You are on page 1of 17

1

HỒN TRƯƠNG BA-DA HÀNG THỊT (LƯU QUANG VŨ)

I. KIẾN THỨC CƠ BẢN VỀ TÁC GIẢ


- Lưu Quang Vũ là một nhà thơ, nhà viết kịch tài năng. Thành công lớn nhất của ông là ở
lĩnh vực sân khấu. Ông được xem là “ngòi bút vàng của sân khấu Việt Nam”.
- Ông để lại di sản văn học đồ sộ gồm kịch, thơ và tiểu luận, với các tác phẩm như Hồn
Trương Ba, da hàng thịt, Hương cây, Tôi và chúng ta, Sống mãi tuổi 17, Nàng Xita,
Ngọc Hân công chúa,...
=> Các tác phẩm của ông đã để lại một dấu ấn đáng kể trong lòng công chúng. 
      Các vở kịch, truyện ngắn, thơ của Lưu Quang Vũ giàu tính hiện thực và nhân văn
cũng như in đậm dấu ấn của từng giai đoạn trong cuộc sống của ông
- Sáng tác của ông là những vấn đề có tính thời sự cấp bách về con người – thời cuộc.
Qua đó thể hiện những triết lý nhân sinh vô cùng sâu sắc về thời đại. Vở kịch “Hồn
Trương ba, da hàng thịt” là một trong những sáng tác gây tiếng vang lớn của ông.
- Phong cách nghệ thuật: Kịch của Lưu Quang Vũ thể hiện nhiều cách tân độc đáo; quan
tâm thể hiện xung đột trong cách sống và quan niệm sống, bày tỏ khát vọng hoàn thiện
nhân cách con người, giàu chất thơ, chất triết lý và chất nhân văn.
- Vị trí và tầm ảnh hưởng: Lưu Quang Vũ là hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch
trường những năm tám mươi của thế kỉ XX, và cũng là nhà soạn kịch tài năng nhất của
văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại.
    Ông được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về nghệ thuật sân khấu năm 2000.
II. KIẾN THỨC CƠ BẢN VỀ TÁC PHẨM
1. Hoàn cảnh sáng tác
- Hồn Trương Ba, da hàng thịt là một trong những vở kịch gây được nhiều tiếng vang
nhất của Lưu Quang Vũ. Vở kịch được viết năm 1981, nhưng đến năm 1984 mới lần đầu
ra mắt công chúng.
- Sáng tạo từ truyện cổ tích dân gian cùng tên. Khi truyện cổ kết thúc, vở kịch của LQV
chính thức bắt đầu.
-  Vở kịch dựa vào câu chuyện dân gian, nhưng đã có những thay đổi cơ bản.
– Điểm khác biệt :
+ Trong truyện dân gian, nhân vật Trương Ba tiếp tục sống bình thường, hạnh phúc khi
được nhập hồn vào thân xác anh hàng thịt. Ngắn gọn và đơn giản, truyện dân gian mang
một tư tưởng triết học có phần cơ bản đúng, nhưng chỉ đề cao linh hồn, tuyệt đối hóa linh
hồn, không để ý đến mối quan hệ giữa thể xác và linh hồn.
+ Vở kịch của Lưu Quang Vũ tại tập trung diễn tả tình cảnh trớ trêu, nỗi đau khổ, giày vò
của Trương Ba từ khi “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”. Từ đó đưa đến những tư
tưởng mới : sự tồn tại độc lập của thân xác đối với linh hồn và khẳng định một quan niệm
đúng đắn về cách sống.
2. Tóm tắt
+ Cảm thấy không thể sống như thế này mãi, hồn Trương Ba muốn thoát ra khỏi thân xác
anh hàng thịt thô lỗ, phàm tục.
+ Cuộc đối thoại giữa hồn và xác. Hồn Trương Ba đành bần thần nhập lại thân xác anh
hàng thịt.
2

+ Những người thân trong gia đình (vợ, cháu gái, con dâu) đều thấy Trương Ba đã khác
xưa, đã lệch lạc nhiều lắm. Đau đớn cực độ, Trương Ba lập cập đến bên cột nhà, đốt
hương để gặp Đế Thích.
+ Đế Thích thuyết phục Trương Ba chấp nhận cuộc sống hiện tại hoặc nhập vào thân xác
cu Tị để bảo toàn sự sống. Trương Ba suy nghĩ, cân nhắc và đưa ra quyết định dứt khoát :
chấm dứt sự hiện diện của một tồn tại trớ trêu có tên gọi là "hồn Trương Ba, da hàng
thịt".
+ Hồn Trương Ba vẫn còn mãi giữa màu xanh cây vườn, trong những điều tốt lành của
cuộc đời và trong kí ức yêu thương của những người thân.
3. Nhan đề
Nhan đề Hồn Trương ba, da hàng thịt gợi cảm giác về độ vênh lệch của hai yếu tố quan
trọng trong một con người. Hồn là phần trừu tượng, da thịt thân xác là cái cụ thể, là cái
bình có thể chứa linh hồn, hồn nào xác ấy. Nhưng ở đây hồn người người này lại ở trong
xác người kia. Hồn và xác lại không tương hợp ; tính cách, hành động, lối sống của
Trương Ba và anh hàng thịt trái ngược nhau. Tên gọi của vở kịch đã thâu tóm được
những mâu thuẫn, xung đột bên trong của một con người.

4. Đặc sắc nghệ thuật


-- Sáng tạo cốt truyện dân gian.
- Nghệ thuật dựng cảnh, dựng đối thoại.
- Hành động của nhân vật phù hợp với hoàn cảnh, tính cách góp phần phát triển tình
huống truyện.
- Những đoạn độc thoại nội tâm của nhân vật hồn Trương Ba góp phần thể hiện rõ tính
cách nhân vật và quan niệm về lẽ sống đúng đắn.
5. Chủ đề
Qua đoạn trích và cả vở kịch, tác giả muốn khẳng định: được sống làm người quý giá
thật, nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn, hài hoà giữa thể xác và tâm hồn còn
quý giá hơn. Con người phải luôn đấu tranh với nghịch cảnh, chống lại sự tầm thường,
dung tục để hoàn thiện nhân cách….
6. Ý nghĩa nhân văn của vở kịch

– Ý nghĩa nhân văn của vở kịch là ở chỗ Lưu Quang Vũ đã khẳng định, tôn trọng
cái cá thể, khẳng định vị trí, vai trò của cá nhân trong xã hội. Qua lời thoại đầy chất triết
lý, nhà văn gửi bức thông điệp kêu gọi con người như sống chính mình. “Tôi muốn được
là tôi toàn vẹn”, câu nói đơn giản của nhân vật Hồn Trương Ba chính là chìa khóa mở ra
giá trị nhân văn của tác phẩm.
– Ý nghĩa nhân văn của vở kịch còn là ở chỗ nhà văn đã đấu tranh cho sự hoàn
thiện vẻ đẹp nhân cách con người. Để cho nhân vật Hồn Trương Ba khước từ cuộc sống
vay mượn thân xác người khác, Lưu Quang Vũ đã mở hướng cho nhân vật vươn tới một
lẽ sống đích thực, dẫu thân xác có trở về hư vô.

