Professional Documents
Culture Documents
TIỂU LUẬN KNLVN
TIỂU LUẬN KNLVN
----oOo----
NHÓM : 1
LỚP MHP:422000357510
LỜI MỞ ĐẦU
Khảo cứu nhiều dòng họ người Tày ở Cao Bằng cho thấy, nhiều dòng họ người Tày
tại đây có nguồn gốc khác nhau, có thể là người Tày cổ trước đây còn gọi là người
Thổ (cư dân bản địa đã sinh sống từ lâu đời), có thể là Tày lưu quan (từ nơi khác
đến làm quan và ở lại) cũng có thể là người Kinh từ miền xuôi lên, người Hoa từ
Trung Quốc sang,….Điều đó chứng tỏ rằng, người Tày ngày nay có nhiều nguồn
gốc hoà hợp, cụ thể như: dòng họ Bế đều khai là dân tộc Tày, nhưng cụ tổ là người
Thanh Hoá lên Cao Bằng dạy chữ Nho rồi bén duyên với con gái dân tộc Tày và ở
rể tại Cao Bằng. Theo phong tục tập quán của người Tày, người chồng đến ăn
nghiệp bên vợ, con cái sinh ra phải mang họ vợ và họ của người chồng thường chỉ
còn một chữ đệm giữa họ và tên, con cái được xác định là người dân tộc Tày. Gia
phả các dòng họ Thân dân tộc Tày ở xã Bình Long, huyện Hoà An ghi lại, họ vốn là
người Nam Định, Hải Dương, Bắc Giang…
Ngôn ngữ của dân tộc Tày là tiếng Tày. Tiếng Tày có vị trí quan trọng và được sử
dụng phổ biến trong đời sống hàng ngày của cư dân bản xứ. Song để biểu thị các
khái niệm xã hội, chính trị, pháp lý, khoa học…thì tiếng Tày phải vay mượn từ
tiếng Hán và đặc biệt từ tiếng phổ thông là tiếng Việt. Sự vay mượn được hình
thành trong thực tiễn đời sống nên phù hợp với quy luật, điều đó đã làm cho tiếng
Tày trở nên phong phú, có sức sống mãnh liệt, bền bỉ trở thành công cụ giao tiếp
trong cộng đồng cư dân người Tày xưa và nay.
Ngày nay truyền thống văn hóa dân gian luôn được bảo tồn, khai thác và phát huy
trong sản xuất và phát triển kinh tế xã hội, cùng với các tộc người khác trong tỉnh
3
người Tày góp phần to lớn của mình trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và
phát triển quê hương Yên Bái ngày một giàu đẹp.
MỤC LỤC
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ
DANH MỤC BẢNG BIỂU HÌNH ẢNH
LỜI NÓI ĐẦU
MỤC LỤC
I. NGUỒN GỐC LỊCH SỬ, SỐ LƯỢNG VÀ ĐỊA BÀN CƯ TRÚ
II. VĂN HOÁ VẬT CHẤT
1)Nhà ở
a) Cấu trúc của ngôi nhà
b)Những tập quán, tín ngưỡng liên quan đến dựng nhà mới
2)Trang phục
3) Văn hoá ẩm thực
4)Làng bản
5)Tập quán hôn nhân
6)Sinh đẻ
7)Nghi lễ tang ma
8)Quan niệm, tín ngưỡng
9)Văn hoá dân gian
10)Lễ hội tranh đầu pháo.......................................................................................11
11)Phong tục tập quán
12)Nghề nghiệp
Tình yêu nam nữ được thể hiện qua các dịp hội hè hàng năm như Lồng Tồng (lễ
xuống đồng), các buổi chợ phiên, những ngày cưới của bạn bè...thể hiện qua những
bài hát đối đáp như lượn, phong slư... Trước cách mạng tháng 8 ở Thái Nguyên còn
tồn tại tục “trộm vợ” khi bố mẹ khước từ tình yêu của đôi trai gái, hay tục “ngủ
chết” phản kháng bố mẹ phản đối tình yêu của con.
Tồn tại chế độ một vợ một chồng từ lâu đời. Hiện tượng ngoại tình, hoang thai, ly
dị cũng rất ít xảy ra. Chồng chết, người phụ nữ phải ở lại chăm sóc bố mẹ chồng
một thời gian, sau 3 năm có thể đi lấy chồng. Người đàn ông được phép lấy vợ mới
sau khi tang vợ được 3 năm.
Nghi lễ cưới hỏi:
9
Uớm hỏi, lễ nộp đồ thách cưới, lễ báo cưới và lễ cưới chính thức. Đặc biệt trong lễ
cưới chính thức, nhà trai nhất thiết phải có lễ vật là một số tấm vải cho mẹ đẻ của
vợ để trả công nuôi dưỡng, gọi là “vải ướt khô” khoảng 48 vuông kèm theo môt
hoặc hai đồng bạc trắng.
