You are on page 1of 4

Thảo luận HNGĐ

Câu hỏi
2. Trình bày thẩm quyền, nghi thức, thủ tục kết hôn trên cơ sở pháp luật
hôn nhân gia đình và pháp luật về hộ tịch.
- Thẩm quyền đăng ký kết hôn
+ Không có yếu tố nước ngoài: Điều 17, 53 Luật Hộ tịch.
+ Có yếu tố nước ngoài:
* Khoản 1 Điều 123 Luật HNGĐ năm 2014
* Điểm d khoản 1 Điều 7, Điều 37, Điều 53 Luật hộ tịch
* Điều 18 Nghị định 123/2015
+ Ủy ban nhân dân cấp huyện; Ủy ban nhân dân cấp xã khu vực biên
giới; Cơ quan lãnh sự
- Nghi thức đăng ký kết hôn:
+ Điều 9 Luật HNGĐ năm 2014
+ Điều 6, Điều 18, Điều 38 Luật Hộ tịch
+ Điều 10, Điều 18, Điều 30, Điều 31 Nghị định số 123/2015
9. Chia tài sản trong trường hợp không công nhận quan hệ vợ chồng; trong
hủy kết hôn trái pháp luật có gì khác so với việc chia tài sản khi vợ chồng ly
hôn?
=> Chia tài sản trong trường hợp không công nhận quan hệ vợ chồng; trong hủy
hôn trái PL thì căn cứ vào Điều 16 LHNGĐ 2014: dựa vào thỏa thuận của các
bên, nếu không có thỏa thuận thì căn cứ vào các quy định của BLDS và các quy
định khác của pháp luật có liên quan
- Chia tài sản khi vợ chồng ly hôn thì căn cứ vào Điều 59 LHNGĐ 2014: dựa
vào thỏa thuận vợ chồng, nếu không thỏa thuận được thì dựa vào yêu cầu của
vợ, chồng hoặc 2 vợ chồng, Tòa giải quyết thei quy định tại khoản 2, 3, 4, 5
Điều 59 LHNGĐ 2014 và Điều 60, 61, 62, 63, 64 LHNGĐ 2014
Bài tập
Bài tập 2
Ông Đạt kết hôn cùng bà Trâm năm 2006 tại Thành phố H.
Do mâu thuẫn, năm 2014, ông Đạt khởi kiện yêu cầu Tòa án chia toàn bộ
tài sản chung của vợ chồng gồm nhà đất và động sản khác trị giá 1 tỷ đồng
(Phán quyết chia tài sản của Tòa án có hiệu lực ngày 12. 11.2014). Ngay sau khi
chia tài sản, bà Trâm bỏ về nhà mẹ đẻ sống. Cũng từ đó, bà Trâm và ông Đạt
không còn chung sống với nhau trên thực tế.
Tháng 2.2015, bà Trâm sinh con trai và khai sinh cho con với tên Nguyễn
Bình, họ tên cha là Nguyễn Đạt; họ tên mẹ là Hà Thu Trâm.
Tháng 9. 2016, ông Đạt nộp đơn yêu cầu Tòa án xác định trẻ Bình không
phải là con đẻ đồng thời xin được ly hôn với bà Trâm. Trong khi cơ quan tiến
hành tố tụng đang trong quá trình giải quyết vụ việc thì ngày 02. 11. 2016, ông
Đạt chết vì tai nạn giao thông. Năm ngày sau khi ông Đạt mất, người thân thích
ông Đạt bất ngờ phát hiện 5 tờ vé số do ông mua đã trúng thưởng 420 triệu
đồng. Cùng lúc, bà Trâm yêu cầu bà Ngà (chị ruột ông Đạt, người đang quản lý
số tiền tiền trúng xổ số) giao toàn bộ số tiền này cho bà con trai. Do người thân
thích của ông Đạt phản đối (theo họ, ông Đạt và bà Trâm đã chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân và trên thực tế, ông Đạt và bà Trâm cũng đã ly thân,
không còn quan hệ vợ chồng) nên bà Trâm khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết
quyền lợi. Hỏi:
-Việc ông Đạt và bà Trâm “ly thân”theo tình huống trên có làm chấm dứt
quan hệ vợ chồng giữa họ? Vì sao ?
=> Việc ông Đạt và bà Trâm “ly thân” theo tình huống trên không làm chấm dứt
quan hệ vợ chồng giữa họ. Vì Quan hệ vợ chồng chỉ chấm dứt qua 2 trường
hợp.
- Trường hợp thứ nhất là theo Điều 57 Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014, quan hệ hôn nhân chấm dứt kể từ ngày bản án, quyết định ly hôn của Tòa
án có hiệu lựcpháp luật.
- Trường hợp thứ 2 là theo Điều 65 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014,
hôn nhân chấm dứt kể từ thời điểm vợ hoặc chồng chết
- Theo anh (chị), ai là chủ sở hữu 400 triệu đồng tiền trúng thưởng xổ số ?
Lý giải trên cơ sở pháp luật.
=> - Ông Đạt và bà Trâm kết hôn năm 2006 nên những tài sản được tạo ra trong
thời kỳ hôn nhân này là tài sản chung của vợ chồng, trừ những trường hợp khác
do pháp luật quy định
- Vào năm 2014, ông Đạt yêu cầu Tòa án chia toàn bộ tài sản chung của vợ
chồng trị giá 1 tỷ đồng thì lúc này số tiền mà ông Đạt và bà Trâm nhận được sẽ
là tài sản riêng của mỗi người, những tài sản còn lại (tài sản chưa chia và tài sản
hình thành trong tương lai) không chia thì vẫn là tài sản chung của vợ chồng
theo Điều 40 LHNGĐ 2014
- Tiền trúng số theo khoản 1 Điều 9 Nghị định 126/2014 là thu nhập hợp pháp
khác của vợ và chồng trong thời kỳ hôn nhân, vậy số tiền 420 triệu từ việc trúng
xổ số là tài sản chung của vợ chồng ông Đạt, bà Trâm
-Yêu cầu của bà Trâm về việc chia toàn bộ số tiền trúng thưởng do ông Đạt
để lại cho bà và con (cháu Bình) được Tòa án giải quyết thế nào theo pháp
luật? Biết rằng tại thời điểm Tòa án giải quyết vụ án, cha, mẹ ông Đạt đã
mất.
=> Số tiền khi này là tài sản chung của bà Trâm và ông Đạt nên sau khi ông Đạt
mất, cần phải dựa vào khoản 2 Điều 66 LHNGĐ năm 2014 thì tài sản chung của
vợ chồng được chia đôi, nghĩa là bà Trâm nhận 210 triệu đồng và di sản của ông
Đạt còn lại 210 triệu đồng.
- Phải xác định Bình có phải là con của ông Đạt hay không, Bình được sinh ra
vào tháng 2 năm 2015, vẫn còn trong thời kỳ hôn nhân của bà Trâm và ông Đạt
nên dựa theo Điều 88 LHNG 2014 thì đây chính là con của ông Đạt. Ông Đạt đã
nộp đơn yêu cầu Tòa án xác định đứa trẻ không phải là con đẻ của ông nhưng
ông đã mất trong khi cơ quan tiến hành tố tụng đang trong quá trình giải quyết
vụ việc nên theo điểm a khoản 1 Điều 217 BLTTDS 2015 thì vụ án sẽ được đình
chỉ, khi này Bình vẫn là con ông Đạt.
- Ngoài ra, vợ ông Đạt là bà Trâm vẫn sẽ được hưởng thừa kế do tiền trúng xổ
số của ông Đạt có được trong thời kỳ quan hệ hôn nhân giữa ông và bà Trâm
chưa chấm dứt, vì thời kỳ “ly thân” của 2 người không làm chấm dứt quan hệ
hôn nhân và tài sản này có được trước khi ông Đạt chết.
- Tòa án sẽ phải tiến hành chia thừa kế số tiền 420 triệu này, ông Đạt chết không
để lại di chúc, cũng không còn còn cha, mẹ, nhưng còn con đẻ là Bình và vợ
ông Đạt thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015,
vì chỉ có 2 người thuộc hàng thừa kế thứ nhất nên số tiền sẽ được chia đều cho
cả hai theo khoản 2 Điều 651 BLDS 2015, mỗi người sẽ được hưởng số tiền là
105 triệu đồng.

