You are on page 1of 13

ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

KHOA NGỮ VĂN


~~※※※~~

Nguyễn Trần Chí Công

BÁO CÁO KHOA HỌC

Ảnh hưởng của các yếu tố tâm linh tới diễn xướng
văn hóa hầu đồng tam phủ, tứ phủ ở ba miền đất
nước và trong trình diễn sân khấu hóa.

Người hướng dẫn:


==
I. Mở đầu

1
MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU..........................................................................................2
2. NỘI DUNG......................................................................................2
Chương 1: Giới thuyết chung chung về ca dao..................................................................2
1.1. Ca dao..........................................................................................................................2
1.1.1. Khái niệm ca dao..................................................................................................2
1.1.2. Phân loại ca dao....................................................................................................2
Chương 2: Giới thuyết chung về nhân vật trữ tình...........................................................3
2.1. Khái niệm nhân vật trữ tình.........................................................................................3
2.2. Đặc trưng nhân vật trữ tình..........................................................................................3
2.3. Sự thể hiện của nhân vật trữ tình qua hình ảnh người phụ nữ trong ca dao than thân.4
2.3.1. Người phụ nữ là nạn nhân của những hủ tục phong kiến trong mối quan hệ gia
đình.................................................................................................................................4
2.3.1.1. Khi con nhỏ (tại gia)......................................................................................4
2.2.3.2. Khi xuất giá (tòng phu)..................................................................................4
2.2.3.3. Khi góa bụa (tòng tử).....................................................................................6
2.3.2. Người phụ nữ là nạn nhân của những hủ tục phong kiến trong mối quan hệ
ngoài xã hội.....................................................................................................................7
2.3.2.1. Là nạn nhân của chiến tranh phong kiến phi nghĩa.......................................7
2.3.2.3. Bất công trong vấn đề giáo dục......................................................................8
2.3.2.4. Bất công trong vấn đề việc làm......................................................................8
2.4. Sự phản kháng tất yếu của người phụ nữ.....................................................................8
3. KẾT LUẬN....................................................................................10
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................10

2
1. MỞ ĐẦU

Từ xưa đến nay, đề tài về người phụ nữ trong xã hội phong kiến luôn là dòng
cảm hứng bất tận cho nhiều tác giả. Họ là những con người đẹp cả về hình thức và tâm
hồn, có những phẩm chất cao quý và xứng đáng được hưởng một cuộc sống hạnh
phúc. Thế nhưng, xã hội phong kiến với đầy rẫy những hủ tục lạc hậu, thối nát đã đày
đọa, không để họ có được niềm hạnh phúc ấy. Người phụ nữ trong xã hội phong kiến
chỉ là những kiếp người thấp cổ bé họng, bị coi như một món hàng, sống mà không có
những quyền lợi mà một con người đáng ra được hưởng. “Thân em như tấm lụa đào -
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”... Và chính trong đám bùn lầy cơ cực ấy, những câu
ca, lời hát được cất lên như thể bày tỏ nỗi lòng, than thân, trách phận của những kiếp
người đau khổ. Ca dao than thân đã ra đời như thế. Vậy họ đã phải chịu những gì? Để
mọi người có cái nhìn rõ nét hơn về vấn đề này, chúng tôi đã chọn nhân vật trữ tình -
người phụ nữ người phụ nữ trong ca dao than thân Người Việt để làm đề tài cho
nghiên cứu khoa học.

