You are on page 1of 20

34. Trình bày các phương thức cấp phát các khoản chi của NSNN.

Nêu rõ ưu,
nhược điểm và điều kiện áp dụng của mỗi phương pháp.
Các phương thức chi trả cụ thể như sau:
(1) Tạm ứng:
Tạm ứng là việc chi trả các khoản chi NSNN cho đơn vị sử dụng NSNN trong trường
hợp khoản chi NSNN của đơn vị sử dụng NSNN chưa có đủ hoá đơn chứng từ theo
quy định do công việc chưa hoàn thành.
Nội dung tạm ứng:
- Tạm ứng bằng tiền mặt: nội dung tạm ứng bằng tiền mặt cho đơn vị sử dụng
NSNN bao gồm các khoản chi của đơn vị thuộc nội dung được phép chi bằng
tiền mặt quy định về quản lý thu, chi bằng tiền mặt qua hệ thống KBNN.
- Tạm ứng chuyển khoản:
+ Chi mua vật tư văn phòng
+ Chi hội nghị
+ Chi thuê mướn
+ Chi phí nghiệp vụ chuyên môn của từng ngành
+ Chi sửa chữa tài sản phục vụ công tác chuyên môn và duy tu bảo dưỡng
các công trình cơ sở hạ tầng từ nguồn kinh phí thường xuyên.
+ Một số khoản chi cần thiết khác để đảm bảo hoạt động của bộ máy đơn
vị sử dụng NSNN.
Mức tạm ứng:
- Đối với những khoản chi thanh toán theo hợp đồng, mức tạm ứng quy định tại
hợp đồng đã ký kết của đơn vị sử dụng NSNN và nhà cung cấp hàng hoá, dịch
vụ nhưng tối đa không vượt quá 30% dự toán bố trí cho khoản mua sắm đó
(trường hợp mua hàng hoá nhập khẩu, thiết bị chuyên dùng mà nhà cung cấp
yêu cầu tạm ứng lớn hơn và các trường hợp đặc thù khác có hướng dẫn riêng
của cơ quan có thẩm quyền, việc thanh toán được thực hiện trong phạm vi dự
toán được giao và theo hợp đồng ký kết giữa đơn vị sử dụng NSNN và nhà
cung cấp).
- Đối với những khoản chi không có hợp đồng: mức tạm ứng thực hiện theo đề
nghị của đơn vị sử dụng ngân sách, phù hợp với tiến độ thực hiện và trong
phạm vi dự toán được giao.
Trình tự thủ tục tạm ứng: Đơn vị sử dụng NSNN gửi KBNN hồ sơ, tài liệu liên quan
đến từng khoản chi tạm ứng -> KBNN kiểm soát hồ sơ, chứng từ nếu đảm bảo thì làm
thủ tục tạm ứng cho đơn vị.
Thanh toán tạm ứng: Thanh toán tạm ứng là việc chuyển từ tạm ứng sang thanh toán
khi khoản chi đã hoàn thành và có đủ hồ sơ chứng từ để thanh toán.
● Ưu điểm:
- Để có thể thông qua khoản ứng trước đó thực hiện các hoạt động của cơ quan
đó.
● Nhược điểm:
- Tạm ứng trước một phần.

(2) Thanh toán trực tiếp:


Thanh toán trực tiếp là phương thức chi trả ngân sách trực tiếp cho đơn vị sử dụng
NSNN hoặc cho người cung cấp hàng hoá dịch vụ khi công việc đã hoàn thành, có đủ
các hồ sơ chứng từ thanh toán trực tiếp và các khoản chi ngân sách đáp ứng đầy đủ các
điều kiện chi ngân sách.
Nội dung chi thanh toán trực tiếp:
- Các khoản chi tiền lương, chi học bổng, sinh hoạt phí của học sinh, sinh viên
chi trả dịch vụ công.
- Các khoản chi có đủ hồ sơ chứng từ chi NSNN theo quy định về hồ sơ thanh
toán trực tiếp.
Mức thanh toán: Mức thanh toán căn cứ vào hồ sơ, chứng từ hợp pháp, hợp lệ, trong
phạm vi dự toán NSNN được giao và còn đủ số dư dự toán để thực hiện thanh toán.
Trình tự, thủ tục thanh toán trực tiếp: Đơn vị sử dụng NSNN gửi KBNN hồ sơ, chứng
từ -> KBNN kiểm soát, nếu đảm bảo theo quy định thì thực hiện thanh toán.
● Ưu điểm:
- Thủ tục gọn nhẹ.
● Nhược điểm:
- Chỉ được thực hiện khi công việc đã hoàn thành, đầy đủ chứng từ hồ sơ, đáp
ứng đủ điều kiện.

(3) Tạm cấp kinh phí ngân sách:


Tạm ứng kinh phí thực hiện trong trường hợp vào đầu năm ngân sách, dự toán NSNN
chưa được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định, Cơ quan tài chính và KBNN
thực hiện tạm cấp kinh phí NSNN cho các nhiệm vụ chi và hướng dẫn cụ thể tại các
Thông tư điều hành ngân sách hàng năm của Bộ Tài chính.
Mức tạm cấp: Mức tạm cấp hàng tháng tối đa không vượt quá mức chi phí bình quân 1
tháng của năm trước.
Trình tự, thủ tục thanh toán trực tiếp: Sau khi dự toán được cơ quan NN có thẩm
quyền giao, KBNN thực hiện giảm trừ khoản tạm cấp vào loại, khoản chi ngân sách
được giao của đơn vị sử dụng NS.
● Ưu điểm:
- Đảm bảo duy trì hoạt động của CQQLNN.
● Nhược điểm:
- Mức tạm cấp hàng tháng tối đa không vượt quá mức chi phí bình quân 1 tháng
của năm trước.

(4) Chi ứng trước dự toán cho năm sau:


Việc ứng trước dự toán NSNN được thực hiện theo quy định tại Nghị định của Chính
phủ.
Trình tự, thủ tục: Căn cứ vào quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền,
KBNN thực hiện chi ứng trước cho đơn vị sử dụng ngân sách. KBNN thực hiện việc
thu hồi vốn ứng trước theo dự toán thu hồi của cơ quan phân bổ dự toán NSNN.
● Ưu điểm:
- Thực hiện theo dự toán đã được phê duyệt.
● Nhược điểm:
- Mức dự toán đã được phê duyệt, nếu phát sinh chi phí trong quá trình thực hiện
sẽ phải xin cấp ngân sách, thủ tục hồ sơ phức tạp.