- Ý nghĩa nhân văn còn được thể hiện ở chỗ nhà văn đặt ra những vấn đề cần phải giải
quyết:
+ Cần tạo cho con người có được sự hài hòa giữa hai mặt tinh thần và vật chất ; không
được kỳ thị những đòi hỏi vật chất của con người ; cần tôn trọng quyền tự do cá nhân ;
cần biết rút kinh nghiệm về những sai lầm để hướng tới tương lai.
3

=>Giá trị nhân văn mà Lưu Quang Vũ đặt ra đến nay vẫn còn nguyên vẹn và vẫn còn
mang tính thời sự.

* MỘT SỐ NHẬN ĐỊNH VỀ LƯU QUANG VŨ VÀ VỞ KỊCH

Nhận định về "Hồn Trương Ba da hàng thịt" và Lưu Quang Vũ


----
1. "Không ai bằng Vũ trong biệt tài làm nên cái muôn thuở trong cái đời thường, biến cổ
tích, huyền thoại thành truyện thời sự, dùng cái hư để nói cái thực, dùng cái thô lỗ để
khẳng định cái cao quý"
(Giáo sư Phan Ngọc)
2. "Kịch bản của Lưu Quang Vũ nồng đượm hơi thở của đời sống với những vấn đề thời
sự được phát hiện tươi rói"
(Nhà phê bình Nguyễn Thị Minh Thái)
3. "Cảm hứng chủ đạo trong kịch Lưu Quang Vũ là cảm hứng về con người, về cái đẹp,
cái thiện... khát vọng chính của anh là khát vọng hoàn thiện cuộc sống, hoàn thiện con
người. Cho nên vượt qua những đề tài có tính chất thời sự, kịch của anh hướng tới những
giá trị nhân đạo bền vững lâu dài."
(Nhà nghiên cứu Phan Ngọc Thưởng)
4. "Hạt giống gieo vào mảnh đất tốt gặp thời tiết thuận hoà, lại có một nội lực khoẻ đã
nhanh chóng phát triển. Và bóng rợp của tài năng Lưu Quang Vũ trùm lên che mát cả
một cùng sân khấu rộng lớn và trải dài đất nước trong một thập niên."
(Ngô Thảo)
5. "Cuộc sống thật đáng quý những không phải sống thế nào cũng được. Sống vay mượn,
chắp vá, không có sự hài hoà giữa hồn và xác chỉ đem lại bi kịch cho con người. Cuộc
sống chỉ có giá trị khi con người được sống đúng là mình, được sống trong một thể thống
nhất."
(PGS. TS Lưu Khánh Thơ - em gái nhà viết kịch Lưu Quang Vũ nhận xét về triết lí sâu
sắc về sự vay mượn thân xác của hồn Trương Ba)
6. "Sáng tạo văn học của Lưu Quang Vũ, về bản chất chính là những truy vấn và đối
thoại không ngừng về nhân sinh, lịch sử, đất nước, con người từ góc nhìn văn hoá và tinh
thần nhân bản. Bằng tài năng và sức lao động đến mức phi thường, Lưu Quang Vũ đã
truyền năng lượng và khát vọng đổi mới của ông đến hàng triệu người, tạo nên hiệu ứng
nghệ thuật hết sức to lớn. Đó là hạnh phúc không dễ gì có được của bất cứ người nghệ sĩ
nào"
(PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp)
7. "Lưu Quang Vũ đã táo bạo đẩy những nhân vật kịch hiện đại của mình vào sự lột xác,
sự trăn trở nghĩ suy, sự sám hối đến quyết liệt để tìm cách giải quyết những vấn đề văn
hoá đang ráo riết đặt ra cho sự phát triển xã hội Việt Nam hiện đại. Vì thế, các kịch bản
của Lưu Quang Vũ được thiết lập trên tinh thần hiện đại khoẻ khoắn, mạnh mẽ đã mặc
nhiên mang nồng đượm hơi thở của đời sống hiện đại, được phát hiện tươi rói từ con mắt
và tấm lòng tràn đầy yêu thương cuộc đời"
(PGS. TS Nguyễn Thị Minh Thái)
4

8. "Lưu Quang Vũ trước hết và cuối cùng vẫn là một nhà thơ. Tôi tin, không có thơ thì
Lưu Quang Vũ chắc chắn không có kịch và không thể trở thành một nhà viết kịch bật
sáng đến thế trong thời kỳ đổi mới văn nghệ"
(Nguyễn Thị Minh Thái)

III. NHỮNG VẤN ĐỀ TRỌNG TÂM

Đề bài 1: Phân tích tấn bi kịch của hồn Trương Ba trong đoạn trích “Hồn Trương
ba, da hàng thịt” (Trích trong vở kịch cùng tên) của Lưu Quang Vũ

I. MỞ BÀI

Lưu Quang Vũ là một hiện tượng của sân khấu kịch trường Việt Nam những năm
tám mươi của thế kỉ XX. Ông được coi là nhà soạn kịch tài năng nhất trong văn học Việt
Nam hiện đại. Ông là một trong những người đi trước trong phong trào đổi mới văn học,
nghệ thuật, dùng ngòi bút của mình để góp phần đem đến những điều tốt đẹp cho con
người.

- Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” được viết năm 1981, là vở kịch xuất sắc
nhất của Lưu Quang Vũ, cũng là vở kịch nói đầu tiên mang ra nước ngoài công diễn.
Bằng ngòi bút giàu chất triết lý, Lưu Quang Vũ đã thổi vào tích xưa một luồng gió mới.
Kịch bản của ông không đơn thuần là chuyện vay mượn xác – tái sinh. Đặt vấn đề về lẽ
sống con người qua nỗi khổ “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”, qua mâu thuẫn
giữa tâm hồn (thanh cao) và thể xác (phàm tục), vở kịch mang chứa những triết lý nhân
sinh. “Tôi muốn là tôi toàn vẹn”, bởi sống nhờ, sống giả, sống không phải là mình, đó là
bi kịch đau đớn nhất của con người.

II. THÂN BÀI


1. Khái quát
1.1. Giải thích
- Bi là buồn, bi thương, là những mất mát, bế tắc không có lối thoát. Bi kịch thường
nảy sinh từ mâu thuẫn, xung đột giữa mơ ước, khát vọng, hoài bão, lí tưởng và mong
muốn của con người với hiện thực cuộc sống khiến con người rơi vào sự thất bại, trạng
thái bi thương tuyệt vọng, thậm chí dẫn đến cái chết. Bi kịch là cuộc đấu tranh dai dẳng,
không khoan nhượng giữa thiện và ác, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa cao thượng và
thấp hèn, giữa chính nghĩa và phi nghĩa. Trong cuộc sống thường ngày, bi kịch không
diễn ra giữa các lực lượng xã hội đấu tranh với nhau mà nó là lực lượng tinh thần trong
đời sống tâm hồn của một con người.

- Bi kịch còn là một thể loại kịch thể hiện mối xung đột không điều hoà được giữa
thiện và ác, cao cả và thấp hèn, lí tưởng và thực tại,.... Kết thúc các bi kịch nhân vật chính
5

thường có kết cục bi thảm, đau thương, các thành quả quan trọng thường bị phá hủy, gây
cảm xúc đau thương mãnh liệt cho người đọc, người xem.

- Bi kịch của hồn Trương Ba ở hồi 7 đã bị đẩy lên cao trào và buộc phải được giải
quyết.

