Professional Documents
Culture Documents
Bư C 1 - Review T NG Bài Nghiên C U
Bư C 1 - Review T NG Bài Nghiên C U
C = X + c + c
ijf ij cf jf ijf
C = X + c + c
ijm ij cm jm ijm
C là mức độ tham gia chương trình, đo lường bằng lượng tín dụng nhận được.(đơn vị taka)
X là vectơ đặc điểm hộ gia đình
Biến độc lập: những người liên quan đến chủ hộ có sở hữu đất riêng (cha mẹ ruột, anh chị em
ruột,..), giới tính chủ hộ, tuổi chủ hộ, giáo dục…
b) Ước tính tác động của tín dụng
y là biến kết quả (lần lượt là chi tiêu bình quân đầu người, tài sản không kể đất của phụ nữ,
cung lao động, giáo dục trẻ em)
2. Khandker (2003)
Đề tài: “Tín dụng vi mô và nghèo khó: Bằng chứng sử dụng dữ liệu bảng từ Bangladesh”
Ước tính tác động dài hạn của tín dụng vi mô đến thu nhập và tài sản hộ gia đình tại
Bangladesh.
2.1. Dữ liệu
Khảo sát 1,769 hộ gia đình từ 87 ngôi làng của 29 xã giai đoạn năm 1991-1992. Khảo sát
cũng tiến hành cho hộ gia đình như vậy vào giai đoạn năm 1998-1999.
2.2. Phương pháp nghiên cứu_Mô hình
Kế thừa nghiên cứu Pitt và Khandker (1998)
Nghiên cứu 3 vấn đế:
Thứ nhất, Xác định xem người nghèo mà thiếu thốn về vật chất (như đất đai) và vốn con
người (như giáo dục) thật sự tham gia nhiều hơn vào tín dụng vi mô hay không.
a) Ước tính Tobit tác động cố định (Fixed effect Tobit estimation)
Bijmt Bijft Là lượng tín dụng tích lũy nhận được bởi nam hoặc nữ của hộ gia đình thứ i làng j
giai đoạn t.
X Là vectơ đặc điểm hộ gia đình. (tài sản, đất đai, giáo dục)
Là tham số chưa biết.
Là yếu tố quyết định nhu cầu tín dụng không đo lường được mà nó thì cố định và không
thay đổi với hộ gia đình.
Là yếu tố quyết định nhu cầu tín dụng không đo lường được mà nó thì cố định và không
thay đổi với làng.
Thứ hai, Nghiên cứu sẽ ước tính tác động dài hạn của tín dụng vi mô đến giảm nghèo.
b) Hàm biến công cụ (IV estimation) tác động cố định
Đánh giá tác động dài hạn của người nhận tín dụng dựa trên tổng chi tiêu bình quân đầu
người, chi tiêu bình quân đầu người cho lương thực, chi tiêu bình quân đầu người phi lương thực,
tài sản không kể đất đai, mức độ nghèo.
Thư ba, Nghiên cứu sẽ ước tính tác động tràn của tín dụng vi mô nếu chương trình giúp cho
người nghèo mà không tham gia vào chương trình.
c) Ước tính tác động tràn và gộp (spillover and aggregate impacts)
2.3. Kết quả
Hộ nghèo mà có đất chiếm hữu và giáo dục không chính thức có xu hướng tham gia nhiều
hơn.
Tài chính vi mô có tác dụng mạnh hơn đến các hộ nghèo lâm vào cảnh bần cùng (extreme
poverty).
Chương trình tín dụng vi mô có tác động tích cực đến phúc lợi của các hộ gia đình bao gồm
cả người không tham gia do tác động tràn.
3. Arun(2006)
Đề tài: “Tín dụng vi mô làm giảm nghèo ở Ấn Độ ? Phương pháp ghép cặp xác suất dựa trên
dữ liệu hộ gia đình cấp quốc gia”
Ước tính tác động giảm nghèo cho việc tiếp cận tín dụng vi mô và vay sử dụng cho mục đích
sản xuất.