35. Các căn cứ tổ chức hệ thống NSNN. Nêu rõ cơ cấu tổ chức hệ thống NSNN ở
nước ta theo Luật NSNN.
Các căn cứ tổ chức hệ thống NSNN
● Căn cứ tổ chức hệ thức chính quyền Nhà nước
Mô hình Nhà nước có 2 loại:
- Nhà nước Liên bang:
Ngoài hệ thống pháp luật chung, mỗi bang đều có hệ thống pháp luật riêng
Ngoài hệ thống cơ quan Nhà nước chung, mỗi bang đều có hệ thống cơ quan
Nhà nước riêng
Chia làm 2 loại NS: + NS nhà nước liên bang
+ NS từng bang, chính quyền địa phương
- Nhà nước thống nhất:
Hệ thống cơ quan nhà nước được tổ chức thống nhất từ Trung ương đến địa
phương
Hệ thống pháp luật thống nhất
Chia NS thành: + NS trung ương
+ NS địa phương
● Căn cứ vào cơ chế quản lý kinh tế trong nền kinh tế quốc dân
Quản lý kinh tế phân đến cấp nào thì NS cũng phải phân tới cấp đó
Cơ cấu tổ chức hệ thống NSNN ở nước ta theo Luật NSNN
Theo Điều 6 Luật NSNN năm 2015 quy định về hệ thống ngân sách: “NSNN
gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Ngân sách địa phương gồm ngân
sách của các cấp chính quyền địa phương. Trong đó có: ngân sách tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương (gọi chung là ngân sách tỉnh); Ngân sách huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh (gọi chung là ngân sách huyện); ngân sách các xã, phường, thị trấn (gọi
chung là ngân sách xã)”. Cụ thể:
● NS trung ương phản ánh nhiệm vụ thu - chi theo ngành và giữ vai trò chủ đạo
trong hệ thống NSNN. Đây là ngân sách của cả nước, tập trung đại bộ phận
nguồn tài chính quốc gia và đảm bảo các nhiệm vụ chi tiêu có tính chất huyết
mạch.
● NS địa phương: chỉ các cấp NS của các cấp chính quyền bên dưới phù hợp với
địa giới hành chính các cấp. Ngoài ngân sách xã chưa có đơn vị dự toán, các
cấp NS khác đều bao gồm một số đơn vị dự toán của cấp ấy hợp thành. Trong
đó:
- NS cấp tỉnh phản ánh nhiệm vụ thu - chi theo lãnh thổ, đảm bảo thực hiện các
nhiệm vụ tổ chức quản lý toàn diện kinh tế, xã hội của chính quyền cấp tỉnh và
thành phố thuộc TW.
- NS cấp xã, phường, thị trấn là đơn vị hành chính cơ sở có tầm quan trọng đặc
biệt và đặc thù riêng: nguồn thu được khai thác trực tiếp trên địa bàn và nhiệm
vụ chi được bố trí để phục vụ cho mục đích trực tiếp của cộng đồng dân cư
trong xã.
Trong hệ thống NSNN Việt Nam, NS trung ương chi phối phần lớn các khoản
thu và chi quan trọng, còn NS địa phương chỉ được giao nhiệm vụ đảm nhận các
khoản thu - chi có tính chất địa phương.

Câu 36: Nguyên tắc chung và những nội dung cơ bản của phân cấp quản lý ngân
sách nhà nước?
● Nguyên tắc chung:
Để chế độ phân cấp quản lý mang lại kết quả tốt cần phải tuân thủ các
nguyên tắc sau đây:
- Một là: phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế, xã hội của đất nước, tổ
chức bộ máy hành chính. Phân cấp ngân sách thường đi kèm phân cấp chính trị
và hành chính, hay nói cách khác phân cấp quản lý kinh tế, xã hội là tiền đề, là
điều kiện để thực hiện phân cấp quản lý NSNN. Ngân sách là công cụ không
thể thiếu để đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ của các cấp ngân sách. Vì vậy,
phân cấp ngân sách phải phù hợp, nhằm đảm bảo điều kiện vật chất để thực thi
các nhiệm vụ một cách hiệu quả. Nếu hệ thống hành chính, kinh tế - xã hội có
sự phân cấp mạnh cho các địa phương, thì đòi hỏi phải có cơ chế phân cấp
mạnh về NSNN một cách tương ứng. Thực chất của nguyên tắc này là giải
quyết mối quan hệ giữa nhiệm vụ và quyền lợi, quyền lợi phải tương xứng với
nhiệm vụ được giao. Đồng thời, các phân cấp NSNN phải đảm bảo tính độc lập
tương đối.
- Hai là: Đảm bảo vai trò chủ đạo của NSTW Ngân sách trung ương giữ
vai trò chủ đạo, tập trung các nguồn lực cơ bản để đảm bảo thực hiện các mục
tiêu trọng yếu trên phạm vi cả nước. Cơ sở của nguyên tắc này xuất phát từ vị
trí quan trọng của Nhà nước trung ương trong quản lý kinh tế, xã hội của cả
nước mà Hiến pháp đã quy định và từ tinh chất xã hội hoá của nguồn tài chính
quốc gia. Nguyên tắc này được thể hiện: - Mọi chính sách, chế độ quản lý
NSNN được ban hành thống nhất và dựa chủ yếu trên cơ sở quản lý ngân sách
trung ương. - Ngân sách trung ương chi phối và quản lý các khoản thu, chi lớn
trong nền kinh tế và trong xã hội. Điều đó có nghĩa là: các khoản thu chủ yếu
có tỷ trọng lớn phải được tập trung vào ngân sách trung ương và đảm
nhiệm các nhiệm vụ chi trọng yêu. Ngân sách trung ương cũng chi phối hoạt
động của ngân sách địa phương, đảm bảo tính công băng giữa các địa phương.
- Ba là: phân định rõ nhiệm vụ thu chi của các cấp ngân sách Chế độ
phân cấp xác định rõ các khoản thu thuộc ngân sách địa phương, khoản nào
ngân sách địa phương phải chi từ ngân sách địa phương nhằm tạo quyền chủ
động và độc lập tương đối cho ngân sách địa phương. Phân cấp, trao quyền cho
địa phương về ngân sách một cách hợp lý sẽ giúp cho địa phương có thể chủ
động, tích cực phát huy trách nhiệm trong việc xây dựng và phát triển địa
phương. Phân cấp ngân sách cũng phải phù hợp với năng lực, trình độ quản lý
của chính quyền địa phương. Nếu trao nhiều quyền cho chính quyền địa
phương trong khi trình độ, năng lực chưa đáp ứng, sẽ làm giảm hiệu lực, hiệu
quả của phân cấp ngân sách. Bên cạnh đó, một hành lang pháp lý và cơ chế
kiểm soát cần được thiết lập để đánh giá những quyết định của địa phương và
xử lý trong trường hợp có vi phạm.
- Bốn là: đảm bảo tính công bằng trong phân cấp ngân sách Mỗi địa
phương có vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, xã hội và kinh tế khác nhau dẫn tới
cơ chế phân cấp NSNN phải phù hợp, đảm bảo tính công bằng, nhằm rút ngắn
khoảng cách chênh lệch ngày càng lớn về điều kiện phát triển giữa các địa
phương. Phân cấp ngân sách phải đảm bảo tính cân đối giữa thu nhập quốc dân
sản xuất và thu nhập quốc dân sử dụng trên từng vùng, từng địa phương. Việc
xây dựng cơ chế phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi tiêu giữa trung ương và
địa phương hợp lý là một công cụ chủ yếu, hữu hiệu giúp nhà nước điều hoà hệ
thống NSNN theo cả chiều dọc (giữa các cấp ngân sách) và chiều ngang (trong
cùng cấp ngân sách). Vai trò điều phối của nhà nước được thực hiện thông qua
NSTW

● Những nội dung cơ bản:


Phân cấp quản lý NSNN là nội dung quan trọng trong quản lý NSNN,
được thiết kế xây dựng trên nền tảng tổ chức bộ máy nhà nước và phân cấp
kinh tế - xã hội. Phân cấp quản lý NSNN ở nước ta hiện nay được quy định cụ
thể trong Luật NSNN.
Phân cấp NSNN gồm 2 nội dung, phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi
NSNN và phân cấp quản lý NSNN
Phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi NSNN
a. Phân cấp nguồn thu
Hệ thống NSNN được xây dựng dựa trên những nguyên tắc nhất định
nhằm đảm bảo được mối quan hệ giữa các cấp ngân sách và trong nội bộ cấp
ngân sách đó, tuy nhiên, điều quan trọng nhất là đảm bảo tính độc lập và tự chủ
tương đối của từng cấp ngân sách trong toàn hệ thống. Việc phân cấp ngân sách
phải đảm bảo mỗi cấp ngân sách có khoản thu của cấp mình để chủ động và
linh hoạt trong thực hiện các nhiệm vụ được giao. Đồng thời việc phân cấp
nguồn thu cũng phải đảm bảo nguyên tắc NSTW giữ vai trò chủ đạo và điều
phối, tạo công bằng trong phân cấp, bổ sung ngân sách cho chính quyền cấp
dưới. Do đó, các khoản thu NSNN được chia làm ba nguồn: nguồn thu NSTW
hưởng 100%, nguồn thu NSĐP hưởng 100% và nguồn thu phân chia tỷ lệ giữa
NSTW và NSĐP.
b. Phân cấp nhiệm vụ chi
Cả ngân sách trung ương và ngân sách địa phương đều có hai khoản chi
trên, tuy nhiên, giữa chúng cũng có sự khác nhau về quy mô, phạm vi của các
khoản chi. Chị đầu tư phát triển của ngân sách trung ương là những khoản chi
có quy mô lớn, có tác dụng đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân, các khoản chi
này nhìn chung là khó xác định chủ đầu tư và các công trình phúc lợi công
cộng. Còn các khoản chi của ngân sách địa phương chỉ đầu tư cho những công
trình, mục tiêu được thực hiện trong phạm vi địa phương đó. Ngoài ra, có một
số khoản chi thuộc đặc thù chức năng của ngân sách trung ương thì ngân sách
trung ương đảm nhiệm: trả nợ vay, chi an ninh quốc phòng, chi về ngoại giao…
Phân cấp quản lý ngân sách
Phân cấp quản lý NSNN thể hiện ở việc xây dựng mối quan hệ trách
nhiệm giữa các cấp chính quyền nhà nước trong một quy trình NSNN, từ khẩu
lập, quyết định, phân bổ dự toán, tới chấp hành và quyết toán NSNN. Quy trình
ngân sách là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi để chi toàn bộ hoạt động của ngân
sách, từ khi bắt đầu hình thành cho tới khi kết thúc để chuyển sang ngân sách
năm mới, gồm 3 khâu: lập dự toán, quyết định phân bổ dự toán, chấp hành và
quyết toán NSNN. Cơ chế phân cấp quản lý NSNN phải quy định rõ quyền và
trách nhiệm của chính quyền các cấp trong việc thực hiện quy trình NSNN.
Phân cấp quản lý NSNN thể hiện ở việc xây dựng cơ sở pháp lý nhằm
quy định thẩm quyền của các cơ quan nhà nước từ TW đến địa phương trong
việc ban hành chính sách, chế độ thu, chi NSNN vừa đảm bảo tính thống nhất,
vừa đảm bảo tính phù hợp với đặc điểm kinh hội của các địa phương. Dựa trên
nguyên tắc đó, Trung ương không quy định quá chi tiết đối với NSĐP mà trao
quyền cho địa phương quyết định đảm bảo phù hợp với đặc thù của địa phương
mình.

Câu 37:
Các khoản thu NSNN được chia làm ba nguồn:
- nguồn thu NSTW hưởng 100%
- nguồn thu NSĐP hưởng 100%
- nguồn thu phân chia tỷ lệ giữa NSTW và NSĐP.

● Nguồn thu NSTW hưởng 100%: Các khoản thu ngân sách trung ương hưởng
100% (bao gồm cả khoản tiền chậm nộp theo quy định của Luật Quản lý thuế),
gồm:
- Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu: Thuế giá trị gia tăng thu từ hàng hóa nhập khẩu;
thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; thuế tiêu thụ đặc biệt từ hàng hóa nhập khẩu, bao gồm
cả thuế tiêu thụ đặc biệt hàng hóa nhập khẩu do cơ sở kinh doanh nhập khẩu tiếp tục
bán ra trong nước; thuế bảo vệ môi trường thu từ hàng hóa nhập khẩu; phí và lệ phí
hải quan...
được chia cho nước chủ nhà, các loại phí, tiền cho thuê mặt nước, các khoản thuê, phí
và thu khác từ hoạt động thăm dò, khai thác dầu, khí;
- Viện trợ không hoàn lại của chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế, các tổ chức
khác, các cá nhân ở nước ngoài cho Chính phủ Việt Nam;
- Phí thu từ các hoạt động dịch vụ do các cơ quan nhà nước trung ương thực hiện,
không kể khoản được cấp có thẩm quyền cho khấu trừ để khoán chi phí hoạt động; phí
thu từ các hoạt động dịch vụ do đơn vị sự nghiệp công lập trung ương và doanh nghiệp
nhà nước trung ương thực hiện, sau khi trừ phân được trích lại để bù đắp chi phí theo
quy định của pháp luật.

Số thu phí được khấu trừ và trích lại để bù đắp chi phí không thuộc phạm vi thu
NSNN và được quản lý, sử dụng theo quy định của pháp luật;
- Lệ phí do các cơ quan nhà nước trung ương thu
- Tiền thu từ xử phạt vi phạm hành chính, phạt, tịch thu khác theo quy định của pháp
luật do các cơ quan nhà nước trung ương quyết định thực hiện xử phạt, tịch thu;
- Thu từ bán tài sản nhà nước, kể cả thu từ chuyển nhượng quyền sử - dụng đất gắn
với tài sản trên đất, chuyển mục đích sử dụng đất do các cơ quan nhà nước, tổ chức
chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, các đơn vị sự nghiệp công lập, các công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên do nhà nước làm chủ sở hữu hoặc doanh nghiệp
mà có vốn của trung ương tham gia trước khi thực hiện cổ phần hóa, sắp xếp lại và các
đơn vị, tổ chức khác thuộc trung ương quản lý;
- Thu từ tài sản được xác lập quyền sở hữu của nhà nước do các cơ quan, đơn vị, tổ
chức thuộc trung ương xử lý, sau khi trừ đi các chi phí theo quy định của pháp luật;
- Các khoản thu hồi vốn của ngân sách trung ương đầu tư tại các tổ chức kinh tế (bao
gồm cả gốc và lãi); thu cổ tức, lợi nhuận được chia tại công ty cổ phần, công ty trách
nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên có vốn góp của nhà nước do bộ, cơ quan ngang
bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương đại diện chủ sở hữu; thu
phần lợi nhuận sau thuế còn lại sau khi trích lập các quỹ của doanh nghiệp nhà nước
do bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương đại
diện chủ sở hữu;
- Thu từ tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, cấp quyền khai thác tài nguyên nước
phần ngân sách trung ương được hưởng theo quy định của pháp luật;
vực biển đối với khu vực biển thuộc thẩm - Tiền sử dụng khu giao của trung ương;
quyền
- Chênh lệch thu lớn hơn chi của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, - Thu từ quỹ dự trữ
tài chính trung ương;
- Thu kết dư ngân sách trung ương; thu chuyển nguồn từ năm trước chuyển sang của
ngân sách trung ương; - Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật, bao gồm cả
thu ngân sách cấp dưới nộp lên.

