You are on page 1of 11

TRƯỜNG ĐẠI HỌC

LUẬT TP. HỒ CHÍ


MINH
KHOA LUẬT
THƯƠNG MẠI

BUỔI THẢO LUẬN 2


MÔN HỌC: LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
GIÁO VIÊN: DS - Lê Thị Mận

DANH SÁCH NHÓM 05

STT HỌ VÀ TÊN MSSV

1 Tạ Anh Thư 2253801011285

2 Đỗ Hoài Thy 2253801011295

3 Đào Thị Ngọc Trâm 2253801011304

4 Phạm Văn Tín 2253801011301

5 Trần Thị Trang 2253801011313

6 Đỗ Anh Tuấn 2253801011320

7 Võ Nguyên Đạt Tùng 2253801011322

8 Nguyễn Quang Vinh 2253801011346

9 Nguyễn Thúy Vy 2253801011358

10 Nguyễn Phương Yến 2253801011365

Thành phố Hồ Chí


Minh, ngày 6 tháng 3
Mục lục
Tình huống:...............................................................................................................2
Câu 2.1:..................................................................................................................2
- Hành vi kết hôn của ông Thuận và chị Hằng có trái pháp luật, cơ sở
pháp lý?
……………………………………………………………………………………….2
- Nếu xác định việc kết hôn giữa ông Thuận và chị Hằng là trái pháp luật,
hãy:.....................................................................................................................2
Câu 2.2:..................................................................................................................3
Hãy giải quyết yêu cầu của ông Hoàng theo quy định của pháp luật, biết
rằng tại thời điểm giải quyết vụ án, khối tài sản gồm nhà số 42/5 đường A,
quận B, thành phố G được định giá 3,5 tỷ đồng và diện tích 120m2 đất nông
nghiệp được chuyển nhượng từ tiền lương của ông Hoàng vào năm 2016.. .3
Câu 2.3:..................................................................................................................4
Anh, chị hãy cho biết, Tòa án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu của Hội phụ
nữ như thế nào cho phù hợp tinh thần pháp luật, biết rằng...........................4
Câu 2.4:..................................................................................................................6
Hỏi, Tòa án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu (huỷ việc kết hôn giữa ông
Ngon và bà Mùi) của bà Bông như thế nào, vì sao? Nếu ông Ngon và bà
Mùi tranh chấp tài sản và không thỏa thuận được về quyền lợi con chung
thì Tòa án phải giải quyết các vấn đề này ra sao cho phù hợp với tinh thần
pháp luật, biết rằng ông Ngon và bà Mùi có con chung là Quang, sinh ngày
04.12.2013 và hai bên có khối động sản chung trị giá 1 tỷ 900 triệu đồng?...6
Câu 2.5:..................................................................................................................8
Từ góc độ pháp lý, anh, chị hãy phân tích và lý giải đường hướng xử của
Tòa án có thẩm quyền trước yêu cầu của anh Tâm, biết rằng trong quá trình
tố tụng:...............................................................................................................8

1
Tình huống:
Câu 2.1:

- Hành vi kết hôn của ông Thuận và chị Hằng có trái pháp luật, cơ sở pháp
lý?

Theo nhóm hành vi kết hôn của ông Thuận và chị Hằng là trái pháp luật,
bởi vì đã vi phạm điều kiện độ tuổi kết được quy định tại điểm a khoản 1
Điều 8 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014. Khi ông Thuận và chị Hằng kết hôn
vào năm 2017, chị Hằng mới 17 tuổi (sinh năm 2000) → chị Hằng chưa đủ
18 tuổi theo quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 8 Luật Hôn nhân và Gia đình
2014.

- Nếu xác định việc kết hôn giữa ông Thuận và chị Hằng là trái pháp luật,
hãy:

+ Nhận diện, phân tích làm rõ các hành vi kết hôn trái pháp luật.

Khi ông Thuận và chị Hằng kết hôn vào năm 2017, thời điểm đó chị
Hằng chưa đủ 18 tuổi theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 8 Luật Hôn
nhân và Gia đình 2014. Do đó, hành vi kết hôn của ông Thuận và chị Hằng là
kết hôn trái pháp luật.

Năm 2016, ông Thuận và bà Nga ly hôn nhằm mục đích để ông Thuận
nhập khẩu tại thành phố H, mà không nhằm mục đích chấm dứt hôn nhân;
căn cứ theo Khoản 15 Điều 3 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 đây là hành vi
ly hôn giả tạo. Hành vi này là một trong các hành vi bị pháp luật nghiêm cấm
quy định tại điểm a Khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014.