1.2. Giới thiệu về bi kịch của hồn Trương Ba


Trương Ba là một ông lão làm vườn 60 tuổi, có tài đánh cờ, giỏi làm vườn, có tâm
hồn thanh cao trong sạch. Do sự sơ xuất, tắc trách Nam Tào, Bắc Đẩu mà ông bị bắt chết
nhầm. Sự sửa sai của Nam Tào, Bắc Đẩu theo lời khuyên của Đế Thích nhằm trả lại công
bằng cho Trương Ba lại đẩy Trương Ba vào một nghịch cảnh vô lí hơn. Con người vốn là
một tổng thể thống nhất, vậy mà Trương Ba lại phải trú nhờ linh hồn minh trong thân xác
của người khác, bi kịch hồn này, xác nọ “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”. Sống
lại trong thể xác hàng thịt, Hồn Trương Ba gặp rất nhiều phiền toái, phải sống, nhân vật
hồn Trương Ba ngày càng trở nên xa lạ với bạn bè, cả những người thân trong gia đình và
tự chán ghét chính mình. Bản thân Trương Ba cũng bị lây nhiễm một số thói xấu cùng
với những nhu cầu vốn không phải của bản thân ông… Những điều đó làm Trương Ba vô
cùng đau khổ. Ông đau đớn, chán chường trước cuộc sống không thật là mình.

2. Bi kịch của Hồn Trương Ba


Lưu Quang Vũ đã dựng lên các cuộc đối thoại đặc giữa hồn Trương Ba và xác
hàng thịt, hồn Trương Ba với người thân và hồn Trương ba với Đế Thích để đẩy xung
đột nội tâm của hồn Trương Ba lên đến tận cùng buộc phải giải quyết. Từ đó ý nghĩ tư
tưởng, những triết lí nhân sinh được phát biểu một cách sâu sắc, thấm thía.
2.1. Bi kịch tha hóa (Đối thoại hồn Trương Ba và xác hàng thịt)

a. Tâm thế của hồn Trương Ba trong cuộc đối thoại:


Trước khi diễn ra cuộc đối thoại giữa hồn và xác, Lưu Quang Vũ đã để cho hồn
Trương Ba “ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy” và tự giãi bày tâm sự, nỗi lòng
của mình “Không! Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở
không phải là của tôi này lắm rồi! Cái thân thể kềnh càng, thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi,
ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc! Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỉ, để nó tách ra
khỏi cái xác này, dù chỉ một lát”.
Những lời thoại này cho thấy hồn Trương Ba đang hết sức đau khổ, bức bối và bế
tắc. Những câu phủ định, cảm thán ngắn, dồn dập cùng với cái ước nguyện khắc khoải
của hồn đã nói lên điều đó. Hồn Trương Ba đang đau khổ, bức bối là bởi ông không còn
được là mình nữa. Ông phải sống trong thân xác của một kẻ khác và cái thân xác ấy làm
ông ghê tởm. Ông ước muốn có hình hài riêng và muốn được tách ra khỏi xác hàng thịt
dù chỉ giây lát. Nắm bắt được nguyện vọng của nhân vật, Lưu Quang Vũ đã sáng tạo ra
tình huống hồn và xác phân thân để đối đáp với nhau . Tưởng rằng, khi tách ra khỏi xác
hàng thịt, hồn sẽ phần nào giải tỏa được nỗi đau khổ bị dồn nén bấy lâu khi có cơ hội cất
lên tiếng nói của mình nhưng hóa ra không phải vậy.
b. Xác hàng thịt lấn lướt, sỉ nhục hồn Trương Ba
6

- Trong cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt hồn Trương Ba gọi
xác hàng thịt là mày, sau đó gọi là anh. Xác hàng thịt gọi hồn Trương ba là ông. Dựa trên
cách xưng hô này thì vai trên vai dưới rất rõ ràng. Hồn Trương Ba ở vai trên và xác hàng
thịt ở vai dưới. Tuy nhiên, trong cuộc đối thoại xác hàng thịt không hề lép vế, yếu thế mà
còn lấn lướt và sỉ nhục hồn Trương Ba.

- Xác hàng thịt ngày càng ý thức được vai trò của nó. Nó nói “Xác thịt có tiếng nói
đấy”. Nó còn khẳng định nó là “cái bình để giữ linh hồn”, nhờ nó mà hồn Trương Ba mới
có thể làm lụng, cuốc xới, ngắm nhìn trời đất, người thân. Xác âm u, đui mù nhưng có thể
lấn át, sai khiến, thậm chí đồng hóa linh hồn cao khiết. Hồn không thể còn nguyên vẹn,
trong sạch, khi phải chung sống và chiều theo những đòi hỏi của xác thịt dung tục. Để
chứng minh điều đó nó đã kể ra những việc mà hồn Trương Ba đã làm dướu sự sai khiến
của nó:

+ Cái đêm khi ông đứng cạnh vợ anh hàng thịt với “tay chân run rẩy”, “hơi thở
nóng rực”, “cổ nghẹn lại” và “suýt nữa thì...”.

+ Hồn Trương B đã có cảm xúc lâng lâng trước các món ăn mà ông cho là dung
tục như tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi,

+ Hồn Trương Ba đã sử dụng vũ lực một cách tàn bạo với con trai. Với sức mạnh
của xác hàng thịt, ông đã tát thằng con đến toé máu mồm, máu mũi…

Rõ ràng, Hồn Trương Ba đã nhiễm những thói hư tật xấu của xác hàng thịt. Xác
anh hàng thịt còn cười nhạo vào cái lí lẽ mà ông đưa ra để ngụy biện: “Ta vẫn có một
đời sống riêng, nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”. Nó còn sỉ nhục khi nói Trương Ba
hãy chơi trò chơi tâm hồn. Hãy thỏa mãn nó và mỗi khi làm việc xấu hãy đổ tội hết cho
nó. Hãy cứ nghĩ mình cao khiết nhưng chỉ vì hoàn cảnh. Thậm chí nó cho rằng đấy chính
là lí lẽ hồn Trương Ba tự nói với mình và người khác. Trong cuộc đối thoại này, xác
thắng thế nên rất hể hả tuôn ra những lời thoại dài với chất giọng khi thì mỉa mai cười
nhạo, khi thì lên mặt dạy đời, chỉ trích, châm chọc. Hồn Trương Ba thanh cao, trong sạch
phải sống với xác hàng thịt thô lỗ, phàm tục, đầy thói hư tật xấu đã là đau khổ lắm rồi.
Vậy mà thật sỉ nhục khi xác hàng thịt nhắc đi nhắc lại cái điều “Hai ta tuy hai mà một”.
- Ngoài ra, xác hàng thịt còn bày tỏ những bất công mà mình phải gánh chịu khi
sống với linh hồn Trương Ba: bị xúc phạm, bị bỏ bê nhếch nhác, khổ sở…vì những lý do
không chính đáng.

c. Thái độ của Hồn Trương Ba trước sự lấn lướt sỉ nhục của xác hàng thịt

- Hồn có cơ hội bày tỏ tâm trạng uất ức, tức giận vì phải chung sống với cái xác
thô lỗ, tầm thường, dung tục. Hồn cũng không che giấu sự coi thường, khinh bỉ đối với
Xác, “kẻ âm u đui mù, không cảm xúc, không tư tưởng, không có tiếng nói”...; kẻ có nhu
cầu vật chất thấp kém gần với con thú (thèm ăn ngon, thèm rượu thịt), sức mạnh thể chất
gắn với sự tàn bạo… Hồn cũng phủ nhận sự lệ thuộc của linh hồn vào xác thịt, khẳng
7