6. Sinh đẻ:
Khi người vợ có thai, người chồng kiêng chọc tiết lợn, kiêng đi viếng đám ma. Phụ
nữ Tày đẻ ngồi hoặc nằm trong buồng. Khi đứa trẻ ra đời dùng dao cắt rốn, cho
nhau đứa trẻ vào ống nứa dấu ở trong rừng không cho người lạ nhìn thấy. Sau khi
sinh người mẹ được chăm sóc và kiêng kỵ chu đáo, quá trình ở cữ người phụ nữ chỉ
ở trong buồng, kiêng tắm gội, không gần bếp lửa, nơi thờ cúng linh thiêng đặc biệt
là bàn thờ tổ tiên. Sản phụ chỉ được ra ngoài khi con so được 3 tháng, con rạ một
tháng. Khi đứa trẻ ra đời trước cửa nhà treo một cành lá xanh để báo cho người lạ
biết không được vào nhà.
7. Nghi lễ tang ma:
Gồm nhiều bước phức tạp
Sau khi tắt thở người chết được tắm rửa, mặc quần áo mới, liệm 7 lớp (nam), 9 lớp
(nữ). Thi hài được đặt ở gian giữa. Thày tào làm lễ nhập quan, làm lễ cúng dâng đèn
cho người chết biết đường đi. Kể từ lễ nhập quan, con cháu phải ăn chay, các chân
dường tháo rời khỏi mộng, vợ chồng phải cách ly, con trai không được cắt tóc.
Trước mỗi bữa ăn gia đình phải có mâm cơm để ở dưới chân quan tài mời linh hồn
người chết về ăn. Thầy tào thực hiện một số nghi lễ cúng phức tạp như: triệu tướng,
phá ngục, khai quan, rửa tội, tống phỉ... sau đó đưa người chết ra đồng lên rừng
chôn. Sau 3 năm người Tày làm lễ hết tang, linh hồn người chết được nhập vào bàn
thờ tổ tiên.
Thường tổ chức ở những bãi đất trống, rộng hoặc trên cánh đồng vừa thu hoạch.
Thời gian thưởng tổ chức vào sau tết, sau vụ mùa bội thu, bà con dân tộc thường tổ
chức các trò chơi dân gian: tung còn, rước rồng, múa kỳ lân, sư tử, tranh đầu pháo
thăng thiên, hát sli lượn và có các ông tào, bà then đọc lời cầu nguyện…
Hội Thanh Minh
Được tổ chức tại xã Phúc Sen, huyện Quảng Uyên. Hội do dân tộc Nùng An khởi
xướng và được tổ chức vào ngày thanh minh hàng năm có ý nghĩa cầu mùa cho bản,
cầu phúc cho lứa đôi. Được tổ chức vào ngày mùng 3 tháng 3 âm lịch, là ngày cả
nhà hoặc cả họ đi sửa sang lại phần mộ của tổ tiên. Tảo mộ thể hiện lòng tưởng nhớ
biết ơn công đức của người đã mất. Vì vậy, con cháu dù ở xa đều thu xếp để về tảo
mộ tổ tiên.
13
Theo tiếng Tày có nghĩa là tết Nguyên đán nhỏ. Đồng bào ăn tết vào cuối tháng
giêng âm lịch. Đây chính là cái tết tiễn đưa tháng giêng.
Tết Đoan Ngọ
Hình 8: Rộn ràng đón Tết Đoan Ngọ cùng đồng bào Tày
14
Tổ chức vào mùng 5 tháng 5 âm lịch, còn gọi là tết giết sâu bọ. Rượu nếp, bánh gio
là những món ăn tiêu biểu, đặc biệt là các loại hoa quả đầu mùa. Cúng tổ tiên bằng
xôi ngũ sắc (người Tày Định Hóa): 5 màu của xôi là tượng trưng cho ngũ hành.
Màu vàng là màu của Thổ, màu xanh là màu của Mộc, đỏ là màu của Hỏa, trắng là
màu của Kim, tím thẫm là màu của Thủy.
Tết Rằm tháng bảy
Được tổ chức vào 15 tháng 7 âm lịch, là cái tết lớn thứ hai trong năm. Ngoài mục
đích cúng tổ tiên, người Tày, Nùng còn coi đây là dịp cúng các vong hồn người
không ai thờ cúng đề hồn khỏi quấy rầy, xui khiến nên những điều không hay. Tết
rằm tháng 7 cũng là dịp để các đôi vợ chồng cùng con cái về thắp hương và về thăm
bên ngoại (tiếng dân tộc gọi là Pây tái). Lễ vật sang bên ngoại thường là một đến
hai con vịt, rượu, bánh dợm, bánh gai, hoa quả...