2. NỘI DUNG

Chương 1: Giới thuyết chung chung về ca dao


1.1. Ca dao
1.1.1. Khái niệm ca dao
“Nếu định nghĩa theo từ nguyên thì ca là bài hát có chương khúc hoặc có âm
nhạc kèm theo, còn dao là bài hát ngắn không có chương khúc. Như vậy, xét về bản
chất thì ca dao và dân ca hầu như không có ranh giới rõ rệt, Song, sau này trên thực tế,
thuật ngữ ca dao có nội dung hẹp hơn thuật ngữ dân ca”. [4 -tr.161]
Theo Từ điển tiếng Việt (2003) của Hoàng Phê, về mặt sưu tầm; ca dao là “thơ ca
dân gian truyền miệng dưới hình thức những câu hát không theo một điệu nhất định”.
[3-tr. 1054].
“Trước đây, khi sưu tầm các câu hát, bài hát dân gian, các nho sĩ trí thức (trong
một số bộ sưu tập ca dao từ thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XX), chỉ chú ý đến phần lời
thơ của những sáng tác ấy, chỉ tuyển chọn những bài hay nhất và có ý nghĩa khái quát
nhất về mặt phản ánh đời sống, tình cảm, đạo đức, phong tục. Như vậy, ca dao thường
được hiểu là lời của bài hát dân gian, khi tách lời ca ra khỏi điệu hát. Một bài ca dao để
đọc không cần tiếng đệm, luyến láy nhạc điệu.”[4-tr.161]
Cũng theo Từ điển tiếng Việt, về mặt sáng tác; ca dao là “thể loại văn vần,
thường được làm theo thể lục bát, có hình thức giống như ca dao cổ truyền” [3-
tr.1054]
Việc sử dụng thể thơ lục bát trong sáng tác ca dao với những thanh bằng - trắc,
và quy tắc gieo vần tạo nên một âm điệu làm cho người diễn xướng ca dao thể hiện
một cách , liền mạch, mang đậm nét thi ca.
1.1.2. Phân loại ca dao
Dựa vào nội dung phản ánh, có thể chia ca dao thành nhiều nhóm nhỏ: Ca dao
yêu thương tình nghĩa (tình yêu quê hương đất nước, tình cảm của người lao động với
công việc của mình, tình cảm nhi đồng, tình yêu lứa đôi); ca dao than thân (than vì

3
cuộc sống bất công, than vì nỗi cơ cực); ca dao trào phúng (ca dao trào phúng, ca dao
hài hước mang tính chất giải trí, ca dao châm biếm, đả kích)...

Chương 2: Giới thuyết chung về nhân vật trữ tình


2.1. Khái niệm nhân vật trữ tình
Theo Từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn
Khắc Phi, “Nhân vật trữ tình là con người đồng dạng với tác giả - nhà thơ hiện
ra từ kết cấu văn bản của trữ tình(một chùm thơ, một trường ca hay toàn bộ
sáng tác thơ) như một con người có đường nét hay một vai sống động có số
phận cá nhân xác định hay một thế giới nội tâm cụ thể, đôi khi có cả nét vẽ chân
dung (mặc dù không bao giờ đạt tới đặc điểm của một nhân vật trong tác phẩm
tự sự hay kịch)” [1-tr.234]
Bắt đầu vào nghiên cứu đầu tiên chúng ta cần tìm hiểu khái niệm trữ tình. Theo
Từ điển tiếng Việt có nêu “Trữ tình thường có nội dung phản ánh hiện thực bằng cách
biểu hiện những ý nghĩ, xúc cảm, tâm trạng riêng của con người, kể cả bản thân người
nghệ sĩ trước cuộc sống”. [3-tr.1054]
Hiện có nhiều tranh cãi xung quanh khái niệm về nhân vật trữ tình. Theo từ điển
thuật ngữ văn học lại nhận định “Trữ tình có vai trò phản ánh thế giới nội tâm của
con người trước thế giới khách quan, trữ tình bao gồm những ấn tượng, ý nghĩ, cảm
xúc chủ quan của con người đối với thế giới và nhân sinh. Trữ tình là tâm trạng, cảm
xúc vì vậy nó không có cốt truyện. Cái tôi - nhân vật trữ tình, giữ vị trí quan trọng
trong việc phản ánh thế giới nội tâm của họ” [1-tr.254-256]
Cũng theo Từ điển thuật ngữ văn học có nêu “Nhân vật trữ tình là hình tượng
nhà thơ trong thơ trữ tình, phương thức bộc lộ ý thức của tác giả, nhà thơ hiện ra từ
văn bản của kết cấu trữ tình… như một con người có đường nét hay một vai sống động
có số phận cá nhân xác định hay có thế giới nội tâm cụ thể, đôi khi có cả nét chân
dung… đó là cái tôi được sáng tạo ra”. [1-tr.162]
Từ các xác định trên cho thấy nhân vật trữ tình là nhân vật trực tiếp thổ lộ suy
nghĩ, cảm xúc, tâm trạng trong tác phẩm. Nhân vật trữ tình trong ca dao luôn đồng
nhất với chủ thể trữ tình, và mang trong nó tính khái quát, tính phiếm chỉ, được biểu lộ
qua cách xưng hô: mình - ta, thiếp - chàng, anh - em… Nhân vật trữ tình trong ca dao
cũng rất đa dạng, phong phú: có thể là cô gái, người vợ, người chồng, người mẹ, người
lính.v.v..
2.2. Đặc trưng nhân vật trữ tình
Năm 1957, khi đề cập đến nhân vật trữ tình trong ca dao, với Tục ngữ, ca dao,
dân ca Việt Nam ông Vũ Ngọc Phan đã khẳng định: "Ngoài sự biểu hiện đời sống tình
cảm, đời sống vật chất của con người, ca dao còn phản ánh ý thức lao động, sản xuất
của nhân dân Việt Nam và tình hình xã hội thời xưa về các mặt kinh tế và chính trị.
Bởi thế, người ta mới nói: nội dung của ca dao chủ yếu là trữ tình". [2-tr.43]
Ca dao than thân ra đời từ chính cuộc sống khổ cực, áp bức của những kiếp
người thấp cổ bé họng trong xã hội phong kiến. Nó phản ánh những điều bất công,
ngang trái của thời đại bấy giờ và được nuôi dưỡng, lưu truyền bởi tập thể nhân dân
lao động cho đến ngày nay. Nhân vật trữ tình trong thể loại này là những người lao
động có số phận bất hạnh, khổ đau trong xã hội phong kiến đương thời. Chính qua con
mắt, suy nghĩ và tình cảm của họ, cuộc sống bất công được phản ánh một cách chân