Ông Thuận và chị Hằng đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn nên đã
đảm bảo điều kiện về hình thức. Căn cứ khoản 6 Điều 3 Luật Hôn nhân và
Gia đình 2014 thì việc kết hôn của ông Thuận và chị Hằng là trái pháp luật.

+ Chủ thể có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật theo
tình huông?
Căn cứ vào quy định tại khoản 2 Điều 10 Luật HNGĐ 2014 quy định về
người có quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật, thì người có quyền
yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật trong tình huống trên là Bình
(con chung của ông Thuận và bà Nga ). Vì trong tình huống trên việc kết hôn
giữa ông Thuận và chị Hằng là kết hôn trái pháp luật, vi phạm quy định tại
điểm b khoản 1 Điều 8 Luật HNGĐ 2014 về điều kiện độ tuổi kết hôn khi chị
Hằng chưa đủ 18 tuổi.

2
+ Tòa án có thụ lý giải quyết việc kết hôn trái pháp luật theo yêu cầu? Vì sao?
Tòa án vẫn sẽ thụ lý giải quyết việc kết hôn trái pháp luật theo yêu cầu của
anh Bình. Vì trong trường hợp trên việc hủy kết hôn trái pháp luật khi người
kết hôn trái pháp luật đã chết ( ông Thuận ) chưa có quy định trong luật
HNGĐ. Tuy nhiên, theo quy định của khoản 1 Điều 11 Luật HNGĐ quy định
về xử lý kết hôn trái pháp luật được Tòa án thực hiện theo quy định tại Luật
HNGĐ và pháp luật về tố tụng dân sự. Nên căn cứ vào quy định tại khoản 2
Điều 4 BLTTDS 2015 thì Tòa không được từ chối giải quyết vụ việc với lí do
chưa có điều luật để áp dụng. Do đó, tòa án vẫn sẽ thụ lý giải quyết việc kết
hôn trái pháp luật trong tình huống trên.
Câu 2.2:
Hãy giải quyết yêu cầu của ông Hoàng theo quy định của pháp luật, biết
rằng tại thời điểm giải quyết vụ án, khối tài sản gồm nhà số 42/5 đường A,
quận B, thành phố G được định giá 3,5 tỷ đồng và diện tích 120m2 đất nông
nghiệp được chuyển nhượng từ tiền lương của ông Hoàng vào năm 2016.
Thứ nhất, xác định quan hệ vợ chồng giữa ông Hoàng và bà Anh. Ông
Hoàng và bà Anh cưới nhau năm 1990 trước sự chứng kiến của 2 bên gia đình
và chưa thực hiện hành vi đăng ký kết hôn. Theo điểm b Điều 3 Nghị quyết số
35/2000/QH10 thì ông Hoàng và bà Anh chung sống như vợ chồng sau ngày
3/1/1987 và trước 1/1/2001. Như vậy, giữa ông Hoàng và bà Anh là hôn nhân
thực tế và vẫn được pháp luật công nhận là quan hệ vợ chồng trước ngày
1/1/2003.
Thứ hai, xác định quan hệ vợ chồng giữa ông Hoàng và bà Xuân. Ông Hoàng
và bà Xuân sống chung như vợ chồng từ năm 1998; năm 2000 đã nộp hồ sơ
đăng ký kết hôn, tại thời điểm này ông Hoàng và bà Xuân đã vi phạm chế độ
một vợ một chồng, vì ông Hoàng vẫn đang trong mối quan hệ vợ chồng với bà
Anh. Nhưng tới năm 2004 Ủy ban nhân dân xã mới giải quyết việc kết hôn cho
ông Hoàng và bà Xuân, thời điểm này giữa ông Hoàng và bà Anh đã không
được pháp luật công nhận là vợ chồng. Như vậy, bắt đầu từ ngày 2/4/2004 ông
Hoàng và bà Xuân được công nhận là quan hệ vợ chồng.
Thứ ba, giải quyết yêu cầu của ông Hoàng về hủy kết hôn và phân định tài
sản.
Về việc hủy kết hôn, ông Hoàng và bà Xuân được xác định là mối quan hệ
vợ chồng từ 2/4/2004 nên sẽ được Tòa án giải quyết ly hôn theo Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2000.