● Nguồn thu NSĐP hưởng 100%: Các khoản thu ngân sách địa phương hưởng
100% (bao gồm cả khoản tiền chậm nộp theo quy định của Luật Quản lý thuế),
gồm:
- Các khoản thuế của địa phương thuế tài nguyên (không kể thuế tài nguyên thu
từ hoạt động thăm dò, khai thác dầu, khí); thuế sử dụng đất nông nghiệp; thuế
sử dụng đất phi nông nghiệp;
- Tiền sử dụng đất; tiền cho thuê đất, thuê mặt nước, không kể tiền thuê đất, thuê mặt
nước từ hoạt động thăm dò, khai thác dầu, khí; tiền cho thuê và tiền bán nhà ở thuộc
sở hữu nhà nước;
- Lệ phí môn bài; lệ phí trước bạ; lệ phí do các cơ quan nhà nước địa phương thực hiện
thu;
- Thu từ hoạt động xổ số kiến thiết, kể cả hoạt động xổ số điện toán Các khoản thu hồi
vốn của ngân sách địa phương đầu tư tại các tổ
chức kinh tế theo quy định; thu cổ tức, lợi nhuận được chia tại công ty cổ phần, công
ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên có vốn góp của nhà nước do Ủy ban
nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đại diện chủ sở hữu; thu phần lợi
nhuận sau thuế còn lại sau khi trích lập các quỹ của doanh nghiệp nhà nước do Ủy ban
nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đại diện chủ sở hữu
dụng đất gắn liền với tài sản trên đất, chuyển mục đích sử dụng đất do các cơ quan nhà
nước, tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, các nghiệp công lập, các công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên do nhà nước làm chủ sở hữu đơn vị hoặc doanh
nghiệp mà có vốn don vi su của ngân sách địa phương tham gia trước khi thực hiện cổ
phần hóa, sắp
xếp lại và các đơn vị, tổ chức khác thuộc địa phương quản lý; Viện trợ không hoàn lại
của các tổ chức quốc tế, các tổ chức khác, các cá nhân ở nước ngoài trực tiếp cho địa
phương; -
Phí thu từ các hoạt động dịch vụ do các cơ quan nhà nước địa phương thực hiện,
không kể khoản được cấp có thẩm quyền cho khấu trừ để khoản chi phí hoạt động; phí
thu từ các hoạt động dịch vụ do đơn vị sự nghiệp công lập địa phương và doanh
nghiệp nhà nước địa phương thực tiện, sau khi trừ phần được trích lại để bù đắp chi
phí theo quy định của độ pháp luật.

Số thu phí được khấu trừ và trích lại để bù đắp chi phí không thuộc bị phạm vi thu
NSNN và được quản lý, sử dụng theo quy định của pháp luật; . Tiền thu từ xử phạt vi
phạm hành chính, phạt, tịch thu khác theo quy định của pháp luật do các cơ quan nhà
nước địa phương quyết định thực hiện xử phạt, tịch thu;
- Thu từ tài sản được xác lập quyền sở hữu của nhà nước do các cơ - quan, đơn vị, tổ
chức thuộc địa phương xử lý, sau khi trừ đi các chi phí theo quy định của pháp luật;
- Thu từ tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, cấp quyền khai thác tài nguyên nước
phần ngân sách địa phương được hưởng theo quy định của pháp luật;
- Tiền sử dụng khu vực biển đối với khu vực biển thuộc thẩm quyền giao của địa
phương;
- Thu từ quỹ đất công ích và thu hoa lợi cộng sản khác;
- Huy động đóng góp từ các tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật;
- Thu từ quỹ dự trữ tài chính địa phương;
- Thu kết dư ngân sách địa phương;
vệ, phát triển đất trồng lúa; thu tiền bồi thường cho nhà nước khi gây thiệt hại trong
quản lý và sử dụng đất đai; thu ngân sách cấp dưới nộp lên.

● Nguồn thu phân chia tỷ lệ giữa NSTW và NSĐP: Các khoản thu phân chia theo
tỷ lệ phần trăm (%) giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương (bao
gồm cả khoản tiền chậm nộp theo quy định của Luật Quản lý thuế), gồm:

- Thuế giá trị gia tăng, bao gồm cả thuế giá trị gia tăng của các nhà thầu phụ phát
sinh từ các hoạt động dịch vụ phục vụ hoạt động thăm dò và khai thác dầu, khí;
không kể thuế giá trị gia tăng quy định thuộc nguồn l thu NSTW hưởng 100%.
- Thuế thu nhập doanh nghiệp, bao gồm cả thuế thu nhập doanh nghiệp của các
nhà thầu phụ phát sinh từ các hoạt động dịch vụ phục hoạt động thăm dò và
khai thác dầu, khí (kể cả thuế thu nhập từ chuyển nhượng vốn trong hoạt động
dầu, khí); không kể thuế thu nhập doanh nghiệp thuộc nguồn thu NSTW hưởng
100%; vụ (sau đây
- Thuế thu nhập cá nhân;
- Thuế tiêu thụ đặc biệt không bao gồm thuế tiêu thụ đặc biệt thuộc nguồn thu NSTW
hưởng 100%;
- Thuế bảo vệ môi trường không bao gồm thuế bảo vệ môi trường thuộc nguồn thu
NSTW hưởng 100%. Đối với thuế bảo vệ môi trường thu từ xăng dầu sản xuất trong
nước, việc xác định số thu phát sinh căn cứ vào sản lượng do doanh nghiệp đầu mối
bán ra trên thị trường và tỷ trọng ng tổng sản lượng xăng dầu sản xuất trong nước và
tổng sản lượng xăng dầu ông đ nhập khẩu. Hằng năm, Bộ Tài chính xác định tỷ trọng
này.

Số bổ sung có mục tiêu từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới được xác định
theo nguyên tắc, tiêu chí, định mức phân bổ ngân nh sách và các chế độ, tiêu chuẩn,
định mức chi ngân sách; khả năng cân đối của ngân sách cấp trên và khả năng cân đối
ngân sách của từng địa phương cấp dưới, để hỗ trợ ngân sách cấp dưới trong các
trường hợp sau:

+ Thực hiện các chính sách, chế độ mới do cấp trên ban hành chưa được bố trí trong
dự toán ngân sách của năm đầu thời kỳ ổn định ngân sách; mức hỗ trợ cụ thể được xác
định trên cơ sở khả năng cân đối của ngân sách các cấp có liên quan;
+ Thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia và các chương | trình mục tiêu,
chương trình, dự án khác của cấp trên, phần giao cho cấp dưới thực hiện; mức hỗ trợ
cụ thể theo dự toán chi được cấp có thẩm + Hỗ trợ chi khắc phục thiên tai, thảm họa,
dịch bệnh trên diện rộng quyền giao; vượt quá khả năng cân đối của ngân sách cấp
dưới, theo quy định nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu;
+ Hỗ trợ thực hiện các mục tiêu, công trình, dự án có ý nghĩa lớn đối với yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương, nằm trong quy hoạch và đã được cấp có thẩm
quyền phê duyệt theo đúng quy định của pháp luật về quản lý đầu tư và xây dựng.
Mức hỗ trợ được xác định cụ thể cho từng chương trình, dự án. Tổng mức hỗ trợ vốn
đầu tư phát triển hằng năm của ngân sách trung ương cho ngân sách địa phương quy
định tại điểm này tôi đa không vượt quá 30% tổng chi đầu tư xây dựng cơ bản của
ngân sách trung ương;
+ Số bổ sung có mục tiêu từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới được xác định
hàng năm. Việc sử dụng vốn, kinh phí bổ sung có mục tiêu phải theo đúng mục tiêu
quy định. Trường hợp ngân sách cấp dưới sử dụng không đúng mục tiêu hoặc sử dụng
không hết, phải hoàn trả ngân sách cấp trên.
Ưu điểm:

Nhược điểm:
Thu 100% của NSĐP là những khoản thu nhỏ (như thuế sử dụng đất, tiền thuê đất,
tiền bán nhà thuộc sở hữu nhà nước, các khoản phí, lệ phí...), trong đó có nguồn thu
thiếu ổn định. Với cách phân cấp này, tuy có phần đáp ứng được nhu cầu chi tiêu lớn
của Trung ương, nhưng dễ gây bị động trong điều hành do kém khuyến khích địa
phương chủ động khai thác và nuôi dưỡng nguồn thu trên địa bàn.
Thu được phân chia theo tỷ lệ phần trăm giữa NSTW và NSĐP tuy đã giảm
xuống còn 5 khoản thu phân chia (Luật NSNN năm 1997 có 6 khoản) và công thức
tính tỷ lệ phần trăm phân chia thay đổi so với trước, nhưng vẫn chưa có cơ sở khoa
học bảo đảm công bằng cho các địa phương. Việc tính toán tỷ lệ phần trăm phân chia
mang nặng tính kỹ thuật, trong khi chúng ta chưa có những căn cứ và mô hình tính
toán tối ưu (như dự báo chính xác nguồn thu của mỗi địa phương). Việc xác định tỷ lệ
phần trăm các khoản thu phân chia giữa 3 cấp ngân sách địa phương (tỉnh-huyện-xã)
do chính quyền tỉnh quy định cũng là đòi hỏi hết sức khó khăn với chính quyền cấp
này, vì khó đạt được sự công bằng và khách quan.