4
thực, rõ nét và sinh động. Những yếu tố ấy đã tạo nên đặc trưng cơ bản của nhân vật
trữ tình trong ca dao than thân Việt Nam.
2.3. Sự thể hiện của nhân vật trữ tình qua hình ảnh người phụ nữ trong ca
dao than thân
2.3.1. Người phụ nữ là nạn nhân của những hủ tục phong kiến trong mối
quan hệ gia đình.
2.3.1.1. Khi con nhỏ (tại gia)
Lịch sử xã hội phong kiến Việt Nam từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX có nhiều
biến động. Kinh tế, xã hội, chính trị, giáo dục có những chuyển biến mạnh mẽ… Một
trong những thay đổi mang tính tiêu biểu nhất chính là sự xuất hiện của chế độ phong
kiến cùng với hệ tư tưởng Nho giáo. Hệ tư tưởng Nho giáo đã ăn sâu vào tiềm thức,
ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi phương diện của cuộc sống, đặc biệt là người phụ nữ.
Xã hội phong kiến phụ quyền tồn tại hàng nghìn năm với quan niệm trọng nam
khinh nữ (nam tôn nữ ti), người phụ nữ phải chịu sự khinh rẻ, coi thường bởi những hủ
tục thối nát, lạc hậu: "Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” (“trong nhà có một người
con trai vẫn được xem là có, nhưng có mười người con gái thì có vẫn như không”).
Chính bởi quan niệm ấy nên khi tuổi còn trứng nước, người phụ nữ đã phải chịu khổ
cực. Sinh ra là phận nữ nhi, ngay từ khi còn bé họ đã phải nghe những lời răn dạy, giáo
điều:
"Con ơi mẹ bảo đây này,
Học buôn học bán cho tày người ta.
Con đừng học thói chua ngoa,
Họ hàng ghét bỏ, người ta chê cười.
Dù no, dù đói cho tươi,
Khoan ăn, bớt ngủ, liệu bài lo toan.
Phòng khi đóng góp việc làng,
Đồng tiền, bát gạo lo toan cho chồng.
Trước là đắc nghĩa cùng chồng,
Sau là họ mạc cũng không chê cười.
Con ơi, nhớ bấy nhiêu lời!"
2.2.3.2. Khi xuất giá (tòng phu)
Lễ giáo phong kiến vô lý trở thành thước đo chuẩn mực, ép người phụ nữ vào
khuôn khổ chật hẹp, sống mà không được là chính mình, như một con rối để người
khác điều khiển. Ngay cả trong chuyện tình cảm, hạnh phúc của đời người họ cũng
không có quyền quyết định. Quan niệm "cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy" cùng giáo lý
tam tòng "Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” đã trở thành nấm mồ
chôn vùi tuổi thanh xuân của họ. Cũng từ đó mà gây ra biết bao sóng gió, thảm kịch
gia đình, khiến người con gái phải nghẹn ngào xót xa cho thân phận của mình:
"Lênh đênh một chiếc thuyền tình
Mười hai bến nước biết mình nơi đâu?"