Tết Nguyên đán;
Hình 11: Độc đáo Tết cơm mới của người Tày
* Ngoài ra còn có các hoạt động múa sư tử, múa vơ, kéo co... Đặc biệt, đêm về,
nam nữ thanh niên thi hát lượn đối đáp suốt canh dài...
Lễ cấp sắc cho Then của người Tày, tỉnh Lạng Sơn luôn có sức hấp dẫn không chỉ
đối với đồng bào dân tộc Tày, vốn chiếm gần 36% dân số tỉnh này mà còn là phong
tục thu hút sự quan tâm của những dân tộc anh em khác trên vùng cao các tỉnh phía
Bắc.
Nhiều năm nay, vào dịp Tết đến, Xuân về cũng là dịp diễn ra Lễ cấp sắc, vùng đất
này lại trở nên nhộn nhịp khác thường bởi khách du lịch trong và ngoài nước đến
đây chiêm ngưỡng và thưởng thức một phong tục đẹp, đậm đà bản sắc của dân tộc.
Tục cấp sắc cho Then đã lưu truyền trong đời sống người Tày qua nhiều thế hệ và
có ý nghĩa to lớn trong việc bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống, gắn kết
16
cộng đồng, cũng như góp phần cho vườn hoa văn hóa của cộng đồng các dân tộc
Việt Nam thêm rực rỡ sắc màu.
Để một người hành nghề Then được chứng nhận đủ khả năng tiến hành nghi lễ cúng
bái, cầu an trong đời sống tâm linh của cộng đồng thì nghi thức cấp sắc lần đầu là
một trong những nghi lễ chính của đại lễ mở hào quang cho người làm Then.
Để tiến tới Lễ cấp sắc theo đúng như phong tục, tập quán, nhà làm Then hoặc cả họ
hàng phải chọn ngày lành tháng tốt, thống nhất nghi lễ với thầy Tào (người có
quyền uy cao hơn người làm Then), phân công các công việc cần thiết cho buổi lễ.
Bản thân người thụ Lễ hành nghề Then phải giữ gìn sạch sẽ, kiêng cữ nhiều điều,
bảo vệ sức khỏe tốt từ 2-3 tuần lễ.
12. Nghề nghiệp
Kinh tế chính của người Tày ở Yên Bái là nền kinh tế nông nghiệp, đồng bào làm
ruộng nước kết hợp với săn bắt và chăn nuôi. Với truyền thống lâu đời cùng với sự
cần cù, sáng tạo trong lao động và tiếp thu khoa học kỹ thuật mới rất nhanh nên
nông nghiệp của người Tày phát triển tương đối cao. Cùng với việc thâm canh tốt 2
vụ lúa, đưa giống mới vào sản xuất, tăng vụ ngô đông, đồng bào Tày phát triển
mạnh chăn nuôi gia súc, gia cầm; tích cực phát triển nghề rừng và trồng mới các
loại cây công nghiệp như: chè, quế, sắn.
Nghề thủ công truyền thống như trồng bông dệt vải đã phát triển từ rất sớm, nghề
nuôi tằm để lấy tơ dệt dây dao Slaicha cũng có mặt trong văn hoá của người Tày nơi
đây từ lâu. Hoa văn dệt trên vải thổ cẩm phong phú, đa dạng, riêng dây dao gồm hai
mươi bảy hình tượng, mỗi hình gắn với một truyện dân gian có nội dung giáo dục
tình người sâu sắc. Nghề làm giấy dó, nghề đan lát, nghề mộc, nghề rèn, nghề đục
đá phát triển khá cao.
13. Những kiêng kỵ khi đến các bản làng dân tộc
Người dân bản làng ở vùng núi tây bắc rất thân thiện, cởi mở nhưng có nhiều phong
tục cần kiêng kỵ. Nếu hiểu được những phong tục, tập quán của họ, chuyến đi của
bạn càng thêm thú vị.
Trang phục
Khi vào thăm bản làng dân tộc ở vùng núi phía Bắc, bạn không nên mặc loại lanh
trắng chưa nhuộm vì người dân tộc cho đó là màu sắc của tang lễ.
Với những người dân tộc Tày cũng phải chú ý những điều tương tự. Vào ngày cúng
tế, họ thường buộc chùm lá xanh ở trên cột cao hoặc đan phên mắt cáo, buộc vào đó
những xương hàm lợn, trâu bò để người lạ biết mà tránh.