Biến phụ thuộc là chỉ tiêu IBR.
3.1. Lý thuyết sử dụng
Chỉ tiêu Index Based Ranking (IBR) (Sihna 2002) phản ánh khía cạnh đa chiều nghèo đói
như nhu cầu cơ bản, vốn xã hội, năng lực hoặc dễ bị tổn hại (xâm hại) (vulnerability).
3.2. Dữ liệu
Thiết kế khảo sát tiến hành bằng Dữ liệu chéo (cross-sectional data) của hệ thống EDA cho
ngân hàng phát triển tiểu công nghiệp ở Ấn Độ (SIDBI: Small Industries Development Bank of
India) năm 2001. Mẫu bao gồm 20 tổ chức tín dụng vi mô của SIDBI và 5327 hộ gia đình. Bao
gồm khu vực thành thị và nông thôn.
3.3. Phương pháp nghiên cứu_Mô hình
Phương pháp propensity score matching.
Giả thuyết chính của nghiên cứu là tiếp cận tín dụng đến giảm nghèo đo lường bằng chỉ tiêu
IBR.
Phương pháp ghép cặp xác suất (Propensity score matching). Rosenbaum và Rubin (1983)
Giá trị xác suất (propensity score) là xác suất tham gia chương trình tín dụng.
Tác động chính sách tài chính vi mô được ước tính theo cách Becker và Ichino (2002)
W1i – W0i | Di=1}
W1i – W0i | Di=1, p(Xi)}}
W1i| Di=1, p(Xi)} – W0i| Di=0, p(Xi)}| Di=1}
Trong đó i chi phối hộ gia đình thứ i
W1i, W0i là kết quả (như tình trạng khá giả hay nghèo đo lường bằng chỉ tiêu IBR) cho 2 tình
huống đối chứng: tiếp cận và không tiếp cận tài chính vi mô.
Phương trình đầu tiên là tác động chính sách được xác định bằng khác biệt của chỉ số IBR hộ
gia đình thứ i với tiếp cận tín dụng và hộ gia đình đối chứng khi không tiếp cận tín dụng.
Phương trình thứ hai tương tự phương trình thứ nhất nhưng xác định bằng phân phối giá trị
xác suất.
Phương trình thứ ba là tác động chính sách đo lường khác biệt giữa IBR hộ gia đình thứ i tiếp
cận tín dụng có phân phối xác suất giống hộ gia đình không nhận được chương trình tín dụng
nhưng cùng phân phối xác suất.
Mô hình logit xác định tiếp cận tín dụng vi mô
Trường hợp A:
Biến phụ thuộc: MFI_Status
Biến độc lập: Age, Age_square, Female, Education, Hhsize, Dependency, Caste_dum.
Trường hợp B:
Biến phụ thuộc: MFI_productive
Biến độc lập: Age, Age_square, Female, Education, Hhsize, Dependency, Caste_dum.
Định nghĩa các biến
MFI_status: Tiếp cận tín dụng vi mô của các thành viên trong hộ gia đình. (Biến phụ thuộc)
MFI_productive: Hộ gia đình vay cho mục tiêu sản xuất. (Biến phụ thuộc)
Age: Tuổi chủ hộ.
Female: Chủ hộ là nữ.
Educationg: Trình độ của chủ hộ (0=mù chữ, 1= hoàn tất giáo dục tiểu học (Lớp 5), =2 hoàn
tất chương trình cao hơn (Lớp 12)).
Hhsize: Số thành viên trong hộ gia đình.
Dependency: Tỉ lệ phụ thuộc (tỉ lệ số thành viên dưới 15 tuổi hoặc hơn 60 tuổi trong tổng số
thành viên hộ gia đình).
Caste_dum: Tầng lớp hoặc bộ lạc bần nông thuộc diện hỗ trợ chính sách ở Ấn Độ.(=0) hoặc
không (=1)
Urban_dum: Hộ gia đình ở khu vực đô thị hoặc không phải.