38. Cho biết về phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách theo
luật NSNN. Bình luận của bạn về nội dung phân cấp này ở nước ta hiện nay

Theo Luật Ngân sách Nhà nước (NSNN) năm 2015, phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ
chi giữa các cấp ngân sách như sau:

1. Ngân sách Trung ương:


● Nguồn thu chính là thuế truyền thống, phí, lệ phí, thu nhập từ khai thác tài
nguyên, ô nhiễm môi trường, mua bán dầu nhờn, trong đó thuế là nguồn thu
chính.
● Nhiệm vụ chi đầu tư phát triển kinh tế-xã hội; trang trải các khoản chi phí quốc
phòng và an ninh; chi tiêu quản lý nhà nước, cơ quan hành chính, dân sự, các
đơn vị hành chính sự nghiệp; trợ cấp cho các địa phương.
2. Ngân sách địa phương:
● Nguồn thu chính là các khoản thuế, chia sẻ từ ngân sách Trung ương, các khoản
thu khác thuộc về văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học công nghệ, an sinh xã hội.
● Nhiệm vụ chi đầu tư phát triển kinh tế-xã hội các địa phương; quản lý nhà
nước, cơ quan hành chính, dân sự, các đơn vị hành chính sự nghiệp; trợ cấp cho
các hộ người nghèo, CCB; trả lương, phụ cấp cho CBCCVC.
3. Ngân sách cấp dưới địa phương:
● Nguồn thu chính là thu từ các khoản thu chung với ngân sách các cấp trên.
● Nhiệm vụ chi các khoản chi cho tương ứng với nhiệm vụ được giao.

Bình luận

Phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách theo luật NSNN được
thiết lập để đảm bảo sự công bằng và tiết kiệm trong việc quản lý ngân sách của cả
nước. Việc chia sẻ nguồn thu riêng biệt giữa các cấp ngân sách, khiến cho ngân sách
Trung ương và địa phương có sự độc lập phân lý nguồn kinh tế, sự chủ động trong
việc quản lý ngân sách, đồng thời tạo ra đủ điều kiện cho các địa phương phát triển
kinh tế, tăng trưởng, cải thiện chất lượng đời sống người dân.

Những kết quả đạt được trong những năm qua, phân cấp quản lý NSNN nhằm đảm
bảo các nguồn lực tài chính quốc gia được huy động và phân phối sử dụng một cách
hiệu quả nhất và đạt được những kết quả quan trọng sau:

Thứ nhất, đảm bảo thực quyền của Quốc hội, tăng tính chủ động của Hội đồng nhân
dân các cấp trong việc quyết định dự toán ngân sách, quyết định phân bổ ngân sách và
phê chuẩn quyết toán ngân sách.

Thứ hai, phân cấp quản lý ngân sách theo Luật NSNN năm 2015 đã góp phần thúc đẩy
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý NSNN. Việc ban hành và thực hiện
chính sách chế độ mới làm tăng chi ngân sách, tình trạng cấp ban hành chính sách phải
có giải pháp đảm bảo nguồn tài chính phù hợp với khả năng cân đối ngân sách của
từng cấp.

Thứ ba, phân cấp quản lý NSNN đã đảm bảo vai trò chủ đạo của NSTW. Việc quy
định NSTW giữ vai trò chủ đạo và hưởng các nguồn thu quan trọng đã đủ nguồn lực
để thực hiện các nhiệm vụ trọng yếu của quốc gia; Đảm bảo nguồn lực để bổ sung cho
các địa phương khó khăn, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng miền, qua đó
góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân, từng bước phát triển
kinh tế xã hội ở các tỉnh nghèo, các xã vùng sâu, vùng xa.

Thứ tư, cơ chế phân cấp quản lý NSNN đã giao quyền chủ động cho các địa phương
tăng thu, tiết kiệm chi NSNN để có nguồn lực phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn.
Cơ chế phân cấp cụ thể nguồn thu, nhiệm vụ chi cho các cấp ngân sách đã khuyến
khích chính quyền địa phương: Chủ động trong việc xác định, bồi dưỡng nguồn thu,
tăng thu ngân sách để thực hiện các nhiệm vụ chi đã được phân cấp, với cơ chế: tăng
thu thì tăng chi, giảm thu thì giảm chi đã khắc phục được tình trạng ỷ lại vào cấp trên.

Mặc dù, hoạt động phân cấp quản lý NSNN trong những năm qua đã từng bước hoàn
thiện nhưng vẫn còn những tồn tại, hạn chế. Cụ thể, hệ thống NSNN Việt Nam hiện
nay được tổ chức theo mô hình lồng ghép. Sự lồng ghép trong hệ thống NSNN dẫn
đến sự chồng chéo về thẩm quyền, hạn chế tính độc lập và quyền hạn của các cấp ngân
sách; giảm tính hiệu quả, công khai, minh bạch trong việc lập, quyết định, giao dự
toán ngân sách, sử dụng ngân sách và quyết toán NSNN. Mặt khác, do tính lồng ghép
trong hệ thống NSNN nên thời gian lập, giao dự toán bị kéo dài, ảnh hưởng đến công
tác quản lý, điều hành NSNN.

Xét theo phân cấp nguồn thu ngân sách giữa NSTW và NSĐP cho thấy, thu NSĐP có
xu hướng tăng, trong khi thu NSTW có xu hướng giảm, thực tế này ảnh hưởng đến vai
trò chủ đạo của NSTW. Thu NSĐP trong các năm gần đây có xu hướng tăng cả về quy
mô và tỷ trọng, trong đó quy mô thu NSĐP giai đoạn 2011- 2015 tăng khoảng 2,5 lần
so với 5 năm trước, cao hơn mức tăng thu NSNN nói chung (khoảng 2 lần); tỷ trọng
thu NSĐP trong tổng thu NSNN tăng từ 32,4% giai đoạn 2006-2010 lên 36,2% giai
đoạn 2011 - 2015, tăng tính tự chủ cho NSĐP.

Cùng với xu hướng của thu NSNN, tỷ trọng chi NSTW trong tổng chi NSNN có xu
hướng giảm từ 55,2% (năm 2006) xuống còn 49,2% (năm 2018); tỷ trọng chi cho đầu
tư phát triển giảm từ 33,3% giai đoạn 2006 - 2010 xuống còn khoảng 26 - 27% giai
đoạn 2011 - 2015. Tỷ trọng các khoản chi trực tiếp của NSTW có xu hướng giảm
nhanh, ảnh hưởng tới nguyên tắc hiến định về vai trò chủ đạo của NSTW, do phần lớn
các chính sách an sinh xã hội ban hành đều gắn với đối tượng ở địa phương, NSTW
phải hỗ trợ cho NSĐP để thực hiện. Chi đầu tư phát triển của các bộ, cơ quan trung
ương quản lý giai đoạn 2011 - 2015 chỉ còn chiếm 26-27% tổng chi đầu tư phát triển
nguồn NSNN; đây là một nguyên nhân dẫn đến đầu tư phân tán, hiệu quả chưa cao;
hạn chế khả năng đầu tư dứt điểm các công trình trọng yếu.