Hay câu:
"Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai"
5
Mượn hình ảnh tấm lụa đào, bài ca dao như một lời than thân, trách phận, sự đồng
cảm sâu sắc với cảnh ngộ của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Dù có tài sắc
đến đâu cũng chỉ bị xem như một món hàng bày bán giữa chợ, không biết rồi cuộc
sống sau này sẽ ra sao, không hề được coi trọng trong xã hội. Có thể thấy, những câu
ca dao với mô - típ “thân em” chiếm một phần không nhỏ trong chùm ca dao than thân
về người phụ nữ. Câu ca dao với “thân em” mở đầu thường mang tâm trạng ngậm
ngùi, chán chường; tuy câu chữ đơn giản nhưng lại chứa đựng hàm ý sâu sắc, nói lên
thân phận, số kiếp hẩm hiu, bạc bẽo của người phụ nữ xưa. Tỷ dụ:
“Thân em như thể bèo trôi
Sóng dập gió dồi biết tấp vào đâu”
***
“Thân em như cá giữa rào
Kẻ chài, người lưới biết vào tay ai ?”
***
“Thân em như lá đài bi
Ngày thì dãi nắng, đêm thì dầm sương”
Truyện trăm năm se tơ kết tóc, có phải đâu bán tóc mua tơ, ấy vậy mà người phụ
nữ bị coi như một món hàng để đem ra mua bán, trao đổi, thậm chí trở thành nạn nhân
của tục tảo hôn. Tảo hôn tựa như bán con gái vì nghèo túng, nợ nần, tham giàu, tâm lý
hư danh; người con gái về nhà chồng vừa là vợ, vừa là vú nuôi, vừa là con ở:
"Mẹ em tham thúng xôi rền,
Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh Hưng.
Em đã bảo mẹ rằng đừng,
Mẹ hấm, mẹ hứ, mẹ bưng ngay vào.
Bây giờ kẻ thấp, người cao,
Như đôi đũa lệch so sao cho bằng!"
Người đàn ông thời phong kiến có quyền "năm thê bảy thiếp" nhưng với phụ nữ
"Gái chính chuyên chỉ lấy một chồng", "tòng nhất nhi chung" (theo một người đến
chết). Con gái lớn đến tuổi lấy chồng còn bị xem như một món lợi nhuận cho gia đình.
Chỉ cần có được tiền, nhiều gia đình sẵn sàng bán con vào làm thê làm thiếp cho
những nhà giàu có, chịu kiếp chồng chung:
"Thân em làm lẽ chẳng nề
Có như chính thất mà lê giữa giường
Tối tối chị giữ mất buồng
Phát cho manh chiếu nằm suông nhà ngoài
Sáng ngày chị gọi: Bớ hai!
Bấy giờ trở dậy thái khoai đâm bèo
Vì chưng bác mẹ tôi nghèo
Cho nên tôi phải đâm bèo, thái khoai"
Ta thấy người vợ lẽ trong những câu ca dao trên là một người đảm đang và có tính
kiên nhẫn. Chị làm đủ mọi việc trong nhà như con ở những vẫn phải oằn mình chịu
những đòn roi hờn ghen của vợ cả. Tâm sự của một người phụ nữ phải chịu cảnh làm
lẽ trong một gia đình thuộc giai cấp bóc lột đã bộc lộ tình cảm đầy phẫn uất của người
làm lẽ. Hình ảnh người vợ cả với thói ghen tuông, hành hạ và bóc lột sức lao động là
6
hậu quả của sự bần cùng hóa do chế độ phong kiến gây nên. Bản thân người phụ nữ
không có tội. Trong cảnh đa thê thì dù là chính thê hay thiếp thất cũng đều là nạn
nhân. Nhưng chế độ phụ quyền lại có luật lệ cho phép người đàn ông cái quyền năm
thê bảy thiếp, người phụ nữ không thể chống đối được cái luật lệ quái gở ấy nên họ chỉ
còn cách hành hạ, tự làm khổ lẫn nhau… Nhìn chung, người phụ nữ trong ca dao
thường có sức chịu đựng cao. Họ cũng tự ý thức được gia cảnh nghèo khổ phải đi làm
lẽ của mình. Có lẽ ngay từ lúc sinh ra trong kiếp bần hàn nên người phụ nữ phải cam
chịu số phận, những đắng cay trong cuộc sống đối với họ như một phần tất nhiên của
cuộc sống. "Đau đớn thay phận đàn bà - Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung". Nhẫn
nhục cam chịu là vậy nhưng đến cuối cùng họ vẫn bị phụ bạc bởi chính người đầu ấp
tay gối của mình:
"Vợ lẽ như giẻ chùi chân
Chùi rồi lại vứt ra sân
Gọi ông hàng xóm đem chân đến chùi"
Hay câu:
“Từ ngày tôi ở với anh
Anh đánh, anh chửi, anh tình phụ tôi
Có thịt, anh tình phụ xôi
Có cam phụ quýt, có người phụ ta”.
Có thể nói, phần lớn cuộc đời của người phụ nữ thời trung đại là một chuỗi bi
kịch nối tiếp nhau. Họ không chỉ bị ép duyên, chịu cảnh đa thê mà còn phải đối mặt
với tình cảnh mẹ chồng - nàng dâu "khác máu tanh lòng". Vấn đề này còn được coi là
hạn sạn trong xã hội ngày nay. Thời hiện đại đã vậy, nói gì đến xã hội đầy rẫy những
giáo điều, hủ tục phong kiến. Có thể nói, khi về chung một nhà thì cô con dâu vừa phải
quán xuyến những công việc “nữ công gia chánh”, vừa tham gia lao động sản xuất
dưới con mắt dò xét của nhà chồng.
“Đói thì ăn khế ăn sung
Trông thấy mẹ chồng thì nuốt chẳng trôi”.
Cũng có khi, lời than vãn lại cất lên từ phía người mẹ chồng:
"Của rẻ thật là của ôi,
Cưới phải dâu dại khổ tôi trăm đường"
Tính cay nghiệt, cực đoan của những bà mẹ chồng thực chất đều là sản phẩm nhãn tiền
của chế độ phong kiến. Để dễ bề cai trị, bộ máy thống trị đã tuyên truyền giáo lý, tổ
chức hệ thống phong kiến ngay từ trong gia đình. Những bậc cha mẹ với tính gia
trưởng cũng chỉ là nạn nhân của chế độ ấy mà thôi.
2.2.3.3. Khi góa bụa (tòng tử)
Cuộc sống của người phụ nữ bị bó hẹp trong khuôn khổ của những lễ giáo phong
kiến. Cuộc đời của họ phải đi theo một lối mòn mà người khác vẽ ra, sống theo khuôn
khổ áp đặt, tự do với họ là một điều xa xỉ, họ không được làm chính mình và nghiễm
nhiên không có quyền tự chủ về hạnh phúc. Lấy chồng thì ắt phải theo chồng nhưng
đến khi chồng chết họ cũng không thể tự giải thoát bản thân, đi tìm mối duyên mới mà
phải ở vậy thờ chồng, nuôi con, phụng dưỡng bố mẹ chồng:
“Ghe bầu trở lái về đông
Làm thân con gái thờ chồng nuôi con”