định linh hồn có đời sống riêng: “nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”… Ông mắng xác
hàng thịt là “lí lẽ của anh thật là ti tiện” và “Ta…ta…đã bảo mày im đi”…

- Nhưng trước lí lẽ của xác hàng thịt, Trương Ba cuối cùng cũng phải thừa nhận
rằng mình đuối lí, mình đang sống nhờ thể xác kẻ khác và bị thể xác đó điều khiển, dẫn
đến sự tha hoá không có cách gì chuyển biến được. Những đối thoại ngắn và dần dần là
những lời thoại bỏ lửng cho thấy sự đuối lí của hồn trong cuộc đối thoại cùng xác.
- Kết thúc cuộc đối thoại, hồn Trương Ba dằn vặt, đau đớn, hoang mang, tuyệt
vọng trở về cuộc sống trái với chính mình. Chi tiết “Hồn Trương Ba bần thần nhập lại
vào xác hàng thịt, ngồi lặng lẽ bên chõng” diễn tả cô đọng tính chất căng thẳng của xung
đột kịch và sự bế tắc của hồn Trương Ba.
d. Ý nghĩa của cuộc đối thoại (Trong đề phân tích bi kịch nên nói rút gọn ý này)

Cuộc đối thoại căng thẳng, quyết liệt giữa hồn và xác mang ý nghĩa sâu sắc:

- Dân gian tuyệt đối hóa vai trò của linh hồn, cho rằng hồn luôn quyết định và điều
khiển thể xác. Còn ở đây Lưu Quang Vũ đã thể hiện quan niệm linh hồn và thể xác dù có
mối quan hệ hữu cơ với nhau nhưng chúng vẫn có sự tồn tại độc lập tương đối, chi phối
lẫn nhau. Sự chi phối của xác hàng thịt với hồn Trương Ba cho thấy rất rõ điều đó.

- Hồn và xác là những ẩn dụ nghệ thuật. Xác hàng thịt là ẩn dụ cho bản năng, nhu
cầu ham muốn, dục vọng còn hồn Trương Ba là thế giới tinh thần luôn hướng đến sự
thanh cao, trong sạch, lương thiện ở con người. Xung đột giữa Hồn và Xác là một tình
huống kịch đặc sắc, tô đậm bi kịch “bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo”, sự thiếu hài
hòa, không thống nhất trên các phương diện: linh hồn và thể xác, vật chất và tinh thần,
nội dung và hình thức, bản năng và lý tưởng, cao cả và tầm thường... là xung đột dai dẳng
giữa các mặt tồn tại trong một con người. Trong cuộc đấu tranh giữa linh hồn và thể xác
thì linh hồn phải biết kiểm soát, chế ngự thể xác chứ không được để thể xác lấn át rồi đổ
hết tội cho nó. Nếu để thể xác lấn át sẽ trở nên phàm phu, thô tục, tha hóa, sẽ chạy theo
những ham muốn tầm thường.

- Từ bi kịch của hồn Trương Ba không được sống là mình, Lưu Quang Vũ đặt ra
vấn đề khuyên người ta phải biết sống hài hòa giữa linh hồn và thể xác, sống đúng là
mình. Ông cũng phê phán lối sống giả, không đúng là mình khiến con người dễ bị tha
hóa.

- Từ mối quan hệ giữa linh hồn và thể xác, Lưu Quang Vũ còn hướng chúng ta
đến mối quan hệ giữa nội dung và hình thức. Nội dung và hình thức vốn là hai phạm trù
khác nhau, không thể từ cái nọ suy ra cái kia nhưng chúng phải thống nhất với nhau trong
một chỉnh thể . Nếu đúng thống nhất và phù hợp với nhau thì có thể tạo nên giá trị và sức
mạnh. Còn nếu chúng không phù hợp với nhau sẽ làm giảm giá trị, thậm chí có nguy cơ
đe dọa đến đến sự tồn tại của sự vật hiện tượng.
- Mặt khác, tác giả cũng phê phán lối sống chỉ vì linh hồn, vì quá trọng linh hồn
mà bỏ bê thể xác khiến thể xác nhếch nhác, khổ sở. Đó cũng là lối sống duy tâm, cực
đoan, lười biếng và không tưởng.
8

- Cảnh báo: Sự tha hóa của hồn Trương Ba còn khiến chúng ta nhận ra rằng con
người sống trong môi trường dung tục rất dễ bị tha hóa, dung tục hóa. Điều này làm ta
nhớ đến một câu nói "Những thói xấu ban đầu là người khách lạ qua đường, sau đó là
người bạn thân ở chung nhà và kết cục trở thành ông chủ khó tính" hoặc nhớ đến câu tục
ngữ mà cha ông ta bằng trải nghiệm của mình đã đúc rút thành “Gần mực thì đen, gần
đèn thì sáng”.

2.2. Bi kịch làm người thân đau khổ và xa lánh (Đối thoại hồn Trương Ba và người
thân)

Gia đình là một mái ấm mà ở đó, ta nhận được tình yêu thương của những người
thân. Những lúc mệt mỏi, vấp ngã, nơi đầu tiên ta muốn tìm về là gia đình, người đầu tiên
ta muốn chia sẻ, giãi bày là những người thân, bởi họ luôn ở đó, yêu thương ta một cách
vô điều kiện. Khi bị rơi vào bi kịch đầy bế tắc, Trương Ba cũng tìm về với những người
thân yêu với mong muốn được chia sẻ. Nhưng khi đối mặt với họ, ông lại càng đau khổ,
tuyệt vọng hơn. Những người thân của ông đều cho rằng ông đã thay đổi khiến họ không
còn nhận ra. Việc trò chuyện với họ còn khiến Trương Ba chợt hiểu rằng ông đã làm cho
người thân của mình đau khổ và họ đang dần xa lánh ông. Hồn Trương Ba đau khổ gấp
bội bởi vì với một người như Trương Ba, không có gì đau đớn hơn khi chính mình làm
người thân của mình đau khổ.