17
Nếu vô tình lạc vào mà cầm nón, che ô, đeo ba lô... bạn sẽ bị phạt bằng cách nộp đủ
số lễ vật để làm lại lễ cúng làng. Để cầu mong được miễn phạt hoặc giảm, bạn phải
bỏ mũ, ba lô... xuống.
Bạn không được huýt sáo khi dạo chơi ở bản bởi những người dân tộc quan niệm
việc huýt sáo là gọi ma quỷ về.
Gặp những đứa trẻ con trong bản làng, đừng nên xoa đầu, hôn đầu trẻ bởi việc đó
được cho là sẽ làm cho trẻ hoảng sợ, dễ bị đau ốm.
Trước khi đến nhà người dân, việc đầu tiên phải quan sát xem ở trước cửa nhà, ở
đầu cầu thang có cắm hoặc treo một cành lá xanh, một cành gai, tấm phên đan hình
mắt cáo hay không. Nếu thấy những dấu hiệu đó, đừng nên bước chân vào nhà vì đó
là dấu hiệu kiêng kỵ không muốn người lạ vào.
Nếu nhà sàn mà nhà lại có hai cầu thang thì cần quan sát xem đi cầu thang nào. Nếu
đi cùng chủ nhà hoặc có cán bộ cơ sở đi cùng thì nên để cho chủ nhà hoặc cán bộ cơ
sở lên trước.
Thường thì gian giữa là gian thờ cúng, khách không được phép ngồi. Với người dân
tộc Mông, ghế đầu bàn dành cho cha mẹ, dù cho cha mẹ đã khuất, khách cũng
không được ngồi vào chiếc ghế đó, không quay lưng vào nơi thờ. Bạn nên theo
hướng dẫn của gia chủ.
Bếp lửa vừa là nơi nấu nướng vừa là nơi tiếp khách của đồng bào dân tộc, đồng thời
là nơi thiêng liêng thờ vua bếp, thần lửa. Bạn không đặt chân lên hoặc làm xê địch
hòn đá kê làm kiềng, vì theo quan niệm của một số dân tộc, các hòn đá này là nơi
trú ngụ của thần lửa.
Không nướng cơm đồ (xôi) vì nếu cơm đã đồ mà đem nướng, người ta cho rằng
năm đó sẽ xảy ra mất mùa.
Trong ngôi nhà đồng bào dân tộc, cửa và cây cột chính là vị trí linh thiêng thờ thần
cửa, thần cột cái. Vì vậy không nên ngồi bậu cửa hoặc treo mũ nón và tựa lưng vào
18
cột cái. Nếu chủ nhà chưa mời không nên ngồi ngay vào đệm vì thường dành cho bề
trên và khách quý.
Chào hỏi
Bạn nên chủ động chào hỏi chủ nhà bằng thái độ chân thành. Khi chia tay có thể bắt
tay, không cần nói lời tạm biệt nhưng hãy nhớ luôn nở nụ cười thân thiện
Khi ngủ
Bạn cần phải lưu ý chỗ ngủ theo sự chỉ dẫn của gia chủ. Không nằm để chân về phía
bàn thờ. Người Tày kiêng không mắc màn màu trắng trong nhà.
Trong ăn uống của gia đình, người Tày cũng có những kiêng kỵ, chẳng hạn: Người
đẻ kiêng kỵ các loại thịt trâu, bò, ngựa, cá không vảy, cá chép có ria và các loại thịt
thú rừng. Trẻ em kiêng ăn quả cật gà (mác lừm) vì họ cho rằng ăn quả cật sẽ dốt nát,
hay quên; kiêng ăn chân gà vì nếu ăn vào thì viết chữ sẽ xấu như gà bới; kiêng ăn
móng vì nếu ăn thì không đi qua cầu được; kiêng chan canh ốc vì sợ tròn như con
ốc. Trẻ em và phụ nữ không nói chuyện khi ăn vì sợ mất vệ sinh và không ý tứ.
Trong bữa cơm thường ngày của gia đình người Tày thì khi sới cơm xong phải được
đậy vung để giữ cơm nóng. Đôi đũa cả để trong nồi, quay ra phía sau tuyệt đối
không được quay vào mâm hay quay vào phía người đang ngồi ăn vì như thế sẽ làm
cho người ăn bị ngẹn hay đau bụng. Khi ăn, không ai được gõ đũa hay gõ đũa cả vì
như thế là gọi ma….
Hình 1: Tái hiện nghi lễ Đám cưới của người Tày qua ngôn ngữ Then............8
Hình 2: Đám tang người Tày ở Bắc Cạn....................................................9
Hình 3: Đặc sắc nghệ thuật hát Then, đàn Tính của người Tày ở Cao Bằng..10