7
Khi người phụ nữ về nhà chồng cuộc sống đã phải chịu nhiều thiệt thòi, bất công,
nhưng đến khi người chồng đã mất thì sự bất công vẫn tồn tại:
“Lênh đênh chiếc bách giữa dòng,
Thương thân góa bụa phòng không lỡ thì.
Gió đưa cây trúc ngã quỳ,
Ba năm trực tiết, còn gì là xuân”
Số phận trôi nổi, gian truân của người phụ nữ được ví như chiếc thuyền mỏng
manh trôi giữa dòng nước, không biết đi đâu về đâu. Số phận bấp bênh, trôi nổi của họ
hoàn toàn bị phụ thuộc, mặc dòng đời xô đẩy. “Phòng không lỡ thì” ngụ ý trực tiếp
cho nỗi cô đơn, buồn tủi của họ. Hình ảnh trúc - mai trong ca dao thường biểu trưng
cho tình yêu lứa đôi. Nhưng ở câu ca dao trên, trúc lại “ngã quỳ”, đó như thể là sự đổ
vỡ trong hôn nhân và bi kịch cuộc đời. Sách có chữ rằng “Xuân bất tái lai”, tuổi xuân
của con người một đi không trở lại mà người phụ nữ trong ca dao phải chấp nhận chôn
vùi tuổi xuân của mình trong cô phòng.
2.3.2. Người phụ nữ là nạn nhân của những hủ tục phong kiến trong mối
quan hệ ngoài xã hội.
2.3.2.1. Là nạn nhân của chiến tranh phong kiến phi nghĩa.
Những tưởng chừng ấy đã quá đủ cho những đắng cay, tủi nhục mà họ phải chịu.
Ấy vậy mà sự thật trớ trêu luôn trêu đùa với số phận của họ. Có những người phụ nữ
dù may mắn được nên duyên với chân tình, gả vào một nhà chồng tốt nhưng lại sống
chẳng hề dễ chịu. Bởi họ lại trở thành nạn nhân của những cuộc chiến tranh phong
kiến phi nghĩa. Nhắc đến chiến tranh, người ta thường nghĩ đến hình ảnh của người
lính nơi xa trường, thế nhưng ca dao dân gian lại dành một khoảng không gian đặc biệt
cho những người chinh phụ. Kết duyên chưa lâu, còn chưa thỏa tình chăn gối đã phải
đối mặt với cảnh vợ xa chồng, dứt áo ly biệt, tuổi xuân mòn mỏi lẻ loi nơi cô phòng:
“- Ai làm cho bướm lìa hoa,
Cho chim xanh nỡ bay qua vườn hồng.
Ai đi muôn dặm non sông,
Để ai chứa chất sầu đong vơi đầy?
-Ai làm cho nước chảy xuôi,
Cho thuyền xuôi ngược cho người nhớ nhau?”
Bài ca dao là lời than ai oán của người chinh phụ có chồng đi lính. “Ai” ở đây là đại từ
phiếm chỉ mang nhiều nét nghĩa. “Ai” ở câu đầu tiên và câu số năm hàm ý về đối
tượng giai cấp thống trị - là nguyên nhân trực tiếp chia cắt, phá vỡ hạnh phúc gia đình.
“Bướm” - “hoa” - “chim xanh” - “vườn hồng” - “thuyền” là hình ảnh ẩn dụ cho người
con trai và người con gái. Động từ mạnh “làm”, “lìa” càng làm tăng thêm nỗi buồn của
hai nhân vật trữ tình, yêu nhau nhưng không thể ở bên nhau. Ở câu ba và câu bốn, “ai”
trong câu lục chỉ người đi và câu bát là chỉ người ở lại. “Sầu đong vơi đầy” bộc lộ trực
tiếp nỗi nhớ thương, lưu luyến đầy tế nhị của người ở lại…
Xã hội Việt Nam trong thời kì phong kiến lạc hậu suy tàn luôn lục đục, tồn tại
những cuộc đấu tranh chia rẽ nội bộ, xung đột giữa những tập đoàn thống trị xảy ra
liên miên. Để phục vụ cho những cuộc chiến phi nghĩa của mình, giai cấp thống trị
thẳng tay bóc lột nguồn nhân lực và tài lực của nhân dân. Không chỉ bắt người chồng