Bài tập 3
Anh Lê Viết Thọ và chị Bùi Thị Hà kết hôn năm 2015 tại xã A, huyện B,
tỉnh K. Hai năm sau, do quan hệ vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng, chị Hà yêu
cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Tại Bản án sơ thẩm số 82/HN - ST (có hiệu lực
ngày 10.08 2017), Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh K phán quyết:
1. Về hôn nhân: Bùi Thị Hà được ly hôn anh Lê Viết Thọ.
2. Về tài sản chung và con chung: Cả hai bên thống nhất khai không có
nên Tòa án không giải quyết.
Sau ly hôn, ngày 06.12.2017, chị Hà kết hôn với anh Trung Thành.
Ngày 07.04.2018, chị Hà sinh con trai là Tuấn.
Trên cơ sở qui định của pháp luật hiện hành, hãy xác định cha của bé trai mà chị
Hà sinh ra.
=> Căn cứ theo Điều 88 LHNGĐ 2014, con được sinh ra trong thời hạn 300
ngày kể từ thời điểm chất dứt hôn nhân được coi là người vợ có thai trong thời
kỳ hôn nhân
- Ở đây, anh Thọ và chị Hà ly hôn vào ngày 10/08/2017, chị Hà sinh con trai
Tuấn vào ngày 07/04/2018 và vẫn còn trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm
chấm dứt hôn nhân. Nên Tuấn là con trai của anh Thọ

You might also like