IBR indicator: Chỉ số xếp hạng (Indexed Based Ranking) của phúc lợi hộ gia đình.
3.4. Kết quả
Vay vốn cho việc tăng sản xuất là quan trọng để giúp hộ nghèo thoát khỏi nghèo đói và bảo
vệ họ thoát khỏi những cú sốc. Ở khu vực thành thị, tác động giảm nghèo nhiều hơn.
Hộ gia đình ở khu vực nông thôn cần vay từ tổ chức tín dụng cho mục đích sản xuất để giảm
nghèo, trong khi tiếp cận tổ chức tín dụng thì đầy đủ đơn giản cho khu vực thành thị để giảm
nghèo.
4. Imai (2010)
Đề tài: “Tín dụng vi mô và giảm nghèo hộ gia đình: Bằng chứng mới từ Ấn Độ”
4.1. Lý thuyết sử dụng
Chỉ tiêu Index Based Ranking (IBR) được tạo ra nhằm khắc phục những hạn chế trong đo
lường nghèo thông qua chi tiêu hoặc thu nhập, và nắm bắt được phi thu thập và khía cạnh nghèo
đa chiều, chẳng hạn như nhu cầu cơ bản, sự giàu có, loại hình nhà ở, việc làm, an ninh việc làm ,
vệ sinh và an toàn thực phẩm Sinha (2009). IBR tính thực tế cao hơn, ít tốn kém hơn so với khảo
sát chi tiêu, dựa trên câu hỏi ít gây khó chịu nhạy cảm và lại đơn giản. Bên cạnh đó độ tin cậy cao
hơn, hạn chế giả mạo và sai số. Người trả lời được yêu cầu về chất lượng cuộc sống ở một vài
khía cạnh và chỉ tiêu IBR tạo ra giống như tổng trọng số của các loại khác nhau với điểm số tối
đa là 60.
Điểm số thực tế dựa vào những quan sát định lượng của những nhà nghiên cứu đã được đào
tạo sử dụng tiêu chuẩn thông thường. Những khía cạnh bao gồm (i) Nông nghiệp (ví dụ: diện tích
theo mẫu Anh, giá trị thu hoạch một vụ năm ngoái theo đồng rupi,và chẳng hạn như đại diện cho
an ninh lương thực, như số tháng trữ lại của vụ thu hoạch đáp ứng nhu cầu gia đình); (ii) Việc
làm (Ví dụ: Thu nhập đều đặn, loại công việc thường xuyên và đột xuất, phân loại nhị phân theo
mức thu nhập, số người có việc làm); (iii) chăn nuôi (số lượng trâu, bò, dê, lợn và gia cầm); (iv)
phương tiện vận chuyển và tài sản gia đình (ví dụ như số lượng xe đạp, xe kéo, hai hoặc bốn
bánh; sở hữu tủ lạnh, TV, hoặc điện thoại); (v) quyền sở hữu nhà và các loại nhà ở (sở hữu, thuê,
hoặc vô gia cư, kích thước ngôi nhà - lớn, vừa hoặc nhỏ, kết nối điện); và (vi) vệ sinh (có hoặc
không có quyền truy cập vào công cộng, chia sẻ hoặc nhà vệ sinh riêng , có hoặc không có phòng
tắm, bên trong hoặc bên ngoài). Chỉ số IBR do đó phản ánh thu nhập hoặc việc làm hoặc đặc
điểm kinh doanh, nhu cầu cơ bản như an ninh lương thực, sự sẵn có của thiết bị vệ sinh, nhà ở và
đặc điểm tài sản. Hộ gia đình được phân thành năm loại, cụ thể là “rất nghèo” (với một chỉ số
IBR 8 hoặc ít hơn; 5,1% trong tổng số mẫu 5260), “nghèo” (IBR - 9-18; 23,6%), “nghèo vừa
hoặc đường ranh giới”(IBR - 19-29; 33,5%), “tự túc” (IBR - 30-40; 33,5%), và “thặng dư” (IBR -
41-60) (Sinha, 2009).
