You are on page 1of 46

LUẬT HIẾN PHÁP

Câu 1:Mối quan hệ giữa Quốc Hội và Chính Phủ nước ta theo Hiến pháp 2013
Không một xã hội nào có đối kháng giai cấp mà không có nhà nước và các nhà nước đương
đại hiện nay phần lớn đều có 3 cơ quan chính là Quốc hội hay “nghị viện” chuyên lập ra
pháp luật, Chính phủ thực hiện pháp luật đó trong thực tế và các cơ quan tư pháp chuyên
bảo vệ pháp luật. Các cơ quan này có phần việc của mình và độc lập tương đối với nhau tuy
nhiên giữa chúng vẫn có nhưng mối quan hệ nhất định. Ở các nước tư sản phân chia quyền
lực nhà nước thành 3 phần lập pháp, hành pháp và tư pháp 3 phần này kiềm chế đối trọng với
nhau kiểm tra giám sát lẫn nhau. Ở các nước xã hôi chủ nghĩa cụ thể là ở nước ta trên nguyên
tắc quyền lực nhà nước là thống nhất nên không hình thành thế kìm chế đối trọng mà chỉ có
quóc hội cơ quau đân cử cao nhất của quyền lực nhà nước có quyền kiểm tra giám sát các cơ
quan khác. Tuy nhiên trên thực tế hiện nay cho dù ở các nước tư sản hay XHCN thì thực
quyền của Chính phủ vẫn rất lớn quyền lực của Quốc hội phần nào đó chỉ là trên lý luận. Cho
nên mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn dưới góc độ này có thể xem xét như mối quan hệ
giữa Quốc hội và Chính phủ hiện nay.
Trong Hiến pháp 2013, mối quan hệ giữa Quốc hội với Chính phủ được thể hiện rõ nét
thông qua các hoạt động chủ yếu sau đây:
* Trong hoạt động tổ chức Chính phủ:
– Chính phủ gồm Thủ tướng Chính phủ, các phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và
Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Cơ cấu, số lượng thành viên Chính phủ do Quốc hội quyết
định.
– Quốc hội có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng Chính phủ theo đề nghị
của Chủ tịch nước, có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm các Phó Thủ tướng Chính
phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ.
Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Chính phủ, Quốc hội, Uỷ
ban thường vụ Quốc hội.
– Nhiệm kì của Chính phủ theo nhiệm kì của Quốc hội, khi Quốc hội hết nhiệm kì Chính phủ
tiếp tục làm việc cho đến khi Quốc hội khoá mới thành lập Chính phủ mới.
– Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội.
* Trong hoạt động xây dựng pháp luật:
– Chính phủ có nhiệm vụ trình dự án luật, dự án ngân sách nhà nước và các dự án khác trước
Quốc hội; trình dự án pháp lệnh trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
– Chính phủ có nhiệm vụ tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp
lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
– Chính phủ có quyền đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội bãi bỏ văn bản của Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, UBND, Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
trái với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên.
– Quốc hội có quyền bãi bỏ văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trái với Hiến pháp,
luật, nghị quyết của Quốc hội. Uỷ ban thường vụ Quốc hội có quyền đình chỉ việc thi hành
văn bản của Chính phủ, thủ tướng Chính phủ; bãi bỏ văn bản của Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
* Trong hoạt động kiểm tra, giám sát:
– Uỷ ban thường vụ Quốc hội có quyền giám sát hoạt động của Chính phủ.
– Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn các thành viên của Chính phủ, người bị chất vấn phải
trả lời chất vấn trước Quốc hội tại kì họp, trong trường hợp cần điều tra thì Quốc hội cho trả
lời trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc tại kì họp sau hoặc gửi văn bản trả lời.
* Trong hoạt động quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước:
– Bộ trưởng, thủ trưởng các cơ quan ngang bộ chịu trách nhiệm cá nhân trước Thủ tướng
Chính phủ, Chính phủ, và Quốc hội về ngành, lĩnh vực được phân công, phụ trách.
– Về hoạt động đối nội: Chính phủ có quyền trình Quốc hội quyết định thành lập, giải thể,
nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành
chính- kinh tế đặc biệt; trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập, giải thể nhập,
chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
– Về hoạt động đối ngoại: Theo sự phê chuẩn của Quốc hội và sự uỷ quyền của Chủ tịch
nước, Chính phủ tổ chức đàm phán, kí kết điều ước quốc tế nhân danh nhà nước; quyết định
việc kí, gia nhập, phê duyệt hoặc chấm dứt hiệu lực các điều ước quốc tế nhân danh Chính
phủ.
Câu 2: Phân tích vai trò giám sát của Quốc Hội
Giám sát là việc chủ thể theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, xử
lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý.
Tại điều 69 Hiến pháp 2013 quy định: “Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp,
quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà
nước”. Quốc hội “Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị
quyết của Quốc hội; xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội,
Chính phủ, Tòa án Nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng Bầu cử quốc
gia, Kiểm toán Nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập (Khoản 2, Điều 70, Hiến
pháp 2013).
Ủy ban Thường vụ Quốc hội giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội,
pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của Chính phủ,
Tòa án Nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước và cơ quan
khác do Quốc hội thành lập (khoản 3, Điều 72, Hiến pháp 2013). Giám sát và hướng dẫn hoạt
động của Hội đồng nhân dân; bãi bỏ nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; giải tán
Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong trường hợp Hội đồng nhân
dân đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân (khoản 7, Điều 72, Hiến pháp
2013).
Hội đồng dân tộc nghiên cứu và kiến nghị với Quốc hội về công tác dân tộc; thực hiện quyền
giám sát việc thi hành chính sách dân tộc, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số (khoản 2, Điều 75, Hiến pháp 2013). Tại khoản
2, điều 76 quy định về quyền giám sát của Ủy ban của Quốc hội là “thực hiện quyền giám sát
trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do luật định; kiến nghị những vấn đề thuộc phạm vi hoạt
động của Ủy ban”.
Về mặt pháp lý, các quy định hiện hành đã chỉ rõ thẩm quyền giám sát tối cao của Quốc hội,
việc thực hiện các nghị quyết, kiến nghị được tăng cường giám sát hiệu quả hơn. Việc thực
hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội có ý nghĩa hết sức quan trọng, thể hiện vai trò của
cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, góp phần
nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước, bảo đảm tôn trọng và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân.
Quốc hội thực hiện chức năng giám sát tối cao bằng cách:
– Xem xét các báo cáo công tác của Chủ tịch nước, UBTVQH, Chính phủ, Toà án nhân dân
tối cao,..
– Xem xét các đề nghị của các cơ quan của Quốc hội, của đại biểu Quốc hội, của các cơ
quan, tổ chức và cá nhân về các văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước, UBTVQH,
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao
có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.
– Xem xét chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp.
– Thành lập Uỷ ban lâm thời, Đoàn giám sát trong những trường hợp cần thiết để điều tra về
một vấn đề nhất định.
– Quốc hội thành lập các cơ quan và bầu ra các chức danh sao cho hợp lí (đúng người đúng
khả năng) chính là một hành vi thực hiện quyền giám sát
Câu 3: Phân tích nhiệm vụ, quyền hạn của Chính Phủ theo Hiến pháp 2013
Hiến pháp 2013 đã sửa đổi, bổ sung nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ theo hướng khái
quát, hợp lý hơn, phù hợp với vị trí hành pháp của Chính phủ (Điều 96):
– Khẳng định vai trò hoạch định chính sách của Chính phủ, Hiến pháp quy định nhiệm vụ,
quyền hạn của Chính phủ”đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy
định tại Điều này…” (khoản 2 Điều 96).
– Khẳng định vai trò quản lý, điều hành vĩ mô của Chính phủ, Hiến pháp đã làm rõ hơn
nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ trong việc tổ chức thi hành Hiến pháp và pháp luật
(khoản 1); thi hành các biện pháp cần thiết khác để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tính mạng, tài
sản của nhân dân (khoản 3); bổ sung quy định trình Quốc hội quyết định thành lập, giải thể,
nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính đối với đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt (khoản
4);.
– Bên cạnh quyền trình dự án luật, Hiến pháp (sửa đổi) đã bổ sung quyền ban hành văn bản
pháp luật của Chính phủ như một nhiệm vụ, quyền hạn độc lập của chức năng hành pháp tại
Điều 100:”Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban
hành văn bản pháp luật để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, kiểm tra việc thi hành
các văn bản đó và xử lý các văn bản trái pháp luật theo quy định của luật”.
– Trong mối quan hệ với Quốc hội: Hiến pháp (sửa đổi) đã bỏ quy định về thẩm quyền của
Quốc hội quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, tạo điều kiện cho Chính phủ và
các chủ thể khác chủ động, linh hoạt trong việc đề xuất xây dựng luật, pháp lệnh; phân định
rõ hơn phạm vi chính sách và các vấn đề quan trọng do Quốc hội quyết định (trong một số
lĩnh vực Quốc hội chỉ quyết định các chính sách cơ bản). Chính phủ có quyền ban hành các
chính sách, biện pháp cụ thể để quản lý, điều hành; phân định rõ và phù hợp hơn nhiệm vụ,
quyền hạn của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ trong việc đàm
phán, ký kết, gia nhập điều ước quốc tế… Theo đó, Chính phủ có thẩm quyền”Tổ chức đàm
phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước theo ủy quyền của Chủ tịch nước; quyết định
việc ký, gia nhập, phê duyệt hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ,
trừ điều ước quốc tế trình Quốc hội phê chuẩn quy định tại khoản 14 Điều 70″ (khoản 7 Điều
96).
Câu 4: Phân tích vị trí vai trò của các tổ chức chính trị -xã hội trong hệ thống chính trị

Điều 25 Hiến pháp năm 2013 quy định công dân có quyền hội họp, lập hội theo quy định của
pháp luật. Ở nước ta, có nhiều tổ chức khác nhau. Tuy nhiên, không phải tất cả các tổ chức
đó đều có thể là thành viên của hệ thống chính trị, mà chỉ có những tổ chức chính trị – xã hội
lớn, có ảnh hưởng sâu rộng như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn Việt Nam, Hội nông
dân Việt Nam, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam và
Hội cựu chiến binh Việt Nam mới là các bộ phận hợp thành hệ thống chính trị.
1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức
chính trị, các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai
cấp, các tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Với tính
chất đó, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vị trí và vai trò hết sức quan trọng trong hệ thống
chính trị. Điều 9 Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở
chính trị của chính quyền nhân dân”. Mục tiêu và nhiệm vụ chính trị của Mặt trận là đại diện,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội;
tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần bảo vệ Tổ quốc.
2. Công đoàn Việt Nam
Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị – xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và người
lao động được thành lập trên cơ sở tự nguyện, là thành viên có vị trí, vai trò quan trọng trong
hệ thống chính trị, thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Trong phạm vi chức năng,
nhiệm vụ của mình được quy định tại Điều 10 Hiến pháp năm 2013, Công đoàn Việt Nam có
vai trò rất quan trọng trong việc đại diện cho người lao động, chăm lo bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế – xã
hội, tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị,
doanh nghiệp về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người lao động; tuyên
truyền, vận động người lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành
pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
3. Hội nông dân Việt Nam
Hội nông dân Việt Nam là tổ chức chính trị – xã hội của giai cấp nông dân Việt Nam, là
thành viên có vị trí, vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị, thành viên của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam. Trong phạm vi chức năng của mình, Hội nông dân Việt Nam tập hợp, vận
động, giáo dục hội viên, nông dân phát huy quyền làm chủ, tích cực học tập nâng cao trình
độ, năng lực về mọi mặt; đại diện giai cấp nông dân tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước và
khối đại đoàn kết toàn dân tộc; chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của
nông dân; tổ chức các hoạt động dịch vụ, tư vấn, hỗ trợ nông dân trong sản xuất, kinh doanh
và đời sống.
4. Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị – xã hội, liên minh tự nguyện
của thanh niên Việt Nam, là đội dự bị và cánh tay đắc lực của Đảng Cộng sản Việt Nam, là
thành viên có vị trí, vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị, thành viên của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam. Trong chức năng, nhiệm vụ của mình, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh tập hợp, đoàn kết, giáo dục và rèn luyện thế hệ trẻ, tham gia tích cực vào các hoạt động
của nhà nước và xã hội; phối hợp với các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị – xã hội,
các tổ chức kinh tế và các đoàn thể quần chúng khác chăm lo và bảo vệ quyền lợi của thế hệ
trẻ, đề xuất với Đảng và Nhà nước các chính sách, quan điểm phát huy năng lực và tạo điều
kiện cho thế hệ trẻ Việt Nam phát triển toàn diện.
5. Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam
Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam là tổ chức chính trị – xã hội của phụ nữ Việt Nam, là thành
viên có vị trí, vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị, thành viên của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam. Trong chức năng, nhiệm vụ của mình, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam tập hợp,
đoàn kết, động viên, giáo dục các tầng lớp phụ nữ tham gia tích cực vào các công việc của
Nhà nước và xã hội, các quá trình phát triển kinh tế, văn hoá, giáo dục, thực hiện bình đẳng
giới, phát huy vai trò đặc biệt của nữ giới trong việc xây dựng nếp sống văn minh, gia đình
văn hoá, giáo dục các thế hệ thanh thiếu niên Việt Nam…
6. Hội cựu chiến binh Việt Nam
Hội cựu chiến binh Việt Nam là tổ chức chính trị – xã hội, là thành viên có vị trí, vai trò quan
trọng trong hệ thống chính trị, thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, một tổ chức thành
viên của hệ thống chính trị. Hội cựu chiến binh Việt Nam tập hợp, đoàn kết, bồi dưỡng và
động viên cựu chiến binh phấn đấu giữ vững bản chất cách mạng, tham gia xây dựng và bảo
vệ chính quyền, phát huy dân chủ, góp phần giữ ổn định chính trị, tăng cường quốc phòng và
an ninh; tham gia thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội; góp phần tích
cực vào việc giáo dục thế hệ trẻ và tham gia vào hoạt động nhân dân, thực hiện đường lối đối
ngoại của Đảng và Nhà nước.
Với vị trí và vai trò của mình, mỗi thành viên trong hệ thống chính trị nước ta có nhiệm vụ
quan trọng với các hình thức cơ bản như:
– Tham gia xây dựng Đảng thông qua các hoạt động như: góp ý xây dựng các đường lối,
quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, tham gia vào công tác xây dựng Đảng;
– Tham gia xây dựng bộ máy nhà nước thông qua các hoạt động như: tham gia công tác bầu
cử; tham gia tuyển chọn các chức danh cụ thể trong bộ máy nhà nước…;
– Tham gia xây dựng chính sách, pháp luật thông qua các hoạt động: kiến nghị với cơ quan
có thẩm quyền sáng kiến xây dựng pháp luật; cử đại diện tham gia vào các ban soạn thảo, tổ
biên các dự án luật, pháp lệnh, các văn bản Quy phạm pháp luật khác, các đề án, chính sách
cụ thể; tổ chức góp ý kiến vào các dự thảo văn bản Quy phạm pháp luật, các chương trình, đề
án…;
– Tham gia giám sát và phản biện xã hội đối với các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước thông qua nhiều hình thức nhằm góp phần bảo đảm tính đúng đắn, phù hợp với thực
tiễn trong việc xây dựng chính sách, pháp luật của Nhà nước, đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng
và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; phát huy dân chủ, tăng cường đồng thuận
trong xã hội;
– Tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nâng cao ý thức pháp luật, chấp
hành chính sách, pháp luật;
– Tham gia vào công tác kiểm tra, giám sát xã hội đối với hoạt động của các cơ quan nhà
nước…
Câu 5: Phân tích quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân VN theo Hiến pháp 2013:
a. Công dân :
Điều 17 Hiến pháp 2013 quy định: “Công dân Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam”.
b. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân:
+ Quyền của công dân là khả năng có, khả năng thực hiện một hành vi nào đó theo quy
định của PL nhằm đáp ứng nhu cầu, lợi ích của chính công dân.
+ Nghĩa vụ của công dân là đòi hỏi có tính bắt buộc đối với công dân phải thực hiện một
hành vi nào đó hoặc không được phép thực hiện một hành vi nào đó theo quy định của pháp
luật nhằm đáp ứng nhu cầu, lợi ích chung của Nhà nước, xã hội, của các tổ chức hoặc công
dân khác.
+ Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là những quyền và nghĩa vụ quan trọng nhất của
công dân thể hiện mối quan hệ nền tảng giữa Nhà nước và công dân gắn liền với tổ chức và
thực hiện quyền lực nhà nước, xuất phát từ các quyền tự nhiên của con người, được Hiến
pháp (đạo luật cơ bản của Nhà nước) quy định là cơ sở của các quyền và nghĩa vụ cụ thể
của công dân.
c. Đặc điểm quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
1. Thể hiện mối quan hệ cơ bản nhất giữa Nhà nước và công dân liên quan đến tổ chức
và thực hiện quyền lực nhà nước: Người chủ của QLNN và công cụ thực hiện QLNN.
2. Được Hiến pháp (đạo luật cơ bản) của Nhà nước quy định: là đối tượng điều chỉnh của
HP và tính hiến định của quyền và nghĩa vụ này làm cho chúng trở thành các quyền -
nghĩa vụ cơ bản.
3. Là cơ sở, xuất phát điểm cho các quyền và nghĩa vụ cụ thể của công dân.
4. Quốc tịch có ý nghĩa quyết định làm căn cứ cho việc phát sinh hay chấm dứt các
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân...
d. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân theo HP 2013: được kế thừa, quy định theo một
cách thức mới bao gồm quyền phổ quát chung của con người và quyền riêng của công dân.
+ Hiến pháp 2013 đánh dấu bước phát triển mới trong việc bảo vệ và nâng cao quyền con
người, quyền công dân; đi tới sự hoàn thiện về bản chất- Hiến pháp được sinh ra là để bảo vệ
quyền con người, quyền công dân.
+ Chương II Hiến pháp 2013 quy định về: “Quyền con người, Quyền và nghĩa vụ của công
dân ” gồm 36 điều (từ Đ.14 đến Đ.49).
Hiến pháp Việt Nam 2013 quy định công dân có các nghĩa vụ sau:
– Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác (Khoản 2. điều 15)
– Mọi người có nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh.
(Điều 38)
– Công dân có nghĩa vụ học tập (Điều 39)
– Công dân có nghĩa vụ bảo vệ môi trường (Điều 43)
– Công dân có nghĩa vụ trung thành với Tổ Quốc (Điều 44)
– Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến Pháp và pháp luật; tham gia bảo vệ an ninh quốc gia,
trật tự, an toàn xã hội và chấp hành các quy tắc sinh hoạt cộng đồng (Điều 46)
– Mọi người có nghĩa vụ nộp thuế theo luật định (Điều 47)

