You are on page 1of 1

Tình huống 2.

4: Đủ điều kiện kết hôn theo Luật HNGĐ 1959 nhưng ông Ngon và bà Bông
chỉ sống chung như vợ chồng từ năm 1982 tại phường 5, quận 6 thành phố TH mà không
đăng ký kết hôn. Hai người có khối tài sản chung trị giá 2 tỷ đồng (do bà Bông quản lý).
Do không thể sinh con, tháng 8.1999, bà Bông đồng thuận để ông Ngon cưới Bà Mùi –
người phụ nữ sinh ngày 11.11.1985 thường trú cùng địa phương với ông Ngon và bà Bông.
Năm 2002, ông Ngon và bà Mùi đăng ký kết hôn. Ngày 12.11.2002, UBND xã KL, huyện
NĐ, tỉnh NA nơi bà Mùi đăng kí tạm trú đã cấp Giấy chứng nhận kết hôn cho ông Ngon
và bà Mùi. Ngày 20.9.2019, do cuộc sống chung phát sinh mâu thuẫn, bà Bông yêu cầu
Tòa án nhân dân huyện NĐ hủy việc kết hôn giữa ông Ngon và bà Bông.

a. Hỏi, Tòa án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu của chị Bích như thế nào, vì sao?
- Ông ngon và bà Bông sống chung như vợ chồng từ năm 1982. Theo điểm a khoản 3 NQ 35/2000 thì
mối quan hệ vợ chồng của họ được xác lập từ năm 1982. Tháng 8.1999, ông ngon cưới bà Mùi. Tại
thời điểm cưới bà này ông Ngon là người đang có vợ và bà Mùi cũng chưa đủ tuổi kết hôn.
- Năm 2002, ông Ngon và bà Mùi đăng ký kết hôn. Tại thời điểm này, bà Mùi đã đủ tuổi theo quy định
của pháp luật nhưng hai người đã đăng ký không đúng cơ quan có thẩm quyền vì nơi hai người đăng kí
là cơ quan tạm trú chứ không phải là cơ quan cư trú. Vậy nên theo quy định tại khoản 3 Điều 3 TTLT
01/2016 thì Tòa án sẽ không công nhận quan hệ vợ chồng ông Ngon và chị Mùi.

b. Nếu ông Ngon và bà Mùi tranh chấp tài sản và không thỏa thuận được về quyền lợi con
chung thì Tòa án phải giải quyết các vấn đề này ra sao cho phù hợp với tinh thần pháp
luật, biết rằng ông Ngon và bà Mùi có con chung là Quang, sinh ngày 04.12.2013 và hai
bên có khối động sản chung trị giá 1 tỷ 900 triệu đồng?
- Theo khoản 3 Điều 3 TTLT 01/2016 thì Tòa án sẽ giải quyết vấn đề tài sản và con chung theo quy
định tại Điều 15 và Điều 16 của LHNGĐ.
- Về vấn đề tài sản: Theo khoản 1 Điều 16, tài sản được giải quyết theo thỏa thuận của các bên; trong
trường hợp không thỏa thuận các bên; trong trường hợp không thỏa thuận được thì giải quyết theo quy
định của BLDS và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Và theo khoản 2 Điều 16 thì giải
quyết quan hệ tài sản phải đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con. Ông Ngon và bà Mùi
có khối tài sản chung trị giá 1 tỷ 900 triệu đồng nên sẽ được chia đôi, mỗi người 850 triệu đồng.
- Về vấn đề con chung: theo khoản 2 Điều 81 LHNVGĐ: “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp
nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được
thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con;
nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.”

You might also like