đi làm bia đỡ đạn mà còn bắt cả người vợ trở thành tạp dịch không công cho chúng.
Chồng ra chiến trường, người vợ trở thành nguồn lao động chính trong gia đình, vừa
8
quán xuyến việc nhà, vừa tham gia sản xuất lại phải phục dưỡng mẹ già, khổ cực trăm
bề. Không chỉ với người vợ, ca dao than thân còn cất lên từ phía những bà mẹ già có
con phải tòng quân ra chiến trận:
“Đi đâu mà bỏ mẹ già,
Gối nghiêng ai sửa, chén trà ai dâng?”
Hai câu trên là nỗi niềm đau đáu, xót xa của người mẹ già có con đi lính không biết
ngày nào trở về. Dường như với những cuộc tranh đấu, xâu xé của bọn giai cấp cầm
quyền thì việc đi đày này sẽ không có ngày kết thúc, “cổ lai chinh chiến kỷ nhân
hồi”...
2.3.2.3. Bất công trong vấn đề giáo dục
Ca dao than thân phản ánh một cách chân thật hiện thực cuộc sống, những nỗi
khổ cực, bất công, oan trái của người phụ nữ qua đó cũng được lột tả rõ nét. Xã hội
Việt Nam thời phong kiến phụ quyền đã hạn chế, kìm hãm, ràng buộc người phụ nữ về
nhiều mặt. Tư tưởng “trọng nam khinh nữ” đã không cho phép người phụ nữ được
đến trường, không được học chữ hay động đến bút nghiên và tất nhiên không được
tham gia thi cử. Xã hội bấy giờ quan niệm rằng chỉ đàn ông mới được dùi mài kinh sử,
sớm hôm đèn sách còn phụ nữ phải lo việc nội trợ, cun cút trong sân vườn, xó bếp.
Câu ca dao sau đây là minh chứng điển hình cho việc này:
“Khuyên chàng đọc sách, ngâm thơ,
dầu hao thiếp rót, đèn mờ thiếp khêu”.
Hay:
“Sáng trăng trải chiếu hai hàng
Bên anh đọc sách bên nàng quay tơ”.
Hai câu thơ là hai công việc hoàn toàn khác nhau. Một bên là người vợ với công việc
“nữ công gia chánh” còn một bên là người chồng đang dùi mài bút nghiên. Qua đó ta
phần nào hiểu được về sự khác biệt trong vấn đề giáo dục của người con trai và con
gái thời phong kiến phụ quyền, trọng nam khinh nữ.
2.3.2.4. Bất công trong vấn đề việc làm
Người phụ nữ bị xem như tầng lớp dưới đáy của xã hội, thấp cổ bé họng và
không có quyền cất lên tiếng nói của bản thân. Từ việc làng việc nước hay đơn thuần
chỉ là việc trong gia đình, đều không có chỗ cho họ lên tiếng. Ở vào một vị thế thấp
hèn trong chính gia đình của mình nên với mối quan hệ ngoài xã hội, họ càng bị bóc
lột nặng nề hơn. Tính bất công trong xã hội còn thể hiện ở chỗ cùng là một công việc,
sức lực bỏ ra tương đương nhau nhưng người đàn ông luôn được đánh giá cao, trả
công nhiều hơn phụ nữ. Vì cay đắng, tủi hờn cho thân phận mà câu ca dao than thân
lại được cất lên:
"Làm thì chẳng kém đàn ông,
Thế mà kém gạo, kém công, kém tiền.
Một ngày hai sáu đồng xu,
Đi sương về mù, khổ lắm ai ơi!"
Bài ca dao là lời than thân của người phụ nữ khi bản thân phải chịu thiệt thòi trong vấn
đề việc làm. Rõ ràng cùng một công việc như nhau, sức lao động bỏ ra cũng không hề
thua kém đàn ông vậy mà tiền công lại có sự chênh lệch. Từ “chẳng kém” cho thấy lời
khẳng định của người phụ nữ, tuy là phái yếu nhưng về sức lao động chỉ có hơn chứ
không hề kém cỏi so với phái mạnh. “Thế mà” là tổ hợp biểu thị cho thấy sự khác biệt,