a. Cuộc đối thoại với vợ


Trong cái nhìn của người vợ, Trương Ba là người rất yêu thương vợ con. Nhưng
bây giờ bà nhận ra ông đã thay đổi quá nhiều:“ông đâu còn là ông, đâu còn là ông
Trương Ba làm vườn ngày xưa”. Ngay cả người vợ, người gần gũi nhất với ông nhất
cũng đã không còn hiểu nỗi lòng của ông, không còn nhận ra ông. Trương Ba bây giờ
đâu còn là một người làm vườn chăm chỉ, hết lòng thương yêu vợ con, quan tâm tới hàng
xóm láng giềng như ngày trước. Ông Trương Ba được mọi người kính trọng đã chết rồi.
Bởi vậy mà bây giờ, ông cũng không dạy được con, để nó bán vườn đi mở thêm cửa
hàng thịt. Người vợ mà ông yêu thương cũng đòi bỏ ông mà đi. Với bà “đi đâu cũng
được... còn hơn là thế này”. Hóa ra, Trương Ba đã mang đến cho vợ bao nhiêu đớn đau,
buồn tủi. Vì thương ông nên bà đã nhường ông cho cô vợ hàng thịt nhưng những mâu
thuẫn cứ ngày một nhiều để rồi bà phải than với trời đất rằng “Cái thân tôi sao trời
không bắt đi cho rảnh”. Bà sẽ đi thật xa, đi biệt cấy thuê, làm mướn ở đâu cũng được để
tránh xa thực tế đau khổ này. Kết thúc đối thoại, bà vợ bỏ đi, hồn Trương Ba chỉ biết
ngồi ôm đầu đau đớn.
b. Cuộc đối thoại với cháu gái
Cái Gái là cháu nội của Trương Ba thì phản ứng quyết liệt và dữ dội hơn nhiều.
Trong kí ức của nó, ông nội nó là người giỏi làm vườn, quý cây, khéo léo và nhân hậu.
Khi ông nội chết, đêm nào nó cũng khóc vì thương ông, nó cất giữ, nâng niu những vật
dụng của ông như đôi guốc gỗ, bó đóm thuốc lào, nhất là những cây cối trong vườn như
những kỉ vật về ông. Vì vậy nên với tâm hồn tuổi thơ trong sáng, không chấp nhận sự giả
dối, nó không thể chấp nhận việc người ông nó hết mực yêu thương lại ở trong thể xác
anh hàng thịt xa lạ, đáng ghét. Nó một mực không nhận ông: “Tôi không phải là cháu
9

ông”, “Ông nội tôi chết rồi”. Trong mắt cái Gái cái kẻ có “bàn tay giết lợn”, bàn chân
“to bè như cái xẻng” đã làm “gãy tiệt cái chồi non” “giẫm lên nát cả cây sâm quý mới
ươm” làm sao lại có thể là ông nội nó. Nó còn kể tội hồn Trương Ba đòi chữa diều cho
cu Tị mà lại làm gãy nan, rách cả diều khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ
tiếc. Với nó “ông nội đời nào, thô lỗ, phũ phàng như vậy”. Nỗi giận dữ của cái Gái đã
biến thành sự xua đuổi quyết liệt: “Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!”.
c. Cuộc đối thoại với con dâu
Chị con dâu là người sâu sắc, chín chắn và biết phải trái. Chị là người thấu hiểu và
thương bố chồng nhất. Chị thương ông hơn cả trước kia vì biết ông bây giờ “ khổ hơn
xưa nhiều lắm”. Nhưng chị cũng đau đớn mà thấy rằng tình cảnh gia đình bây giờ rất
đáng buồn “như sắp tan hoang ra cả”. Chính chị cũng không thể nhận ra bố chồng,
không thể giữ được những điều tốt lành của Trương Ba ở lại. Bởi vậy, chị đã nói với bố
chồng về nỗi buồn và những lo lắng của chị: “Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không
đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn
thấy... Mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ
dần đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa...”.

Không phải ngẫu nhiên mà tác giả không cho anh con trai thực dụng của Trương
Ba vào trong màn đối thoại với người thân. Bởi vì nếu nhân vật này xuất hiện anh ta sẽ
ủng hộ hồn Trương Ba sống trong xác hàng thịt để giúp anh ta hành nghề bán thịt. Điều
đó sẽ không làm nổi bật bi kịch bị người thân xa lánh của hồn Trương Ba.
=> Vợ, cháu gái và con dâu, mỗi người trong gia đình ở một vị trí, một thái độ
khác nhau nhưng đều có điểm chung là thấy Trương Ba đã thay đổi, không còn nguyên
vẹn, trong sạch, thẳng thắn. Họ đều rất đau khổ, chán nản, buồn rầu, than phiền vì điều
đó. Họ đã nói ra thành lời bởi với họ cái ngày chôn xác Trương Ba xuống đất họ đau, họ
khổ nhưng “cũng không khổ bằng bây giờ”. Kết quả Trương Ba vỡ lẽ, nhận ra sự thay
đổi của bản thân và sự lấn át của phần xác đối với phần hồn trong ông. Đây là lúc mâu
thuẫn kịch lên đến đỉnh điểm khiến hồn Trương Ba cảm thấy không thể chịu nổi. Mỗi lời
nói của người thân trong gia đình như mũi dao găm vào trái tim đang đau đớn, bế tắc của
Trương Ba, để giờ đây còn đẩy Trương Ba vào sự tuyệt vọng khôn cùng. Nỗi cay đắng
với chính bản thân mình cứ lớn dần... lớn dần, muốn đứt tung, muốn vọt trào buộc ông
phải đi đến quyết định cuối cùng.

Sau đó, Lưu Quang Vũ lại một lần nữa để cho hồn Trương Ba ngồi lại một mình
với nỗi đau khổ, tuyệt vọng, để hồn Trương Ba tự mình nghĩ ra cách cứu mình, quyết
định tìm đường thoát khỏi tấn bi kịch cuộc đời. Để rồi ông đã tìm ra con đường của
mình: “Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ. Nhưng lẽ nào ta lại
chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình? “Chẳng còn cách nào khác”! Mày
nói như thế hả? Nhưng có thật là không còn cách nào khác? Có thật không còn cách nào
khác? Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!”. Lời thoại này cho
thấy hồn Trương Ba đã tìm ra con đường giải thoát cho mình và ông đã có một quyết
định rất dứt khoát. Sau đó ông gọi Đế Thích xuống giúp đỡ.
2.3. Bi kịch được giải quyết (Cuộc đối thoại giữa Trương Ba với Đế Thích)
10

