You are on page 1of 2

Ý kiến của bên B:

- Về phần con chung:


+ Anh B và chị A có với nhau 2 đứa con là cháu Trần văn X ( 2011) và cháu
Trần thị Y ( 2013), khi ly hôn chị A mong muốn được nuôi 2 cháu X và Y.
Xét thấy kể từ khi chị A nộp đơn yêu cầu ly hôn là năm 2022 thì cháu Trần
văn X đã 13 tuổi và cháu Trần thị Y đã 9 tuổi, căn cứ vào khoản 2 Điều 81
Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định thì cả 2 cháu đã trên 7 tuổi và theo
đó TA sẽ xét theo nguyện vọng của 2 cháu sẽ theo sống với chị A hoặc anh
B.
+ Theo như đơn khởi kiện của chị A đã khai thì anh B thân chủ của tôi đã
nhiều lần đánh đập chị A trước mặt con, nên có thể xét thấy anh B không đủ
điều kiện để nuôi dạy 2 cháu X và Y về mặt đạo đức, còn về tài chính thì có
thể thấy chị A có đủ điều kiện về tài chính để nuôi cả 2 cháu X và Y còn anh
B kinh tế hạn hẹp và k đủ tài chính để nuôi con; nên thân chủ chúng tôi đồng
ý cho 2 cháu được sống chung với mẹ là chị Nguyễn Thị A.
+ Và căn cứ theo khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân gia đình quy định thì thân
chủ của tôi là anh A sau khi ly hôn có quyền và nghĩa vụ đến thăm con của
mình mà không ai được cản trở. Do đó thân chủ của tôi là anh Trần văn A có
thể đến thăm 2 cháu X và Y bất cứ khi nào mà anh B muốn, chị A ko được
cản trở việc thăm con của anh B.
+ Theo như độ tuổi của 2 cháu là tuổi chưa thành niên thì khi ly hôn thân
chủ của tôi anh Trần văn B phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho 2 cháu cho đến
khi 2 cháu đủ 18 tuổi, và mức cấp dưỡng cụ thể sẽ do anh B và chị A sẽ tự
thỏa thuận với nhau.

- Về phần Tài sản chung:


+ Sau 1 tgian chung sống thì anh B và chị A đã có với nhau 1 chiếc xe ô tô
trị giá 1 tỷ đồng và 1 sổ tiết kiệm trị giá 500 triệu đồng. Căn cứkhoản 4 Điều
213 và khoản 1 Điều 219 BLDS 2015; khoản 2 điều 33 và khoản 2,3 điều 59
Luật HNGĐ 2014 quy dịnh thì tài sản chung của cả vợ và chồng anh chị sẽ
được chia đều cho cả 2

- Về tài sản riêng:


+ Anh B được bố mẹ cho 1 căn nhà trị giá 2 tỷ rưỡi trước khi kết hôn, trong
đơn khởi kiện chị A có yêu cầu được ở căn nhà mà bố mẹ anh B tặng cho
anh B trước khi kết hôn, để chị A buôn bán và trả tiền cho anh B. Nhưng
theo khoản 1 Điều 62 Luật HNGĐ 2014 quy định thì “ Quyền sử dụng đất là
tài sản riêng của bên nào thì khi ly hôn vẫn thuộc về bên đó ”. Vậy nên, căn
nhà trị giá 2 tỷ rưỡi của anh B là do bố mẹ anh B cho anh B trước khi kết
hôn nên mặc nhiên căn nhà đó là tài sản riêng của anh B và không phải tài
sản riêng nên chị A không có quyền yêu cầu TA cho cho chị ở lại căn nhà đó
của anh B.
+ Căn cứ vào khoản 1 Điều 43 Luật HNGĐ quy định, có thể thấy “ Tài sản
riêng của vợ hoặc chồng là tài sản mà mỗi người vợ hoặc chồng có trước khi
kết hôn ”. Nên ở đây ta thấy căn nhà trị giá 2 tỷ rưỡi của anh B là do bố mẹ
anh B cho anh B trước khi kết hôn, nên căn nhà đó thuộc quyền sở hữu của
anh B và là tài sản riêng của anh B, nên chị B muốn ở nhà đó thì phải thỏa
thuận với thân chủ tôi là anh Trần văn B chứ không được phép yêu cầu TA
đáp ứng nguyện vọng cho chị ở trong căn nhà đó được .....

You might also like