất chứa tiếng
cười bi đát về sự đổ vỡ. Diễn ngôn hậu hiện đại đâu còn chỉ một sự trang nghiêm để diễn tả
khung cảnh trang nghiêm, mà đã sử dụng lối nói suồng sã của đời sống chen vào diễn ngôn
mang tính văn chương thuần túy. Cách nói của các nhân vật trong kịch, tự nó đã cho thấy
sự rối ren của thời đại, sự khốn đốn của con người trong sự lẫn lộn, tù mù trắng đen của
xác và hồn. Tính chất nước đôi trong lối nói của nhân vật cũng được vận dụng. Sau khi
nghe hồn Trương Ba đòi được chết, lập luận về mục đích đánh cờ và tuyên bố không đánh
cờ với mình, Đế Thích thốt lên: “Con người hạ giới các ông thật kì lạ”. Câu nói này không
chỉ cười Đế Thích mê cờ đến mức xem đánh cờ là lẽ sống tối thượng của đời mình mà còn
cười lũ người hạ giới không dám dâng hiến hết đời mình cho một mục đích, một môn nghệ
thuật mình hằng yêu thích. Đây là dạng tiếng cười đa trị. Có thể cười bất kì đối tượng nào
miễn kẻ đó có khả năng tư duy để nhận thức mọi sự cực đoan, mọi sự suy tôn hay hạ bệ,
mọi chuẩn mực, chân lí,... rốt cuộc cũng chỉ là tương đối.
Khát vọng của hồn Trương Ba là khát vọng vươn đến cái chân thực, cái toàn vẹn tuyệt đối
và sẵn sàng chấp nhận cái chết để bảo toàn, để vươn đến cái tuyệt đối đó. Ở góc độ này,
hồn Trương Ba đứng cao hơn cả Đế Thích bởi đã dũng cảm nói lên tiếng nói bảo vệ chân lí
cao quý của con người: sự trung thực, bảo vệ sự trọn vẹn nhân cách, trọn vẹn giá trị nhân
sinh. Bằng cái chết của mình, hồn Trương Ba trở nên bất tử. Đấy là một nghịch lí, nhưng
đấy cũng chính là con đường phục hưng của những giá trị nhân văn .

You might also like