Cuộc trò chuyện giữa hồn Trương Ba với Đế Thích có vai trò quyết định trong
việc giải quyết mâu thuẫn kịch. Nó cũng trở thành nơi tác giả gởi gắm những quan niệm
về hạnh phúc, về lẽ sống và cái chết, về cả những triết lí nhân sinh.
a. Sự lựa chọn của Hồn Trương Ba
Khi gặp lại Đế Thích, Trương Ba thể hiện thái độ kiên quyết chối từ, không chấp
nhận cái cảnh phải sống “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo” nữa và muốn được
sống đúng là mình một cách toàn vẹn nhất“Không thể bên trong một đằng, bên ngoài
một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Những lời thoại của Hồn Trương Ba với
Đế Thích chứng tỏ nhân vật đã ý thức rõ về tình cảnh trớ trêu, đầy tính chất bi hài của
mình, thấm thía nỗi đau khổ về tình trạng ngày càng vênh lệch giữa hồn và xác, đồng
thời càng chứng tỏ quyết tâm giải thoát nung nấu của nhân vật trước khi đi đến quyết
định. Lúc đầu Đế Thích ngạc nhiên nhưng khi hiểu ra thì khuyên hồn Trương Ba nên
chấp nhận vì “thế giới vốn không toàn vẹn, dưới đất, trên trời đều thế cả”. Nhưng
Trương Ba không chấp nhận lí lẽ đó. Trương Ba thẳng thắn chỉ ra sai lầm của Đế Thích
và trách móc: “Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên nay
đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi
sống, nhưng sống thế nào thì ông chẳng cần biết”. Sống thực sự cho ra con người quả
không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi không được là
mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa.
Đế Thích có lòng tốt với Trương Ba, nhưng lòng tốt không phải lúc nào cũng đem
lại điều tốt lành cho người khác. Những người có lòng tốt mà vô tâm thậm chí còn đem
đến những điều tệ hại, nghịch cảnh, bi kịch hơn. Vì lòng tốt với người bạn cờ của mình
mà Đế Thích đã một lần sai khi giúp Nam Tào, Bắc Đẩu sửa lỗi, khiến hồn Trương Ba
phải sống đầy bi kịch trong xác anh hàng thịt. Bây giờ khi cu Tị chết, Đế Thích định tiếp
tục sửa cái sai của mình và Tây Vương Mẫu bằng một giải pháp khác, tệ hại ít hơn(theo
suy nghĩ của Đế Thích) là cho hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị. Đây là một cơ hội
những cũng là một thử thách mới với Trương Ba. Bởi vì sống trong thân xác cu Tị
Trương Ba sẽ ít bị phiền toái hơn và có cả một cuộc đời phía trước. Tình huống này
khiến Trương Ba phải suy nghĩ, phải tiếp tục đấu tranh giữa việc chết để được là chính
mình hay sẽ sống lâu với cuộc đời của kẻ khác. Tình tiết cu Tị chết, hồn bay lên nóc nhà
lúc này có ý nghĩa đẩy nhanh diễn biến kịch khiến xung đột kịch được giải quyết, nhấn
mạnh được sự kiên quyết, dứt khoát của hồn Trương Ba, đảm bảo được tính tự nhiên,
hợp lí của tác phẩm. Trong tình huống thử thách, hồn Trương Ba đã nhìn thấy bao nhiêu
phiền toái khác nên kiên quyết từ chối, không chấp nhận cái cảnh sống giả tạo, mà theo
ông là chỉ có lợi cho đám chức sắc, tức lão lí trưởng và đám trương tuần. Ông không
chấp nhận cái cuộc sống mà theo ông là còn khổ hơn là cái chết. Ông hiểu rõ rằng“Đâu
phải cái sai nào cũng sửa được” vì “Có những cái sai không sửa được. Chắp vá gượng
ép chỉ càng làm sai thêm” nên Trương Ba kêu gọi Đế Thích hãy sửa sai bằng một việc
làm đúng, đó là trả lại linh hồn cho cu Tị. Đế Thích tiếp tục thuyết phục hồn Trương Ba
với nhận xét: “Con người hạ giới các ông thật kì lạ”, thậm chí Đế Thích còn nói cho
Trương Ba hiểu “Ngọc Hoàng còn không được sống là chính mình”, thì Trương Ba có gì
phải băn khoăn về cuộc sống hiện tại. Nhưng hồn Trương Ba đã dứt khoát với sự lựa
chọn của mình để cuối cùng Đế Thích vẫn đành thuận theo đề nghị của Trương Ba. Kết
thúc vở kịch Trương Ba chết thực sự cả hồn lẫn xác và cu Tị được sống lại, cùng cái Gái
ăn na trong vườn. Cuộc sống lại tiếp tục hành trình vô tận của nó.
b. Đánh giá về sự lựa chọn của Trương Ba và ý nghĩa của đoạn thoại
11

* Đây là sự lựa chọn nhân văn


Quyết định dứt khoát xin tiên cờ Đế Thích cho cu Tị được sống lại, cho mình
được chết hẳn chứ không nhập hồn vào thân thể ai nữa của Trương Ba là kết quả của một
quá trình nhận thức tỉnh táo, sáng suốt. Trong trang sách hay trên sân khấu, lời lẽ của
Hồn Trương Ba đều làm xúc động lòng người bởi nó rất nhân văn. Nhân văn ở chỗ:
+ Lựa chọn ấy xuất phát từ khát vọng sống cao đẹp, khát vọng được sống đúng là
mình mình toàn vẹn cả tâm hồn và thể xác.
+ Đặc biệt, tình thương với mẹ con cu Tị càng khiến hồn Trương Ba đi đến quyết
định dứt khoát. Sự lựa chọn của ông không chỉ giải thoát được nghịch cảnh mà còn cho
thấy Trương Ba là người nhân hậu, luôn biết nghĩ cho người khác. Từ đó, vở kịch thắp
lên ngọn lửa ấm áp của tình người.
+ Kết thúc tác phẩm hồn Trương Ba được giải thoát, cát bụi trở về với cát bụi
nhưng ông vẫn cao khiết và trở nên bất tử trong lòng người thân. Ông chết để gieo mầm
cho cái đẹp, cái thiện mãi sinh sôi, nảy nở giữa cõi đời.

* Đoạn đối thoại thể hiện quan niệm, triết lí về đời sống và con người 
- Qua màn đối thoại giữa Trương ba và Đế Thích, tác giả gửi gắm nhiều thông điệp
vừa trực tiếp vừa gián tiếp, vừa mạnh mẽ, quyết liệt vừa kín đáo và sâu sắc về cuộc sống
và con người:
+ Qua lời thoại của hồn Trương Ba “Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”, Lưu Quang
Vũ muốn gửi gắm vào đó thông điệp: Con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải
hài hoà. Cuộc sống của con người chỉ thực sự hạnh phúc khi được sống đúng là mình, hài
hòa giữa linh hồn và thể xác. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá thì cuộc sống ấy thật
vô nghĩa. Và không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thể xác phàm tục tội lỗi.
Ngược lại, khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng
đỗ lỗi cho thân xác và tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn vì thể xác
chính là cái bình chứa đựng linh hồn. Tuy nhiên, sống thực sự cho ra con người, được
sống đúng với mình quả không hề dễ dàng, đơn giản vì đến cả Ngọc Hoàng cũng khó có
thể được tuyệt đối là mình.
+ Cũng thông qua sự lựa chọn của hồn Trương Ba, Lưu Quang Vũ đề cao, ca ngợi
vẻ đẹp tâm hồn của con người trong cuộc đấu tranh với cái dung tục, giả tạo để bảo vệ
quyền được sống toàn vẹn, hợp tự nhiên và để hoàn thiện nhân cách vươn tới sự cao
khiết về linh hồn và khỏe mạnh về thể xác. Chất thơ của kịch Lưu Quang Vũ cũng được
bộc lộ ở đây.
+ Tác giả Lưu Quang Vũ còn muốn nói đến một chuẩn mực trong đánh giá về con
người là con người trong mối quan hệ với những người xung quanh. Con người sống
không chỉ nghĩ đến mình mà còn phải biết sống vì người khác để tâm hồn mình thanh
thản và để cho cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn.
+ Hơn nữa, với tinh thần chiến đấu thẳng thắn của một nghệ sĩ hăng hái tham dự
vào tiến trình cải cách xã hội, trong vở kịch này nói chung và đoạn kết nói riêng, LQV
muốn góp phần phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ. Thứ nhất,
con người đang có nguy cơ chạy theo những ham muốn tầm thường về vật chất, chỉ thích
hường thụ đến nỗi trở nên phàm phu, thô thiển. Nói như Chế Lan Viên trong một bài thơ
đã từng cảnh báo “muốn nuôi sống xác thân đem làm thịt linh hồn”. Thứ hai, lấy cớ tâm
hồn là quý, đời sống tinh thần là đáng trọng mà chẳng chăm lo thích đáng đến sinh hoạt
vật chất, không phấn đấu vì hạnh phúc toàn vẹn. Thực chất đây là biểu hiện của chủ
12

nghĩa duy tâm chủ quan, của sự lười biếng, không tưởng. Cả hai quan niệm, cách sống
trên đều cực đoan, đáng phê phán.
+ Ngoài ra, vở kịch còn đề cập đến một vấn đề cũng không kém phần bức xúc, đó
là tình trạng con người phải sống giả, không dám và cũng không được sống là bản thân
mình. Đấy là nguy cơ đẩy con người đến chỗ bị tha hóa do danh và lợi.
III. KẾT LUẬN
1. Nghệ thuật:
Tài năng kịch của Lưu Quang Vũ thể hiện trên nhiều phương diện, tiêu biểu nhất
là tài xây dựng tình huống, xung đột kịch, nghệ thuật dựng cảnh và dựng đối thoại. Kịch
tính căng ra trong những xung đột, những mâu thuẫn bên ngoài và bên trong nhân vật.
Ngôn ngữ hành động và ngôn ngữ nội tâm được diễn tả sống động, lời thoại thấm đẫm
triết lí nhân sinh. Nhà văn tạo được cảnh xác và hồn phân thân đối đáp đầy sáng tạo.
Hành động kịch góp phần quan trọng thể hiện tính cách nhân vật. Cách giải quyết xung
đột kịch bất ngờ và đậm chất nhân văn.