Nghiên cứu sử dụng hai định nghĩa khác nhau tiếp cận các tổ chức TCVM; (a) hộ gia đình là
một khách hàng của bất kỳ tổ chức TCVM (“MFI_Access”) , và (b) hộ gia đình đã thực hiện một
khoản vay từ MFI cho một hoạt động sản xuất (“MFI_Productive”). Định nghĩa đầu tiên được sử
dụng để quan sát ảnh hưởng của tiếp cận MFI để giảm nghèo thứ hai là liên quan với hộ gia đình
vay đối với hoạt động sản xuất (và có một số dư của các khoản vay tại thời điểm điều tra) dẫn đến
sự gia tăng sản xuất. Ví dụ như mua nguyên liệu đầu vào cho nông nghiệp hoặc đầu tư vào kinh
doanh phi nông nghiệp, chẳng hạn như sửa chữa một cửa hàng. Trong trường hợp này , các khoản
vay được để tự tiêu dùng hoặc các mục đích phi sản xuất được loại trừ. Phân loại nhị phân cho
“liệu hộ gia đình sử dụng các khoản vay MFI cho mục đích sản xuất” là chỉ dựa vào nhận thức
của người trả lời về bản chất của các khoản vay của họ và do đó khả năng không thể loại trừ các
khoản cho vay đã thực sự được sử dụng cho mục đích khác.
4.2. Dữ liệu
Thiết kế khảo sát tiến hành bằng Dữ liệu chéo (cross-sectional data) của hệ thống EDA cho
ngân hàng phát triển tiểu công nghiệp ở Ấn Độ (SIDBI: Small Industries Development Bank of
India) năm 2001. Mẫu bao gồm 20 tổ chức tín dụng vi mô của SIDBI và 5260 hộ gia đình.
Giả thiết của nghiên cứu: (1) tiếp cận tổ chức tín dụng và vay sản xuất giảm nghèo (2) Số
lượng vay sản xuất có tác động giảm nghèo.
4.3. Phương pháp nghiên cứu_Mô hình
a) Mô hình tác động xử lí (treatment effects model) kết hợp xu hướng điểm theo
thời gian (Propensity Score Matching) để kiểm tra .Lý thuyết Heckman
(1979)
Giả thiết chính là tiếp cận tổ chức tín dụng giảm nghèo đo lường bằng chỉ số IBR.
Nhóm biến đại diện cho đặc điểm hộ gia đình bao gồm tuổi chủ hộ, giới tính chủ hộ, trình độ
giáo dục, kích thước hộ gia đình,tỷ lệ phụ thuộc, tôn giáo, khoản vay chính thức...
Giai đoạn đầu tiên:
Tiếp cận tổ chức tín dụng đo lường bằng mô hình Probit. (Greene, 2003)
Di* = Xi + ui
Với Di*=1 nếu Di* = Xi + ui > 0
Ngược lại Di* = 0
Pr{ Di*=1Xi }= ’ Xi )
Pr{ Di*=0Xi }= 1- ’ Xi )
Di* là biến tiềm ẩn. Di*=1 nếu hộ gia đình tiếp cận tổ chức tín dụng và ngược lại bằng 0.
Xi là vectơ đặc điểm hộ gia đình.
Tiếp cận tín dụng vi mô theo 2 hướng:
(a) hộ gia đình là một khách hàng của bất kỳ tổ chức TCVM (“MFI_Access”)
Biến phụ thuộc: MFI_Access
(b) hộ gia đình đã thực hiện một khoản vay từ MFI cho một hoạt động sản xuất
(“MFI_Productive”)
Biến phụ thuộc: MFI_Productive
Giai đoạn thứ hai
Mô hình tác động xử lý cho giảm nghèo.
Ước tính tác động giảm nghẻo bằng các biến phúc lợi với biến phụ thuộc là IBR.