Câu 6: Nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật được thể hiện trong
Hiến pháp 2013
Bình đẳng trước pháp luật là một trong những nguyên tắc Hiến định, được quy định cụ thể tại
Điều 16 Hiến pháp năm 2013.
1. Bình đẳng trước pháp luật và quyền bình đẳng trước pháp luật
1.1 Bình đẳng trước pháp luật
Bình đẳng trước pháp luật hay quyền bình đẳng trước pháp luật là những nguyên lý của pháp
quyền được thể hiện qua các quy định cụ thể (các quy phạm pháp luật) thiết lập về quyền
được đối xử một cách như nhau, công bằng giữa mọi công dân trước pháp luật, theo đó, mọi
công dân, nam, nữ thuộc các dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội khác
nhau trong một quốc gia đều không bị phân biệt đối xử trong việc hưởng quyền, nghĩa vụ và
chịu trách nhiệm pháp lý theo quy định của pháp luật.
Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật có vai trò rất quan trọng, bảo đảm cho xã hội công
bằng, pháp luật được tôn trọng, chống đặc quyền đặc lợi, góp phần xây dựng nhà nước pháp
quyền. Trên cơ sở nguyên tắc pháp lý cơ bản này, đã được khẳng định trong Hiến pháp.
Theo tố tụng hình sự phải được tiến hành theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước
pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội;
bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật.
1.2 Khái quát về quyền bình đẳng trước pháp luật
Quyền bình đẳng trước pháp luật được thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội
đặc biệt là các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội nhất là quyền bình đẳng trong lĩnh
vực pháp lý, tư pháp, tố tụng. Tiêu chí của một đất nước văn minh hiện nay là luật pháp phải
được thượng tôn bất kể vị thế giữa người vi phạm và bị xâm phạm.
Quyền và nghĩa vụ của công dân không bị phân biệt bởi giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn
giáo, giàu nghèo, thành phần xã hội, địa vị xã hội… Trong cùng một điều kiện như nhau,
công dân được hưởng quyền và nghĩa vụ như nhau, có tư cách pháp lý như nhau. Nhưng mức
độ sử dụng các quyền và nghĩa vụ đó đến đâu phụ thuộc rất nhiều vào khả năng, điều kiện và
hoàn cảnh của mỗi người. Nhà nước phải có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm cho công
dân thực hiện quyền và nghĩa vụ một cách bình đẳng, công dân cần thực hiện tốt các nghĩa vụ
được Hiến pháp và luật xác định là điều kiện để sử dụng quyền của mình.
Ở Hiến pháp 2013, quyền bình đẳng trước pháp luật được quy định ở Điều 16:
 Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.
 Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Quyền bình đẳng trước pháp luật cũng là một trong những nguyên tắc pháp lý cơ bản ở nhiều
nước. Hiến pháp Việt Nam quy định: Mọi công dân Việt Nam đều có quyền bình đẳng về
quyền và nghĩa vụ. Công dân không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín
ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ 18 tuổi trở lên đều có
quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử vào quốc hội, hội đồng nhân dân theo
quy định của pháp luật. Hiến pháp xác định quyền bình đẳng của phụ nữ và nam giới về mọi
mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình.
2. Nội dung của nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và ví dụ
2.1. Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ
Công dân bình đẳng về quyền và nghĩa vụ có nghĩa là bình đẳng về hưởng quyền và làm
nghĩa vụ trước Nhà nước và xã hội, quyền và nghĩa vụ không tách rời nhau, thể hiện qua việc
Mọi công dân đều được hưởng quyền và phải thực hiện nghĩa vụ của mình: Một số quyền cơ
bản như quyền bầu cử, ứng cử, sở hữu, thừa kế, các quyền tự do cơ bản và quyền dân sự,
chính trị khác, nhân quyền, quyền tự do ngôn luận, quyền tự do cư trú, tự do đi lại, quyền
thông tin… Nghĩa vụ lao động công ích, đóng thuế…
2.2. Bình đẳng về trách nhiệm pháp lý
Bình đẳng về trách nhiệm pháp lý là bất kỳ công dân nào vi phạm pháp luật đều bị xử lý bằng
các chế tài theo quy định của pháp luật. Ví dụ như khi truy cứu trách nghiệm pháp lý đối với
chủ thể có hành vi vi phạm được quy định trong pháp luật và chỉ trong giới hạn mà pháp luật
quy định do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng. Việc truy cứu trách nhiệm phải kịp
thời, chính xác, công bằng, hợp lý. Khi xét xử thì mọi người phải bình đẳng trước tòa án.
Trên thực tế nhiều nước chưa thật sự có sự bình đẳng trong trách nhiệm pháp lý, nhất là trong
quá trình tố tụng, như tại Việt Nam, với triết lý Nho giáo đã ăn sâu từ lâu là: Hình phạt thì
không tới bậc đại phu, lễ nghi không tới bậc thứ dân tức là tức là hình luật chẳng thể phạm
đến những kẻ bề trên, cho nên một số ý kiến cho rằng chỉ khi mọi người đều có ý thức tôn
trọng pháp luật như nhau thì mới gọi là công bằng, mới không có tình trạng coi thường pháp
luật. Mặt khác sự can thiệp của hệ thống Đảng Cộng sản Việt Nam các cấp vào pháp luật đã
tạo ra một quy trình bên ngoài pháp luật đồng thời những bản án tuyên phạt của tòa án nước
này trong nhiều trường hợp chưa được sự đồng tình của xã hội vì quá cả nể, nhẹ tay với kẻ có
quyền thế, địa vị, hoặc tiền bạc nhưng quá hà khắc đối với người yếu thế, nghèo khó nên đã
nêu lên vấn đề về sự bình đẳng trước pháp luật.
2.3. Về Nhà nước và công dân
Chính Nhà nước cũng được xem như một pháp nhân: Các quyết định của chính quyền như
vậy cũng phải tuân thủ nguyên tắc hợp pháp như bao chủ thế pháp lý khác. Nguyên tắc này
cho phép đóng khung hoạt động của quyền lực công và đặt hoạt động đó vào khuôn khổ của
nguyên tắc pháp chế, vốn trước tiên dựa trên các nguyên tắc hiến định.
Trong khuôn khổ đó, các cưỡng chế hướng lên Nhà nước sẽ mạnh mẽ: Các quy định mà Nhà
nước đưa ra và các quyết định mà Nhà nước ban hành phải tuân thủ toàn thể các quy phạm
pháp luật cao hơn đang có hiệu lực (các luật, điều ước quốc tế và các nguyên tắc mang tính
Hiến pháp), không được quyền hưởng bất kì ưu tiên về mặt tài phán. Các cá nhân cũng như
pháp nhân của luật tư như thế là đối lập tranh cãi với các quyết định của cơ quan công quyền
bằng các đối lập với các quy phạm mà cơ quan này ban hành. Trong khuôn mẫu này, vai trò
của các cơ quan tài phán là vô cùng cần thiết và sự độc lập của tư pháp là bắt buộc.
2.4 Ví dụ của nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật
- Mọi công dân đều được hưởng quyền và phải thực hiện nghĩa vụ của mình.
- Quyền và nghĩa vụ của công dân không bị phân biệt bởi dân tộc, giới tính, tôn giáo, giàu,
nghèo, thành phần và địa vị xã hội.
+ Ví dụ: Điều 27, Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền
bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân.
Việc thực hiện các quyền này do luật định. Như vậy, công dân miễn có đủ các yêu cầu trên,
không phân biệt dân tộc, giới tính, tôn giáo, thành phần và địa vị xã hội,… thì đều có quyền
đi bỏ phiếu bầu cử và quyền ứng cử.
- Bất kì công dân nào vi phạm pháp luật đều phải chịu trách nhiệm pháp lý theo quy định của
pháp luật (trách nhiệm hình sự, dân sự, hành chính, kỉ luật).

Câu 7: Vị trí vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội
- Về cơ sở lý luận Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vai trò lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã
hội:
+ Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân
+ Đảng đại biểu lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc
+ Đảng dựa trên lý luận tiên phong và hành động tiên phong của các đảng viên.

- Về cơ sở thực tiễn: Vai trò lãnh đạo của Đảng được thể hiện những thành tựu, kết quả:
+ Những thành quả cách mạng VN giành được từ khi Đảng ra đời đến nay. (VD:)
+ Kết quả của Công cuộc đổi mới gần 30 năm hiện nay do Đảng đề xướng và lãnh đạo.
(VD)
+ Đảng đang đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo Nhà nước và xã hội. (VD)
- Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam thông qua các bản Hiến pháp: Hiến
pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992, Hiến pháp 2013.
- Về nội dung Đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội:
Đảng hoạch định chiến lược và những mục tiêu cơ bản, những đường lối chính sách
phát triển các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Đảng đề ra những quan điểm, chính sách cán bộ, quy hoạch, bồi dưỡng và giới thiệu
những người có đủ đức tài vào các cương vị chủ chốt của bộ máy Nhà nước, tổ chức chính trị
- xã hội.
Đảng kiểm tra việc thực hiện đường lối, chính sách, nghị quyết của Đảng đối với các
tổ chức đảng và các đảng viên trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội.