2. Nội dung:
Đoạn trích đã thể hiện một cách sâu sắc tấn bi kịch đầy đau đớn của hồn Trương
Ba. Tài năng xuất sắc của nhà soạn kịch Lưu Quang Vũ khiến vở kịch có sức lôi cuốn
mạnh mẽ, gửi tới người đọc những thông điệp sâu sắc về cuộc sống. Những triết lí về
cuộc đời, về con người, về xã hội... đặt ra trong vở kịch luôn có ý nghĩa với mọi người,
mọi thời. Những câu hỏi mà ông đặt ra trong vở kịch như “Liệu ta đã được sống là chính
mình hay chưa? Hay đang cố sống cho vừa lòng người khác? Làm thế nào để dung hòa
hai phần thể xác và linh hồn ấy?” vẫn mãi còn trăn trở lòng người.
Lưu Quang Vũ đã mãi mãi ra đi trong một tai nạn giao thông đầy thương tâm.
Khoảng trống mà nhà viết kịch tài ba ấy để lại trong nền sân khấu kịch trường Việt Nam
là không thể lấp đầy. Vở kịch cuối cùng được Lưu Quang Vũ đặt tên là Chim sâm cầm
không chết. Với tất cả những gì để lại cho đời thì mãi mãi Lưu Quang Vũ thực sự không
chết.

Đề bài số 2: Phân tích đoạn kết vở kịch “Hồn Trương Ba da hàng thịt” của Lưu Quang
Vũ.

I. MỞ BÀI

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm và vấn đề cần phân tích (TK bài phân tích tác phẩm).

II. THÂN BÀI

1. Giới thiệu tình huống kịch (Tóm lược nội dung vở kịch và bi kịch của hồn Trương Ba các
cuộc đối thoại)
13

- Trương Ba là người nhân hậu, thanh cao, trong sạch phải trú nhờ trong xác hàng thịt
dung tục, thô lỗ → rơi vào bi kịch (tha hóa, người thân xa lánh, bị sách nhiễu, con hư không
dạy được..) → đau khổ -> quyết định trả xác để được “ là tôi toàn vẹn”.

2. Phân tích đoạn kết

Đoạn kết có thể chia thành hai 2 cảnh:

2.1. Cảnh 1: Trương Ba hiện giữa màu xanh cây vườn để trò chuyện với vợ

* Mô tả lại cảnh 1:

- Kết thúc vở kịch, Trương Ba chết, nhưng hồn ông vẫn còn đó giữa màu xanh cây
vườn. Vợ ông gọi “Ông ở đâu? Ông ở đâu” và hồn Trương Ba chập chờn xuất hiện. Ông đã
nói với vợ mình những lời tâm huyết, hàm chứa ý nghĩa “Tôi đây bà ạ. Tôi ở liền ngay bên bà
đây, ngay trên bậc cửa nhà ta…Không phải mượn thân ai cả, tôi vẫn ở đây, trong vườn cây
nhà ta, trong những điều tốt lành của cuộc đời, trong mỗi trái cây cái Gái nâng niu…”.

* Ý nghĩa cảnh 1:

- Cái kết này khẳng định một chân lý rằng con người ta không thể sống mà hồn một
đằng, xác một nẻo được, sống hoàn toàn, sống thật sự chỉ khi giữa xác và hồn có sự thống nhất
biện chứng với nhau.

- Trương Ba chết là để cuộc đời trở về với đúng quy luật tự nhiên. Ông chết nhưng đó
cũng chính là một cách để được trở về đúng là mình, được "sống" một cách thực sự.

+ Khi sống trong xác hàng thịt ông bi người thân xa lánh (Nêu ngắn gọn đối thoại với
người thân)

+ Khi chết ông được trở về là chính mình, là một người chồng, người cha, người ông
hiền lành, sống trong sạch, thanh cao, giỏi chơi cờ, khéo léo và được người thân trân trọng,
yêu quý như trước. (Vợ trò chuyện với ông, cháu gái nhắc đến ông với tình cảm yêu thương,
trân trọng) .
- Chi tiết Trương Ba nhường lại cơ hội sống cho cu Tị cũng lại thể hiện một vẻ đẹp đạo
đức khác ở con người ông ấy là vẻ đẹp của tấm lòng cao thượng, bao dung, biết sống vì người
khác.

- Kết thúc ấy thể hiện chiến thắng của cái chân, thiện, mĩ, của các giá trị nhân văn trong
cuộc đời. Trương Ba chết cả hồn lẫn xác, cát bụi trở về với cát bụi nhưng ông nhận được
kết thúc có hậu, ông vẫn cao khiết và trở nên bất tử trong lòng người thân.

2.1. Cảnh 2: Cu Tị và cái Gái ăn na trong vườn

* Mô tả lại cảnh 2:
14

- Trong khu vườn lung linh ánh sáng, Cu Tị cùng ăn trái na với cái Gái trong vườn, cái
Gái nói “Cây na này ông nội tớ trồng đấy”. Sau đó, cái Gái lấy hạt na vùi xuống đất “Cho nó
mọc thành cây mới. Ông nội tớ bảo vậy. Những cây sẽ nối nhau mà lớn khôn. Mãi mãi…”

* Ý nghĩa của cảnh 2:

- Trương Ba nhường mạng sống cho cu Tị là thuận theo tự nhiên, giống như một chiếc
lá vàng rụng xuống để mầm non mọc lên.

- Trương Ba chết vì ông tin và muốn khẳng định những điều tốt đẹp sẽ còn mãi trên đời.
Hạt na mà cái Gái gieo xuống chính là những điều tốt đẹp mà Trương Ba để lại cho cuộc đời.
Những cây sẽ nối nhau mà lớn khôn mãi mãi cũng giống như cái đẹp sẽ tồn tại mãi
trong cuộc đời. Trương Ba chết là để gieo mầm cho cái đẹp, cái thiện mãi sinh sôi, nảy nở
giữa cõi đời. Ông không chỉ để lại những ký ức tốt đẹp mà còn là một tấm gương đạo đức
sáng ngời cho con cháu, gieo vào lòng thế hệ sau những tư tưởng tốt đẹp để những giá trị tốt
đẹp ấy tồn tại mãi về sau này.
III. KẾT LUẬN

- Đoạn kết trong một vở kịch thương có vai trò mở nút nhưng đoạn kết trong tác phẩm
này lại là một khúc ca trữ tình, vừa có tính gợi mở, vừa thấm đẫm chất thơ và tình cảm. Đoạn
kết thể hiện giá trị nhân văn sâu sắc và là kết thúc đầy đầy ý nghĩa, ca ngợi sự sống, ca ngợi
những giá trị nhân văn mà con người luôn vươn tới. Lưu Quang Vũ đã khắc sâu trong lòng
chúng ta bài học của sự sống, của đạo đức và nhân cách, học được ý nghĩa của sự sống và cái
chết khiến chúng ta tràn đầy niềm tin vào sự bất tử của cái đẹp, tin rằng cái đẹp sẽ mãi tồn tại,
sinh sôi giữa cuộc đời.