3
Về việc phân định tài sản. Năm 2000, ông Hoàng trúng số 300 triệu và sử
dụng để mua đồng thời đứng tên ngôi nhà số 42/5 A, quận B, thành phố G; cùng
với đó là diện tích 120m2 đất nông nghiệp được chuyển nhượng từ tiền lương
của ông Hoàng vào năm 2016. Với ngôi nhà số 42/5 A, quận B, thành phố G đây
là tài sản riêng của ông Hoàng có trước hôn nhân, tuy nhiên theo Điều 99 Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì bà Xuân sẽ được thanh toán một phần giá trị
nhà, căn cứ vào công sức bảo dưỡng, nâng cấp, cải tạo, sửa chữa nhà. Về diện
tích đất nông nghiệp là tài sản có trong thời kỳ hôn nhân nên sẽ tính vào tài sản
chung, vì đây là đất nông nghiệp nên sẽ áp dụng điểm a, khoản 2 Điều 97 và
Điều 95 Luật Hôn nhân gia đình năm 2000.
Câu 2.3:
Anh, chị hãy cho biết, Tòa án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu của Hội
phụ nữ như thế nào cho phù hợp tinh thần pháp luật, biết rằng
- Tại thời điểm Tòa án giải quyết vụ việc, ông Giang yêu cầu Tòa án giải
quyết ly hôn nhân còn bà Tuyết yêu cầu thừa nhận hôn nhân;

- Ông Giang yêu cầu giải quyết khối tài sản do hai bên không thỏa thuận
được gồm 24 chỉ vàng 9999 (số vàng ông Giang và bà Tuyết được mừng cưới
năm 2014) và ngôi nhà diện tích 100 m2 trị giá 3 tỷ đồng do ông Giang đứng tên
(nhà được mua bằng số tiền ông Giang trúng số tháng 10.2015).

Tòa án có thẩm quyền nên chấp nhận yêu cầu hủy hôn nhân của ông Giang
và bà Tuyết:
Căn cứ vào khoản d Điều 8 và điểm c khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và gia
đình 2014, quan hệ hôn nhân của ông Giang và bà Tuyết là trái pháp luật tại
thời điểm hai người đăng ký kết hôn vì không thỏa mãn điều kiện kết hôn
được nêu. Ông Giang kết hôn với bà Tuyết ngày 28/3/2014 khi chưa làm xong
thủ tục ly hôn với bà Duyên (phán quyết ly hôn có hiệu lực ngày 26/7/2015).
Kể từ ngày 26/7/2015, ông Giang và bà Tuyết đã có đủ điều kiện kết hôn theo
quy định tại Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Cụ thể là giữa ông
Giang và bà Duyên vẫn tồn tại quan hệ vợ chồng do bà Duyên biệt tích nhưng
chưa có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền. Sau khi có tuyên bố bà Duyên
mất tích, phán quyết cho ông Giang ly hôn bà Duyên có hiệu lực vào ngày
26/7/2015. Tức là ông Giang đã vi phạm chế độ bảo vệ hôn nhân và gia đình
nên chứng nhận kết hôn giữa ông Giang và bà Tuyết là vô hiệu.

4
Tuy nhiên, căn cứ khoản 2 Điều 11 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, chỉ
mình bà Tuyết yêu cầu công nhận hôn nhân còn ông Giang thì muốn ly hôn
nên Tòa án không thể thừa nhận quan hệ hôn nhân này. Căn cứ vào khoản 3
Điều 12 và Điều 16 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, ông Giang và bà
Tuyết không thỏa thuận được khối tài sản nên việc phân chia tài sản sẽ do
BLDS hiện hành hoặc pháp luật liên quan quy định. Theo đó, việc chia tài sản
chung của các cặp nam nữ sống chung với nhau không đăng ký kết hôn sẽ
được giải quyết theo thỏa thuận của các bên. Các bên có thể tự do định đoạt tài
sản của mình mà không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã
hội, không ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của bên thứ ba.
Căn cứ quy định tại Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 toàn bộ tài
sản được chia đôi là hợp lý và Căn cứ theo Điều 218 Bộ luật dân sự năm 2015
về định đoạt tài sản chung quy định như sau:“Trường hợp sở hữu chung có
thể phân chia thì mỗi chủ sở hữu chung đều có quyền yêu cầu chia tài sản
chung; nếu tình trạng sở hữu chung phải được duy trì trong một thời hạn theo
thỏa thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của luật thì mỗi chủ
sở hữu chung chỉ có quyền yêu cầu chia tài sản chung khi hết thời hạn đó; khi
tài sản chung không thể chia được bằng hiện vật thì chủ sở hữu chung có yêu
cầu chia có quyền bán phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp các chủ
sở hữu chung có thỏa thuận khác.”
Việc chia các tài sản này sẽ dựa vào công sức đóng góp của mỗi bên. Vì
trong trường hợp này không xác định được thì công sức đóng góp là như nhau
và tài sản sẽ được chia:
- 24 chỉ vàng 9999: Số vàng ông Giang và bà Tuyết được mừng cưới vào
năm 2014. Tùy theo quy định của pháp luật và thỏa thuận giữa hai bên, số
vàng này có thể được chia đều hoặc theo tỷ lệ nào đó.
- Ngôi nhà diện tích 100 m2, trị giá 3 tỷ đồng: Nhà này do ông Giang đứng
tên và được mua bằng số tiền ông Giang trúng số vào tháng 10 năm 2015. Tùy
thuộc vào quy định của pháp luật và thỏa thuận giữa hai bên, ngôi nhà có thể
được chia theo tỷ lệ nào đó hoặc một trong hai bên sẽ được quyền sở hữu nó.