Biến độc lập là đặc điểm hộ gia đình.
b) Mô hình Tobit.
Ước tính tác động giảm nghèo từ việc cho vay sản xuất.
Maddala (1983), Amemiya (1984)
yt là biến phụ thuộc. (Đo lường bằng chỉ tiêu IBR)
Xt là vectơ các biến độc lập. (Đặc điểm hộ gia đình)
4.4. Kết quả
Nghiên cứu nhận thấy rằng các khoản vay cho mục đích sản xuất quan trọng đến việc giảm
đói nghèo ở nông thôn hơn là thành thị.
Tuy nhiên ở khu vực thành thị, việc dễ dàng tiếp cận tín dụng vi mô có ảnh hưởng đến công
cuộc giảm đói nghèo lớn hơn việc sử sụng các khoản cho vay từ tín dụng vi mô cho mục đích sản
xuất.
NGHIÊN CỨU ĐƯỢC TIẾN HÀNH Ở VIỆT NAM
1. Hao (2005)
Đề tài: “Tiếp cận tài chính và giảm nghèo. Áp dụng cho khu vực nông thôn Việt Nam”
Nghiên cứu tiến hành ở Việt Nam. Nghiên cứu bao gồm: xem xét các chương trình tín dụng
vi mô ở khu vực nông thôn, nhóm sẽ tham gia vào khu vục tín dụng ở nông thôn, Nhân tố tác
động đến việc tiếp cận tín dụng đến giảm nghèo: dữ liệu chéo (cross-section data) và dữ liệu bảng
(panel data).
1.1. Lý thuyết sử dụng
Khái niệm tài chính vi mô
ADB (2000) định nghĩa tài chính vi mô là sự cung cấp một loạt các dịch vụ tài chính như cho
vay, tiền gửi, dịch vụ thanh khoản, chuyển tiền, bảo hiểm cho các hộ nghèo, hộ thu nhập thấp và
doanh nghiệp nhỏ của họ.
CGAP (Ngân hàng Thế giới) trong trang web của họ về cơ bản xác định tài chính vi mô như
cung cấp các hộ rất nghèo các khoản vay rất nhỏ (vi mô) để giúp họ tham gia vào các hoạt động
sản xuất hoặc phát triển doanh nghiệp nhỏ của họ.
Legerwood (1999) đề xuất tài chính vi mô như một cách tiếp cận phát triển, bao gồm các
trung gian tài chính và xã hội, nhằm mục đích có lợi cho hộ gia đình thu nhập thấp. Dịch vụ tài
chính nói chung bao gồm tiết kiệm và tín dụng nhưng một số tổ chức tài chính vi mô cũng cung
cấp dịch vụ bảo hiểm và thanh toán. Ngoài trung gian tài chính, Legerwood tiếp tục giả định rằng
nhiều tổ chức TCVM cung cấp dịch vụ trung gian xã hội như thành lập nhóm, phát triển sự tự tin,
và đào tạo kiến thức tài chính và khả năng quản lý giữa các thành viên của một nhóm. Như vậy,
định nghĩa của tài chính vi mô bao gồm cả trung gian tài chính và trung gian xã hội. Tài chính vi
mô là như vậy, không chỉ đơn giản là một công cụ ngân hàng mà còn là một công cụ phát triển.
Theo một nghiên cứu của Meyer và Nagarajan (1992, 2000), hệ thống tài chính vi mô bao
gồm ba lĩnh vực chính: khu vực chính thức, bán chính thức và không chính thức.
Khu vực chính thức bao gồm các loại của các ngân hàng như ngân hàng thương mại, ngân
hàng phát triển, ngân hàng tiết kiệm, ngân hàng hợp tác, và các đơn vị và các ngân hàng nông
thôn trong khu vực; hệ thống tiết kiệm bưu phí ; các công ty bảo hiểm; các chương trình an sinh
xã hội; quỹ hưu trí, và ở một số nước, vốn thị trường.