Đề số 3: Có ý kiến cho rằng: “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là hành trình đi tìm cái
tôi đã mất của nhân vật chính”. Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Phân tích
đoạn trích của vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” ( Lưu Quang Vũ) để làm rõ
ý kiến trên.

I. MỞ BÀI

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm


- Dẫn vào ý kiến

II. THÂN BÀI

1. Giải thích ý kiến


15

- Cái tôi là nét riêng, cá tính ở mỗi người.

- Cái tôi đã mất: Có sự thay đổi khiến con người không được sống đúng với cái
riêng của mình, không được sống đúng là mình.

- Hành trình đi tìm cái tôi đã mất: Quá trình con người tự tìm lại giá trị bản thân
mình để trở về đúng là mình.

=> Đoạn trích là hành trình nhân vật Hồn Trương Ba tìm lại con người đích thực
của mình sau thời gian sống vay mượn xác anh hàng thịt bằng cách kiên quyết trả xác anh
hàng thịt, xin trả lại sự sống cho cu Tị còn mình chết hẳn.

2. Phân tích – chứng minh

2.1. Cái tôi vốn có của Trương Ba và đã mất của Trương Ba

- Giới thiệu ngắn gọn về nhân vật Hồn Trương Ba khi chưa nhập xác hàng thịt:
Trương Ba là một ông lão làm vườn 60 tuổi, có tài đánh cờ, giỏi làm vương, có tâm hồn
thanh cao trong sạch. Do tắc trách Nam Tào, Bắc Đẩu bắt chết nhầm. Để sửa sai, họ cho
hồn Trương Ba nhập vào xác anh hàng thịt mới chết.

2.2. Bi kịch khi bị mất cái tôi: Tình cảnh trớ trêu của Hồn Trương Ba khi nhập xác
hàng thịt

- Đối thoại giữa hồn và xác: Bị tha hóa và bị xác hàng thịt lấn lướt, sỉ nhục

- Đối thoại giữa hồn Trương Ba và người thân: Làm người thân đau khổ và bị người thân
xa lánh

=> Khi không được sống là mình, hồn Trương Ba rơi vào bi kịch

2.3. Hành trình đi tìm lại “cái tôi đã mất” của Trương Ba

- Đối thoại với Tiên Đế Thích: Lựa chọn cái chết để trở về là chính mình

2.4. Niềm vui, hạnh phúc của Hồn Trương Ba khi tìm lại “cái tôi đã mất”

- Đoạn kết

3. Bình luận ý kiến

- Khẳng định ý kiến là đúng. Từ ý kiến trên cho thấy quan niệm sống tích cực, đậm tính
nhân văn của tác giả.

- Khẳng định ngòi bút tài hoa, nghệ thuật xây dựng nhân vật rất thành công của tác giả.

- Quá trình tìm lại cái tôi của hồn Trương Ba để lại bao nhiêu ý nghĩa triết lí và bài học
về cuộc sống và con người.
16

III. KẾT LUẬN

- Khẳng định vấn đề nghị luận

- Nêu cảm nghĩ của bản thân

Đề số 4: THÔNG ĐIỆP “KHÔNG THỂ SỐNG BÊN TRONG MỘT ĐĂNG, BÊN
NGOÀI MỘT NẺO
a. Mở bài

– Giới thiệu tác giả (con người và phong cách)

– Giới thiệu tác phẩm (giá trị của tác phẩm)

– Tác phẩm có rất nhiều lời thoại mang tính triết lý, trong đó lời nói của Trương Ba
“Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi trọn vẹn”
đã gợi lên tình huống éo le của nhân vật.

b. Thân bài

* Giới thiệu chung

– Hồn Trương Ba, da hàng thịt là một trong những truyện hay trong kho tàng
truyện cổ tích Việt Nam. Lưu Quang Vũ đã dựa vào cốt truyện này để viết thành vở kịch
nói cùng tên vào năm 1981 và được trình diễn lần đầu tiên vào năm 1984.
– Vở kịch đặt ra vấn đề, đó là bi kịch sống nhờ của Hồn Trương Ba trong xác anh hàng
thịt.
– Lời thoại trên là lời của Hồn Trương Ba nói với Đế Thích, có ý nghĩa triết lý về sự
thống nhất, hài hòa giữa hồn và xác trong một con người. b. Phân tích tình huống éo le
của nhân vật Hồn Trương Ba trong xác anh hàng thịt

+ Tình huống éo le, bi đát – Nguyên nhân dẫn đến tình huống éo le : việc gạch tên
chết người vô trách nhiệm của quan nhà trời và “thiện ý sửa sai” của Đế Thích. – Nỗi khổ
của Hồn Trương Ba khi phải sống nhờ vào xác anh hàng thịt : vợ con nghi ngờ, xa lánh ;
do sự xui khiến của thân xác hàng thịt, Hồn Trương Ba có những hành vi, cử chỉ thô lỗ,
vụng về.
– Hồn Trương Ba cương quyết không sống trong xác anh hàng thịt. Khát vọng giải thoát
khỏi thân xác người khác khiến Hồn Trương Ba gọi Đế Thích lên để nói rõ bi kịch sống
nhờ, sống không đúng mình.
+ Ý nghĩa của lời thoại
17

– Lời thoại này thể hiện rõ quan niệm về hạnh phúc của nhà viết kịch. Hồn Trương
Ba đã có một thân xác để tồn tại, để tiếp tục sống, ngỡ đó là hạnh phúc. Nhưng hóa ra
hạnh phúc ở đời không phải là được sống mà sống như thế nào.

– Bức thông điệp mà Lưu Quang Vũ muốn nhắn gửi qua bi kịch của Trương Ba:
con người phải được sống như chính mình, sống hòa hợp giữa hồn và xác – tâm hồn
trong sạch như thân xác được khỏe mạnh. “Tôi muốn là tôi toàn vẹn”, đấy mới là hạnh
phúc.
* Đánh giá

– Tình huống éo le của vở kịch là nét đặc sắc tạo nên sự khác biệt giữa truyện dân
gian và vở kịch.
– Thông qua lời thoại của nhân vật, Lưu Quang Vũ đã thể hiện quan niệm sống giàu giá
trị nhân văn.
– Nhà văn đã dựng lên được những kịch tính thông qua cử chỉ, hành động, đặc biệt là lời
thoại của nhân vật sinh động có tầm khái quát cao.

c Kết luận

– Lời thoại của Trương Ba “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi
muốn được là tôi trọn vẹn” là một câu nói giàu tính triết lý, cũng lại là bi kịch cho số
phận của một con người.

– Khẳng định tài năng của Lưu Quang Vũ và sức sống của tác phẩm.

You might also like