5
Câu 2.4:
Hỏi, Tòa án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu (huỷ việc kết hôn giữa ông
Ngon và bà Mùi) của bà Bông như thế nào, vì sao? Nếu ông Ngon và bà Mùi
tranh chấp tài sản và không thỏa thuận được về quyền lợi con chung thì Tòa án
phải giải quyết các vấn đề này ra sao cho phù hợp với tinh thần pháp luật, biết
rằng ông Ngon và bà Mùi có con chung là Quang, sinh ngày 04.12.2013 và hai
bên có khối động sản chung trị giá 1 tỷ 900 triệu đồng?
Theo điểm a mục 3 Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09-06-2000 của Quốc
Hội Về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, ông Ngon và bà
Bông đã xác lập quan hệ vợ chồng (sống chung như vợ chồng) với nhau
nhưng không bắt buộc phải đăng ký kết hôn.
Theo điểm b khoản 4 Điều 2 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-
VKSNDTC-BTP ngày 06-01-2016 của Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiểm
sát nhân dân tối cao - Bộ Tư pháp, ông Ngon và bà Bông tuy đủ điều kiện kết
hôn nhưng chung sống như vợ chồng với nhau từ năm 1982 nên cả hai đều
được xác định là người đã có vợ, có chồng.
Ông Ngon cưới bà Mùi tháng 8 năm 1999, có sống chung như vợ chồng
nhưng không đăng ký kết hôn nên chưa được xác định là có quan hệ vợ chồng.
Theo khoản 1 Điều 131 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, quan hệ vợ
chồng giữa ông Ngon và bà Bông được xác lập từ năm 1982 nên theo đó áp
dụng Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 để xét tính hợp pháp quan hệ hôn
nhân trên. Mặt khác, áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 để xét tính
hợp pháp quan hệ hôn nhân giữa ông Ngon và bà Mùi bởi họ đăng ký kết hôn
năm 2002.
Theo khoản 3 Điều 9, khoản 1 Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000,
việc ông Ngon kết hôn với bà Mùi đã trái với quy định của pháp luật do ông
Ngon được xác định là người đã có vợ là bà Bông. Như vậy, theo khoản 3
Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, trường hợp này được xác định là
kết hôn trái pháp luật do vi phạm điều kiện kết hôn nhưng có đăng ký kết hôn
tại cơ quan có thẩm quyền (đăng ký kết hôn và được cấp Giấy chứng nhận
đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã KL, huyện NĐ, tỉnh NA - là nơi bà
Mùi tạm trú nên theo Điều 12 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, cơ quan
này đủ thẩm quyền).