Khu vực chính thức được quy định và giám sát của cơ quan quản lý. Khu vực bán chính thức
bao gồm tổ chức tài chính phát triển cộng đồng chẳng hạn như các hợp tác xã tín dụng và công
đoàn tín dụng vv. ngân hàng làng, hội nông dân; tích hợp các chương trình phát triển nông thôn;
và tổ chức phi chính phủ các chương trình tài chính.
Khu vực không chính thức gồm nhiều lĩnh vực, các hộ gia đình tài chính và các doanh nghiệp
nhỏ trong một loạt các mức thu nhập và các khu vực địa lý. Thị trường tài chính không chính
thức được nhìn thấy phổ biến và được đặc trưng, trong nhiều trường hợp, bởi các mối quan hệ cá
nhân, hoạt động riêng rẽ, dễ dàng tiếp cận, thủ tục đơn giản, giao dịch nhanh chóng, và các điều
khoản và các khoản vay linh hoạt.
Khái niệm tính bền vững của tài chính vi mô Schreiner (1996), Christen và Drake (2001).
1.2. Dữ liệu
Sử dụng dữ liệu từ Điều tra mức sống dân cư Việt Nam (VLSS) dữ liệu vào năm 1992/1993
và năm 1997/1998. Trong đó có hơn một nghìn hộ gia đình được lấy mẫu lặp đi lặp lại trong cả
hai giai đoạn.
1.3. Phương pháp nghiên cứu_Mô hình
Khi nghiên cứu về nhóm nào sẽ tham gia tín dụng?
Kết quả
Nhóm vay tín dụng chính thức khu vực nông thôn sẽ bị tác động bởi giáo dục, tiết kiệm hộ
gia đình, tín dụng sẵn có và khu vực dành cho trang trại đồn điền. Cung cấp tín dụng nhiều hơn ở
khu vực hộ khá giả. Tương tự họ cũng tìm ra rằng những hộ gia đình có trình độ cao, tiết kiệm
nhiều và năng suất canh tác cao hơn sẽ vay nhiều hơn.
Nghiên cứu thực nghiêm dựa trên nghiên cứu tình huống (case studies) tại khu vực nông thôn
Việt Nam.
Phân tích kinh tế lượng (econometric analyses) để đánh giá tác động việc tiếp cận tín dụng
đến giảm nghèo hộ gia đình bằng sử dụng dữ liệu chéo (cross-sectional data) và dữ liệu bảng
(panel data). Kết quả phân tích nhận thấy rằng việc tiếp cận dịch vụ tín dụng có tác động tích cực
đến việc giảm nghèo trong cả ngắn hạn lẫn dài hạn.
Theo dữ liệu chéo (cross-sectional data)
Giai đoạn 1:
Sử dụng phương trình sau và tiến hành kiểm định sử dụng mô hình Tobit
Trong đó C là tổng số hộ nhận chương trình. X 1’ là vectơ đặc điểm của hộ gia đình; X 2’ là
vectơ đặc điểm thị trường địa phương; X3’ là vectơ đặc điểm của hộ vay; Wc là vectơ của những
biến không kiểm soát được; i là hộ, j là khu vực.
Chúng ta sẽ chọn lựa và tiến hành kiểm định khác biệt cho 2 mô hình ở khu vực nông thôn
cho 2 giai đoạn 1992/1993 và 1997/1998. Sau đó điều chỉnh dữ liệu lỗi, mẫu giai đoạn 1997-1998
bao gồm 4101 hộ gia đình nông thôn trong đó có 2108 hộ gia đình nhận được chương trình tín
dụng. Giai đoạn 1992-1993, mẫu bao gồm 3264 hộ gia đình nông thôn trong đó có 1733 hộ gia
đình nhận chương trình tín dụng.
Kết quả 2 giai đoạn đều cho thấy rằng tuổi của người chủ hộ, kích thước hộ gia đình (số
thành viên) có tác động đáng kể. Các biến số đại diện (proxy variables) cho tài sản hộ gia đình có
liên quan gồm trình độ giáo dục của chủ hộ và sở hữu đất canh tác, tiết kiệm hộ gia đình cũng có
tác động.