9
trái với lẽ thường, càng làm tăng thêm tính bất cập trong vấn đề việc làm thời xưa.
Người phụ nữ phải lao động cực khổ, làm những công việc nặng nhọc tương đương
với sức của một người đàn ông để nhận về đồng lương chết đói, rẻ mạt.
2.4. Sự phản kháng tất yếu của người phụ nữ
“Ở đâu có áp bức ở đó có đấu tranh”. Mâu thuẫn và xung đột giai cấp là điều
không thể tránh khỏi trong các thời đại, xã hội. Để tự cứu lấy mình, con người phải lên
tiếng phản kháng, chống lại cái xấu, cái tiêu cực và xây dựng một cuộc sống tươi đẹp
hơn. Ca dao dân ca Việt Nam ra đời từ chính hiện thực cuộc sống và nghiễm nhiên trở
thành công cụ để những con người lao khổ đứng lên chống lại bất công trong xã hội.
Đấu tranh xã hội và tư tưởng đấu tranh bảo vệ hạnh phúc cho quần chúng nhân dân
được bộc lộ rõ qua chủ nghĩa nhân đạo của ca dao, đặc biệt là ca dao than thân của
người phụ nữ. Nhà nghiên cứu văn học dân gian Vũ Ngọc Phan cũng đã khẳng định:
“Trong thời phong kiến, quyền sống của con người luôn luôn bị chà đạp, phụ nữ Việt
Nam thời xưa là những người khổ cực nhất, cho nên trong ca dao và dân ca, những
tiếng oán ghét, chống đối, hầu hết là tiếng nói của phụ nữ”. [2-tr.50]
“Trong giai cấp phong kiến, luân lý Khổng Mạnh rất có lợi cho những kẻ làm
cha, làm chồng, làm anh; nhưng đối với nhân dân, quyền lực ác hại của luân lý ấy đã
bị đời sống lao động thu hẹp lại rất nhiều”. [2 -tr.44] Trước rào cản của thứ lễ giáo
phong kiến hà khắc, tiếng hát về tình yêu được cất lên từ sau lũy tre làng hoặc trên
cánh đồng bát ngát hay trong những đêm trăng yên ả… Giọng ca trữ tình trong sáng
mà tươi đẹp vượt ra ngoài rào cản phong kiến, phá tan xiềng xích kìm hãm tình yêu
của lễ giáo "nam nữ thụ thụ bất thân". Có những người con gái đã không cam chịu tục
lệ hà khắc “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” mà tự tìm đến người bạn đời của mình:
“Yêu nhau cởi áo cho nhau,
Về nhà mẹ hỏi qua cầu gió bay.
Yêu nhau cởi nhẫn cho nhau,
Về nhà mẹ hỏi qua cầu đánh rơi.
Yêu nhau cởi nón trao nhau,
Về nhà mẹ hỏi qua cầu gió bay”.
Đã biết người phụ nữ xưa luôn phải theo đạo tam tòng (“Tại gia tòng phụ, xuất
giá tòng phu, phu tử tòng tử”) hay bị trói buộc trong quan niệm “Gái chính chuyên chỉ
lấy một chồng”. Nếu đó quả thực là một người chồng tốt, biết tu nghiệp lớn, lo cho gia
đình thì ắt người phụ nữ sẽ chung thủy trọn đời. Nhưng trên thực tế lại có những ông
chồng thế này:
“Làm trai cho đáng nên trai
Vót đũa cho dài ăn vụng cơm con”.
Hay:
“Rượu chè cờ bạc lu bù
Hết tiền, đã có mẹ cu bán hàng”.
Chính vì vậy, người phụ nữ đã không chịu “tòng” mãi, họ sẵn sàng đi tìm một mối
duyên khác xứng đáng hơn. Thậm chí khi gả vào gia đình mà mẹ chồng độc đoán, cay
nghiệt, nàng dâu sẵn sàng bỏ về nhà mẹ đẻ:
“– Cô kia đội nón đi đâu?
– Tôi là phận gái làm dâu mới về
Mẹ chồng ác nghiệt đã ghê
10
Tôi ở chẳng được, tôi về nhà tôi”.
Không chỉ với tình cảm gia đình, khi đối mặt với những vấn đề khác trong xã
hội, người phụ nữ cũng tự ý thức được giá trị của bản thân và vùng lên đấu tranh, phản
kháng. Ví như trong vấn đề giáo dục. Trước việc bị phân biệt đối xử trong giáo dục,
phụ nữ Việt Nam đã có sự lên tiếng phản kháng. Điều này là tất yếu, họ bày tỏ thái độ
phản đối bất công của mình qua việc khẳng định bản thân không thua kém gì nam giới:
“Bao giờ cho đến tháng hai,
Con gái làm cỏ, con trai be bờ.
Gái thì kể phú ngâm thơ,
Trai thì be bờ kể chuyện bài bây”.
Hay tự bảo ban lẫn nhau rằng phải trau dồi kiến thức, chăm chỉ học tập để không bị
thua kém người đời:
“Nhỏ còn thơ dại biết chi.
Lớn rồi đi học, học thì phải siêng.
Theo đời cũng thể bút nghiên
Thua em kém chị cũng nên hổ mình”.
Bên cạnh đó, một bộ phận người phụ nữ bị bọn quan lại hà hiếp cũng không ngại
lên tiếng tố cáo một cách quyết liệt, mạnh mẽ bọn sâu mọt này:
"Con ơi nhớ lấy câu này
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan"
Có thể nói, người phụ nữ ngày xưa mang thân phận ở dưới đáy xã hội. Họ đã phải
nhẫn nhục để được sống, không riêng vì bản thân mình mà còn là vì những người mà
họ thật sự yêu thương. Thậm chí đã từng nghĩ sẽ sống mãi một đời lầm lũi như thế
nhưng vạn vật đều có giới hạn của nó, khi mọi việc vượt quá giới hạn chịu đựng, họ đã
vùng lên đấu tranh. “Con giun xéo lắm cũng quằn”, khi bị đè nén, áp bức đến mức
không thể chịu được nữa thì phản kháng chỉ là kết quả tất yếu mà thôi.