Câu 8: Nhà nước đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân được thể hiện ở những nội
dung nào trong quản lý hoạt động của Nhà nước
Thực hiện pháp luật về dân chủ trực tiếp ở cơ sở:
Việc triển khai Pháp lệnh về thực hiện dân chủ ở cơ sở trong thực tiễn đã đạt được nhiều kết
quả nhất định. Theo thống kê, việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở xã, phường, thị trấn ở
một số tỉnh, thành phố thời gian qua cho thấy đến nay 100% xã, phường, thị trấn đã xây dựng
và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Việc thực hiện cải cách hành chính theo cơ chế một
cửa, một cửa liên thông đã được triển khai rộng khắp các đơn vị hành chính cấp xã; 95% xã,
phường, thị trấn thực hiện niêm yết công khai các thủ tục hành chính, các khoản phí, lệ phí,
đóng góp của dân, công khai các phương án sản xuất, việc giải quyết các thủ tục hành chính,
chế độ chính sách… Nhiều thủ tục đã được tinh gọn, giảm bớt phiền hà cho Nhân dân, phong
cách làm việc của cán bộ xã, phường, thị trấn đã có những thay đổi đáng kể.
Về nội dung Nhân dân bàn và quyết định trực tiếp được thực hiện tốt nhất với sự tham gia,
phối hợp tích cực giữa chính quyền xã, phường, thị trấn với Nhân dân ở cộng đồng dân cư
nông thôn. Nhận thức của các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và toàn xã
hội về dân chủ và dân chủ trực tiếp của Nhân dân có nhiều chuyển biến tích cực. Việc thực
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã góp phần phát huy được vai trò, tiềm năng, sức sáng tạo của
Nhân dân tham gia bàn bạc những công việc của địa phương, đất nước; góp ý kiến xây dựng
chính sách, pháp luật, hương ước, quy ước, góp ý xây dựng Đảng, chính quyền, tham gia
giám sát hoạt động của cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư.
Bên cạnh đó, nhằm phát huy dân chủ, vận động Nhân dân giám sát thực hiện Quy chế dân
chủ ở cơ sở, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn, vận động Nhân dân giám sát những nội
dung được quy định, nhất là việc quản lý đất đai, công khai các thủ tục hành chính liên quan
trực tiếp đến dân. Nhiều vụ việc cán bộ chính quyền cơ sở vi phạm pháp luật đã được Nhân
dân phát hiện, kiến nghị xử lý. Ngoài ra, vai trò của Ban Thanh tra nhân dân đã được phát
huy, thể hiện ở việc nhận và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, tham gia cùng chính quyền thực
hiện tốt công tác tiếp dân và theo dõi việc giải quyết đơn thư của chính quyền... Những hoạt
động đó làm chuyển biến một bước phong cách lãnh đạo, quản lý của cán bộ cơ sở, hạn chế
tham nhũng, quan liêu, hách dịch, góp phần làm trong sạch bộ máy nhà nước, nâng cao hiệu
quả quản lý của chính quyền cơ sở.
Thực hiện chế độ Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử
Chế định Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử được quy định trong Hiến pháp và các đạo luật
đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng, tạo điều kiện đảm bảo ngày càng tốt hơn cho sự tham gia
của Nhân dân trong hoạt động thực hiện quyền lực tư pháp thông qua việc giải quyết, xét xử
các loại vụ án. Thực tiễn Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử cho thấy: Đội ngũ Hội thẩm
được xây dựng và kiện toàn bảo đảm về tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật và đủ về số
lượng, cơ cấu, đáp ứng yêu cầu giải quyết, xét xử các loại vụ án trong thời gian qua. Đa số
các Hội thẩm đều đảm bảo có trình độ hiểu biết pháp luật ở mức độ nhất định, nhiều người
nguyên là cán bộ các cơ quan bảo vệ pháp luật đã nghỉ hưu, một số người tham gia nhiều
nhiệm kỳ công tác Hội thẩm đã và đang có những đóng góp quan trọng cho công tác xét xử
của các Tòa án.
Về bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của người dân
Việc tiếp cận thông tin hoạch định chính sách và xây dựng pháp luật được thực hiện một cách
chủ động công khai, minh bạch các hoạt động hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật
trong thời gian qua đã được thực thi khá tốt trên thực tế. Các văn bản đã được cơ quan soạn
thảo chủ động trong việc công khai dự thảo văn bản để người dân tham gia đóng góp ý kiến
qua các cuộc hội thảo, tọa đàm, phiếu lấy ý kiến, đăng dự thảo trên Trang thông tin điện tử.
Bên cạnh đó, các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật khi xây dựng được cập nhật trên các
phương tiện thông tin đại chúng để công dân tham gia đóng góp ý kiến.
Trong giải quyết công việc của công dân, cơ chế “một cửa” tại các cơ quan hành chính nhà
nước ở địa phương đã tạo thuận lợi cho công dân, tổ chức, doanh nghiệp khi tham gia giao
dịch với cơ quan nhà nước. Qua quá trình xây dựng, công nghệ thông tin đã đóng vai trò trụ
cột của Chính phủ điện tử đã được hình thành, giúp đổi mới lề lối làm việc trong các cơ quan
nhà nước và công tác chỉ đạo, điều hành dựa trên dữ liệu số, cũng như cung cấp dịch vụ công
trực tuyến cho người dân, doanh nghiệp.
Quyền làm chủ của Nhân dân tiếp tục được củng cố và có những bước tiến quan trọng, quyền
dân chủ trực tiếp thông qua hoạt động bầu cử, ứng cử; trưng cầu ý dân, bãi miễn đại biểu dân
cử; tham gia vào quản lý nhà nước (đóng góp ý kiến; khiếu nại, tố cáo; đối thoại dân chủ;
thảo luận, phản biện): quá trình soạn thảo, lấy ý kiến rộng rãi của toàn dân về dự thảo Hiến
pháp năm 2013 đã thể hiện đây thực sự là cuộc sinh hoạt chính trị rộng lớn. Trong đợt lấy ý
kiến Nhân dân cả nước về sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã tổ chức được 28.000 hội thảo, hội
nghị, tọa đàm và thu được 26 triệu lượt ý kiến góp ý về nội dung Hiến pháp 3; tỷ lệ người dân
đi bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp đều ở tỷ lệ rất cao, trên 90%. Nhà nước đã
và đang hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền làm chủ của Nhân dân, như: Luật Khiếu
nại, Luật Tố cáo, Pháp lệnh thực hiện quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn, Luật Trưng cầu
ý dân, Luật Tiếp cận thông tin...
Như vậy, có thể khẳng định, những kết quả đạt được trên đây là do “Đảng và Nhà nước coi
trọng việc đề ra và tổ chức chỉ đạo thực hiện nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật, quy
chế, quy định mới nhằm phát huy hơn nữa dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ
của Nhân dân. Hiến pháp năm 2013 quy định rõ: Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm
chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công
dân”4.
Câu 9: Các quyền con người về dân sự được thực hiện như thế nào trong thực tiễn? Em
có bình luận gì
Quyền dân sự được hiểu là những quyền cá nhân, gắn chặt với nhân thân của mỗi người, chỉ
cá nhân mới có thể sử dụng độc lập và không thể chuyển giao cho người khác…
Cho đến nay có nhiều quan niệm và cách hiểu khác nhau về quyền dân sự. Công ước quốc tế
về các quyền dân sự năm 1966 (ICCPR) không đưa ra khái niệm, mà chỉ liệt kê một loạt các
quyền và tự do cơ bản của con người trên lĩnh vực dân sự. Quyền dân sự được hiểu là những
quyền cá nhân, gắn chặt với nhân thân của mỗi người, chỉ cá nhân mới có thể sử dụng độc
lập và không thể chuyển giao cho người khác như: quyền sống, quyền tự do đi lại, cư trú…
Để thực hiện các quyền chính trị, cá nhân phải tham gia cùng với những người khác, như
quyền hội họp hòa bình, quyền bầu cử,… Nội dung các quyền dân sự trong Hiến pháp năm
2013 được thể hiện:
– Về quyền sống
Quyền này được quy định tại Điều 19, Hiến pháp năm 2013: “Mọi người có quyền sống.
Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật”.
– Về quyền đời tư
Điều 20 và 21 của Hiến pháp năm 2013 quy định rõ về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí
mật gia đình, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân, quyền bí mật thư tín, điện
thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của mọi người đều được bảo
vệ. Với các nội dung đó, Hiến pháp đã mở rộng chủ thể và nội dung của quyền được bảo vệ
về đời tư so với Điều 73 của Hiến pháp năm 1992 – chỉ quy định về quyền bí mật thư tín,
điện thoại, điện tín.
– Về quyền tự do và an ninh cá nhân; quyền không bị tra tấn, truy bức, nhục hình
Điều 20, Hiến pháp năm 2013 quy định: Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể,
được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy
bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm
danh dự, nhân phẩm. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết
định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt,
giam giữ người do luật định.
– Về quyền khiếu nại, tố cáo
Điều 30 của Hiến pháp năm 2013 đã quy định đầy đủ về quyền này, từ quyền của người dân
và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết
khiếu lại, tố cáo cho đến người bị thiệt hại có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất,
tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật; và nghiêm cấm việc trả thù người
khiếu lại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu lại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người
khác.
–Về quyền tự do cư trú, đi lại
Hiến pháp năm 2013 quy định: Công dân có quyền có nơi ở hợp pháp. Mọi người có quyền
bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai tự ý vào chỗ ở của người khác nếu không được người
đó đồng ý. Việc khám xét chỗ ở do Luật định (Điều 22).Công dân có quyền tự do đi lại và cư
trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước (Điều 23).
–Về quyền bình đẳng giới
Theo Điều 26 Hiến pháp năm 2013, công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có
chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới. Nếu Điều 63 của Hiến pháp năm 1992
chỉ quy định nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ
nữ, thì Hiến pháp năm 2013 quy định “nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới” (Điều 26). Quy
định này đã thay đổi quan niệm và cách tiếp cận về bình đẳng giới, từ chỉ bình đẳng với giới
nữ sang bình đẳng với cả giới nam và giới nữ. Chủ thể và nội dung quyền bình đẳng về giới,
do vậy, được mở rộng và làm sâu sắc hơn.

Câu 10: Em hãy phân biệt khái niệm “quyền con người” với “quyền công dân”
Điểm giống nhau giữa quyền con người và quyền công dân
- Quyền con người và quyền công dân là những quyền cơ bản, quan trọng được quy định
trong Hiến pháp.
- Quyền công dân và quyền con người là hai phạm trù rất gần gũi với nhau nhưng không
đồng nhất. Nhân quyền và dân quyền đều là những quyền lợi mà mọi công dân đều được
hưởng và được bảo vệ (trừ những người không có quốc tịch). Trong đó quyền công dân có
nghĩa hẹp hơn so với quyền con người, về bản chất quyền công dân là những quyền con
người được nhà nước thừa nhận và áp dụng cho công dân nước mình. Một số quyền công dân
cũng là quyền con người như: quyền được có nhà ở, quyền tự do kinh doanh buôn bán, tự do
ngôn luận, quyền được học tập, quyền được tham gia quản lí nhà nước và xã hôi, quyền được
bảo vệ về sức khỏe…
Ở Việt Nam quyền con người và quyền công dân ra đời và phát triển gắn liền với sự ra đời
của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và lịch sử lập hiến nước nhà. Nó được thể hiển 1 cách
nhất quán trong cả 4 bản hiến pháp, ghi nhận các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân Việt Nam. Đất nước ngày càng phát triển, nhân quyền và dân quyền cũng ngày 1 được
mở rộng thể hiện sự tôn trọng của nhà nước với quyền lợi của nhân dân,nâng cao niềm tin
của nhân dân với đất nước. Sự quản lí của nhà nước không nhằm hạn chế các quyền và tự do
của con người mà mong muốn phát triển hoàn thiện hơn các quyền con người mà nhân dân
Việt Nam đáng được hưởng đã ghi nhận trong các công ước quốc tế. Một cá nhân (trừ những
người không quốc tịch) về danh nghĩa đều là chủ thể của cả hai loại nhân quyền và dân quyền
nếu họ sinh sống trong quốc gia mà họ đăng kí quốc tịch. Nếu đang sinh sống tại nước ngoài
thì họ sẽ chỉ được hưởng những quyền con người cơ bản như “quyền sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc” ngoài ra một số quyền lợi đặc thù như bầu cử, ứng cử thì họ sẽ
không được thừa nhận và bảo vệ.
Điểm khác nhau giữa quyền con người và quyền công dân
Tiêu chí Quyền con người Quyền công dân
Quyền con người (Nhân quyền) là những Quyền công dân (Dân quyền) là quyền
quyền tự nhiên của con người có từ lúc của một người được công nhận theo các
đã thành hình bào thai tới lúc đã chết đi điều kiện Pháp lý để trở thành thành viên
và không bị tước bỏ bởi bất cứ ai hay bất hợp pháp của một Quốc gia có chủ quyền
cứ chủ thể nào. (Quốc tịch). Một người có thể là công
Định Theo định nghĩa của Văn phòng Cao ủy dân của nhiều Quốc gia hoặc không là
nghĩa Liên Hiệp Quốc, nhân quyền là những công dân của bất cứ Quốc gia nào.
bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng Mỗi một Quốc gia đều có các quy định
bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống pháp lý riêng để cho một người trở thành
lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà công dân Quốc gia đó, và được hưởng
làm tổn hại đến nhân phẩm, những tự do các quyền riêng biệt, đồng thời phải thực
cơ bản của con người. hiện các nghĩa vụ của mình.
Tư tưởng xuất hiện trong các nền văn
Lịch sử minh cổ đại; luật nhân quyền quốc tế chỉ Từ cách mạng tư sản (khoảng thế kỷ 16)
có từ 1945
Cơ sở  Tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng  Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân
pháp lý Quốc Mỹ 1779 Quyền của Cách mạng Tư sản
 Tuyên ngôn Nhân Quyền và Dân quyền Pháp 1789.
của cách mạng Tư sản Pháp  Hiến pháp hoặc Luật cơ bản của
1789 Quốc gia.
 Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền 1948.
 Công ước về chính sách việc làm 1964
 Công ước Quốc tế về xóa bỏ mọi hình
thức phân biệt chủng tộc 1965
 Công ước về quyền của những người
khuyết tật về tâm thần 1971
 Công ước Quốc tế về xóa bỏ mọi hình
thức phân biệt đối xử chống lại
Phụ nữ 1979
 Công ước chống tra tấn và các hình
thức trừng phạt hay đối xử tàn
ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp
nhân phẩm 1984
 Hiến pháp hoặc Luật cơ bản của Quốc
gia
 Các văn bản pháp lý Quốc tế khác