Ngoài ra, các quỹ tín dụng chính thức và phi chính thức sẵn có liên quan đến tổng hộ gia đình
nhận được tín dụng.
Giai đoạn 2 :
Đánh giá chương trình tín dụng đến phúc lợi hộ nghèo
Chúng ta sử dụng hàm hồi quy sau và tiến hành kiểm định phương pháp OLS
Y là phúc lợi hộ gia đình. (Biến phụ thuộc là logarit của chi tiêu bình quân đầu người, chi
tiêu lương thực bình quân đầu người và chi tiêu phi lương thực bình quân đầu người. X 1, X2, W là
vectơ đặc điểm hộ gia đình, đặc điểm thị trường địa phương và đặc điểm đối tượng không quan
sát được. Ước tính hệ số βc là tác động chương trình tín dụng đến phúc lợi hộ gia đình.
Tiến hành kiểm định sự khác biệt cho 2 mẫu giai đoạn 1997-1998 và 1992-1993.
Kết quả là chương trình tín dụng có tác động tích cực đến phúc lợi hộ gia đình và giảm
nghèo.
(tuy nhiên tác động nhỏ)
Theo dữ liệu bảng (panel data)
Nhiều nghiên cứu trước chỉ ra rằng mối quan hệ tích cực giữa tín dụng vi mô với giảm nghèo
nhưng chỉ dựa trên dữ liệu chéo các hộ gia đình. Quach, Mullineux và Murinde (2003), Pham và
Izumita (2002) Như vậy, vẫn chưa cho biết được nhiều về tác động lâu dài của tiếp cận tín dụng
đến phúc lợi hộ gia đình. Một trong số ít nghiên cứu tác động lâu dài là Khandker (2003). Kế
thừa, Áp dụng hồi quy Probit và hồi qui hai bước của Heckman trong bài nghiên cứu này.
Bước 1: Áp dụng hồi quy Probit để ước tính xác suất trở thành hộ gia đình tham gia vào
chương trình.
Kết quả: Các biến tác động đến việc vay tín dụng bao gồm: tuổi hộ gia đình,chuyển đổi hình
thức sản xuất, tiết kiệm, giáo dục, sở hữu đất, sẵn có của các quỹ tín dụng .
Bước 2: Ước tính các yếu tố ảnh hưởng đến sự thay đổi trong vay tín dụng của hộ gia đình.
Sử dụng mẫu của các hộ tham gia vay trong cả 2 giai đoạn.
Kết quả: Các biến tác động đến thay đổi vay tín dụng bao gồm: chuyển đổi hình thức sản
xuất, tiết kiệm, giáo dục, sẵn có của các quỹ tín dụng .
Bước 3: Ước tính tác động của hộ gia đình vay tín dụng đến phúc lợi. Sử dụng hồi quy
Heckman bằng cách tính tỷ số Mills nghịch đảo từ ước lượng probit
Kết quả: Các biến đại diện phúc lợi bị tác động: chi tiêu bình quân đầu người, chi tiêu lương
thực bình quân đầu người, chi tiêu phi lương thực, tình trạng nghèo
4. Doan (2011)
Đề tài: “Tác động của tín dụng hộ gia đình đến chi tiêu dành cho giáo dục và chăm sóc sức
khỏe của người nghèo ở khu vực vùng ven đô thị ở Việt Nam”
4.1. Lý thuyết sử dụng
Tác động tín dụng đến giáo dục và sức khỏe.
Tín dụng có thể ảnh hưởng đến nhu cầu hộ gia đình cho giáo dục và sức khỏe theo 2 hướng.