3. KẾT LUẬN

Qua báo cáo chúng tôi đã nêu lên được khái niệm và phân loại của thể loại ca
dao, đặc biệt là ca dao than thân, đồng thời cũng là chủ đề chính của báo cáo này.
Cùng với khái niệm ca dao chúng tôi đồng thời làm rõ khái niệm và những nét đặc
trưng của nhân vật trữ tình trong ca dao nói riêng. Bên cạnh khái niệm, chúng tôi cũng
đã làm rõ hình ảnh của người phụ nữ cực khổ, chịu nhiều áp bức qua những câu ca dao
than thân. Hình ảnh của người phụ nữ hiện lên trong ca dao than thân qua nhiều
phương diện như: Họ là nạn nhân của những hủ tục phong kiến lạc hậu trong mối quan
hệ gia đình và cả ngoài xã hội. Qua những áp bức khổ cực, người phụ nữ đã vùng lên
để đòi lại quyền tự tôn của mình, đòi lại sự công bằng và bình đẳng, chống lại bè lũ
quan lại phong kiến cầm quyền hà hiếp dân đen… Cuối cùng bài báo cáo chúng tôi
thực hiện mong muốn sẽ giúp người đọc hiểu hơn về ca dao Việt Nam đặc biệt là
những lời than thân của người phụ nữ. Bên cạnh đó bài báo cáo cũng như là một
nguồn tài liệu để các bạn sinh viên có thể sử dụng khi ôn tập.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Lê Bá Hán - (2006), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb. Giáo Dục.
11
[2] Vũ Ngọc Phan - (2021), Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam, Nxb. Văn Học.
[3] Hoàng Phê - (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng.
[4] Phạm Thu Yến - (2005), Giáo trình văn học dân gian, Nxb. Đại Học Sư Phạm.

12

You might also like