Vay nợ của Chính phủ và của chính quyền địa phương ngày càng tăng gây áp lực
trong chi trả nợ: Bình quân giai đoạn 2011 - 2015, nợ công tăng 18,4%/năm (gấp hơn
3 lần tốc độ tăng trưởng GDP); quy mô nợ công cuối năm 2015 gấp 2,3 lần năm 2010;
tính theo GDP, quy mô nợ công tăng từ mức 50% GDP năm 2010 lên 62,2% GDP.
Đến cuối năm 2015, có 5/6 chỉ tiêu đảm bảo trong giới hạn cho phép, nợ công chiếm
62,2% GDP (giới hạn là 65%), nợ nước ngoài của quốc gia là 43,1%GDP (giới hạn là
50%), nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ là 16,1% GDP (giới hạn là 25%), phát
hành trái phiếu chính phủ cho đầu tư giai đoạn 2011-2015 là 329.835 tỷ đồng (giới
hạn là 335.000 tỷ đồng), kỳ hạn phát hành trái phiếu chính phủ bình quân giai đoạn
2011 - 2015 là 4,8 năm (mục tiêu là 4 - 6 năm); riêng chỉ tiêu nợ Chính phủ năm 2015
so với GDP vượt giới hạn cho phép do GDP thực tế theo giá hiện hành năm 2015 giảm
mạnh.

Đối với vấn đề vay nợ của các địa phương, trước thời điểm Luật NSNN năm 2002 có
hiệu lực thi hành, không cho phép địa phương vay nợ, luật NSNN năm 2002 quy định
chỉ có bội chi NSTW, nhưng vẫn mở cửa cho các địa phương vay nợ để phát triển cơ
sở hạ tầng, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Do cơ chế quản lý, do kiểm tra giám sát
chưa chặt chẽ dẫn đến nợ xây dựng cơ bản của một số địa phương là rất lớn.

39. Có ý kiến cho rằng: “ thu trợ cấp là khoản thu thường xuyên của ngân sách
địa phương”. Hãy bình luận về ý kiến này
→ Tôi đồng ý với ý kiến trên rằng "thu trợ cấp là khoản thu thường xuyên của ngân
sách địa phương". Thu trợ cấp là khoản tiền mà các cấp chính quyền trả cho đơn vị địa
phương khác để hỗ trợ các hoạt động và dự án phát triển. Các nguồn thu trợ cấp này
thường được cung cấp bởi các tổ chức tài trợ quốc tế, các chính phủ cấp trên hoặc các
cơ quan liên quan khác.

Vì các nguồn thu trợ cấp này thường có tính ổn định và thường xuyên, nên các địa
phương có thể dựa vào đó để kế hoạch và quản lý ngân sách của họ. Thu trợ cấp cũng
có thể cung cấp các nguồn lực tài chính bổ sung cho các dự án phát triển cần thiết của
địa phương, giúp nâng cao chất lượng cuộc sống và cải thiện cơ sở hạ tầng địa
phương.

Tuy nhiên, việc quá phụ thuộc vào thu trợ cấp cũng có thể làm cho các địa phương trở
nên lười biếng và không cố gắng để tìm kiếm các nguồn lực khác để tài trợ cho các dự
án và hoạt động của họ. Ngoài ra, việc thu trợ cấp có thể không đảm bảo tính bền
vững cho ngân sách địa phương nếu các nguồn tài trợ này bị gián đoạn hoặc ngừng
cấp vì một số lý do nào đó.

Tóm lại, thu trợ cấp là một nguồn thu quan trọng của ngân sách địa phương và có thể
giúp cải thiện chất lượng cuộc sống và phát triển địa phương. Tuy nhiên, địa phương
cũng cần phải tìm kiếm các nguồn tài trợ khác để đảm bảo tính bền vững cho ngân
sách của họ.

40. Thế nào là cân đối NSNN? Các trạng thái cân đối NSNN và đánh giá về mỗi
trạng thái đó
- Về bản chất, cân đối NSNN là mối quan hệ giữa các nguồn thu mà chính phủ
uy động được (tập trung vào NSNN trong một năm) và sự phân phối, sử dụng các
nguồn thu đó nhằm thỏa mãn nhu cầu chi tiêu trong năm.

Nó không chỉ là sự tương quan giữa tổng thu và tổng chi mà còn thể hiện sự phân bổ
hợp lý giữa cơ cấu các khoản thu và cơ cấu các khoản chi của NSNN

Như vậy, cân đối NSNN phản ánh sự điều chỉnh mối quan hệ tương tác giữa thu và chi
NSNN nhằm đặt được các mục tiêu Kinh tế – xã hội trong năm.

- Trạng thái NSNN:

+ Ngân sách cân bằng:

Cân đối NSNN phải đảm bảo tổng chi không được lớn hơn tổng số thu thuế; tổng số
thu thuế cũng không được lớn hơn tổng chi. Đòi sự cân bằng tuyệt đối.

Đánh giá: Các khoản chi sẽ được kiểm soát rất tốt. Tuy nhiên các khoản thu lại khó
kiểm soát hơn nhiều, mọi tính toán chỉ là dự toán. Vì vậy, nếu có thặng dư thì đó là sự
lãng phí của xã hội.

+ Ngân sách chu kì:

Sự cân bàng kinh tế sẽ không duy trì khuân khổ trong một năm mà sẽ duy trì trong
khuôn khổ một chu kỳ kinh tế.

Đánh giá: Tình trạng thăng dư hay thâm hụt NSNN trong từng tài khóa không hẳn là
mất cân đối, chúng có thể bù trừ cho nhau trong cả một chu kì. Tuy nhiên mức thặng
dư hay thâm hụt cần phải được duy trì trong khoảng mà chính phủ có thể kiểm soát
được

+ Ngân sách cố ý thâm hụt

Cân đối NSNN lúc này chấp nhận thâm hụt để mở rộng chi tiêu. Chính phủ sẽ vay nợ
để tài trợ cho thâm hụt để đổi lấy tăng trưởng kinh tế. Mức thâm hụt NSNN trong cân
đối hiện tại sẽ không thể lớn hơn mức tăng trưởng kinh tế trong tương lai.

Đánh giá: Nếu muốn áp dụng trạng thái này, chính phủ phải kiểm soát và duy trì được
nền tinh tế tăng trưởng ổn định, như dự kiến trong thời gian dài. Nếu không các khoản
nợ tích lũy sẽ khiến chính phủ mất khả năng trả nợ, nền kinh tế rơi vào khủng hoảng
nợ công.