Một mặt, tín dụng vi mô có thể giúp các hộ gia đình có thu nhập cao hơn, điều này làm tăng tiêu
dùng và làm tăng nhu cầu về chăm sóc sức khỏe và giáo dục trẻ em. Mặt khác, nếu tín dụng vi mô
tạo việc làm cho đối tượng nữ nhiều hơn, nó có thể làm giảm giáo dục trẻ em bởi những đứa trẻ
này phải thay thế mẹ mình để chăm sóc em của chúng hoặc làm việc trong các doanh nghiệp hộ
gia đình mở rộng. (Armendariz and Morduch 2005, p. 201).
Có bằng chứng hỗn hợp cho rằng cũng tồn tại những tác động ngược chiều. Giáo dục bị thiếu
thốn trong các nước nghèo thường là do thiếu tiếp cận với tín dụng từ các hộ gia đình bởi vì họ
phải đối mặt với những cú sốc và bất lợi trong tiếp cận tín dụng. Vì thế dẫn đến những đứa trẻ có
thể phải bỏ học để giảm chi tiêu hộ gia đình và tăng thu nhập lao động bằng cách tăng giờ làm
việc bao gồm cả lao động là trẻ em (Dehejia và Gatti năm 2002; Edmonds, 2006; Jacoby và
Skoufias năm 1997; Kurosaki, 2002; Ranjan 2001). Ngoài ra, các hộ gia đình vay để cho những
đứa trẻ nghỉ học để làm việc trong các doanh nghiệp gia đình bởi vì các khoản vay nhỏ thường
kết hợp với lãi suất cao hơn và điều kiện trả nợ ngắn hạn (Hazarika và Sarangi 2008). Để đáp ứng
các yêu cầu này, các hộ nghèo có thể giảm chi phí của họ bằng cách sử dụng lao động của mình,
có thể bao gồm lao động trẻ em. Ví dụ, Beegle, Dehejia và Gatti (2004) trong một nghiên cứu về
Việt Nam tìm ra rằng các hộ gia đình vay mượn với nguồn lãi suất cao hơn thì sử dụng lao động
trẻ em nhiều hơn.
4.2. Dữ liệu
Tiến hành một nghiên cứu đánh giá tác động của tín dụng hộ gia đình đến giáo dục và chi
tiêu y tế của người nghèo ở các vùng ven đô thị thành phố Hồ Chí Minh.
Mẫu bao gồm 411 hộ gia đình nhận và không nhận được chương trình được phỏng vấn vào
đầu năm 2008 trong các vùng ven quận 9 TP Hồ Chí Minh. Mẫu được chọn ra trong danh sách
các hộ nghèo mà thu nhập bình quân đầu người ban đầu của họ dưới mức nghèo chung của TP
Hồ Chí Minh là 6 triệu đồng (xấp xỉ 1 USD mỗi ngày). Chọn mẫu theo 2 bước, đầu tiên chọn
phường sau đó chọn hộ gia đình. Mẫu đại diện cho nhóm nghèo mà mức nghèo ban đầu của họ
dưới mức nghèo tại thời điểm khảo sát ở quận. Nhưng không đại diện cho TP Hồ Chí Minh và
cho Việt Nam.
Cuộc điều tra tiến hành trên các biến số về kinh tế, nhân khẩu học, đặc điểm của xã, tài sản
cố định và tài sản lâu bền (household durable and fixed assets), chi phí học tập và giáo dục trẻ
em, y tế, lương thực, phi lương thực, chi phí nhà ở, hoạt động vay.
4.3. Phương pháp nghiên cứu_Mô hình
Phương pháp chính : Propensity Score Matching (gọi tắt là phương pháp PSM).
Nhóm biến số đặc điểm hộ gia đình được đưa vào mô hình như: giới tính chủ hộ, tuổi, giáo
dục, tình trạng hôn nhân, tỷ lệ trẻ em tuổi đến trường, số lượng trẻ em và biến dummy phường.
4.4. Kết quả
Kết quả cho thấy có tác động tích cực từ các khoản vay tín dụng chính thức đến giáo dục và
chi tiêu chăm sóc sức khỏe.