Còn chủ thể của quyền công dân có thể


là “các cá nhân đặt trong mối quan hệ
với nhà nước, dựa trên tổng thể các
Tất cả những ai là con người, từ lúc bào quyền và nghĩa vụ pháp lý của mỗi cá
thai đã thành hình, được sinh ra cho tới nhân được nhà nước đó quy định tạo nên
lúc đã chết đi. địa vị pháp lý của công dân”, do vậy
Nói cách khác, quyền con người được áp quyền công dân chỉ mang tính chất quốc
Chủ thể dụng một cách bình đẳng với tất cả mọi gia.
người thuộc mọi dân tộc đang sinh sống Đối với những chủ thể không phải là
trên phạm vi toàn cầu, không phụ thuộc công dân nước sở tại hoặc không mang
vào biên giới quốc gia, tư cách cá nhân quốc tịch của một nhà nước nào thì họ
hay môi trường sống của chủ thể. vẫn có được những quyền hạn chế của
công dân hoặc phải thực thi những nghĩa
vụ cũng hạn chế của công dân đối với xã
hội, nhà nước nơi họ sinh sống, cư trú.
Là những quyền cơ bản tự nhiên mà có
không ai hay bất cứ chủ thể nào có thể
Bao gồm cả Nhân quyền được Quốc gia
tước bỏ hay ban phát, kể cả khi người đó
thừa nhận. Tuy nhiên có những quyền
là người không quốc tịch, người bị hạn
đặc trưng riêng biệt khác mà phải là công
Bản chế các quyền công dân. Tuy nhiên khi
dân thì mới được hưởng tại Quốc gia đó.
chất có sự xung đột giữa quyền công dân và
Người được hưởng quyền này phải thực
quyền con người, Pháp luật của một số
hiện các nghĩa vụ tương ứng theo quy
Quốc gia cho phép được tước đoạt một
định Pháp lý trước đó.
số quyền con người cơ bản như quyền
được sống, quyền mưu cầu hành phúc…
Tính Quyền con người mang tính độc lập,tính Quyền công dân mang tính quốc gia: Để
chất phổ biến, phổ quát và có những giá trị trở thành công dân của một nước, các cá
chung đối với toàn thể nhân loại: Điều 14 nhân bao giờ cũng phải có quốc tịch của
Hiến pháp 2013 nước ta ghi nhận: “Ở nước đó. Tư cách công dân mang đến
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt cho cá nhân một địa vị pháp lý đặc biệt
trong quan hệ với nước mà họ mang
Nam, các quyền con người, quyền công
quốc tịch. Dựa trên những điều kiện cụ
dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa,
thể của mình mà nhà nước quy định cho
xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ,
công dân những quyền và phải thực hiện
bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.”
những nghĩa vụ nhất định.
Căn cứ phát sinh về quyền con người: có
hai trường phái cơ bản đưa ra quan điểm
trái ngược nhau:
+ Thứ nhất, những người theo học thuyết
về quyền tự nhiên thì cho rằng quyền con
người là những gì bẩm sinh vốn có mà
Khác với quyền con người, căn cứ phát
mọi cá nhân khi sinh ra đều được hưởng.
sinh của quyền công dân là dựa trên cơ
+ Thứ hai, theo học thuyết về pháp lí,
sở quốc tịch.Tuy nhiên cách xác định
trong đó quyền con người không phải là
quốc tịch của mỗi quốc gia có sự khác
bẩm sinh vốn có một cách tự nhiên mà
nhau. Có quốc gia xác định quốc tịch
phải do các nhà nước xây dựng và pháp
theo huyết thống có quốc gia lại xác định
điển hóa thành các quy định pháp luật
theo nới sinh.Như vậy để trở thành công
hoặc xuất phát từ truyền thống văn hóa.
Căn cứ dân của một nước cần phải đáp ứng được
Qua đây có thể thấy được, theo thuyết tự
phát đầy đủ các điều kiện do pháp luật nước
nhiên quyền con người có tính thống
sinh đó quy định.. Quyền công dân xuất phát
nhất trong mọi hoàn cảnh, mọi thời điểm
quyền từ quyền con người – giá trị trị được thừa
thì quyền con người theo thuyết pháp lý
nhận chung của nhân loại nhưng được
lại mang tính chất khác biệt tương đối về
nâng lên thành quyền của công dân và
mặt văn hóa chính trị. Mặc dù vậy nhưng
được quy định trong hiến pháp của quốc
không thể phủ nhận bất cứ học thuyết
gia được thừa nhận chung của nhân loại
nào, bởi lẽ trong khi về hình thức hầu hết
nhưng được nâng lên thành quyền của
các văn kiện pháp luật đều thể hiện
công dân và được quy định trong hiến
quyền con người dưới hình thức pháp lí
pháp của quốc gia.
thì trong tuyên ngôn toàn thế giới về
quyền con năm1948 và một người văn
kiện pháp luật ở một số quốc gia quyền
con người được khẳng định một cách rõ
ràng là quyền tự nhiên vốn có không thể
chuyển nhượng.
Cơ chế Luật Quốc tế về Quyền con người có một Khác so với nhân quyền, cơ chế đảm bảo
đảm bảo hệ thống cơ chế đảm bảo việc tôn trọng, dân quyền hẹp hơn. Quyền công dân bó
hẹp trong mối quan hệ của một Nhà nước
với cá nhân, được ghi nhận trong văn bản
thực hiện và bảo vệ quyền con người khá pháp lý cao nhất. Mọi cá nhân của một
rộng. Từ cơ chế có tính toàn cầu, khu vực nước mang quốc tịch của nước đó đồng
thực tới Quốc gia bằng các hình thức thực thời là chủ thể của quyền con người và
hiện hiện là báo cáo của các Quốc gia thành quyền công dân.
quyền viên, thiết lập các tổ chức giám sát về Việc thực hiện quyền công dân hay có
Nhân quyền của Liên hợp Quốc lẫn các thể nói là quy định về quyền công dân tại
tổ chức khu vực. các quốc gia khác nhau thì khác nhau bởi
nó phụ thuộc vào chế độ chính trị, trình
độ phát triển kinh tế, xã hội.
Quyền con người và quyền công dân là hai phạm trù khác nhau, song có mối liên hệ rất chặt
chẽ, tác động, bổ sung lẫn nhau. Khái niệm và viễn cảnh về quyền con người có thể được
nhìn nhận qua lăng kính của quyền công dân và ngược lại. Thực tế cho thấy sự gắn bó giữa
quyền con người và quyền công dân ngày càng trở lên mật thiết, đến nỗi trong một số trường
hợp rất khó phân biệt và trong một số bối cảnh không cần thiết phải phân biệt giữa chúng (ví
dụ các quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, danh dự, nhân phẩm,…). Sự tương đồng kể
trên khiến cho những nỗ lực thúc đẩy và bảo vệ quyền con người, quyền công dân trở lên
khăng khít, không thể tách rời, kể cả khi những nỗ lực này gắn liền với những chủ thể tương
đối khác nhau.
Mặc dù vậy, do những khác biệt nhất định về tính chất, đối tượng và phạm vi điều chỉnh,
quyền con người và quyền công dân vẫn sẽ phát triển theo hai “kênh” khác nhau mà sẽ không
bao giờ hoà nhập hoàn toàn, trừ khi xã hội loài người không còn nhà nước và pháp luật. Điều
này đòi hỏi các chủ thể có liên quan, đặc biệt là các tổ chức quốc tế, các nhà nước và các tổ
chức xã hội dân sự ở các quốc gia cần tiếp tục xây dựng và củng cố các cơ chế hợp tác để
cùng thúc đẩy và bảo vệ cả quyền con người và quyền công dân trên mọi cấp độ: quốc gia,
khu vực và quốc tế.

Câu 11: Hãy phân tích vai trò của mặt trận tổ quốc VN trong hệ thống chính trị ở nước
ta

Tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có nhiệm vụ tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tăng
cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát
triển đa dạng các hình thức tổ chức, hoạt động để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở
trong nước và ở nước ngoài, không phân biệt thành phần giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc,
tín ngưỡng, tôn giáo, quá khứ nhằm động viên mọi nguồn lực góp phần xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Tuyên truyền, vận động Nhân dân thực hiện quyền làm chủ, thực hiện đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Mặt trận Tổ quốc thực hiện các hoạt động tuyên truyền, động viên nhân dân phát huy quyền
làm chủ, thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, nghiêm chỉnh thi hành Hiến
pháp và pháp luật. Mặt trận Tổ quốc thực hiện phối hợp với chính quyền cấp xã tổ chức vận
động Nhân dân thực hiện dân chủ ở cơ sở, hương ước, quy ước ở khu dân cư; chỉ đạo hoạt
động của Ban thanh tra nhân dân được thành lập ở cấp xã và Ban giám sát đầu tư của cộng
đồng; tham gia hoạt động hòa giải ở cơ sở.
Đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân:
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện hoạt động đối ngoại nhân dân và tập hợp, tổng hợp ý
kiến, kiến nghị của cử tri và nhân dân để phản ánh, kiến nghị với Đảng, Nhà nước.
Thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo quyền và trách nhiệm của mình tổng hợp ý
kiến, kiến nghị của hội viên, đoàn viên và các tầng lớp Nhân dân, gửi tới Ban Thường trực
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam địa phương. Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam địa phương phối hợp cùng Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tổng
hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân để báo cạo tại kỳ họp Hội đồng nhân dân cùng cấp về
những vấn đề của địa phương để gửi lên Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam cấp tỉnh, sau khi tổng hợp thì sẽ được gửi lên Ủy ban thường vụ Quốc hội và Đoàn Chủ
tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Cuối cùng sẽ được tổng kết lại và báo
cáo tại kỳ họp Quốc hội. Bên cạnh đó Mặt trận Tổ quốc Việt Nam còn phối hợp tổ chức tiếp
xúc cử tri của đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp
Tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước
– Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia vào công tác bầu cử thông qua việc lựa chọn, giới
thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; tham gia các tổ chức phụ
trách bầu cử; phối hợp với cơ quan nhà nước hữu quan tổ chức hội nghị cử tri ở cấp xã, các
cuộc tiếp xúc giữa cử tri với người ứng cử; tham gia tuyên truyền, vận động cử tri thực hiện
pháp luật về bầu cử.
– Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cử đại diện tham gia Hội đồng tuyển chọn,
giám sát Thẩm phán quốc gia, Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Hội đồng thi tuyển Kiểm sát viên sơ cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên cao
cấp. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh, cấp huyện chủ trì lựa chọn, giới thiệu
người đủ điều kiện, tiêu chuẩn để Hội đồng nhân dân bầu làm Hội thẩm nhân dân theo quy
định của pháp luật.
– Tham gia xây dựng pháp luật: Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có quyền đề
nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội, Quốc hội về xây dựng luật, pháp lệnh; trình Quốc hội, Ủy
ban thường vụ Quốc hội dự án luật, pháp lệnh; tham gia góp ý kiến vào dự thảo Hiến pháp,
dự án luật, pháp lệnh và dự thảo văn bản quy phạm pháp luật khác; kiến nghị với cơ quan nhà
nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ văn bản pháp luật trái Hiến pháp và pháp luật.
– Tham dự các kỳ họp Quốc hội, phiên họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, kỳ
họp Hội đồng nhân dân, phiên họp Ủy ban nhân dân
– Tham gia phòng, chống tham nhũng, lãng phí
– Tham gia góp ý, kiến nghị với Nhà nước.
Thực hiện giám sát và phản biện xã hội:
Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là việc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp
trực tiếp hoặc đề nghị các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo dõi, xem
xét, đánh giá, kiến nghị đối với hoạt động của cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử, cán bộ, công
chức, viên chức trong việc thực hiện chính sách, pháp luật. Nội dung giám sát của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam là việc thực hiện chính sách, pháp luật có liên quan đến quyền và lợi ích
hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Việc giám sát nhằm kịp thời phát hiện và kiến nghị xử lý sai phạm, khuyết điểm; kiến nghị
sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật; phát hiện, phổ biến những nhân tố mới, các điển hình
tiên tiến và những mặt tích cực; phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, góp phần xây dựng
Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có thể thông qua các hình thức
giám sát khác nhau như nghiên cứu, xem xét văn bản của cơ quan có thẩm quyền, tổ chức
đoàn giám sát; tham gia giám sát với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền;…(Chương V Luật Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam)
Phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là việc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
các cấp trực tiếp hoặc đề nghị các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhận
xét, đánh giá, nêu chính kiến, kiến nghị đối với dự thảo văn bản pháp luật, quy hoạch, kế
hoạch, chương trình, dự án, đề án của cơ quan nhà nước. Nội dung phản biện xã hội bao gồm
sự cần thiết; sự phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước; tính đúng đắn, khoa học, khả thi; đánh giá tác động, hiệu quả về chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của dự thảo văn bản; bảo đảm hài hòa lợi ích của
Nhà nước, Nhân dân, tổ chức. (Điều 32, Điều 33 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam)

Câu 12: Hãy phân tích vị trí, chức năng của Quốc Hội theo Hiến pháp 2013

* Hiến pháp 2013: Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực
Nhà nước cao nhất của nước Công hòa xã hộ chủ nghĩa Việt Nam.
*Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước
và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.
Theo Ðiều 70 Hiến pháp 2013, Quốc Hội có những chức năng:
1. Quyền lập hiến, lập pháp: Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi
luật
– Khoản 1 điều 70: Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật;
– Khoản 10 điều 70: Bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính
phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với HP, luật, nghị quyết của
Quốc hội.
=> Khác với Hiến pháp trước đây: Quốc hội không còn là cơ quan “duy nhất” lập pháp, thừa
nhận sự tham gia của Chính phủ trong vấn đề này.
– Khoản 1 điều 120: … ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội có quyền đề nghị làm
Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp. Quốc hội quyết định việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp
khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội tán thành.
– Khoản 4 điều 120 (mới): Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại
biểu quyết tán thành. Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định
=> Quy định này nhằm thể chế hóa chủ trương của Ðảng về phát huy dân chủ XHCN; QH
với vị trí là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất
của nước CHXHCN Việt Nam được trao thẩm quyền quyết định việc trưng cầu ý dân về Hiến
pháp phù hợp với điều kiện, tình hình thực tiễn cụ thể của đất nước.
2. Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc
hội; xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà
nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập;
=> Phạm vi giám sát của Quốc hội là ở những cơ quan cấp cao, do Quốc hội thành lập và
chịu trách nhiệm với Quốc hội. Phạm vi giám sát này phù hợp với tính “tối cao” của Quốc
hội; đồng thời phù hợp với thực tiễn lịch sử là Quốc hội hầu như không bao giờ thực hiện
phạm vi giám sát các cơ quan cấp tỉnh trở xuống.
3. Quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế – xã hội của
đất nước;
4. Quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ
các thứ thuế; quyết định phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung ương
và ngân sách địa phương; quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ chính
phủ; quyết định dự toán ngân sách Nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn
quyết toán ngân sách Nhà nước;
5. Quyết định chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước;
6. Quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân dân,
Viện kiểm sát nhân dân, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước, chính quyền địa
phương và cơ quan khác do Quốc hội thành lập;
7. Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Phó
Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ
nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán
Nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác do Quốc hội thành lập; phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm,
miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính
phủ, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồng quốc
phòng và an ninh, Hội đồng bầu cử quốc gia.
Sau khi được bầu, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao phải tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp;
8. Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn:
– Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị;
– Có kiến nghị của ít nhất hai mươi phần trăm tổng số đại biểu Quốc hội;
– Có kiến nghị của Hội đồng dân tộc hoặc Ủy ban của Quốc hội
– Người được lấy phiếu tín nhiệm mà có từ hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội trở lên
đánh giá tín nhiệm thấp.
9. Quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ của Chính phủ; thành lập, giải thể,
nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành
chính – kinh tế đặc biệt; thành lập, bãi bỏ cơ quan khác theo quy định của Hiến pháp và luật;
10. Bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật,
nghị quyết của Quốc hội;
11. Quyết định đại xá;
12. Quy định hàm, cấp trong lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp ngoại giao và những
hàm, cấp Nhà nước khác; quy định huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự Nhà
nước;
13. Quyết định vấn đề chiến tranh và hoà bình; quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện
pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia;
14. Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm
dứt hiệu lực của điều ước quốc tế liên quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền quốc gia, tư
cách thành viên của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu vực
quan trọng, điều ước quốc tế về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và
điều ước quốc tế khác trái với luật, nghị quyết của Quốc hội;
15. Quyết định trưng cầu ý dân.