6
Về thẩm quyền yêu cầu giải quyết việc kết hôn trái pháp luật giữa ông Ngon
và bà Mùi, bà Bông là người có quyền yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật theo
điểm a khoản 2 Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Theo khoản 1
Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, khoản 1 Điều 29, điểm g khoản
2 Điều 39 và điểm b khoản 2 Điều 40 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa
án nhân dân huyện NĐ có thẩm quyền giải quyết yêu cầu hủy kết hôn trái
pháp luật của ông Ngon và bà Mùi.
Về quyền lợi con chung giữa ông Ngon và bà Mùi là Quang (hiện dưới 06
tuổi), theo khoản 2 Điều 12 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, quyền,
nghĩa vụ của ông Ngon, bà Mùi và Quang được giải quyết theo quy định như
trong trường hợp ông Ngon, bà Mùi Ly hôn. Theo khoản 1, 2 Điều 81, 82, 83,
84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án cần xem xét về quyền lợi về
mọi mặt của Quang để quyết định sẽ giao Quang cho ông Ngon hay bà Mùi
trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng. Trong trường hợp xét thấy ông Ngon, bà
Mùi không (còn) đủ điều kiện trực tiếp chăm sóc Quang thì có thể giao cho
người giám hộ của Quang (theo khoản 4 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2014).
Về động sản chung trị giá 1 tỷ 900 triệu đồng, theo khoản 3 Điều 12 Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014, quan hệ tài sản giữa ông Ngon và bà Mùi
được giải quyết theo Điều 16 Luật này. Trong trường hợp ông Ngon, bà Mùi
không thỏa thuận, động sản chung nói trên được Tòa án phân chia trên cơ sở
chia đôi nhưng có tính đến các quy định tại khoản 2, 3, 4, 5 Điều 59 Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2014

7
Câu 2.5:
Từ góc độ pháp lý, anh, chị hãy phân tích và lý giải đường hướng xử của
Tòa án có thẩm quyền trước yêu cầu của anh Tâm, biết rằng trong quá trình tố
tụng:
i) Chị Trà có nguyện vọng công nhận hôn nhân;
ii) Anh Tâm và chị Trà tranh chấp nhà số 11/6 đường TH, phường T, quận
Y hiện do chị Trà đứng tên và trên thực tế, anh Tầm có đồng ý để chị Trà đứng
tên trên Giấy chứng nhận quyền sở hữu.
Anh Tâm là người Việt Nam định cư ở Đức thì theo khoản 25 Điều 3
LHNGĐ 2014 và Điều 3 Luật Quốc tịch : “Quan hệ hôn nhân và gia đình có
yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân và gia đình mà ít nhất một bên tham
gia là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài; quan hệ hôn
nhân và gia đình giữa các bên tham gia là công dân Việt Nam nhưng căn cứ
để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát
sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài.” Nên
cuộc hôn nhân này mang yếu tố nước ngoài.
Theo khoản 1 Điều 123 LHNGĐ 2014 thẩm quyền giải quyết theo Điều 19
NĐ 126/2014: “Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, nơi đăng ký thường trú của công
dân Việt Nam, thực hiện đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với người
nước ngoài, giữa công dân Việt Nam với nhau mà ít nhất một bên định cư ở
nước ngoài.” Vậy UBND cấp tỉnh nơi cư trú của chị Trà mới có thẩm quyền
cấp giấy chứng nhận trong khi chị Trà đến UBND phường (cấp xã) cấp giấy
chứng nhận là sai thẩm quyền, kết hôn sai thủ tục nên sẽ không được công
nhận vợ chồng theo khoản 3 Điều 3 TTLT 01/2016. Vậy anh Tâm và chị Trà
đăng kí kết hôn không đúng cơ quan có thẩm quyền và có yêu cầu li hôn thì
Toà án áp dụng Điều 9 LHNGĐ, không nhận hôn nhân giữa họ đồng thời huỷ
Giấy chứng nhận kết hôn theo quy định tại Điều 13 LHNGĐ.
Về tài sản theo khoản 3 Điều 3 TTLT 01/2016 và Điều 16 LHNGĐ 2014:
“Trường hợp nam, nữ có đăng ký kết hôn nhưng việc kết hôn đăng ký tại
không đúng cơ quan có thẩm quyền (không phân biệt có vi phạm điều kiện kết
hôn hay không) mà có yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật hoặc
yêu cầu ly hôn thì Tòa án áp dụng Điều 9 của LHNGĐ tuyên bố không công
nhận quan hệ hôn nhân giữa họ đồng thời hủy Giấy chứng nhận kết hôn và
thông báo cho cơ quan hộ tịch đã đăng ký kết hôn để xử lý theo quy định tại
Điều 13 của LHNGĐ. Nếu có yêu cầu Tòa án giải quyết về quyền, nghĩa vụ

8
đối với con; tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên thì giải quyết theo
quy định tại Điều 15 và Điều 16 của LHNGĐ”. Vậy tiền chung 100 triệu đồng
là tài sản chung theo phần nên sẽ được chia đôi, số tiền 2,6 tỷ đồng là tài sản
riêng của anh Tâm.

9
1

You might also like