41. Có ý kiến cho rằng: " một ngân sách tốt nhất là một ngân sách luôn thăng
bằng thu, chi". Bình luận của bạn về câu nói này.
Theo quan niệm cổ điển về ngân sách, thể chế ngân sách trong mỗi quốc gia được thiết
lập và vận hành theo bốn nguyên tắc cơ bản đó là: Nguyên tắc ngân sách nhất niên;
Nguyên tắc ngân sách đơn nhất; Nguyên tắc ngân sách toàn diện; Nguyên tắc ngân
sách thăng bằng. Trong đó ta thấy, nguyên tắc ngân sách thăng bằng được hiểu là tất
cả các khoản thu đều phải bằng tất cả các khoản chi. Sự thăng bằng giữa các khoản thu
và chi ngân sách phải được xác lập ngay từ khi lập dự toán ngân sách cho đến khi thực
hiện xong kế hoạch dự toán đó. Tuy nhiên, trên thực tế, khả năng thu cũng như nhu
cầu chi tiêu của mỗi quốc gia trong một năm thường xuyên biến đổi không ngừng,
dưới sự tác động của rất nhiều yếu tố nên nguyên tắc thăng bằng chỉ được hiểu ở mức
tương đối là các khoản thu chi phải tương ứng với nhau.

Trong bất cứ giai đoạn lịch sử nào, sự mất thăng bằng của ngân sách nhà nước đều có
thể dẫn đến những hậu quả bất lợi. Chẳng hạn, nếu tổng số chi lớn hơn tổng số thu (có
nghĩa xảy ra tình trạng bội chi ngân sách nhà nước) thì số bội chi này thường ít có khả
năng bù đắp nồi bằng các khoản thuế hay các khoản vay nợ, viện trợ nước ngoài mà
đôi khi phải sử dụng đến giải pháp vay nợ ngắn hạn từ Ngân hàng trung ương, nghĩa là
phát hành thêm tiền vào lưu thông để bù đắp cho các khoản thâm hụt ngân sách nhà
nước. Hậu quả là việc áp dụng giải pháp này có thể sẽ gây ra tình trạng lạm phát tiền
tệ trong nền kinh tế, nếu Chính Phủ cứ lạm dụng việc vay tiền từ Ngân hàng trung
ương để bù đắp bội chi ngân sách hàng năm. Ngược lại, nếu tổng số thu lớn hơn tổng
số chi (có nghĩa là bội thu ngân sách) thì hậu quả về phương diện kinh tế lẫn phương
diện tài chính đều không phải hoàn toàn có lợi, bởi lẽ khi đó sẽ có một số lượng vốn
ngân sách (tư bản) không được Chính Phủ đem ra sử dụng cho nhu cầu phát triển kinh
tế – xã hội vốn không ngừng gia tăng và phát triển. Một khoản tiền của quốc gia sẽ
không được đưa vào lưu thông, nền kinh tế trong nước như vậy sẽ mất đi một khoản
lợi tức. Mặt khác, việc dư thừa một nguồn vốn ngân sách đáng kể trong Kho bạc nhà
nước sẽ dễ dàng tạo ra tâm lý sử dụng ngân sách không tiết kiệm và kém hiệu quả,
đồng thời cũng có thể tạo ra cơ hội cho một số nhân viên công quyền tìm cách tham ô,
biển thủ công quỹ để mưu lợi cá nhân. Vì vậy ta kết luận được rằng "một ngân sách tốt
nhất là một ngân sách luôn thăng bằng thu, chi"
42. Phân tích các nguyên nhân và và tác động của thâm hụt NSNN
● Phân tích các nguyên nhân
Thâm hụt NSNN có thể bắt nguồn từ những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, do chu kỳ kinh tế. Khi nền kinh tế khủng hoảng hoặc suy thoái,
nguồn thu NSNN sụt giảm, nhu cầu chi tiêu của Chính phủ gia tăng là nguyên nhân
chính dẫn tới chênh lệch thu - chi NSNN. Thâm hụt NSNN cũng vì thế mà xuất hiện.
Thứ hai, do quyết định của chính phủ trong việc xây dựng cơ cấu thu - chi
NSNN. Để đạt được mục tiêu kinh tế - xã hội nhất định trong từng thời kỳ mà Chính
phủ có thể theo đuổi cơ cấu thu - chi NSNN theo hướng thâm hụt hay theo đuổi lý
thuyết cân đối ngân sách “cố ý thâm hụt”, điều này sẽ dẫn tới thâm hụt ngân sách.
Thứ ba, do thiên tai. Những thảm họa tự nhiên vượt tầm kiểm soát sẽ gây ra
những tổn thất lớn ngoài dự kiến khiến Chính phủ phải gia tăng chi tiêu để bù đắp.
Mặt khác, những vụ thiên tai có phạm vi ảnh hưởng lớn có thể gây ra những tổn thất
cho các doanh nghiệp, khiến nguồn thu từ thuế sụt giảm. Do đó, thảm họa thiên tại lớn
sẽ gây ra tác động theo hai hướng tới NSNN, tăng chi và thất thu, qua đó gây thâm hụt
NSNN trong ngắn hạn.
Thứ tư, quản lý NSNN kém hiệu quả. Ở nhiều quốc gia trên thế giới, Nhà nước
vẫn tham gia vào hoạt động kinh tế thông qua việc nắm giữ các tập đoàn kinh tế lớn.
Do đó, nếu các tập đoàn này hoạt động kém hiệu quả thì sẽ dẫn tới thất thoát NSNN
do các khoản đầu tư thua lỗ. Sự kém hiệu quả trong đầu tư từ NSNN sẽ dẫn tới thất
thu trong tương lai, Chính phủ không có được các khoản thu như dự kiến, vay nợ vì
thế sẽ gia tăng và NSNN sẽ ngày càng thâm hụt trong dài hạn.
● Tác động của thâm hụt NSNN
Các tác động của thâm hụt NSNN sẽ được tạo ra bởi giải pháp được sử dụng để
bù đắp thâm hụt NSNN. Những ảnh hưởng lớn của thâm hụt ngân sách có thể kể tới
những tác động sau:
- Gia tăng lạm phát: Nếu Chính phủ bù đắp thâm hụt NSNN bằng việc in thêm
tiền sẽ làm lạm phát gia tăng nhanh chóng. Lượng tiền đưa vào lưu thông lớn hơn
lượng hàng hóa sẽ làm cho giá hàng hóa tăng lên (lạm phát). Lạm phát có thể không
kiểm soát được nếu lạm dụng việc in thêm tiền.
- Tác động tới lãi suất: Vay nợ trong nước để bù đắp thâm hụt NSNN sẽ làm
giảm cung tiền thực tế. Điều này sẽ buộc các ngân hàng . thương mại phải tăng lãi suất
để thu hút tiền gửi. Lãi suất cho vay cũng vì thế tăng lên, dẫn tới làm giảm đầu tư ở
khu vực tư nhân, kìm hãm tăng trưởng kinh tế.
- Tác động tới tỷ giá và cán cân thanh toán quốc tế: Vay nợ nước ngoài để bù
đắp thâm hụt NSNN sẽ dẫn tới đồng nội tệ lên giá. Điều này dẫn tới nhiều hệ quả xấu
như kìm hãm xuất khẩu, mất cân bằng trong thanh toán quốc tế khiến nền kinh tế trong
nước phụ thuộc nhiều vào nước ngoài.
- Gia tăng nợ công: Vay nợ nước ngoài còn dẫn tới áp lực trả nợ gia tăng. Khi
khủng hoảng nợ công xảy ra, Chính phủ sẽ mất kiểm soát đối với các chính sách tải
chính. Các quốc gia chủ nợ sẽ buộc Chính phủ phải thực hiện các chính sách thắt lưng
buộc bụng, điều này sẽ khiến nền kinh tế khó thoát khỏi khủng hoảng, suy thoái.