Câu 13: Vị trí, chức năng của Tòa án nhân dân trong bộ máy Nhà nước ở Nước ta?
Vị trí của Tòa án ND trong bộ máy NN: Theo quy định tại điều 102 của Hiến pháp 2013:
– Tòa án Nhân dân Tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam, được
Hiến Pháp giao cho thực hiện quyền Tư pháp
– Nhiệm kỳ của Tòa án Nhân dân Tối cao theo nhiệm kỳ của QH.
– Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao do QH bầu theo sự giới thiệu của Chủ tịch nước. Các
Phó Chán án và Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao do Chủ tịch nức bổ nhiệm, miễn
nhiệm, cách chức theo sự giới thiệu của Chánh án TA
– Thẩm quyết xét xử của TA:
i) Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của
tòa án cấp dưới trực tiếp bị kháng cáo, kháng nghị
ii) Phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực của Tòa án cấp
dưới trực tiếp bị kháng cáo, kháng nghị
Chức năng của Tòa án nhân dân:
- Chức năng của Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.
- Các đặc điểm của hoạt động xét xử:
+ Chỉ có việc giải quyết của TA mới được coi là hoạt động xét xử.
+ Chỉ TAND mới có quyền xét xử các vụ án hình sự, tuyên bố một người là có tội hay
không có tội, quyết định về tội phạm và hình phạt.
+ Hoạt động xét xử được thực hiện nhân danh Nhà nước
+ Hoạt động xét xử thực hiện theo các nguyên tắc, trình tự thủ tục nghiêm ngặt và chặt
chẽ theo quy định của luật tố tụng
+ Trong nhiều trường hợp sau khi các CQNN khác đã giải quyết nhưng các đương sự
chưa thoả mãn thì có thể gửi khiếu nại lên TA để yêu cầu TA giải quyết.
+ Hoạt động xét xử được thực hiện bởi những thẩm phán và hội thẩm có chuyên môn và
nghiệp vụ xét xử được bầu, bổ nhiệm theo những trình tự được pháp luật quy định
- Các loại việc Toà án giải quyết: Xét xử các vụ án hình sự; Giải quyết các vụ án dân
sự, hôn nhân gia đình; Giải quyết các vụ án kinh tế; Giải quyết các vụ án lao động; Giải
quyết các vụ án hành chính; Giải quyết các việc khác theo quy định
- Các thủ tục xét xử: Xét xử sơ thẩm, Xét xử phúc thẩm, Giám đốc thẩm, Tái thẩm
- Nhiệm vụ của Tòa án nhân dân: Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
+ TAND tối cao có những nhiệm vụ và quyền hạn sau: Tòa án nhân dân tối cao là cơ
quan xét xử cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tòa án nhân dân tối cao
giám đốc việc xét xử của các Tòa án khác, trừ trường hợp do luật định. Tòa án nhân dân tối
cao thực hiện việc tổng kết thực tiễn xét xử, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét
xử.
- Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân- Điều 103 Hiến pháp 2013:
+ Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử
theo thủ tục rút gọn.
+ Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan,
tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm.
+ Tòa án nhân dân xét xử công khai. Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà
nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí mật đời tư
theo yêu cầu chính đáng của đương sự, Tòa án nhân dân có thể xét xử kín.
+ Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo
thủ tục rút gọn.
+ Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm.
+ Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm.
+ Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được
bảo đảm.
- Cơ cấu tổ chức của Toà án nhân dân: Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và
các Tòa án khác do luật định. Hệ thống cơ quan xét xử bao gồm: Tòa án nhân dân cấp cao;
tòa án nhân dân cấp cao; tòa án nhân dân cấp tỉnh; Tòa án nhân dân cấp huyện; Tòa án quân
sự (có thể định nghĩa thêm)
- Thẩm phán và Hội đồng thẩm phá Tòa án nhân dân:
+ Thẩm phán gồm TPTANDTC, TPTAND cấp cao, TP trung cấp, TP sơ cấp. Nhiệm vụ
quyền hạn: xét xử và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của TA theo sự phân công
của Chánh án.
+ Hội thẩm Toà án nhân dân gồm hội thẩm nhân dân và hội thẩm quân nhân. Nhiệm vụ
quyền hạn: làm nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh án nơi mình được bầu hoặc cử làm
Hội thẩm

Câu 14: Phân tích các nhiệm vụ quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân theo Hiến pháp
2013

- Chức năng của Viện kiểm sát nhân dân: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền
công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”. Thực hành quyền công tố là việc đưa vụ án ra toà với
quyền truy tố và buộc tội đối với những người có hành vi nguy hiểm cho xã hội trên cơ sở
các qui định của Bộ luật Hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự.
Đặc điểm của hoạt động công tố: Quyền công tố là quyền truy tố một người ra trước tòa
án để buộc tội vì người đó đã thực hiện một tội phạm. Quyền công tố chỉ do một cơ quan
thực hiện đó là Viện kiểm sát. Quyền công tố được thực hiện trên cơ sở quy định của pháp
luật. Về mặt nội dung là Bộ luật hình sự, về mặt thủ tục là Bộ luật tố tụng hình sự. Quyền
công tố được thực hiện qua các hoạt động tố tụng nhất định
Hoạt động kiểm sát các hoạt động tư pháp: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
việc điều tra các vụ án hình sự; Kiểm sát xét xử các vụ án hình sự; Kiểm sát việc giải quyết
các vụ án dân sự... Kiểm sát việc thi hành án; Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và
giáo dục người chấp hành án phạt tù
Đặc điểm của chức năng kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân: Kiểm sát là chức năng
duy nhất, hoạt động chủ yếu, chuyên trách của Viện kiểm sát; Viện kiểm sát nhân dân chỉ
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các hoạt động tư pháp; Viện kiểm sát nhân dân chủ
yếu chỉ xem xét khi có dấu hiệu của hành vi vi phạm pháp luật, đã xác định nguyên nhân và
hậu quả của hành vi vi phạm pháp luật chứ không ra quyết định xử lý; Là cơ quan nhà nước
duy nhất có quyền truy tố kẻ phạm tội ra trước Toà án
VKSND thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc
điều tra các vụ án hình sự nhằm bảo đảm: Mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố,
điều tra và xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô
tội; Không để người nào bị khởi tố, bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế các quyền công
dân, bị xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm một cách trái
pháp luật;Việc điều tra phải khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật; những
vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra phải được phát hiện, khắc phục kịp thời và xử lý
nghiêm minh;Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị can phải có căn cứ và đúng pháp
luật
- Nhiệm vụ củaViện kiểm sát nhân dân: Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ
pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Thực hành quyền công tố và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự. Điều tra một số loại tội xâm
phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp; Thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử các vụ án hình sự; Kiểm
sát việc giải quyết các vụ án dân sự…. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành
bản án, quyết định của Toà án nhân dân; Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc tạm
giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù.
- Nguyên tắc tổ chức và hoạt động
+ Nguyên tắc tập trung thống nhất: Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân cấp trên. Viện trưởng các Viện kiểm sát cấp dưới chịu sự lãnh đạo thống nhất
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát
hoạt động tư pháp, Kiểm sát viên tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân.
+ Nguyên tắc Viện kiểm sát đặt dưới sự giám sát của cơ quan quyền lực: Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Quốc hội. Viện
trưởng các Viện kiểm sát nhân dân địa phương chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Hội
đồng nhân dân
- Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân:
+ Viện kiểm sát nhân dân tối cao: thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư
pháp, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của
Chủ tịch nước. Nhiệm kỳ của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của
Quốc hội. Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn
nhiệm, cách chức theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Phó Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo sự phân công
hoặc ủy quyền của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các nhiệm vụ, quyền hạn
khác theo quy định của pháp luật; chịu trách nhiệm trước Viện trưởng và trước pháp luật về
việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Nhiệm kỳ của Phó Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao là 05 năm, kể từ ngày được bổ nhiệm.
+ Viện kiểm sát nhân dân cấp cao: thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư
pháp đối với các vụ án, vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp cao.
+ Viện kiểm sát nhân cấp tỉnh: thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp
trong phạm vi địa phương mình.
+ Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện: thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư
pháp trong phạm vi địa phương mình.
+ Viện kiểm sát quân sự các cấp: Các Viện kiểm sát quân sự thuộc hệ thống Viện kiểm
sát nhân dân được tổ chức trong Quân đội nhân dân Việt Nam để thực hành quyền công tố,
kiểm sát hoạt động tư pháp trong quân đội.
Hệ thống Viện kiểm sát quân sự gồm có:
+ Viện kiểm sát quân sự trung ương: Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương là
Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm,
cách chức theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao sau khi thống nhất
với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, với nhiệm kỳ là 5 năm kể từ ngày được bổ nhiệm.
+ Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương: Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự
quân khu và tương đương do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn
nhiệm, cách chức theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương, với nhiệm
kỳ là 5 năm kể từ ngày được bổ nhiệm.
+ Viện kiểm sát quân sự khu vực: Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự khu vực do Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của
Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương.
Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Viện kiểm sát nhân dân
cấp tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Nhiệm kỳ của các chức danh nêu trên là 05 năm, kể từ
ngày được bổ nhiệm.
Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát
quân sự quân khu và tương đương, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự khu vực do Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của
Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương. Nhiệm kỳ của các chức danh nêu trên là 05
năm, kể từ ngày được bổ nhiệm

Câu 15: Hãy cho biết chế độ trách nhiệm của Chính phủ được quy định thế nào trong
Hiến pháp 2013
Chính phủ có những chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1/ Tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của
Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước;
2/ Đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định
hoặc quyết định theo thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều này;
trình dự án luật, dự án ngân sách nhà nước và các dự án khác trước Quốc hội; trình dự án
pháp lệnh trước Ủy ban thường vụ Quốc hội;
3/ Thống nhất quản lý về kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ,
môi trường, thông tin, truyền thông, đối ngoại, quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn
xã hội; thi hành lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp
và các biện pháp cần thiết khác để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tính mạng, tài sản của Nhân dân;
4/ Trình Quốc hội quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ; thành lập, giải thể,
nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành
chính - kinh tế đặc biệt; trình Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập, giải thể,
nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương;
5/ Thống nhất quản lý nền hành chính quốc gia; thực hiện quản lý về cán bộ, công chức,
viên chức và công vụ trong các cơ quan nhà nước; tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra, giải
quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước; lãnh
đạo công tác của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các
cấp; hướng dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân trong việc thực hiện văn bản của cơ quan nhà
nước cấp trên; tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do luật
định;
6/ Bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền con người, quyền công dân;
bảo đảm trật tự, an toàn xã hội;
7/ Tổ chức đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước theo ủy quyền của Chủ
tịch nước; quyết định việc ký, gia nhập, phê duyệt hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế
nhân danh Chính phủ, trừ điều ước quốc tế trình Quốc hội phê chuẩn quy định tại khoản 14
Điều 70; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và công dân Việt Nam ở
nước ngoài;
8/ Phối hợp với Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung ương
của tổ chức chính trị - xã hội trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.

Cậu 16: Em hãy cho biết vị trí của Chính phủ trong hệ thống hành chính quốc gia
“Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội” (Điều 94 Hiến
pháp năm 2013).
1/ Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp:

Chính phủ thực hiện quyền hành pháp. Quy định Chính phủ thực hiện quyền hành pháp bao
hàm cả vị trí của Chính phủ trong phân công thực hiện quyền lực nhà nước, và chức năng
hành pháp của Chính phủ.
Về mặt lý luận, chức năng hành pháp của Chính phủ thường được thực thi qua các hoạt động
chủ yếu sau:
+ Hoạch định và điều hành chính sách quốc gia chính sách;
+ Dự thảo và trình Quốc hội các dự án luật;
+ Ban hành các kế hoạch, chính sách cụ thể và văn bản dưới luật để các cơ quan hành chính
nhà nước thực thi các chủ trương, chính sách và luật đã được Quốc hội thông qua;
+ Quản lý, điều hành vĩ mô, hướng dẫn, điều hành và giám sát việc thực hiện kế hoạch, chính
sách, chủ trương;
+ Thiết lập trật tự công (trật tự hành chính) trên cơ sở các quy định của luật;
+ Phát hiện, điều tra, xử lý vi phạm theo thẩm quyền hoặc/và yêu cầu tòa án xét xử theo trình
tự thủ tục tư pháp.
Hiện nay Hiến pháp 2013 đã trao phần lớn quyền hành pháp cho Chính phủ, tuy nhiên cũng
quy định quyền hạn thuộc về Chủ tịch nước trong một số hoạt động hành pháp như quyền
thay mặt nước về đối nội và đối ngoại, quyền thống lĩnh các lực lượng vũ trang, quyền ra lệnh
tổng động viên, ban bố tình trạng khẩn cấp…
Được Hiến pháp trao cho quyền hành pháp, Chính phủ có tính chất, vị trí và chức năng mới
là cơ quan thực hiện hành pháp. Với chức năng này, Chính phủ thực hiện việc hoạch định
và điều hành chính sách quốc gia, tổ chức thực hiện Hiến pháp và pháp luật để duy trì và
bảo vệ trật tự cộng cộng, bảo vệ lợi ích quốc gia, bảo vệ quyền con người, quyền công dân .
Qua đó đã đảm bảo tính độc lập tương đối và có sự kiểm soát đối với cơ quan lập pháp và cơ
quan tư pháp.
Cụ thể hóa chức năng hành pháp, tại Điều 96, Hiến pháp năm 2013 đã quy định khái
quát các nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng của Chính phủ như sau:
- Khẳng định vai trò hoạch định chính sách của Chính phủ, “Đề xuất, xây dựng chính
sách trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền để
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn…”.
- Quy định rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ trong việc tổ chức thi hành
Hiến pháp và pháp luật (khoản 1);
- Thi hành các biện pháp cần thiết khác để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tính mạng, tài sản
của Nhân dân (khoản 3)…
Bên cạnh quyền trình dự án luật, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung quyền ban hành
văn bản pháp quy của Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ như một nhiệm
vụ, quyền hạn độc lập của chức năng hành pháp tại Điều 100: “Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành văn bản pháp luật để thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của mình, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó và xử lý các văn bản
trái pháp luật theo quy định của luật”.
2/ Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam

Nhiệm vụ của Chính phủ là thống nhất quản lý nền hành chính quốc gia; thực hiện quản
lý về cán bộ, công chức, viên chức và công vụ trong các cơ quan nhà nước; tổ chức công tác
thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ
máy nhà nước; lãnh đạo công tác của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ,
Ủy ban nhân dân các cấp; hướng dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân trong việc thực hiện văn
bản của cơ quan nhà nước cấp trên; tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn do luật định; (Điều 96 Hiến pháp 2013)

Chính phủ nắm quyền thống nhất quản lý điều hành các mặt đời sống kinh tế - xã hội
của đất nước, trước hết là quyết định những vấn đề về chủ trương, cơ chế, chính sách, thể chế
quản lý hành chính nhà nước. Chính phủ là thiết chế có thẩm quyền cao nhất đối với hệ thống
hành chính nhà nước. Có vị trí cao nhất nước về mặt quản lý hành chính, nên chức năng hành
chính của Chính phủ phải bao quát toàn bộ các công việc quản lý hành chính nhà nước của
đất nước, của cả bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị. Các quyết định của Chính phủ phải
được tất cả các cơ quan, tổ chức trong xã hội, trong hệ thống chính trị, bộ máy nhà nước tôn
trọng và chấp hành nghiêm túc.
Tính chất hành chính nhà nước cao nhất nước của Chính phủ chi phối không những
mối quan hệ của Chính phủ với hệ thống hành chính mà còn các mối quan hệ giữa Chính phủ
với các cơ quan lập pháp, hành pháp, với các tổ chức trong hệ thống chính trị nói chung.
Theo đó, về mặt hành chính nhà nước, Chính phủ có vị trí và thẩm quyền cao nhất, các quyết
định của nó có giá trị trong toàn quốc. Tất cả các cơ quan tổ chức trong hệ thống chính trị,
các tổ chức và cá nhân trong xã hội phải tôn trọng và chấp hành. Đồng thời, bảo đảm cho
Chính phủ có quyền chủ động, linh hoạt, phát huy tính sáng tạo trong quản lý điều hành.

3. Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội

Tính chất, vị trí và chức năng của Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội là
việc Chính phủ chấp hành và tổ chức thi hành các đạo luật, các nghị quyết của Quốc hội; là
thể hiện tính chịu trách nhiệm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các thành viên Chính
phủ trước Quốc hội; là cơ sở cho việc thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội đối với
Chính phủ; là bảo đảm sự gắn bó chặt chẽ giữa Chính phủ và Quốc hội, bảo đảm tính thống
nhất trong việc thực hiện quyền lập pháp và hành pháp. Và trên hết là thể hiện đúng nguyên
tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ
quan nhà nước trong thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quốc hội là cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan duy nhất do cử tri cả nước bầu ra, là cơ quan đại biểu
cao nhất của nhân dân. Chính phủ có trách nhiệm phải tuân thủ và thực hiện các luật, nghị
quyết của Quốc hội, báo cáo công tác trước Quốc hội, chịu trách nhiệm giải trình trước Quốc
hội về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được phân công.

4. Về mối quan hệ giữa Chính phủ với các cơ quan khác

Mối quan hệ giữa Chính phủ với các cơ quan khác cũng thể hiện vị trí của Chính phủ
trong thực thi quyền lực được phân công.

+ Mối quan hệ giữa Chính phủ với Quốc hội: Trong Hiến pháp 2013, mối quan hệ giữa
Quốc hội với Chính phủ được thể hiện rõ nét thông qua các hoạt động chủ yếu sau đây:
* Trong hoạt động tổ chức Chính phủ:
– Chính phủ gồm Thủ tướng Chính phủ, các phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và
Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Cơ cấu, số lượng thành viên Chính phủ do Quốc hội quyết
định.
– Quốc hội có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng Chính phủ theo đề nghị
của Chủ tịch nước, có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm các Phó Thủ tướng Chính
phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ.
Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Chính phủ, Quốc hội, Uỷ
ban thường vụ Quốc hội.
– Nhiệm kì của Chính phủ theo nhiệm kì của Quốc hội, khi Quốc hội hết nhiệm kì Chính phủ
tiếp tục làm việc cho đến khi Quốc hội khoá mới thành lập Chính phủ mới.
– Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội.
* Trong hoạt động xây dựng pháp luật:
– Chính phủ có nhiệm vụ trình dự án luật, dự án ngân sách nhà nước và các dự án khác trước
Quốc hội; trình dự án pháp lệnh trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
– Chính phủ có nhiệm vụ tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp
lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
– Chính phủ có quyền đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội bãi bỏ văn bản của Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, UBND, Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
trái với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên.
– Quốc hội có quyền bãi bỏ văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trái với Hiến pháp,
luật, nghị quyết của Quốc hội. Uỷ ban thường vụ Quốc hội có quyền đình chỉ việc thi hành
văn bản của Chính phủ, thủ tướng Chính phủ; bãi bỏ văn bản của Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
* Trong hoạt động kiểm tra, giám sát:
– Uỷ ban thường vụ Quốc hội có quyền giám sát hoạt động của Chính phủ.
– Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn các thành viên của Chính phủ, người bị chất vấn phải
trả lời chất vấn trước Quốc hội tại kì họp, trong trường hợp cần điều tra thì Quốc hội cho trả
lời trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc tại kì họp sau hoặc gửi văn bản trả lời.
* Trong hoạt động quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước:
– Bộ trưởng, thủ trưởng các cơ quan ngang bộ chịu trách nhiệm cá nhân trước Thủ tướng
Chính phủ, Chính phủ, và Quốc hội về ngành, lĩnh vực được phân công, phụ trách.
– Về hoạt động đối nội: Chính phủ có quyền trình Quốc hội quyết định thành lập, giải thể,
nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành
chính- kinh tế đặc biệt; trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập, giải thể nhập,
chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
– Về hoạt động đối ngoại: Theo sự phê chuẩn của Quốc hội và sự uỷ quyền của Chủ tịch
nước, Chính phủ tổ chức đàm phán, kí kết điều ước quốc tế nhân danh nhà nước; quyết định
việc kí, gia nhập, phê duyệt hoặc chấm dứt hiệu lực các điều ước quốc tế nhân danh Chính
phủ.
+ Mối quan hệ giữa Chính phủ với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị
xã hội
- Chính phủ phối hợp với Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung
ương của tổ chức chính trị - xã hội trong việc thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình.
- Chính phủ và Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cơ quan trung ương của tổ
chức chính trị - xã hội xây dựng quy chế phối hợp công tác.
- Khi xây dựng dự án luật, dự thảo nghị quyết trình Quốc hội, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị
quyết trình Ủy ban thường vụ Quốc hội, dự thảo nghị định của Chính phủ, Chính phủ gửi dự
thảo văn bản để Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung ương của tổ
chức chính trị - xã hội có liên quan tham gia ý kiến.
- Chính phủ thường xuyên thông báo cho Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội về tình hình kinh tế - xã hội và các quyết
định, chủ trương quan trọng của Chính phủ liên quan đến nhiều tầng lớp Nhân dân.
- Chính phủ tạo điều kiện thuận lợi để Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ
quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội:
+ Tuyên truyền, phổ biến pháp luật trong Nhân dân,
+ Động viên, tổ chức Nhân dân tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, tổ chức
thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước, giám sát hoạt động của cơ
quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức và viên chức.
- Chính phủ có trách nhiệm nghiên cứu, giải quyết và trả lời các kiến nghị của Ủy ban trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội.

Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban
thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. Chính phủ gồm Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ
tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Cơ cấu, số lượng thành
viên Chính phủ do Quốc hội quyết định. Chính phủ làm việc theo chế độ tập thể, quyết định
theo đa số. Thủ tướng Chính phủ là người đứng đầu Chính phủ, chịu trách nhiệm trước Quốc
hội về hoạt động của Chính phủ và những nhiệm vụ được giao; báo cáo công tác của Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. Phó
Thủ tướng Chính phủ giúp Thủ tướng Chính phủ làm nhiệm vụ theo sự phân công của Thủ
tướng Chính phủ và chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ về nhiệm vụ được phân
công. Khi Thủ tướng Chính phủ vắng mặt, một Phó Thủ tướng Chính phủ được Thủ tướng
Chính phủ ủy nhiệm thay mặt Thủ tướng Chính phủ lãnh đạo công tác của Chính phủ. Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ chịu trách nhiệm cá nhân trước Thủ tướng Chính phủ,
Chính phủ và Quốc hội về ngành, lĩnh vực được phân công phụ trách, cùng các thành viên
khác của Chính phủ chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Chính phủ.

Câu 17: Em hãy bình luận về chức năng của Viện Kiểm sát ND theo quy định của Hiến
pháp và pháp luật hiện nay? Liên hệ thực tiễn
Hiện nay theo quy định của Hiến pháp và pháp luật hiện nay, chức năng của Viện kiểm sát
nhân dân là: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”
(khoản 1 Điều 107 Hiến pháp năm 2013).
Trước đây có quy định: Viện Kiểm sát nhân dân tối cao nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất. Các Viện Kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện Kiểm sát quân sự kiểm sát
việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố trong phạm vi trách nhiệm của mình.
Tuy nhiên sau đó, Hiến pháp 1992 và hiến pháp 2013 đã cắt bỏ phần lớn chức năng Kiểm sát
chung của Viện Kiểm sát, chỉ còn giữ chức năng kiểm sát tư pháp và công tố. Theo quy định
của Hiến pháp mới, chức năng CÔNG TỐ lại trở thành chức năng chính và chức năng kiểm
sát tư pháp (phần còn lại của Kiểm sát chung) lại là chức năng phụ.
Thực hành quyền công tố: là việc đưa vụ án ra toà với quyền truy tố và buộc tội đối với
những người có hành vi nguy hiểm cho xã hội trên cơ sở các qui định của Bộ luật Hình sự và
Bộ luật tố tụng hình sự.
Đặc điểm của hoạt động công tố: Quyền công tố là quyền truy tố một người ra trước tòa
án để buộc tội vì người đó đã thực hiện một tội phạm. Quyền công tố chỉ do một cơ quan
thực hiện đó là Viện kiểm sát. Quyền công tố được thực hiện trên cơ sở quy định của pháp
luật. Về mặt nội dung là Bộ luật hình sự, về mặt thủ tục là Bộ luật tố tụng hình sự. Quyền
công tố được thực hiện qua các hoạt động tố tụng nhất định
Hoạt động kiểm sát các hoạt động tư pháp: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc
điều tra các vụ án hình sự; Kiểm sát xét xử các vụ án hình sự; Kiểm sát việc giải quyết các
vụ án dân sự... Kiểm sát việc thi hành án; Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo
dục người chấp hành án phạt tù
Đặc điểm của chức năng kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân: Kiểm sát là chức năng
duy nhất, hoạt động chủ yếu, chuyên trách của Viện kiểm sát; Viện kiểm sát nhân dân chỉ
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các hoạt động tư pháp; Viện kiểm sát nhân dân chủ
yếu chỉ xem xét khi có dấu hiệu của hành vi vi phạm pháp luật, đã xác định nguyên nhân và
hậu quả của hành vi vi phạm pháp luật chứ không ra quyết định xử lý; Là cơ quan nhà nước
duy nhất có quyền truy tố kẻ phạm tội ra trước Toà án
VKSND thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc
điều tra các vụ án hình sự nhằm bảo đảm: Mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố,
điều tra và xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô
tội; Không để người nào bị khởi tố, bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế các quyền công
dân, bị xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm một cách trái
pháp luật;Việc điều tra phải khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật; những
vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra phải được phát hiện, khắc phục kịp thời và xử lý
nghiêm minh;Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị can phải có căn cứ và đúng pháp
luật
Liên hệ thực tiễn: ….

Câu 18: Em hãy cho biết nguyên tắc hoạt động đặc thù của Viện kiểm sát ND theo quy
định của pháp luật hiện nay? Liên hệ thực tiễn
Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức và hoạt động trên cơ sở những nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước ta nói chung. Tuy nhiên do vị trí chức năng, nhiệm vụ đặc
thù, hệ thống Viện KSND được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc đặc thù. Đó là
nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành và nguyên tắc độc lập, không phụ
thuộc vào bất kỳ cơ quan nhà nước địa phương nào.

Nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành.

Nguyên tắc này bắt nguồn từ nguyên tắc tập trung dân chủ và nhằm đảm bảo tính thống nhất
của nhà nước pháp quyền..

Theo nguyên tắc này, Viện KSND do Viện trưởng đứng đầu, Viện trưởng Viện KSND cấp
dưới báo cáo Viện KSND cấp trên. Viện trưởng Viện KSND địa phương và Viện trưởng Viện
KS quân sự cao cấp chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện KSND tối cao (Điều 109 Hiến
pháp 2013 và Điều 8 Luật tổ chức Viện KS của VN, 2002). Viện trưởng, phó Viện trưởng,
kiểm sát viên Viện KSND địa phương, phó viện trưởng Viện KS quân sự quân khu, khu vực,
điều tra viên của Viện KSND đều do Viện trưởng Viện KSND bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi
nhiệm. (điều 9 luật tổ chức Viện KSND 2002).

https://accgroup.vn/to-chuc-cua-vien-kiem-sat-nhan-dan/

Nguyên tắc độc lập, không phụ thuộc vào bất kỳ cơ quan nhà nước địa phương nào

Viện KSND có vị trí độc lập với các cơ quan cấp uỷ Đảng và Nhà nước, là cơ quan ngành
dọc, chịu sự chỉ đạo, tập trung thống nhất của Viện trưởng Viện KSND tối cao, người đứng
đầu hệ thống. Chính nhờ sự lãnh đạo tập trung mà Viện KSND các cấp có thể phát huy được
sức mạnh của cả hệ thống trong đấu tranh với vi phạm pháp luật nhằm đảm bảo pháp chế
thống nhất, có khả năng đối trọng với chủ nghĩa cục bộ địa phương. Đây là nguyên tắc đặc
thù của ngành KSND, có ý nghĩa hết sức quan trọng để Viện KSND các cấp thực hiện tốt
chức năng, nhiệm vụ của mình, không bị lệ thuộc hay chịu bất cứ sự can thiệp nào từ phía
các cơ quan cấp uỷ Đảng và Nhà nước ở địa phương. Theo nguyên tắc này, bất kỳ Viện
trưởng Viện KSND ở cấp nào, bất kỳ KSV nào trong hoạt động của mình đều độc lập không
phụ thuộc bất kỳ cơ quan nhà nước nào; khi hoạt động các Viện KSND chỉ phụ thuộc vào
Hiến pháp, các đạo luật, pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội và Chỉ thị của Viện trưởng Viện KSND tối cao.

Tuy có vị trí độc lập không có nghĩa là Viện KSND ở tỉnh trong hoạt động của mình
hoàn toàn thoát ly với hoạt động của các cơ quan nhà nước khác mà phải đảm bảo vai trò
lãnh đạo của cấp uỷ Đảng cùng cấp nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị tại địa phương.
Nguyên tắc Đảng lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội là nguyên tắc cơ bản được quy định
trong Hiến pháp của Nhà nước ta; nhờ có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, hoạt động của
VKS luôn có phương hướng đúng, đã phục vụ tích cực nhiệm vụ chính trị trong từng giai
đoạn cách mạng. Các cấp ủy Đảng đã quan tâm lãnh đạo, kiểm tra và tạo điều kiện cho VKS
các cấp thực hiện chức năng kiểm sát. Các VKS đã chủ động tham mưu cho cấp ủy Đảng
những vấn đề về pháp chế và đã có tác dụng tích cực. Bên cạnh đó, pháp luật của Nhà nước
ta thể chế hoá chủ trương, chính sách của Đảng; trong khi đó công tác kiểm sát của ngành
KSND nhằm bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất; chính vì
thế, mục tiêu cao nhất của hoạt động kiểm sát là phục vụ sự phát triển của đất nước theo
đường lối của Đảng. Do vậy, Viện KSND ở tỉnh phải quán triệt, vận dụng nhuần nhuyễn các
chủ trương, nghị quyết của Đảng về phát triển kinh tế, xã hội; bảo đảm an ninh, trật tự an
toàn xã hội vào công tác chuyên môn của mình; đồng thời tích cực tham mưu, đề xuất với
cấp uỷ Đảng về những giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đấu tranh phòng,
chống vi phạm và tội phạm, kiến nghị với các cơ quan hữu quan có biện pháp phòng ngừa,
công tác kiểm sát mới thật sự đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng; qua đó góp phần quan trọng giữ
vững lòng tin của nhân dân vào công lý, vào chế độ, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an
toàn xã hội nhằm phục vụ có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị của đất nước cũng như nhiệm
vụ chính trị của địa phương.

Ngoài ra, Viện KSND ở tỉnh luôn có sự phối hợp chặt chẽ, hữu cơ, tác động qua lại giữa
các hệ thống cơ quan nhà nước với nhau; phối hợp với cấp uỷ Đảng, các cơ quan cùng cấp
trong việc điều động, luân chuyển, bố trí cán bộ giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý; đồng thời
kiểm sát tuân theo pháp luật trong các trường hợp thi hành án, các khiếu nại, tố cáo của các
cơ quan tư pháp, các cơ quan hữu quan theo qui định của pháp luật; tích cực phối hợp với Cơ
quan điều tra trong việc nắm, quản lý tố giác, tin báo về tội phạm, khởi tố vụ án, khởi tố bị
can, việc áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn, việc điều tra thu thập chứng cứ
và lập hồ sơ vụ án, việc đình chỉ, tạm đình chỉ, kết thúc điều tra vụ án; đặc biệt phối hợp chặt
chẽ với Công an và Toà án để có những phương án tốt nhất trong công tác đấu tranh phòng,
chống vi phạm và tội phạm; bàn bạc thống nhất với Cơ quan điều tra, Toà án giải quyết
những vụ án lớn có tính chất phức tạp, kéo dài; phối hợp với Toà án đưa ra xét xử lưu động
những vụ án điển hình xảy ra trên địa bàn nhằm tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật cho
người dân một cách có hiệu quả. Bên cạnh đó, theo Nghị quyết số 725/2009-UBTVQH12
ngày 16/02/2009 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về bổ sung nhiệm vụ đối với Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh, thành phố nơi thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân cấp
huyện, quận, phường; trong đó giao cho Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thành phố giám sát hoạt
động của Viện KSND cấp quận, huyện trên địa bàn. Ngày 01/4/2009, Viện KSND tối cao đã
ban hành Hướng dẫn số 13/HD-VKSTC-V8 hướng dẫn thực hiện Nghị quyết số 725/2009-
UBTVQH12. Theo đó, các Viện KSND quận, huyện chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Viện trưởng Viện KSND tỉnh, thành phố nơi không tổ
chức Hội đồng nhân dân quận, huyện có trách nhiệm báo cáo trước Hội đồng nhân dân cùng
cấp về công tác của Viện KSND cấp quận, huyện và trả lời chất vấn, kiến nghị, yêu cầu của
đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về công tác của Viện
KSND quận, huyện. Điều này không ảnh hưởng đến tính độc lập của ngành Kiểm sát mà còn
có ý nghĩa quan trọng để tăng cường sự kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với hoạt động
của Viện KSND, tạo điều kiện để cơ quan này thực hiện tốt hơn chức năng, nhiệm vụ và chịu
trách nhiệm trước nhân dân địa phương trong quá trình thực thi nhiệm vụ.

Như vậy, về thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp là chức năng,
nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao cho ngành KSND thực hiện, không có bất kỳ cơ quan
nào khác thực hiện chức năng, nhiệm vụ này và cũng không thể nào thiếu cơ quan VKS trong
hệ thống bộ máy công quyền ở địa phương.

Câu 19: Nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật được thể hiện như thế
nào trong Hiến pháp 2013
Bình đẳng trước pháp luật là một trong những nguyên tắc Hiến định, được quy định cụ thể tại
Điều 16 Hiến pháp năm 2013
1. Bình đẳng trước pháp luật và quyền bình đẳng trước pháp luật
1.1 Bình đẳng trước pháp luật
Bình đẳng trước pháp luật hay quyền bình đẳng trước pháp luật là những nguyên lý của pháp
quyền được thể hiện qua các quy định cụ thể (các quy phạm pháp luật) thiết lập về quyền
được đối xử một cách như nhau, công bằng giữa mọi công dân trước pháp luật, theo đó, mọi
công dân, nam, nữ thuộc các dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội khác
nhau trong một quốc gia đều không bị phân biệt đối xử trong việc hưởng quyền, nghĩa vụ và
chịu trách nhiệm pháp lý theo quy định của pháp luật.
Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật có vai trò rất quan trọng, bảo đảm cho xã hội công
bằng, pháp luật được tôn trọng, chống đặc quyền đặc lợi, góp phần xây dựng nhà nước pháp
quyền. Tên cơ sở nguyên tắc pháp lý cơ bản này, đã được khẳng định trong Hiến pháp.
Theo tố tụng hình sự phải được tiến hành theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước
pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội;
bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật.
1.2 Khái quát về quyền bình đẳng trước pháp luật
Quyền bình đẳng trước pháp luật được thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội
đặc biệt là các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội nhất là quyền bình đẳng trong lĩnh
vực pháp lý, tư pháp, tố tụng. Tiêu chí của một đất nước văn minh hiện nay là luật pháp phải
được thượng tôn bất kể vị thế giữa người vi phạm và bị xâm phạm.
Quyền và nghĩa vụ của công dân không bị phân biệt bởi giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn
giáo, giàu nghèo, thành phần xã hội, địa vị xã hội… Trong cùng một điều kiện như nhau,
công dân được hưởng quyền và nghĩa vụ như nhau, có tư cách pháp lý như nhau. Nhưng mức
độ sử dụng các quyền và nghĩa vụ đó đến đâu phụ thuộc rất nhiều vào khả năng, điều kiện và
hoàn cảnh của mỗi người. Nhà nước phải có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm cho công
dân thực hiện quyền và nghĩa vụ một cách bình đẳng, công dân cần thực hiện tốt các nghĩa vụ
được Hiến pháp và luật xác định là điều kiện để sử dụng quyền của mình.
Trong lịch sử lập pháp, quyền bình đẳng của công dân đã được quy định cụ thể từ Hiến pháp
1946. Theo nội dung của bản Hiến pháp 1946, công dân bình đẳng trước pháp luật là: “Tất
cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia vào chính quyền và
công cuộc kiến quốc. Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền trên mọi phương diện”.
Kế thừa tư tưởng của Hiến pháp 1946, quyền bình đẳng trước pháp luật của công dân luôn
được khẳng định ở Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 2013. Trong đó ở Hiến pháp 2013, quyền
bình đẳng trước pháp luật được quy định ở Điều 16:
 Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.
 Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Không chỉ trong Hiến pháp, công dân bình đẳng trước pháp luật là điều còn được khẳng định
trong các bộ luật bao gồm:
 Điều 3, Điều 16 - 18 và Điều 19 - 24 của Luật Dân sự 2015
 Điều 9 Luật Tố tụng Hình sự 2015
 Điều 2 Luật Quốc tịch 2014.
Quyền bình đẳng trước pháp luật cũng là một trong những nguyên tắc pháp lý cơ bản ở nhiều
nước. Hiến pháp Việt Nam quy định: Mọi công dân Việt Nam đều có quyền bình đẳng về
quyền và nghĩa vụ. Công dân không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín
ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ 18 tuổi trở lên đều có
quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử vào quốc hội, hội đồng nhân dân theo
quy định của pháp luật. Hiến pháp xác định quyền bình đẳng của phụ nữ và nam giới về mọi
mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình.

2. Nội dung của nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và ví dụ
2.1. Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ
Công dân bình đẳng về quyền và nghĩa vụ có nghĩa là bình đẳng về hưởng quyền và làm
nghĩa vụ trước Nhà nước và xã hội, quyền và nghĩa vụ không tách rời nhau, thể hiện qua việc
Mọi công dân đều được hưởng quyền và phải thực hiện nghĩa vụ của mình: Một số quyền cơ
bản như quyền bầu cử, ứng cử, sở hữu, thừa kế, các quyền tự do cơ bản và quyền dân sự,
chính trị khác, nhân quyền, quyền tự do ngôn luận, quyền tự do cư trú, tự do đi lại, quyền
thông tin… Nghĩa vụ lao động công ích, đóng thuế…
2.2. Bình đẳng về trách nhiệm pháp lý
Bình đẳng về trách nhiệm pháp lý là bất kỳ công dân nào vi phạm pháp luật đều bị xử lý bằng
các chế tài theo quy định của pháp luật. Ví dụ như khi truy cứu trách nghiệm pháp lý đối với
chủ thể có hành vi vi phạm được quy định trong pháp luật và chỉ trong giới hạn mà pháp luật
quy định do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng. Việc truy cứu trách nhiệm phải kịp
thời, chính xác, công bằng, hợp lý. Khi xét xử thì mọi người phải bình đẳng trước tòa án.
Trên thực tế nhiều nước chưa thật sự có sự bình đẳng trong trách nhiệm pháp lý, nhất là trong
quá trình tố tụng, như tại Việt Nam, với triết lý Nho giáo đã ăn sâu từ lâu là: Hình phạt thì
không tới bậc đại phu, lễ nghi không tới bậc thứ dân tức là tức là hình luật chẳng thể phạm
đến những kẻ bề trên, cho nên một số ý kiến cho rằng chỉ khi mọi người đều có ý thức tôn
trọng pháp luật như nhau thì mới gọi là công bằng, mới không có tình trạng coi thường pháp
luật. Mặt khác sự can thiệp của hệ thống Đảng Cộng sản Việt Nam các cấp vào pháp luật đã
tạo ra một quy trình bên ngoài pháp luật đồng thời những bản án tuyên phạt của tòa án nước
này trong nhiều trường hợp chưa được sự đồng tình của xã hội vì quá cả nể, nhẹ tay với kẻ có
quyền thế, địa vị, hoặc tiền bạc nhưng quá hà khắc đối với người yếu thế, nghèo khó nên đã
nêu lên vấn đề về sự bình đẳng trước pháp luật.
2.3. Về Nhà nước và công dân
Chính Nhà nước cũng được xem như một pháp nhân: Các quyết định của chính quyền như
vậy cũng phải tuân thủ nguyên tắc hợp pháp như bao chủ thế pháp lý khác. Nguyên tắc này
cho phép đóng khung hoạt động của quyền lực công và đặt hoạt động đó vào khuôn khổ của
nguyên tắc pháp chế, vốn trước tiên dựa trên các nguyên tắc hiến định.
Trong khuôn khổ đó, các cưỡng chế hướng lên Nhà nước sẽ mạnh mẽ: Các quy định mà Nhà
nước đưa ra và các quyết định mà Nhà nước ban hành phải tuân thủ toàn thể các quy phạm
pháp luật cao hơn đang có hiệu lực (các luật, điều ước quốc tế và các nguyên tắc mang tính
Hiến pháp), không được quyền hưởng bất kì ưu tiên về mặt tài phán. Các cá nhân cũng như
pháp nhân của luật tư như thế là đối lập tranh cãi với các quyết định của cơ quan công quyền
bằng các đối lập với các quy phạm mà cơ quan này ban hành. Trong khuôn mẫu này, vai trò
của các cơ quan tài phán là vô cùng cần thiết và sự độc lập của tư pháp là bắt buộc.
2.4 Ví dụ của nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật
- Mọi công dân đều được hưởng quyền và phải thực hiện nghĩa vụ của mình.
- Quyền và nghĩa vụ của công dân không bị phân biệt bởi dân tộc, giới tính, tôn giáo, giàu,
nghèo, thành phần và địa vị xã hội.
+ Ví dụ: Điều 27, Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền
bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân.
Việc thực hiện các quyền này do luật định. Như vậy, công dân miễn có đủ các yêu cầu trên,
không phân biệt dân tộc, giới tính, tôn giáo, thành phần và địa vị xã hội,… thì đều có quyền
đi bỏ phiếu bầu cử và quyền ứng cử.
- Bất kì công dân nào vi phạm pháp luật đều phải chịu trách nhiệm pháp lý theo quy định của
pháp luật (trách nhiệm hình sự, dân sự, hành chính, kỉ luật).
20. Tại sao nói “Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân” theo Hiến pháp
2013 ? em hãy phân tích.
21. Em hãy phân tích quyền và nghĩa vụ cơ bản về kinh tế – xã hội của công dân
Việt Nam theo Hiến pháp 2013? ( 5 điểm)
- Quyền làm việc (Điều 35) là một trong những quyền quan trọng nhất của công dân
trong lĩnh vực các quyền về kinh tế, văn hóa, xã hội. Theo Hiến pháp năm 1992, lao
động là quyền và nghĩa vụ của công dân, tuy nhiên theo Hiến pháp năm 2013 lao động
là quyền chứ không phải là nghĩa vụ. Mặt khác, Hiến pháp năm 2013 còn quy định
nghiêm cấm cưỡng bức lao động và sử dụng nhân công dưới độ tuổi lao động tối thiểu.
Nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo ngày càng nhiều việc làm cho người lao động.
Nhà nước ban hành chính sách, chế độ bảo hộ lao động, Nhà nước quy định thời gian
lao động, chế độ tiền lương, chế độ nghỉ ngơi và chế độ bảo hiểm xã hội đối với viên
chức nhà nước và những người làm công ăn lương, khuyến khích phát triển các hình
thức bảo hiểm xã hội khác đối với người lao động.
- Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không
cấm (Điều 33). So với Hiến pháp năm 1992, đây là một quy định mới. Theo quy định
của Hiến pháp năm 1992, công dân có quyền được kinh doanh sản xuất, có quyền sở
hữu những thu nhập hợp pháp, của cải để dành, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn
và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác. Trên cơ sở tự
nguyện, dân chủ và cùng có lợi, người lao động có thể góp vốn, góp sức, hợp tác sản
xuất kinh doanh trong các tổ chức kinh tế tập thể dưới nhiều hình thức với quy mô và
mức độ tập thể hóa thích hợp. Kinh tế cá thể được hoạt động trong các ngành, nghề
theo quy định của pháp luật. Kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển. Tổ chức
và cá nhân có quyền thành lập doanh nghiệp không bị hạn chế về quy mô và địa bàn
hoạt động. Kinh tế tư bản tư nhân được phép phát triển trong các ngành có lợi cho
quốc kế dân sinh do pháp luật quy định, có thể được liên doanh với tổ chức kinh tế
doanh nghiệp nhà nước dưới nhiều hình thức. Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế có thể liên doanh với cá nhân, tổ chức kinh tế nước ngoài theo quy định của
pháp luật. Tài sản hợp pháp của các doanh nghiệp được Nhà nước bảo hộ. Các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật. Tuy nhiên, Hiến
pháp năm 1992 quy định quyền tự do kinh doanh là quyền của công dân, còn Hiến
pháp năm 2013 có bước phát triển mới khi quy định quyền tự do kinh doanh không
những là quyền của công dân mà là quyền của con người. Cá nhân dù là công dân Việt
Nam hay không, theo quy định của Hiến pháp cũng có quyền tự do kinh doanh.
- Bên cạnh quyền làm việc, Hiến pháp xác lập quyền học tập của công dân (Điều 39).
Khác với quyền làm việc, học tập vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của công dân. Ngay cả
khi nước nhà mới giành được độc lập Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm đến vấn đề
nâng cao dân trí. Người đã xác định rằng học tập là quyền của mỗi công dân của một
nhà nước độc lập đồng thời nó cũng phải là bổn phận của mỗi người. Người đã viết:

“Muốn giữ vững nền độc lập, muốn cho dân mạnh, nước giàu; mọi người Việt Nam
phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để tham
gia vào công cuộc xây dựng nước nhà và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc
ngữ”.
Các Hiến pháp của nước ta trong lịch sử bao giờ cũng ghi nhận quyền học tập, coi nó
là một trong những quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân (Điều 15 Hiến pháp năm
1946, Điều 33 Hiến pháp năm 1959, Điều 60 Hiến pháp năm 1980, Điều 59 Hiến pháp
năm 1992.
- Quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe (Điều 38). Theo Hiến pháp năm 2013, mọi
người có quyền được hưởng chế độ bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong việc
sử dụng các dịch vụ y tế và có nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh, khám
bệnh, chữa bệnh. So với Hiến pháp năm 1992 đây cũng là bước tiến bộ mới vì theo
Hiến pháp năm 2013, quyền này không chỉ dành cho công dân Việt Nam mà là quyền
dành cho mọi người sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam.
- Quyền có nơi ở hợp pháp (Điều 22). Khác với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm
2013 không quy định công dân Việt Nam có quyền xây dựng nhà ở. Trong điều kiện
hiện nay khi dân số nước ta ngày càng tăng, còn diện tích đất ở không thể tăng được,
Nhà nước ta không thể đảm bảo quyền xây dựng nhà ở cho mọi công dân có nhu cầu
về nhà ở, vì vậy Nhà nước chỉ có thể đảm bảo cho công dân quyền có nơi ở hợp pháp.
- Quyền bình đẳng của phụ nữ đối với nam giới (Điều 26). Theo Hiến pháp năm 2013,
công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội và gia đình. Nhà nước nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc
phạm nhân phẩm phụ nữ. Lao động nữ và nam có việc làm như nhau thì hưởng lương
ngang nhau. Lao động nữ có quyền hưởng chế độ thai sản. Phụ nữ là viên chức nhà
nước và người làm công ăn lương có quyền nghỉ trước và sau khi sinh đẻ mà vẫn
hưởng lương, phụ cấp theo quy định của pháp luật. Nhà nước và xã hội tạo điều kiện
để phụ nữ nâng cao trình độ về mọi mặt, không ngừng phát huy vai trò của mình trong
xã hội. Nhà nước chăm lo phát triển các nhà hộ sinh, khoa nhi, nhà trẻ và các cơ sở
phúc lợi xã hội khác để giảm nhẹ gánh nặng gia đình tạo điều kiện cho phụ nữ sản
xuất, công tác, học tập, chữa bệnh, nghỉ ngơi và làm tròn bổn phận của người mẹ.
- Quyền được bảo hộ về hôn nhân và gia đình (Điều 36). Nam, nữ có quyền kết hôn, li
hôn. Nhà nước bảo hộ chế độ hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ
một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau. Trẻ em được Nhà nước, gia đình
và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia các vấn đề về trẻ em. Nghiêm
cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những
hành vi khác vi phạm quyền trẻ em (khoản 1 Điều 37).
Ngoài những quyền đã phân tích ở trên, Hiến pháp năm 2013 còn ghi nhận các quyền
khác của công dân như quyền được đảm bảo an sinh xã hội (Điều 34), quyền xác định
dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp (Điều 42),
quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử
dụng các cơ sở văn hóa (Điều 41), quyền được sống trong môi trường trong lành (Điều
43)... Công dân Việt Nam được hưởng tất cả các quyền khác thuộc phạm vi quyền con
người được quy định trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền, trong các công ước
quốc tế về các quyền dân sự chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội mà Việt Nam đã kí kết
hoặc gia nhập và được quy định trong Hiến pháp và pháp luật Việt Nam.
Hiến pháp năm 2013 quy định công dân Việt Nam có các nghĩa vụ sau đây:
- Nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc (Điều 44);
- Nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc (khoản 1 Điều 45);
- Nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân (khoản 2 Điều 45);
- Nghĩa vụ tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội (Điều 46);
- Nghĩa vụ chấp hành các quy tắc sinh hoạt công cộng (Điều 46);
- Nghĩa vụ bảo vệ môi trường (Điều 43);
- Nghĩa vụ nộp thuế (Điều 47);
- Nghĩa vụ học tập (Điều 39);
- Nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật Việt Nam (Điều 46).
22. Tại sao nói quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân Dân theo Hiến pháp 2013. Em
hãy chứng minh?(5 điểm)
Tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Hiến pháp năm 2013, đây là sự
kiện chính trị - pháp lý quan trọng của đất nước. Hiến pháp thể hiện những nội dung
mới quan trọng nhằm thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011); quy định đầy đủ, rõ nét về chủ
thể là Nhân dân trong Hiến pháp, về quyền lực của Nhà nước thuộc về Nhân dân...
Quyền làm chủ của Nhân dân trong Hiến pháp năm 2013
Thứ nhất, ngay Lời nói đầu Hiến pháp 2013 thể hiện: "...Nhân dân Việt Nam xây
dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh" đã thể hiện rõ trách nhiệm của nhân dân trong việc xây dựng,
thi hành và bảo vệ Hiến pháp. Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định: "1. Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. 2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là
liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức" đã thể
nhất quán quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đề cao quyền làm chủ của nhân dân
trong Hiến pháp là nhà nước của dân, do dân và vì dân, đồng thời thể hiện đất nước
Việt Nam là do chính nhân dân làm chủ, nhân dân là chủ thể quan trọng trong xây
dựng và bảo đất nước. Lần đầu tiên Hiến pháp năm 2013 từ Nhân dân được viết hoa,
đây không phải đơn thuần là cách thể hiện từ ngữ mà là diễn đạt ý nghĩa của một chủ
thể quan trọng của đất nước theo tư tưởng của Bác hồ. Người viết:
“Nước ta là nước dân chủ,
Bao nhiêu lợi ích đều là vì dân,
Công việc đổi mới và xây dựng là trách nhiệm của dân,
Chính quyền từ xã đến Chính phủ do dân cử ra,
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên,
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.
Chính vì lẽ đó mà từ Nhân dân được viết hoa là thể hiện đầy đủ và sâu sắc tư tưởng
của Bác hồ về vai trò của Nhân dân.
Thứ hai, khoản 2 Điều 4 Hiến pháp năm 2013 quy định:" Đảng Cộng sản Việt Nam
gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân,
chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình", đây là điểm bổ sung
mới quan trọng, vì vai trò làm chủ của Nhân dân đối với nước, Nhân dân giao phó
trách nhiệm cho Đảng để lãnh đạo Nhà nước và xã hội, vì vậy, Đảng phải chịu sự giám
sát và chịu trách nhiệm trước nhân dân trong việc lãnh đạo của mình.
Thứ ba, Tại Điều 6 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Nhân dân thực hiện quyền lực nhà
nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng
nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước", quy định đa dang hơn về thực
hiện quyền lực của Nhân dân so với Hiến pháp năm 1992, đặc biệt thể hiện quyền lực
nhà nước bằng dân chủ trực tiếp đã làm rõ hơn, sâu sắc hơn vai trò làm chủ của Nhân
dân.
Thứ tư, lần đầu tiên trong Hiến pháp năm 2003 ghi nhận quyền con người, quyền cơ
bản của công dân tại chương II, đặt trang trọng chương I quy định về chế độ chính trị.
Hiến pháp năm 2013 đã có những nhận thức mới về đề cao nhân tố con người, coi con
người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển. Điều 14 Hiến
pháp năm 2013 khẳng định: “Ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, các quyền con
người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa-xã hội được công nhận,
tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. “Quyền con người, quyền
công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của Luật, trong trường hợp cần thiết vì lý
do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng
đồng”. Đây là những nguyên tắc căn bản đề cao trách nhiệm của Nhà nước trong mối
quan hệ với quyền con người, quyền công dân, là cơ sở hiến định để mọi người và
công dân bảo vệ và thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân. Ngoài việc thể hiện quyền làm chủ của Nhân dân trong Hiến pháp, còn thể hiện
các cam kết của Việt Nam trong việc thực hiện các Điều ước quốc tế liên quan đến
quyền con người mà Việt Nam là thành viên.
Thứ năm, Điều 53 Hiến pháp năm 2013 thể hiện: "Đất đai, tài nguyên nước, tài
nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và
các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà
nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý" đã khẳng định quyền sở hữu của
Nhân dân và Nhân dân ủy quyền cho Nhà nước đại diện Nhân dân để sở hữu và thống
nhất quản lý, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về việc quản lý tài sản do Nhân dân ủy
quyền.
Thứ sáu, Điều 65 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt
đối trung thành với Tổ quốc, Nhân dân, với Đảng và Nhà nước, có nhiệm vụ bảo vệ
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật
tự, an toàn xã hội; bảo vệ Nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; cùng
toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế" thể hiện trách nhiệm của
lực lượng vũ trang là tuyệt đối trung thành với Nhân dân và trước hết là phải bảo vệ
Nhân dân là một chủ thể làm chủ đất nước, sau đó là bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế
độ xã hội chủ nghĩa.
Thứ bảy: Điều 69 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Quốc hội là cơ quan đại biểu cao
nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam" đã nhấn mạnh vai trò của Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền
lực Nhà nước, tất cả quyền lực Nhà nước đều thuộc về Nhân dân. Nhân dân ủy thác
thực hiện quyền lực cao nhất cho Quốc hội để thực hiện quyền lập hiến như đề xuất
sửa đổi Hiến pháp, thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp, thảo luận và biểu quyết thông
qua Hiến pháp, khi có ít nhất 2/3 tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành; việc
trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định...
Quốc hội có trách nhiệm quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước,
Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm
toán nhà nước, chính quyền địa phương và cơ quan khác do Quốc hội thành lập và
bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức danh đứng đầu các cơ quan này nhằm đảm bảo
sự vận hành và thực thi hoạt động quản lý nhà nước và quản lý xã hội theo theo sự ủy
quyền của Nhân dân cho Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất.
Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện nhất quán tư tưởng của Bác hồ, của Đảng về vị trí,
vai trò của Nhân dân trong lịch sử đấu tranh, xây dựng và bảo vệ đất nước trải qua
mấy ngàn năm lịch sử. Tư tưởng lấy dân làm gốc của Bác hồ đã được lịch sử chứng
minh qua các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, chính vì vậy, Hiến pháp năm 2013 là
sự kết tinh và thể hiện tính đúng đắn về quyền làm chủ của Nhân dân đối với đất nước,
hướng đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh mà
Đảng, Nhà nước và Nhân dân đã lựa chọn./.
23. Em hãy phân tích vị trí, vai trò của Nhà nước trong hệ thống chính trị ở nước
ta?( 4 điểm)
Vai trò của Nhà nước trong hệ thống chính trị:
Không những đứng ở vị trí trung tâm của hệ thống chính trị mà Nhà nước còn là người
đại diện chính thức cho các giai cấp và tầng lớp trong xã hội. Điều đó làm cho Nhà
nước có một cơ sở xã hội rộng rãi để có thể triển khai nhanh chóng và thực hiện tốt
những quyết định, chính sách của mình. Nhà nước cũng là chủ thể của quyền lực chính
trị, là tổ chức chính trị thể hiện tập trung nhất quyền lực nhân dân; có sức mạnh cưỡng
chế toàn diện, ban hành và sử dụng pháp luật để quản lý các quá trình xã hội. Nhờ có
pháp luật, mọi chủ trương, chính sách của Nhà nước được triển khai một cách rộng rãi
và thống nhất trên quy mô toàn xã hội.
Nhà nước cũng có đầy đủ các phương tiện vật chất cần thiết để thực hiện vai trò của
mình. Nhà nước còn là chủ sở hữu tối cao đối với những tư liệu sản xuất quan trọng
nhất của xã hội. Bằng việc nắm giữ các tư liệu sản xuất đó, Nhà nước thực hiện việc
điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế, đảm bảo cho nó phát triển vì lợi ích của nhân dân.
Nhà nước nắm giữ nguồn tài chính và cơ sở vật chất to lớn, bảo đảm cho hoạt động
của bộ máy nhà nước và của các tổ chức chính trị xã hội khác. Nhà nước có quyền tối
cao trong việc quyết định những vấn đề đối nội và đối ngoại của đất nước. Những
quan hệ quốc tế trong lĩnh vực chính trị và kinh tế càng làm cho Nhà nước có vai trò
nổi bật hơn trong các quan hệ đối nội, giúp Nhà nước củng cố và phát triển các quan
hệ đó trong một thể thống nhất.
Tất cả các điều kiện trên là ưu thế riêng có của Nhà nước XHCN so với các tổ chức
chính trị, xã hội khác, chúng quy định vị trí, vai trò trung tâm của Nhà nước trong hệ
thống chính trị ở nước ta. Hiện nay, việc tiếp tục phát huy dân chủ, bảo đảm quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân là phương hướng
và mục tiêu bao trùm trong hoạt động xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước
ta.
Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị ở nước ta, là công cụ tổ chức thực hiện ý chí
và quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân để
quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội. Đó chính là Nhà nước của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân. Mặt khác, Nhà nước chịu sự lãnh đạo của giai cấp công
nhân, thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Đảng lãnh đạo Nhà nước thực hiện và
đảm bảo đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.
Như vậy, Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là cơ quan quyền lực, vừa là bộ máy chính
trị, hành chính, vừa là tổ chức quản lý kinh tế, văn hoá, xã hội của nhân dân. Quyền
lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

You might also like