43. Các biện pháp xử lý thâm hụt NSNN và ưu, nhược điểm, điều kiện áp dụng
của mỗi biện pháp đó.

Giảm thâm hụt ngân sách chỉ có cách là tăng thu và giảm chi. Điều này phải được thực
hiện ngay từ khi dự toán ngân sách và xuyên suốt trong quá trình triển khai. Trong
trường hợp có thâm hụt ngân sách thì trên bảng cân đối NSNN sẽ xuất hiện thêm mục
bù đắp thâm hụt để cân bằng giữa thu và chi. Để bù đắp nguồn tiền thâm hụt ngân
sách, Chính phủ sẽ sử dụng một số giải pháp chính sau:
1. Phát hành tiền: là cung ứng tiền vào lưu thông làm phương tiện thanh toán
● Ưu điểm
- Việc phát hành thêm tiền để bù đắp thâm hụt có thể giúp đáp ứng nhanh
chóng nhu cầu bù đắp thâm hụt, không tốn kém nhiều chi phí, không gây
ra áp lực trả nợ
● Nhược điểm
- Việc in thêm tiền đưa vào lưu thông trong khi sản lượng kinh tế không
gia tăng sẽ khiến cho giá cả tăng cao, lạm phát xảy ra. Điều này làm đời
sống người dân gặp nhiều khó khăn, các vấn đề không chỉ kinh tế mà xã
hội, chính trị của quốc gia đó có thể bị ảnh hưởng nghiêm trọng
● Điều kiện áp dụng
- Cần có cơ quan quản lý kinh tế có thẩm quyền
- Để phát hành tiền phải đánh giá các yếu tố kinh tế quan trọng như lạm
phát, tăng giá và tăng trưởng kinh tế
- Thực hiện nghiêm ngặt các quy định để đảm bảo tính minh bạch và trách
nhiệm đối với công chúng
2. Vay nợ trong nước: được chính phủ thực hiện dưới hình thức phát hành công
trái, trái phiếu. Công trái, trái phiếu là những chứng chỉ ghi nhận nợ của Nhà
nước, là một loại chứng khoán hay trái khoán do Nhà nước phát hành để vay
các dân cư, các tổ chức kinh tế - xã hội và các ngân hàng.
● Ưu điểm
- Cho phép Chính phủ có thể duy trì việc thâm hụt ngân sách mà không cần tăng
cơ sở tiền tệ hoặc giảm dự trữ quốc tế. Vì vậy, biện pháp này được coi là một
cách hiệu quả để kiềm chế lạm phát
- Tập trung được khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong dân cư, tránh được nguy cơ
khủng hoảng nợ nước ngoài, dễ triển khai
● Hạn chế
- Chứa đựng nguy cơ kìm hãm sự phát triển của các hoạt động sản xuất, kinh
doanh của nền kinh tế. Bởi để vay được tiền Chính phủ phải đa dạng hóa các
hình thức vay như phát hành trái phiếu, tín phiếu, công trái,... Đồng thời phải
thực hiện nhiều biện pháp để tăng mức độ hấp dẫn người cho vay như lãi suất,
mở rộng ưu đãi về thuế thu nhập,..để huy động tối đa nguồn tiền trong dân cư
nhằm hoàn thành kế hoạch vay đã định.
- Vay nợ trong nước làm tăng lãi suất dẫn tới thoái hụt đầu tư ở khu vực tư nhân.
Hơn nữa, vay nợ trong nước phụ thuộc vào tiết kiệm của dân cư. Nếu thu nhập
bình quân đầu người thấp, tiết kiệm thấp thì quy mô vay nợ trong nước là rất
hạn chế
● Điều kiện áp dụng
- Nợ phải được sử dụng cho những mục đích đúng đắn và có lợi ích cho sự phát
triển kinh tế
- Cần có kế hoạch cụ thể, minh bạch, đảm bảo tính hiệu quả và độ bên vững
- Nợ cần được cân đối với quỹ đầu tư phát triển của Nhà nước
- Gía trị nợ không được vượt quá năng lực trả nợ của Nhà nước

3. Vay nợ nước ngoài: Chính phủ có thể tài trợ thâm hụt ngân sách bằng các
nguồn vốn nước ngoài thông qua việc nhận viện trợ nước ngoài hoặc vay nợ
nước ngoài từ các chính phủ nước ngoài, các định chế tài chính thế giới như
Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển
Châu Á (ADB),....
● Ưu điểm
- Là biện pháp tài trợ ngân sách hữu hiệu, có thể bù đắp được các khoản bội chi
mà lại không gây sức ép lạm phát cho nền kinh tế. Đây là một nguồn vốn quan
trọng bổ sung cho nguồn vốn thiếu hụt trong nước, góp phần thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội
● Nhược điểm
- Việc vay nợ nước ngoài khiến cho gánh nặng nợ nần, nghĩa vụ trả nợ tăng lên,
giảm khả năng chi tiêu của chính phủ
- Dễ khiến cho nền kinh tế trở nên bị phụ thuộc vào nước ngoài. Thậm chí, nhiều
khoản vay, quân sự, kinh tế khiến cho các nước đi vay bị phụ thuộc nhiều
● Điều kiện áp dụng
- Ngân sách Nhà nước cần có kế hoạch tài chính rõ ràng, liên quan đến việc vay
nợ và sử dụng nguồn tài chính này, tránh lãng phí và sử dụng không đúng mục
đích
- Cần đảm bảo sự trả nợ đúng thời hạn và đảm bảo không gây tăng nợ công lên
- Cần thực hiện các thủ tục pháp lý liên quan đến việc vay nợ để đảm bảo tính
hợp pháp của việc này

44. Trình bày nội dung “ Thuyết tương đương của Ricardo” và những bình luận
của bạn về thuyết này
→ Thuyết tương đương của Ricardo là một lý thuyết kinh tế cổ điển được phát triển
bởi nhà kinh tế David Ricardo vào thế kỷ 19. Theo thuyết này, các quốc gia có thể
tăng trưởng kinh tế thông qua việc tập trung vào sản xuất và xuất khẩu những mặt
hàng mà họ có lợi thế tương đối so với các quốc gia khác, và mua những mặt hàng mà
họ không sản xuất được từ các quốc gia khác.

Ricardo đưa ra ví dụ về thương mại giữa Anh và Bồ Đào Nha. Anh có lợi thế trong
sản xuất vải so với Bồ Đào Nha, trong khi Bồ Đào Nha có lợi thế trong sản xuất rượu
vang. Theo thuyết tương đương của Ricardo, Anh sẽ tập trung sản xuất và xuất khẩu
vải sang Bồ Đào Nha, trong khi Bồ Đào Nha sẽ sản xuất và xuất khẩu rượu vang sang
Anh. Kết quả là cả hai quốc gia đều sẽ có lợi nếu thực hiện thương mại trên cơ sở chia
sẻ lợi thế tương đối.

Theo Ricardo, việc tập trung vào sản xuất những mặt hàng mà mình có lợi thế tương
đối và mua những mặt hàng mà mình không có lợi thế sẽ làm tăng năng suất và hiệu
quả sản xuất, từ đó tăng cường năng suất lao động và thu nhập cho các công dân trong
quốc gia. Ngoài ra, thương mại theo cách này còn giúp tăng cường sự đa dạng hoá sản
phẩm và cải thiện chất lượng cuộc sống.

Tuy nhiên, thuyết tương đương của Ricardo cũng có một số hạn chế. Theo một số nhà
kinh tế, thương mại theo cách này có thể dẫn đến sự chuyển dịch việc làm, khi các
quốc gia tập trung sản xuất những mặt hàng mà mình có lợi thế và dẫn đến sự mất việc
làm trong các ngành khác. Ngoài ra, việc áp dụng thương mại tự do có thể ảnh hưởng
đến sự bình đẳng trong kinh tế và gây ra một số vấn đề xã hội như sự chênh lệch thu
nhập và khó khăn trong việc thích nghi với thị trường toàn cầu.

You might also like